Chương VI  Triết thuyết Vedànta (Phệ Đàn Đa) 
           
I.   VEDÀNTA VÀ UPANISHAD (Khởi điểm của Nhất nguyên Tuyệt đối luận)
           
Vedànta, khởi thủy là một danh hiệu được chỉ cho các tập Upanishads, 
bộ        phận cuối của Veda. Nội dung của danh từ này chỉ định cho cứu 
cánh hay        cùng đích của tư tưởng Veda. Cùng đích (anta) đó như đã 
được chính các bộ        Upanishads quy định, hướng tới con đường tri 
thức của chiêm nghiệm        (jnõàna-kanïdïa) thay thế cho con đường tế 
tự (karma-kanïdïa).        Munïdïaaa-Upanishad1 phân biệt hai trình độ 
của tri thức. Trình độ thấp        (aparà) là sự hiểu biết về Rgï-veda, 
Yajur-veda, Sàma-veda, Atharva-veda,        v.v... Trình độ cao (parà) 
là tri thức chiêm nghiệm về Brahman bất tử2.        Chỉ có tri thức 
trong trình độ cao như vậy mới đạt đến thế giới Brahmà        
(Brahmàloka) và đó mới là tri thức về cứu cánh hay cùng đích của Veda.  
           
Munïdïaka-Upanishad ghi: “Các ẩn sĩ, đã trọn vẹn đạt đến ý nghĩa của 
tri        thức về Vedànta, họ đã tịnh hóa bản tính của mình bằng con 
đường khước từ,        họ an trụ trong các thế giới Brahmà, tận cùng 
biên tế của thời gian, đồng        nhất với bất tử, hoàn toàn giải 
thoát"3. Một cách nào đó, tôn giáo của        nghi lễ tế tự chỉ trích, 
khi các hành vi tế tự không khiến cho người tế tự        cởi bỏ được 
những hệ lụy; dù chúng có hưởng thụ phước báo trên thượng giới        do
các hành vi tế tự này, cuối cùng vẫn phải trở lại thế gian này, nếu họ 
không thấu triệt chân lý4. Hành vi tế tự, trong trường hợp đó, 
chỉ dành        cho những người ngu muội (bàlàh). Bí mật tối thượng 
trong Vedànta (vedànta        paramï guhyamï) không được phép nói cho 
những kẻ chưa khuất phục nổi những        đam mê dục vọng. 
       Học        hỏi Veda, thực hành tế tự, bố thí, khổ hạnh, 
v.v... chính là để truy nhận        cái tự ngã vô sinh (mahàn aja àtmà).
Chính vì để truy nhận ra cái tự ngã        đó mà một người trở thành 
một ẩn sĩ (muni). Những ham muốn về con cái thừa        tự, về tài sản, 
cũng chỉ là những khát vọng trần gian (lokaisïanà). Tự ngã        không 
phải là những thứ đó: sa esïa neti nety àtmà. Săn đuổi tự ngã phải      
thực hiện bằng sự khước từ, bởi vì tự ngã không phải cái đó, không 
phải là        cái đó (neti nety àtmà)5. “Vậy, kẻ nào thờ phụng thần 
linh khác, nghĩ rằng        ta là cái này hay ta là cái kia, kẻ đó không
thực sự hiểu biết”. Duy chỉ        một hiền triết, biết đi tìm đời sống
vĩnh cửu, bằng con mắt hướng nội, vị        đó thấy tự ngã”6.
       Như        vậy, bằng sự khước từ thế giới ngoại tại, vốn 
chỉ là tấn tuồng ảo hóa        (màyà), cuối cùng tư tưởng triết học Ấn 
Độ tiến vào thế giới tâm linh nội        tại để khám phá tự ngã. Đó là 
sự hình thành của tư tưởng văn học        Upanishad. Kể từ khởi nguyên, 
quá trình phát triển này, về mặt văn học, có        thể được phác lược 
như sau: chúng ta biết rằng, trước hết, tư tưởng văn        học Ấn Độ 
bắt đầu với các thánh thư Vedas gồm bốn bộ, hay Samïhitàs. Từ        các
Samïhitàs phát triển một nền văn học giảng giải ý nghĩa của tế tự,     
được gọi là văn học Bràhmanïa. Cuối cùng, do suy tư chiêm nghiệm, và 
kinh        nghiệm thực chứng của các đạo sĩ ẩn mình trong các rừng núi,
văn học        Àranïyaka xuất hiện. 
              Bràhmanïa được coi như là dành cho những sinh hoạt 
thế tục, bổn phận hành        động và tế tự của một gia chủ 
(grïha-pati); là con đường của hành nghiệp        (karma-màrga). Trong 
khi đó, Àranïyaka là lĩnh vực suy tư chiêm nghiệm của        các đạo sĩ 
(samanïa), những vị đã khước từ mọi thứ hạnh phúc thế tục, là        con
đường của tri thức (jnõàna-màrga). Upanishad xuất phát từ các        
Àranïyaka đó.
              Đằng khác, sự xuất hiện của Upanishad cũng được coi
như đặc trưng bằng        những phản ứng của giai cấp chiến sĩ 
(ksïatriya) chống lại đặc quyền tế tự        của giai cấp Tăng lữ Bà la 
môn. Đặc trưng này có thể tìm thấy trong        
Brïhad-àranïyaka-Upanishad7.Trong đó ghi rằng, Bàlàki, người Bà la môn, 
thuộc dòng họ Gàrgya, kiêu hãnh nói với Ajàtasùatru, bộ tộc 
Kàsùi, giai        cấp Ksïatriya: “Tôi sẽ nói cho ông nghe về Brahman”, 
vì Ajàtasùatru đề        nghị sẽ tưởng thưởng Bàlàki một nghìn con bò, 
nếu nói được về Brahman.        Bàlàki đưa ra tất cả 12 định nghĩa về 
Brahman, nhưng thảy đều bị        Ajàtasùatru bác bỏ. 
              Cuối cùng, Ajàtasùatru hỏi: như vậy là hết? Bàlàki 
thú nhận như vậy là hết        và yêu cầu Ajàtasùatru nói cho nghe về 
Brahman với đề nghị mình sẽ là một        môn đệ. Ajàtasùatru cho rằng 
một người Sát đế lỵ (Ksïatriya) mà giảng cho        một người Bà la môn 
(Brhàmanïa) nghe về Brahman là một điều trái lẽ. Tuy        nhiên, 
Ajàtasùatru vẫn nhận lời. Sự kiện này cho thấy giai cấp Sát đế lỵ       
đã có ảnh hưởng trong lịch trình biến chuyển từ Bràhmanïa thành 
Àranïyaka,        chuyển hướng những giá trị của tế tự thành giá trị của
suy tư và chiêm        nghiệm. 
              Brïhad-àranïyaka-Upanishad mở đầu bằng một thiên 
nói về sự tế ngựa        (asùva-medha). Thay vì giảng giải sự tế ngựa 
theo một khía cạnh thần học        nào đó, ở đây sự tế ngựa lại được 
biểu tượng như là sự hình thành của vũ        trụ. “Thoạt kỳ thủy, chỉ 
có tự ngã” (àtmaivedam agra àsìt)8, đây được coi        như là nguyên lý
căn bản cho một vũ trụ nhất nguyên luận của Upanishad mà        chúng 
ta thường bắt gặp trong nền văn học tư tưởng này. 
        
