Chương V  Triết thuyết Nyàya (Chính Lý) 
           
I.   TỔNG QUÁT
           
Trên quan điểm siêu hình, Nyàya là một học phái (darsùana) với đầy đủ
những luận thuyết về bản thể và thực tại. Nhưng trên phương diện
luận lý,        nó là một hệ thống pháp thức suy luận được chấp nhận 
gần như phổ biến đối        với tư tưởng triết học Ấn Độ. Nếu không xét 
đến tính cách dị biệt của        triết lý, danh từ Nyàya được chấp nhận 
trên toàn thể như là căn cơ và pháp        thức suy luận, mà chính ngay 
cả hậu kỳ Phật giáo cũng chấp nhận một cách        tự nhiên. Các nhà 
luận lý học Phật giáo như Trần Na (Dìgna) hay Thương        Kiết La Chủ 
(SÙankàra-SÙvamin) đều sử dụng danh từ Nyàya làm tiêu đề cho        tác 
phẩm luận lý của họ. 
       Tác 
phẩm nhập môn về luận lý của Trần Na có tên là 
Hetu-vidyà-nyàya-sùàstra        (Nhân minh Chính lý môn luận)1. Tác phẩm
của Thương Kiết La Chủ có tên là        
Hetu-vidyà-nyàya-pravesùa-sùàstra (Nhân minh nhập Chính lý luận)2. Do 
tính        cách phổ thông của danh từ như thế, người ta không lấy làm 
lạ khi thấy        Khuy Cơ, một cao đệ của Huyền Trang, đã định nghĩa từ
ngữ Chính Lý như        sau: “Mọi hiện hữu đều là hiện hữu chơn thật, 
mặc dù tự tánh của chúng sai        biệt. Nhưng dưới sự biến đổi của 
thời gian, do kiến giải mơ hồ, mà ý nghĩa        đích thực của chúng bị 
che lấp. Các giải thích phần lớn đều sai lạc. Nay        nói đến hiện 
hữu chơn thật, cho nên mệnh danh là chính lý”3. Định nghĩa        này rõ
ràng coi Nyàya như là một thuật ngữ của Phật giáo.
              Nyàya, hoặc do động từ căn là “i”, có nghĩa là đi4,
do đó có nghĩa là “sự        đi đến quan điểm chơn chính”; hoặc do động
từ căn “ni”: dắt dẫn, và do đó        có nghĩa là “sự dẫn đến quan điểm
chơn chính”5. Ngữ căn thứ hai này được        chấp nhận phổ biến hơn. 
Trong định nghĩa của Khuy Cơ, chúng ta thấy nyàya        được hiểu theo 
ngữ căn này.
       Nói        một cách tổng quát, nyàya là một pháp thức suy 
luận có tính tổng hợp hay        diễn dịch, là phương tiện dẫn trí năng 
đi đến những kết luận chơn chính,        có giá trị, có hiệu lực. Nghĩa 
là, thỏa mãn tất cả những yếu tố của luận        lý, dưới hình thức 
tương tự với Tam đoạn luận của Aristotle.
              Cũng như các triết phái khác, sự xuất hiện của 
Nyàya không có niên đại xác        thực. Truyền thuyết nói sáng tổ của 
nó là Gotama, có tên là Túc Mục        (Aksïapàda)6. Sở dĩ có tên như 
vậy, cũng theo truyền thuyết, bởi vì ông        quá đắm mình trong suy 
tư cho nên bước lạc xuống giếng, Thượng đế thấy        vậy, tặng cho ông
cặp mắt dưới chân. Tác phẩm của ông, Nyàya-sùtra, là căn        bản cho
triết phái này. Nó tập hợp tất cả 538 sùtras, chia thành 5 quyển.