              II.   PHÂN LOẠI CÁC UPANISHAD SƠ KHỞI
       Khi        các Samïhatàs dưới hình thức tụng văn, hay thể 
văn chỉnh cú theo hình thức        thi ca, được tập thành và lưu truyền 
từ thầy đến trò, thì các bổn phận tế        tự được căn cứ theo đó mà 
thực hành. Để hướng dẫn và giải thích các thực        hành này, một bộ 
phận tản văn được soạn tập, và được tập thành dưới danh        nghĩa văn
học Bràhmanïa. Upanishad là bộ phận cuối của Veda, cho nên cũng        
được gọi là Vedànta. Do sự lưu truyền của Bràhamanïa giữa những khu vực 
địa lý và bộ tộc khác nhau, các Upanishads đầu tiên cũng được 
phân biệt        thành những phái biệt (sùàkhà). Những Upanishads trực 
thuộc Bràhmanïa của        các phái Aitareya và Kausïìtaki thì được gọi 
là Aitareya-Upanishad và        Kausïìtaki-Upanishad. 
Chàndogya-Upanishad và Talavakàra        (hayKena-Upanishad) trực thuộc 
bộ Sàma-Veda. 
       Để        có một cái nhìn tổng quát hơn, dưới đây là bảng 
lập thành của Kimura        Taiken9 về sự liên hệ giữa các Upanishads 
nguyên thủy với các Vedas và các        phái biệt của Bràhmanïa.
              Rg-Veda:
       1.        Aitareya-Upanishad - Aitareya-àranïyaka 3-4 - 
Phái Aitareya
       2.        Kausïìtaki-Upanishad - Kausïìtaki-àranïyaka - 
Phái Kausïìtaki
              Sàma-Veda:
       1.        Chandogya-Upanishad - Chàndogy-Bràhmanïa 3-10 - 
Phái Tànïdïin
       2.        Kena (Talavakàra)-Upanishad - 
Talavakàra-Bràhmanïa - Phái Jaimini
              Yajur-Veda đen:
       1.        Taittirìya)-Upanishad - Taittirìya-àranïyaka 7-9
- Phái Taittirìya
       2.        Mahànàrạya)-Upanishad - Taittirìya àranïyaka 10 -
Phái Taittrìya
       3.        Katïhaka)-Upanishad - Phái Katïhaka
       4.        SÙvetàsùvatara)-Upanishad - Chưa rõ
       5.        Maitràyanïa-Upanishad - Phái Maitràyanïa
              Yajur-Veda trắng:
       1.        Brïhadàranïyaka)-Upanishad - SÙatapatha 
Bràhmanïa 4-9 - Vàjasaneyi
       2.        Isùa)-Upanishad - Vàjasaneya samïhità 40 - Phái 
Vàjasaneyi
       Về        sau, các yếu nghĩa của Upanishad được kết tinh 
lại trong bộ Brahma-sùtra        của Bàdaràyanïa. Tác phẩm này trở thành
thánh điển chủ yếu của        Vedànta-sùtra. Lịch sử văn học của hệ 
phái Vedànta có thể coi như bắt đầu        với tác phẩm này. 
        
              III.   BRAHMA-SÙTRA:  CĂN BẢN VEDÀNTA
              Chưa rõ niên đại trước tác của tác phẩm này. Người 
ta phỏng định nó xuất        hiện không thể trước các học phái Tỳ bà sa 
(Vibhàsika), Trung quán        (Màdhyamika) và Duy thức (Yogàcàra) của 
Phật giáo10, bởi vì Brahma-sùtra        có đề cập đến quan điểm của các 
trường phái Phật giáo này. Tuy nhiên, sự        bài bác chỉ được nói một
cách tổng quát, về lập trường Tánh không luận        (SÙùnyavàda) và 
Duy thức luận (Vijnõànavàda)11; còn sự chỉ điểm đích danh        các 
trường phái đó lại do sự chú giải của SÙanïkàra. Bởi vậy, người ta      
cũng thận trọng giới hạn sự xuất hiện của nó; nghĩa là chỉ có thể đoan
chắc là phải xuất hiện sau các tác phẩm thuộc văn học Bát nhã   
(Prjnõàparamità) của Đại thừa Phật giáo. Sự giới hạn thận trọng này
đặt        thời gian của tác phẩm vào khoảng kỷ nguyên thứ nhất trước 
Tây lịch.
              Brahma-sùtra được viết dưới thể sùtra12, một hình 
thức có thể coi như là        cách ngôn. Mỗi sùtra cô đọng một quan 
điểm, do đó ý tưởng vô cùng hàm súc,        gây nên những giải thích tự 
do. Có hai giải thích trái ngược nhau. Với        SÙanïkara, 
Brahma-sùtra được giải thích theo chiều hướng Nhất nguyên luận.        
Một số các nhà chú giải khác, được gọi chung là Vaisïnïava, giải thích  
theo chiều hướng Nhị nguyên luận. 
              Dasgupta cho rằng, nguyên ủy Brahma-sùtra phải được
coi như là một tác        phẩm có thẩm quyền của các nhà Nhị nguyên 
luận. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên tại        sao một số các tác giả Ấn Độ lại 
căn cứ trên tác phẩm này để trình bày        quan điểm nhất nguyên của 
họ; hoặc căn cứ nó mà viết thành một tác phẩm        riêng như 
Gaudïapàda với Mànïdïùkya-kàkrikà hay SÙanïkara với bản chú giải        
Brahma-sùtra. Ông quả quyết rằng “những giải thích theo chiều hướng nhị 
nguyên về Brahma-sùtra có lẽ trung thành với các sùtras của nó 
hơn là        những giải thích của SÙanïkara”13.
              Chúng ta đã biết các Upanishads là căn cứ của 
Vedànta. Cùng với        Brahma-sùtra, ta có thể kể thêm Bhagavat-Gìta 
nữa, đó là ba tác phẩm cơ        bản của Vedànta, và thường được gọi là 
Prasthànatraya.
       Hệ        thống Nhất nguyên luận của Vedànta, nếu 
Brahma-sùtra bị nghi ngờ, thì trái        lại, Màndïùkyakàrikà của 
Gaudïapàda chắc chắn là tác phẩm đầu tiên hệ        thống hóa lập trường
Nhất nguyên luận, mà SÙanïkara và các môn đệ về sau        chịu ảnh 
hưởng rất sâu đậm. Màndïùkyakàrikà là tác phẩm được viết trong        
khoảng thời đại của 780 sau Tây lịch. Nó là một bản chú giải về        
Màndïùkyakàrikà-Upanishad. Chúng ta sẽ trở lại tác phẩm này ở đoạn sau.
              Brahma-sùtra được chia thành 4 chương (adhyaàya), 
mỗi chương gồm 4 tiết,        tổng cộng 16 tiết (pàda), và 192 đề mục 
(adhikaranïa). Một đề mục gồm từ        một đến nhiều sùtras, tổng cộng 
có tất cả 555 sùtras. Nhà chú giải đầu        tiên của tác phẩm này, 
được cho là Baudhàyana, nhưng đã thất truyền. Bản        chú giải của 
SÙanïkara là tác phẩm quan trọng nhất, căn cứ xuất phát cho        nhiều
bản chú giải khác và nhiều công tác khảo cứu về Vedànta. SÙanïkara     
dẫn đầu khuynh hướng Tuyệt đối bất nhị (advaità). Chú giải của 
Ràmànula,        thế kỷ XI sau Tây lịch, dẫn đầu khuynh hướng Cục hạn 
bất nhị        (vìsïtïa-advaita). Chú giải của Madhva (1197-1276) dẫn 
đầu khuynh hướng        Nhị nguyên (dvaita). Đó là ba trào lưu chủ yếu 
về Vedànta xuất phát từ        Brahma-sùtra. 
        
              IV.   GAUDÏAPÀDA: KHỞI ĐIỂM NHẤT NGUYÊN TUYỆT ĐỐI 
LUẬN
       Nếu        khuynh hướng Nhất nguyên tuyệt đối luận nơi 
Brahma-sùtra đang còn bị nghi        ngờ, thì Gaudïapàda chắc chắn là 
nhân vật đầu tiên của triết học Ấn Độ        chính thống, ngoại trừ các 
luận sư của Phật giáo như Asùvaghosïa (Mã Minh)        và Nàgàrjuna 
(Long Thọ), đã khai sinh quan điểm này một cách táo bạo. Nói        là 
táo bạo, bởi vì quan điểm Tuyệt đối luận của ông hầu như tách ngoài     
truyền thống hữu thần của Upanishad, không thừa nhận một nguyên nhân 
đệ        nhất nào cho sự sáng tạo của thế giới. Đây phải là ảnh hưởng 
sâu đậm của        Nàgàrjuna, sáng tổ của Trung quán (Màdhyamika), một 
học phái lớn của Đại        thừa Phật giáo. 
              Chính SÙanïkara đã thừa nhận Gaudïapàda là một bậc 
thầy thấu hiểu về        truyền thống của Vedànta, là bậc thầy vĩ đại, 
bậc thầy khả kính của vị đạo        sư khả kính của mình. Đạo sư của 
SÙanïkara la Govinda. Mà Govinda lại là        đệ tử của Gaudïapàda. 
Niên đại của Gaudïapàda được ước định khoảng 800 sau        Tây lịch, 
sau các đại luận sư của Phật giáo Đại thừa như Asùvaghosïa (Mã        
Minh), Nàgàrjuna (Long Thọ), Asanïga (Vô Trước) và Vasubandhu (Thế 
Thân).        Các luận sư này dẫn đầu hai trào lưu chủ yếu của Đại thừa.
Nàgàrjuna là        người khai sinh Biện chứng pháp của Tánh không luận
(SÙùnyavàda); Asanïga        và Vasubandhu thiết lập hệ thống Duy thức 
(Vijnõàna-vàda). Cả hai trào lưu        này đều có ảnh hưởng trực tiếp 
trên Tuyệt đối luận duy tâm của Gaudïapàda.
              Mànïdïùkya-kàrikà, tác phẩm chủ yếu của Gaudïapàda,
gồm bốn chương. Chương        thứ nhất, Àgama, Thánh giáo, chú giải 
Mànïdïùkya-Upanishad. Tư tưởng cốt        tủy của chương này là bốn 
trình độ của Tự ngã (àtmà), được biểu trưng bằng        chữ AUM. 
Gaudïapàda phân tích chữ này, tương ứng với ba trình độ đầu của        
tự ngã: trình độ thức, kinh nghiệm thế giới ngoại tại (visùva,        
vaisùvànara); trình độ thứ hai, ngủ mộng, kinh nghiệm về đối tượng nội 
tại        (taijasa); trình độ thứ ba, ngủ say, tri thức không còn có sự
phân biệt        năng tri và sở tri, năng thủ và sở thủ, ý thức thuần 
túy, tuyệt đối hỉ lạc        (ànanda). Trình độ thứ ba này được gọi là 
pràjnõa. Mànïdïùkya-Upanishad mô        tả trình độ thứ ba đó rằng: “Đây
là đấng chủ tể của tất cả (esïa        sarvesùvarahï), đây là tri giả 
của tất cả (esïa sarvajnõahï), đây là đấng        chiêm nghiệm nội tại 
(esïo ‘ntàryami), đây là căn nguyên của tất cả, là        khởi thủy và 
dung cục của tất cả sự hữu (esïa yenihï sarvasya        prabhavàpyayau 
hi bhùtànàm”14.
       Ở        đây, Gaudïapàda bác bỏ các quan điểm về một 
Thượng đế Hữu ngã, sự sáng tạo        không phải do mục đích thụ hưởng 
(bhegàrtham) hay du hí (krìdàrtham) của        Thượng đế. Chú giải đoạn 
này, Radhakrishnan nói rằng: “Đây là lần đầu tiên        trong lịch sử 
tư tưởng, xuất hiện sự phân biệt giữa một Tuyệt đối thể        Brahman 
và Thượng đế Hữu ngã Ìsùvara”15.
              Trình độ thứ tư (turìya) được mô tả như là phi sở 
kiến (adïrïsta), bất khả        thủ (agràhyam), vô tướng (alaksïana), 
bất khả tư (acintyam), bất khả        thuyết (avyapadesùya), diệt hí 
luận (prapanõca-upasùama), thường tịch        (sùàntam), thiện tịch 
(sùivam), bất nhị (advaita). Những mô tả này nguyên        là của 
Mànïdïùkya-Upanishad16. Ta có thể tìm thấy ảnh hưởng rõ rệt của        
Trung quán (Màdhyamika) trong các mô tả này. Đây chính là Tuyệt đối thể 
Brahman. Với Gaudïapàda, Tuyệt đối thể này là vô sinh (ajam), phi
ngủ        (anidram), phi mộng (asvapnam), vô danh (anàmakam), vô tướng
(arùpakam).        Giải thoát chính là sự thể nhập và đồng nhất với 
Tuyệt đối này.        
              Gaudïapàda cũng phân biệt bản chất vô thủ trước về 
biên chấp        (dvaitasyàgrahanïam) của pràjnõa trong trình độ ngủ say
và trình độ đệ tứ        (turìya); theo đó, trong trình độ ngủ say, 
biên chấp chỉ không hiện khởi        nhưng chủng tử (bìja) của biên chấp
vẫn còn tiềm phục. Chỉ khi đạt đến        turìya, giải thoát trọn vẹn, 
bấy giờ mới không còn chủng tử đó nữa17. Rõ        ràng đây là ảnh hưởng
của các nhà Duy thức (vijnõàna-vàda).
       Kể        từ chương II trở về sau, Gaudïapàda trình bày 
quan điểm độc lập của mình,        không dựa vào Upanishad để chú giải 
nữa. Chương II, Vaitathya, tính bất        thực của thế giới ngoại tại. Ở
đây, Gaudïapàda bác bỏ các quan niệm duy        thực. Hiện tượng giới 
sai biệt và biến hóa chỉ là một (svapna) và huyễn        (màyà). Trên 
quan điểm tuyệt đối, chân đế, thực tại vốn vô sinh (aja),        không 
sinh khởi, không hủy diệt, không hệ phược, không giải thoát; không      
có chủ tể giải thoát, không có người truy cầu giải thoát. Bậc thánh 
triết        không coi thế gian như là bản tính đa thù hay đồng nhất, 
không phải một,        không phải nhiều. Trong đêm tối, người ngu muội 
nhìn thấy sợi dây tưởng là        con rắn; cũng vậy, do ngu muội mà thấy
tự ngã có nhiều hình thái sai biệt.        Tính chân thực là tính bất 
nhị (advayatà). Chấm dứt tất cả mọi vọng tưởng        phân biệt, hí luận
(nirvikalpahï prapanõcopasùamahï) là tự nhiên siêu việt        mọi chấp
thủ, thoát khỏi mọi sợ hãi. 
              Trong chương III, Advaita, Gaudïapàda trình bày 
quan điểm tuyệt đối luận,        thuyết bất nhị (advayavàda). Biên chấp 
nhị nguyên đối đãi là do tính bất        nhị bị che phủ bởi màyà. 
Brahman và Àtman là một, không hai. Đại ngã thì        bao la như hư 
không. Tiểu ngã là một chút xíu hư không trong lu nước. Khi        không
còn sự hạn chế nào nữa, chút xíu hư không kia trở thành hợp nhất, vô   
nhị, vô phân biệt với hư không bao la nọ. Do sự tu tập thiền định  
(samàdhi) mà diệt trừ được vọng tưởng phân biệt, đạt đến trạng 
thái vô xúc        Du già (asparsùayoga), tất cả tính sai biệt và biên 
chấp cũng biến mất.        Trí vô phân biệt ấy là nhất thiết trí 
(sarvàjnõa), trí tuệ quán chiếu bình        đẳng không bị hạn cuộc trong
giới hạn năng tri và sở tri, đó là trí vô        sinh. Đối tượng sở tri
của nó cũng là vô sinh. Như vậy là đạt đến sự hợp        nhất toàn vẹn 
với Tuyệt đối thể Brahman, chứng nhập trạng thái hỉ lạc        tuyệt 
đối, siêu việt mọi đau khổ và sợ hãi; đó là Niết bàn (Nirvanïa).
              Chương IV, Alàtasùànti, sự dập tắt của vòng lửa. 
Một đốm lửa, chỉ một đốm        lửa độc nhất, khi bị quay tròn và quay 
đều liên tục, nó tạo ra hình ảnh        giả tưởng của một vòng lửa. Vòng
lửa đó là biểu trưng tính bất thực, huyễn        hóa của hiện tượng 
giới. Dĩ nhiên, đây cũng là một ảnh hưởng xác thực của        các nhà 
Tánh không luận Phật giáo. Trong chương này, Gaudïapàda cũng bác        
bỏ các quan niệm về nhân quả. Nhân quả chỉ là một khái niệm giả tưởng, 
chỉ        xác định theo tương quan ngoại tại của thế giới bất thực. Tự 
bản tính, vạn        vật vốn vô sinh, do đó hoàn toàn không có cái nào 
là nhân hay cái nào là        quả. Bởi vì vô sinh, không có gì sinh khởi
chân thực, thì làm gì có cái        được gọi là quả. Không có quả, cố 
nhiên cũng không có nhân, bởi vì nếu có        quả, thì nhân đó không 
làm nhân cho cái gì cả. 
 