       Nhu        cầu pháp thức suy luận trong lịch sử tư tưởng 
Ấn Độ có thể xuất hiện rất        sớm, do những thảo luận giữa các đạo 
sĩ của Áo Nghĩa Thư. Tuy nhiên, một        hình thức pháp thức theo kiểu
Nyàya nhất định không thể sớm hơn thời đại        của Đức Phật Thích 
Ca. Tập Trường Bộ kinh, kinh Phạm Võng, đề cập các học        thuyết 
đương thời, có nhắc đến các nhà suy lý dưới danh hiệu là những        
takkin7; đây là một từ ngữ khác thông dụng để chỉ cho những nhà luận lý 
học. Đằng khác, tập Hồi Tránh luận (Vigrahavyàvartàni) của Long 
Thọ        (Nàgàrjuna)8 có bác bỏ quan điểm về các chứng lý tri thức. Dĩ
nhiên, đây        là quan điểm của Nyàya. Mặt khác, các nhà chú giải 
Nyàya-sùtra như        Vatsyàyana, thế kỷ V Tây lịch, hay như 
Vàcaspatimisùra, thế kỷ IX Tây        lịch, chỉ điểm ra rằng Sùtra của 
Gotama có bài bác lập trường Tánh Không        luận của Long Thọ, và 
luôn cả Duy Thức luận của Vô Trước (Asanga) và Thế        Thân 
(Vasubandhu). Nói cách khác, nó không thể trước thế kỷ V trước Tây      
lịch và sau thế kỷ III trước Tây lịch.
              Giải thích sớm nhất về Nyàya-sùtra là Nyàyabhàsïya 
của Vatsyàyana, khoảng        thế kỷ V sau tây lịch. Cho đến thế kỷ VI, 
Uddyotakara xuất hiện với        Nyàya-vàrttika. Căn cứ trên tác phẩm 
này, thế kỷ IX có Vàcaspati-misùra        với 
Nyàyay-vàrttika-tàtparya-tìkà. Và rồi dựa trên tác phẩm này, chú giải   
phức tạp thêm nữa, có Udayana với 
Nyàya-varttika-tàtparya-parisùuddhi,        viết vào thế kỷ X. Cho đến 
thế kỷ XIII, với sự xuất hiện của Gangesùa, qua        tập 
Tattva-cintamani, Nyàya bước sang một giai đoạn mới, ít chú tâm đến     
những vấn đề triết lý siêu hình, mà thiên hẳn về pháp thức suy luận.
           
Nhận định về chung cuộc của Nyàya với Gangesùa, nhà Ấn Độ học Helmut 
von        Glasenapp nói: “Những tế nhị (trong công trình của Gangesùa) 
thực sự dẫn        đến sự hình thành của một hệ phái kinh viện mà thực 
tế có tầm mức rất quan        trọng đối với luận lý học hình thức, nhưng
ít có sáng tạo đối với những tư        tưởng mới cho siêu hình học”9. 
        
           
II.   CÁC CHỦ ĐIỂM CỦA TRIẾT LÝ
           
Nyàya-sùtra bắt đầu bằng giới thuyết về 16 cú nghĩa, theo đó, an lạc 
tối        thượng đạt được nhờ có tri kiến về bản tánh chơn thật của 16 
cú nghĩa.        Chúng là tất cả chủ điểm triết lý của Nyàya, bao gồm 
những vấn đề tri        thức, thực tại, nhân sinh và các pháp thức vật 
lý.
           
Tiếp đến, Sùtra I.i.2 đề cập đến quá trình nhân quả của khổ và lạc, 
dưới        hình thức quan hệ mà chúng ta có thể tìm thấy nơi thuyết 12 
nhân duyên của        Phật giáo. Đối với Nyàya, nguyên nhân của sự khổ 
trong đời sống này là do        sự sanh (janman); nguyên nhân của sự 
sanh là tác nghiệp (pravrïtti); động        cơ gây ra những tác nghiệp 
là phiền não (đoạn) và gốc rễ của các phiền não        sai lầm (dosïa) 
này là tà trí (mithyàjnõnàna). Nói theo chiều thuận của        tương 
quan nhân quả, thì quá trình diễn tiến của sự khổ là: tà trí        
(mithyàjnõàna) mà Phật giáo gọi là vô minh (avidyà) sanh? phiền não? tác
nghiệp? sanh và? khổ.