              V.   GAUDÏAPÀDA VÀ PHẬT GIÁO
              Gaudïapàda giữ một vị trí đặc biệt giữa Phật giáo 
Đại thừa và truyền thống        Upanishad. Nếu xác định được thế đứng và
sự thiên lệch của ông trong vị        trí đó, tức là xác định được 
tương quan ảnh hưởng giữa Đại thừa và        Upanishad. Có hai nỗ lực 
đáng kể trong công tác này. Một phía là các học        giả Phật giáo 
muốn rằng vị trí của Gaudïapàda đứng nghiêng về phía Đại        thừa một
chút. Các học giả còn chịu chi phối của truyền thống Upanishad dĩ      
nhiên cũng muốn rằng vị trí đó phải đứng hẳn về phía Upanishad. 
              Murti, tác giả của Central Philosophy of Buddhism, 
một tác phẩm lừng danh        về Trung quán (Màdhyamika), rất thận 
trọng, giả thiết rằng, Upanishad và        Đại thừa phát triển độc lập 
về tư tưởng Nhất nguyên luận của mỗi bên. Bởi        vì người ta khó mà 
phủ nhận tư tưởng nhất nguyên trong các Upanishads        trước thời 
Nàgàrjuna. 
       Về        khía cạnh này, các kinh điển Bát nhã 
(Prajnõàpàramità) của Đại thừa Phật        giáo có lẽ còn tích cực và 
triệt để hơn cả Upanishad, khi tuyên bố rằng,        cứu cánh Niết bàn, 
hay pháp nào cao cả và tuyệt đối hơn Niết bàn nữa, cũng        thảy đều 
là huyễn mộng. Kinh điển Bát nhã không xuất hiện trễ hơn các        
Upanishads xiển dương Nhất nguyên luận. Thuyết huyễn hóa (maỳavàda) 
trong        các Upanishads tiên khởi chỉ là sự cô đọng thế giới ngoại 
tại thành tự ngã        nội tại. Những Upanishads sau các kinh Bát nhã 
mới có thể nói tới một        Tuyệt đối thể vô ngã, phân biệt với Thượng
đế Hữu ngã.        Mànïdïùkya-Upanishad mà Gaudïapàda chú giải là một 
trường hợp điển hình.
              Đằng khác, Murti quả quyết rằng, Tuyệt đối thể 
(advaita) chỉ có thể khám        phá bằng biện chứng pháp. Bởi vì, chính
thủ thuật biện pháp mới có khả        năng làm hiển lộ tính chất mâu 
thuẫn nội tại của lý tính. Murti nói, Đức        Phật là người đầu tiên,
trong lịch sử triết học Ấn Độ, khải thị cho một        Biện chứng pháp 
như thế. Và Nàgàrjuna lại là người đầu tiên khám phá ra        Biện 
chứng pháp đó, qua sự im lặng của Đức Phật. 
       Ta        có thể nói rõ thêm về Biện chứng pháp này, bằng 
cách nhắc đến một luận        chứng của chính Nàgàrjuna như sau: Xét về 
mặt hình thức của biện chứng đó,        chúng ta có tập Hồi tránh luận 
(Vigrahavyàvartanì) của Nàgàrjuna. Tác phẩm        này cho thấy tính 
cách mâu thuẫn nội tại của lý tính, bằng vào suy luận        hình thức. 
Khi một nhà Đại thừa nói “Nhất thiết pháp không”        
(sarvadharma-sùnyatà), người vấn nạn đặt vấn đề rằng, nếu tất cả đều    
không, bất thực, thì không còn một chân thực nào có thể biết và do 
đó        không thể chứng minh câu nói “Nhất thiết pháp không” có phải 
là chân lý        hay không. Kết luận đương nhiên đó là một câu nói vô 
nghĩa, vì không thể        khảo nghiệm giá trị của nó. Nạn vấn này ám 
chỉ mọi hiện hữu, bằng tư tưởng        hay bằng ngôn ngữ, nhất định phải
có lý tính của nó. Nhưng, nạn vấn này        chắc chắn phải bị cật vấn 
trở lại rằng lý tính của lý tính đó là gì? Như        vậy, lý tính không
tự chứng tỏ là lý tính, tất nhiên nó không thể là lý        tính của sự
hữu nào cả.
       Nếu        muốn đi vào căn bản triệt để, người ta không 
thể không nhắc đến các trình        bày của Trung quán luận 
(Màdhyamika-kàrikà). Đây là tác phẩm căn bản của        học phái Trung 
quán. Lý tính ở đây, được khai triển từ thuyết Duyên khởi        
(pratìtya-samutpàda). Theo đó, duyên khởi là lý tính của tự thành và tự 
hủy. Bởi vì, nếu mọi hiện hữu đều hiện hữu do tương quan, mà đã 
do tương        quan thì không có thực tính; như vậy, ngay cả thuyết 
Duyên khởi, được coi        như lý tính tuyệt đối, cũng không thể vượt 
ngoài tương quan. Nó tự chứng        tỏ nó cũng là không (søùnya).
              Gaudïapàda do đó nhất định chịu ảnh hưởng kiểu biện
chứng của Nàgàrjuna        rất đậm đà. Ngay cả khi bác bỏ các thuyết 
nhân quả, Gaudïapàda cũng đã dựa        vào biện chứng pháp đó. Trong 
chương I của Mànïdïùkya-kàrikà, Gaudïapàda        bác bỏ các lập trường 
của Nhất nguyên luận hữu ngã, theo đó, thế giới được        sáng tạo bởi
một nguyên nhân nào đó: hoặc do thời tính (kàla), hoặc do chủ        
đích hưởng thụ hay du hí của Thượng đế. Học giả của Trung quán luận chắc
chắn phải biết lý do của sự khước từ này, ngay trong kàrikà mở 
đầu của        Trung quán luận. Như vậy, thuyết Vô sinh (ajàtivàda) của 
Gaudïapàda làm        bộc lộ quá rõ ảnh hưởng của Trung quán luận18. 
              Chúng ta cần luôn luôn ghi nhớ rằng Gaudïapàda lúc 
nào cũng tiến tới một        lập trường nào đó cho tư tưởng của mình 
bằng Biện chứng pháp được sáng        khởi bởi Nàgàrjuna. Duy chỉ ở điểm
này, người ta mới có thể quyết định vị        trí của Gaudïapàda 
nghiêng về phía nào. Nếu thận trọng như Murti, người ta        có thể 
cho rằng Gaudïapàda chỉ vay mượn Biện chứng pháp của Nàgàrjuna để       
khai triển Nhất nguyên luận của Upanishad. Dù vậy, chắc chắn không phải
Đại thừa xuất hiện như một nỗ lực trở lui lại truyền thống nhất 
nguyên của        Upanishad như người ta có thể tưởng. Trái lại, chính 
Tánh không luận của        Đại thừa đã thúc đẩy các triết gia Ấn Độ 
trong truyền thống Upanishad tiến        tới một Nhất nguyên tuyệt đối 
luận.
              Gaudïapàda hình như không phải cố ý vay mượn Biện 
chứng pháp Tánh không        luận của Phật giáo, mà thỉnh thoảng, ông 
cũng tự mình bày tỏ thái độ cung        kính đặc biệt đối với Đức Phật. 
Sự kiện này gây thắc mắc, không rõ ông là        một Phật tử hay một 
người của Ấn Độ giáo19. Cố nhiên, không thể là một        Phật tử thuần 
túy. Đối với ông, Đức Phật là người đã chứng nhập được Tuyệt        đối 
thể, như các nhà Đại thừa thường nói. Và nếu nói như các nhà Đại thừa   
nói, thì sự chứng nhập đó không phải là trở về với một Thượng đế 
Hữu ngã.
           
SÙanïkara nỗ lực đặc biệt tách những ảnh hưởng của Phật giáo ra khỏi 
tư        tưởng của Gaudïapàda, để trả Gaudïapàda lại cho truyền thống 
Upanishad, và        để xứng đáng là bậc thầy khả kính nhất của những 
bậc thầy khả kính của        mình. Các học giả Ấn Độ về sau, hiện đại, 
cũng bày tỏ như SÙanïkara.       
        
           
VI.   TIỂU SỬ VÀ TÁC PHẨM VEDÀNTA TRONG TƯ TƯỞNG SÙANÏKARA
           
Nguồn mạch của Vedànta là tư tưởng được ám chỉ trong các tập 
Upanishads.        Thiết định căn bản cho hệ phái này, bao gồm cả hai 
khuynh hướng, nhất        nguyên (advaita) và nhị nguyên (dvaita), là bộ
Brahma-sùtra, cũng gọi là        Vedànta-sùtra, của Bàdarayanïa; khai 
sinh chiều hướng cho tuyệt đối bất        nhị (advaita) là Gaudïapàda; 
thiết định khuynh hướng này trong một hình        thức hoàn bị cho 
Vedànta là Sùanïkàra. Ảnh hưởng của SÙanïkàra do đó rất        lớn trong
hệ phái Vedànta, và cả trong triết học Ấn Độ. Cho nên, một khi        
nói đến triết phái Vedànta, hầu như người ta chỉ biết có một SÙanïkara 
mà        thôi.
           