       Tà  
trí là sự hiểu biết sai lầm, là tri kiến điên đảo giữa ngã và vô 
ngã, giữa        khổ và lạc, giữa thường và vô thường. Từ tà trí phát 
sanh ba thứ độc hại        là tham, sân, si; chúng là những phiền não 
sai lầm (dosïa). Để đối trị tà        trí và thực hiện quá trình giải 
thoát, phải có chơn trí (tattvajnõàna).        Quá trình này diễn ra 
cũng tương tợ với “quá trình hoàn diệt” về 12 nhân        duyên của Phật
giáo: do tà trí diệt mà phiền não diệt; do phiền não diệt        mà tác
nghiệp diệt; do tác nghiệp diệt mà sự sanh diệt; do sanh diệt mà       
khổ diệt.
       Ở        đây, chơn trí là sự hiểu biết chân thực về 16 cú 
nghĩa:
       1.        Lượng (pramànïa). Do động từ căn “mà”: đo lường,
và ở đây, từ ngữ này chỉ        cho hiệu lực của tri thức. Hiệu lực 
này, có giá trị hay không giá trị,        chịu lệ thuộc chặt chẽ các 
điều kiện nội tại và ngoại tại của nhận thức.        Chủ điểm thứ nhất, 
do đó, là tri thức luận. Bởi vì hiệu lực của tri thức        phải được 
đo lường mức độ phản ảnh của thực tại; tri thức luận trong điều        
kiện này không thể là vấn đề riêng biệt ngoài Thực tại luận.
              Nyàya thành lập bốn lượng: hiện lượng (pratyaksïa),
tỉ lượng (anùamna),        thí dụ lượng (upamàna) và thanh lượng 
(sùabda). Chúng sẽ được nói rõ hơn        nơi các chương sau.
       2.        Sở lượng (prameya). Nó là đối tượng của tri 
thức, mà đích thực cũng chính        là vấn đề nhân sanh, bao gồm các 
yếu tố nội thân và ngoại cảnh của một cá        nhân, cho đến sự khổ và 
an lạc của y. Các đối tượng này có: 
       (1)        Ngã (àtman), quan niệm của Nyàya không khác với
Vaisùesïika. Nyàya-sùtra        I.i.10 nói: “Dục (icchà), sân (dvesïa),
cần dũng (yatna), lạc (sukha), khổ        (duhïkha) và trí (jnõàna); 
đấy là những đặc tính của ngã”.
       (2)        Thân thể (sùarìra), là sở y của hoạt động, quan
năng và cảm giác. Sự cấu        tạo của nó là do yếu tố đất hay địa 
đại.
       (3)        Căn (indriya), các quan năng nhận thức, gồm: 
mũi, lưỡi, mắt, da và tai. Sự        cấu tạo của nó do năm yếu tố, đồng 
với quan điểm của Vaisùesïika: mũi do        địa đại; lưỡi do thủy đại; 
mắt do hỏa đại; da do phong đại; và tai do        không đại.
       (4)        Cảnh (artha), các đối tượng ngoại giới của nhận
thức, tương đối với năm        quan năng nội tại (indriyas): hương, vị,
sắc, xúc và thanh; và cũng được        cấu tạo từ năm yếu tố (bhùtàni: 
đại chủng): địa, thủy, hỏa, phong và        không.
       (5)        Giác (buddhi), tác dụng phân biệt của nhận 
thức, là cơ năng lý trí.