Niên đại của SÙanïkara được phỏng định trong khoảng 700 - 800 sau Tây
lịch. Kimura Taiken căn cứ theo niên kỷ Kaliyuga, phỏng định chi
tiết hơn:        khoảng từ 787 đến 78920. Chi tiết hơn nữa, 
Bhanïdïarkar, Pathak và Deussen        đều muốn xác định ông sinh năm 
788 sau Tây lịch21. 
              Thân phụ của SÙanïkara là SÙivagurusùarman. Danh 
hiệu SÙivaguru vốn có        nghĩa là “bậc đạo sư SÙiva”, và gợi cho 
Kimura22 có ý nghĩ rằng ông là        người của phái SÙaivism, một giáo 
phái thờ thần SÙiva. Nói rõ hơn, đó là        ngành truyền thừa 
Taittirìya của giai cấp Bà la môn trực thuộc Yajurveda.        Nhiều 
huyền thoại khiến người ta tin rằng SÙanïkara là hóa thân của thần      
SÙiva. Sinh quán của Sùanïkara là xứ Malabar trong vùng Deccan. Ông 
theo        con đường tu đạo từ năm lên tám, làm môn đệ của Govinda. Sau
khi đã thành        tựu sự nghiệp học hỏi, SÙanïkara về cư ngụ tại 
SÙrinïgagiri và thiết lập        phái Du hành (parivràjaka), rồi du lịch
trải qua nhiều nơi, cuối cùng mất        tại Kanõci, khoảng trên dưới 
30 tuổi. 
       Địa        vị của ông trong Ấn Độ giáo có thể đối ngang 
với địa vị của Nàgàrjuna        trong Đại thừa Phật giáo. Công trình của
ông trước hết là nỗ lực loại bỏ        tất cả dấu vết của Đại thừa Phật
giáo vốn đã có ảnh hưởng sâu đậm trong hệ        thống nhất nguyên do 
Gaudïapàda khởi sáng cho Vedànta. Điều này được thấy        rõ nhất 
trong bản chú giải của ông về Brahma-sùtra, gọi là        
Brahma-sùtra-bhàsïya, hay SÙàrirakamìmàmïsà-sùtra-bhàsïya. 
              Nguyên bản Brahma-sùtra cũng đã từng bác bỏ các tư 
tưởng Tánh không luận        (SÙùnyavàda) và Duy thức luận 
(Vijnõàna-vàda) của Đại thừa23. Tánh không        luận mà SÙanïkara chỉ 
trích không phải là của Vasubandhu (Thế Thân), mà là        Duy thức chủ
luận lý (Svatantra-yogàcàra) do một nhà luận lý học của Đại        
thừa, Dignàga (Trần Na) thiết lập. Có lẽ hành động của SÙanïkara chỉ là 
sự        phản ứng tự vệ trước những ảnh hưởng đương nhiên, hơn là thấu 
triệt những        chủ điểm tư tưởng mà ông muốn đả phá24.
              Ngoài SÙàrirakamìmàmïsà-sùtra-bhàsïya, ông còn chú 
thích các tập        Upanishàs25. Ở đây, SÙanïkara muốn chứng tỏ rằng 
ông không phải là người        tự dựng lên một hệ thống tư tưởng đặc 
thù. Những chân lý mà ông bày tỏ,        chính là những gì đã được khải 
thị trong các tập Upanishads. Dĩ nhiên,        những khải thị này không 
trái với kinh nghiệm, và hợp lý26.
              Brahma-sùtra khởi đầu như vầy: athàto 
brahmajijnõàsà, rồi từ đó, chiêm        nghiệm Brahman27. Đối với 
SÙanïkara, “từ đó” (athàtahï) có nghĩa là sau        khi đã tu tập để 
trọn vẹn khước từ các ham muốn thụ hưởng những quả báo        trong đời 
này và đời sau. Ý tưởng này đã được khải thị trong các        
Upanishads. Thấu hiểu trọn vẹn Brahman là mục đích tối thượng của con   
người, bởi vì nó hủy diệt tất cả mọi gốc rễ của tội ác như vô minh 
(avidyà), hủy diệt hạt giống của luân hồi sinh tử (samïsàra)28.
       Kế        tiếp, Brahma-sùtra định nghĩa Brahman như một 
nguyên lý mà từ đó phát hiện        sự sinh thành, tồn tại và hủy diệt 
của thế giới29. Chú giải ý tưởng này,        SÙanïkara cho rằng Tuyệt 
đối thể Brahman chỉ có thể thấu hiểu bằng vào sự        tham cứu và lãnh
hội sâu ý chỉ của các bản văn Vedànta, tức các tập        Upanishads, 
chứ không phải bằng vào sự suy luận hay bằng bất cứ phương        tiện 
nào khác của tri thức, dù là tri thức chân chính, ở bên ngoài khải      
thị của các bản văn Vedànta. Dĩ nhiên, như đã nói, các khải thị này có
thể        luận chứng bằng kinh nghiệm, bởi vì một vài nơi trong các 
bản văn này        tuyên bố rằng trí năng của con người có thể lãnh hội 
được. Chính        Brahma-sùtra, trong đoạn kế tiếp, nói rằng Brahman 
toàn trí mà lưu xuất        nguồn mạch của thánh điển30.
              Trên đây có thể tóm tắt thái độ của SÙanïkara đối 
với thẩm quyền chân lý        của các tập Upanishads. Tuy nhiên, không 
phải tất cả các Upanishads đều        chỉ thị Brahman là thực tại cứu 
cánh, tuyệt đối bất nhị, phải đạt đến bằng        con đường của tri thức
(jnõàna-màrga), duy nhất bằng con đường tri thức.        SÙanïkara dĩ 
nhiên nhận rõ điều này hơn ai cả. Trong phần giới thiệu cho        bản 
chú giải SÙvetàsùvara-Upanishad, sau khi trưng dẫn các Vedas, các       
Smïrtïis (Ký ức lục), Itihàsas (Truyền thuyết lục)31, theo đó, tri thức
về        tuyệt đối Brahman, mà Brahma-sùtra nói là Brahman-jijnõàsà, 
là con đường        duy nhất để đạt đến chân giải thoát (vidha-mukti), 
SÙanïkara tự đặt ra các        nạn vấn rằng các Upanishads cũng nói đến 
con đường hành nghiệp và coi đó        như là một phương tiện khác ngoài
phương tiện tri thức có thể đạt đến giải        thoát cứu cánh. 
              Cũng chính SÙanïkara tự trưng dẫn các thẩm quyền hỗ
trợ cho các nạn vấn.        Thí dụ: Ìsùa-Upanishad 11 nói32: “Tri thức 
và vô minh, nếu ai biết cả hai        cùng lúc, song song, người ấy vượt
qua sự chết bằng vô minh và đạt được        bất tử tính bằng tri thức”.
Ở đây, “cả hai song song” (ubhayamï saha) có        nghĩa là cả tri 
thức (vidyà) và hành nghiệp (karma). Chú giải của        SÙanïkara 
nói33, “bằng sự thực hành các tế tự, người ta vượt qua sự chết        và
bằng tư duy về các thần linh, người ta đạt đến bất tử”. 
           
Đoạn Upanishad được dẫn hình như muốn nói rằng hành nghiệp (karman) 
cũng        là một phương tiện cho giải thoát. Và SÙanïkara giải quyết 
mâu thuẫn bằng        cách phân biệt, đấy chỉ là một phương tiện gián 
tiếp. Đạt đến giải thoát        phải bằng sự thanh lọc tâm thức, và sự 
kiện này được thành tựu bằng hành        nghiệp. Nơi khác. 
Ìsùa-Upanishad 2 nói34: “Luôn luôn thực hành các nghiệp        ở đây, 
người ta có thể hy vọng sống được một trăm tuổi”. Đoạn dẫn này rõ       
ràng chứng tỏ Upanishad cũng khuyến khích hành nghiệp. Cả trong phần 
giới        thiệu cho SÙvetàsùvara-Upanishad, và trong chú giải cho 
Ìsùa-Upanishad,        SÙanïkara đều nói rằng, đoạn kinh được dẫn chỉ 
dành cho những người hạ        trí, những người không đủ khả năng để 
lãnh hội Brahman. Các Upanishads        khác đã chứng tỏ rằng, vì để 
thấu hiểu Brahman mà những người Bà la môn từ        chối ham muốn về 
con cái, tài sản, thế gian, và sống một cuộc đời hành        khất. Vả 
lại, SÙanïkara cho thấy, ngay mở đầu Ìsùa Upanishad cũng đã chứng       
tỏ như vậy35.
              SÙvetàsùvara-Upanishad là một trong những nguồn 
mạch chính yếu của hệ phái        Vedànta. Tuy nhiên, những gì được nói 
trong đó không phải chỉ duy nhất là        tuyệt đối bất nhị của 
SÙanïkara hay cục hạn bất nhị của Ràmànuja, mà hình        như hàm ngụ 
các yếu tố hữu thần, lưỡng nguyên, v.v... của Sàmïkhya nữa.        Giải 
quyết sự trí nghịch đó, SÙanïkara đã sử dụng phương pháp phân biệt      
hai cấp bậc của chân trí. Một là chân lý thế tục (vyavahàrika) dành 
cho        hạng hạ trí (aparàvidyà) mà đối tượng là Brahman bậc thấp 
(aparà-brahman);        và chân lý tuyệt đối hay đệ nhất nghĩa đế 
(paramàrthika) dành cho bậc        thượng trí (paràvidyà) mà đối tượng 
là tuyệt đối Brahman (para-brahman).        Phương pháp này cũng được áp
dụng để giải thích Brahma-sùtra, nếu gặp phải        trường hợp tương 
tự. Phương pháp ấy không phải là đặc sáng của SÙanïkara.        Trước 
đó, Nàgàrjuna đã thường áp dụng cho Biện chứng Tánh không luận của      
ông.
       Dựa 
theo phương pháp vừa trình bày, toàn bộ tư tưởng của SÙanïkara có
thể được        tóm tắt như sau36:
           
Chân đế (paramàrthika)                 Tục đế (vyavahàrika)
           
Nhận thức luận:     Thượng trí                                Hạ trí
       Bản 
thể luận:                      Tuyệt đối Brahman 
                  Tương        đối Brahman
       Thế 
giới quan:                    Như huyễn (màyà)                   
Thật hữu
Nhân sinh quan:     Tuyệt đối
ngã       
           
                             (paramàtmàn)               Tương đối ngã
Giải thoát luận:       Chân 
giải thoát                     Tiệm giải thoát
           
                             (videha-mukti)              
(krama-mukti)       
        
           
VII.   VÔ MINH VÀ HUYỄN HÓA
           
Giới thiệu bản chú giải Brahma-sùtra (SÙàrìrakamìmàmïsà-bhàsïya),    
SÙanïkara cho rằng ngu dốt và sai lầm là nguồn gốc của tội ác, và vì
để        đạt đến tri thức chân chính về tuyệt đối Brahman nên sự học 
hỏi thánh điển        được khởi sự. Vô minh (avidyà) là một ý tưởng 
thường diễn ra trong các tập        Upanishads. Do vô minh mà có mê 
vọng. Katïha-Upanishad nói, những ai sống        trong vô minh và nghĩ 
rằng mình là kẻ trí, những người đó lang thang đi        tìm chân thực 
tại cũng y như những người mù bước đi theo kẻ mù37.        
Chandogya-Upanishad phân biệt vô minh và minh rằng: “Quả vậy, những gì 
mà        người ta thực hiện bằng minh trí (vidyà), tín tâm (sùraddhà) 
và tư duy        (upanisïadà), cái đó thực sự có năng lực mạnh hơn”38. 
Phần lớn, các        Upanishads đòi hỏi sự thực hành các hành nghiệp 
phải được hướng dẫn bởi        minh trí (vidyà). Vô minh (avidyà) là sự 
phân biệt sai lầm, là cái nhìn        lưỡng nguyên giữa chủ quan 
(visïayin) và khách quan (visïaya).
              Trên khía cạnh Nhận thức luận, vô minh là trạng 
thái khi mà tâm thức (cit)        tác dụng như một chủ tri (sàksïi), tác
động trên trạng thái vô trí        (ajnõàna). Vô trí (ajnõàna) là trạng
thái mê mờ, là bóng tối của tâm thức        bị bao phủ trong vô minh. 
Nó được diễn tả trong kinh nghiệm thông tục như        là sự không biết.
Bởi vì nó là bóng tối, và trong bóng tối thì đối tượng        của tri 
thức không có tính cách xác định, không quyết là hữu (bhàva) hay        
vô (abhàva). Khi có sự hiện khởi của tác dụng trí (vrïittti-jnõàna), 
nghĩa        là khi tâm thức tác động như một chủ tri thâu nhận đối 
tượng, vô trí trở        thành khái niệm phân biệt “ta” (ahamï) và “cái 
khác” (tvam)39. Như vậy, vô        trí trở thành một cơ năng nội tại 
(antahïkaranïa) để tâm thức tác dụng như        một chủ tri, tạo thành 
khái niệm chấp ngã (ahamïràsa). 
       Từ        khái niệm ngã chấp đó, thế giới xuất hiện trong 
tâm thức chỉ là thế giới        mê vọng. Trong khi đó, tâm thức vẫn là 
tự ngã bất biến mà bản chất của nó        vốn thuần tịnh; nếu không bị 
chi phối bởi vô minh, nó có thể trực nhận        được tuyệt đối thể, và 
đồng nhất với tuyệt đối thể. Vô trí (ajnõàna) như        bóng tối bao 
trùm lên tâm thức. Do sự chướng ngại (avaranïa) đó mà Brahman        
không biểu lộ trọn vẹn được. Vì vậy, vô trí được coi như là có bản chất 
tích cực (bhàvarùpa)40, bao gồm cả hai khái niệm đối đãi về hữu 
thể        (bhàvatva) và vô thể (abhàvatva). 
       Khi        nói: “Tôi không biết” hay “Tôi không biết gì 
hết”, cả hai trường hợp dĩ        nhiên đều giả thiết có một đối tượng 
nào đó của nhận thức, nhưng đối tượng        này không nhất định là sự 
hữu tích cực (bhàva) hay sự vô tiêu cực        (abhàva). Trong giấc ngủ 
cũng vậy, nhận thức không thâu nhận một đối tượng        nào ở bên ngoài
nó. Không thâu nhận đối tượng chỉ vì đối tượng đó là bất        khả đắc
(anupalabdhi), là sự vắng mặt của tri giác. Bấy giờ là lúc nội        
quan (antahïkaranïa) và khái niệm ngã chấp (ahamïkara) không tác động,  
không hiện khởi, chúng chìm vào bóng tối của vô trí (ajnõàna). Cho
đến lúc        thức dậy, ngã chấp xuất hiện như là tác dụng (vrïtti) 
của nội quan. Nó trở        thành năng lực của nhận thức, trí lực 
(jnõànasùakti) và năng lực của hành        động, tác lực (kriyàsùakti) 
và năng lực của hành động, tác lực        (kriyàsùakti). 
       Như        vậy, tất cả tri thức và hành động đều là tác 
dụng của nội quan        (antahïkaranïa) trên vô trí. Theo đó, vô trí 
không phải chỉ là sự không        biết với ý nghĩa tiêu cực; nó là nền 
tảng, sở y (asùraya) của thực tại mê        vọng. Vô trí (ajnõàna) và vô
minh (avidyà) được coi như là đồng nghĩa.
       Thế        giới mê vọng là thế giới bị bao phủ bởi vô 
minh. Từ ngữ vyavahàrika thường        được hiểu như là thế tục đế, là 
sự thật, hay chân lý, xuất hiện cho kinh        nghiệm thông tục, còn có
nghĩa là chân lý bị che khuất        (samïvrïti-satya)41. Trong trường 
hợp này, samïvrïti được hiểu như là        ajnõàna.
       Đối        với các nhà Trung quán (Màdhyamika), khi họ nói
đến chân lý bao phủ        (samïvrïti-satya), thì thế giới đó chính 
thực là huyễn hóa, không có một        căn cơ thực hữu nào cả. Bởi vì, 
theo họ, xét theo định luật duyên khởi        (pratìya-samutpàda), mọi 
sự hữu đều do tương quan mà hiện hữu, do đó sự        hữu thực là phi 
hữu. Tuy nhiên, các nhà Vedànta khi nói đến cùng khái niệm        này, 
họ lại hiểu cách khác. 
              Gaudïapàda, mặc dù được nói là chịu ảnh hưởng sâu 
đậm của Trung quán,        nhưng khi nói về tính chất mê vọng của thế 
giới, cũng vẫn thiết lập một        khái niệm chân thật nào đó làm căn 
bản cho những mê vọng này42. Dụ như một        sợi dây nằm trong bóng 
tối, bị tưởng lầm là con rắn; mê vọng, hay vô minh        (avidyà) chỉ 
có nghĩa là sự gán ghép sai lầm (adhyasa). Người ta cũng có        thể 
tìm thấy quan niệm này nơi các nhà Thực tại luận (sarvàstivàda) của     
Tiểu thừa Phật giáo, theo đó, cái giả phải có căn bản trên cái thực. 
Lông        rùa và sừng thỏ dĩ nhiên là mê lầm, vọng tưởng, nhưng đã có 
thực tại sở y        cho mê lầm vọng tưởng này. Đó là những khái niệm đã
từng được kinh nghiệm,        về sợi lông và con rùa, cái sừng và con 
thỏ. Các nhà Chủ không luận        (sautrantika) của Tiểu thừa hoàn toàn
bác bỏ giải thích này43. Nhưng chính        các nhà Tánh không luận 
(sùnyavàda) của Đại thừa mới bác bỏ tích cực hơn.        Thế giới là 
huyễn hóa, là mộng tưởng, là bất thực, vì đằng sau nó không có        
một căn bản lý tính để làm sở y; và bởi vì lý tính tự chứng tỏ tính cách
mâu thuẫn nội tại của nó.
              Gaudïapàda và SÙanïkara, trái lại, nhìn thấy đằng 
sau sự huyễn hóa ấy rõ        ràng có một căn bản thực tại. Căn bản đó 
là Tuyệt đối thể Brahman. Tác        dụng của vô trí (ajnõàna), nguyên 
nhân của mê lầm (avidyà) và huyễn hóa        (màvà), chỉ là tác dụng sai
lầm của tâm thức. Bởi vì cơ bản của jnõàna là        cit, tâm thức 
thuần tịnh, và đó cũng được hiểu như là Brahman. Gaudïapàda        nói, 
sợi dây trong bóng tối mà bản tính của nó bất xác, bị tưởng lầm là      
con rắn; cũng vậy, Tự ngã (Àtman) bị vọng tưởng thành sai biệt44. Khi 
vô        minh bị hủy diệt, tâm thức trở lại trạng thái thuần tịnh của 
nó, và Tự ngã        được hiển lộ, đúng như điều mà các Upanishads đã 
khải thị: “neti nety        àtmà”, Tự ngã không phải là cái đó, không 
phải là cái đó; hoặc: “tad etad        brahmàpùrvam, enaparam, 
anan-taram, abàhyam, eyam àtmà brahma        sarvànubhùhï”, Brahman ấy 
được mô tả như là cái một thị hiện trong vô        lượng, vô số hình 
thái: Brahman ấy không có khoảng đầu, không có khoảng        cuối, không
có bên trong, không có bên ngoài; Brahman ấy là Àtman, là đấng        
toàn trí, thấy và biết tất cả. Như vậy, khi Gaudïapàda nói thế giới sai 
biệt chỉ là huyễn hóa (màya), thì ta phải hiểu rằng, đó là sự 
huyễn hóa        diễn ra từ trên thực tại tuyệt đối bất nhị.
              SÙanïkara, trong phần giới thiệu cho bản chú giải 
Brahma-sùtra của ông        cũng giải thích tương tợ. Khi người ta bị 
nhặm mắt, nhìn lên thấy hai hay        ba mặt trăng. Những mặt trăng đó 
chỉ là sự tăng thượng (adhyàsa) của một        mặt trăng chân thực kia. 
Nói cách khác, bởi vì tâm thức khởi lên tác dụng        trí 
(vrïtti-jnõàna) vốn đã bị bao phủ mê lầm bởi vô trí có tác dụng như     
một chủ tri, khiến ta không nhận ra Tự ngã chân thực, bất biến và bất
tử,        đằng sau cái chủ tri bị chi phối bởi những đau khổ, buồn 
rầu... Một khi        chứng được nhất thể Àtman, thế giới huyễn hóa biến
mất. SÙanïkara trưng        dẫn các Upanishads để minh chứng ý nghĩa 
này. Chàndoga -Upanishad IV.i.4        nói rằng mọi biến thái chỉ xảy ra
trên mặt ngôn thuyết, giả danh:        vàcàrabanïamï vikàro nàma-dheyam
v.v... Cũng như mặt biển tự nó chỉ là        một, như xuất hiện như là 
vô số sóng biển và bọt biển45.
       Như 
vậy, Brahman, do vô minh, mà xuất hiện như là thế giới sai biệt 
của danh        (nàma) và sắc (rùpa); điều mà Brïhadàranyaka-Upanishad 
I.4.7 đã nói: khởi        thủy, thế giới này không có sự sai biệt, không
biểu hiện (avyàkrtam) rồi        sau đó biểu hiện với danh như vậy, sắc
như vậy. Người ta đi tìm lại cái        thực tính nguyên sơ của thế 
giới này phải tìm theo dấu vết của Tự ngã, bởi        vì Tự ngã là dấu 
chân của tất cả thế gian gồm danh và sắc này.