       (6)        Ý (mànas) cùng quan điểm với Vaisùesïika, Nyàya
coi ý như là cơ năng nhận        thức đồng khởi khi căn và cảnh giai 
tiếp, nó hỗ trợ cho ngã kinh nghiệm        được ngoại giới.
       (7)        Tác nghiệp (pravrïtti), những động tác khởi lên
sau khi nhận thức đạt đến        điểm xác định. Chính do những động tác
này mà các phiền não phát sanh.
       (8)        Phiền não (dosïa), mà căn bản, cùng tương tợ 
với Phật giáo, gồm có tham        dục (ràga), sân hận (dvesïa) và ngu si
(moha).
       (9)        Bỉ hữu (pretyabhàva), cũng nói là luân hồi hay 
sự tái sanh        (punar-utpatti), do hậu quả của phiền não và nghiệp.
              (10) Quả (phala), tức kết quả của tác nghiệp và 
phiền não, nhất định đưa        đến các cảnh giới của luân hồi.
              (11) Khổ (duhïkha), mà đặc tíùnh là sự chướng ngại 
(bàdhanà) tức những trở        ngại trong đời sống khiến người ta không 
thể đạt đến hạnh phúc mà mình        mong muốn.
              (12) Giải thoát (apavarga), dứt trừ trọn vẹn sự 
khổ, đạt đến cõi tối        thượng (nihïsùreyasa), không còn bị chi phối
bởi các điều kiện khổ và lạc.
       3.        Nghi hoặc (Samïsùaya). Cú nghĩa thứ nhất và hai 
là hiệu lực và điều kiện        của nhận thức, mà chính yếu là trực 
giác. Cú nghĩa thứ ba này là điều kiện        dẫn khởi pháp thức suy 
luận. Nó là sự nghi ngờ bất quyết, khi hai sự vật        làm đối tượng 
giống nhau; thí dụ, từ đằng xa, nhận thức không quyết định        dứt 
khoát đối tượng của nó là cột nhà cháy, hay một con người. Đằng khác,   
sự nghi hoặc có thể do tri giác mơ hồ, không nhận ra được chân 
tướng của        đối tượng. Cũng có trường hợp là không chú ý; không có 
sự can thiệp của        manas.
       4.        Động cơ (Prayojana), do nghi hoặc mà cả hai bên 
cùng thảo luận để tìm ra        một giải đáp chung.
       5.        Kiến biên (Drïsïtànta), biên tế hay giới hạn 
cuối cùng của quan điểm. Nó        là kinh nghiệm phổ thông mà tất cả 
mọi người đều thừa nhận. Trong Tam đoạn        luận, kinh nghiệm này 
được đặt thành đại tiền đề, làm căn bản cho suy luận        diễn dịch. 
Nói cách khác, nó là tiêu chuẩn chung để giải quyết một vấn đề        
tranh luận.
       6.        Tông nghĩa (Siddhànta), cũng có thể dịch là định
thuyết hay cực thành. Từ        trên tiêu chuẩn chung đã được thỏa 
thuận, người ta tiến tới kết luận đặc        thù trong chủ trương của 
mình. Xét trên phương diện pháp thức, đây là các        trường hợp lập 
tông (pratijnõa), nêu lên một quan điểm hay một chủ trương        để 
cùng thảo luận với đối phương. Ở đây, có bốn trường hợp để lập tông:
       (1)        Biến sở hứa tông (sarvatantra-siddhànta), một 
quan điểm hay một chủ trương        mà tất cả mọi học thuyết đều chấp 
nhận. Thí dụ, lập tông nói: “hương là        đối tượng của mũi”, tông 
nghĩa này có giá trị, bởi vì không một học thuyết        nào phủ nhận 
nó.
       (2)        Tiên thừa bẩm tông (pratitantra-siddhànta), một
chủ trương chỉ được thừa        nhận bởi tôn giáo hay học phái của 
mình. Thí dụ, nói: “Âm thanh thường        trụ”, là tông nghĩa chỉ được 
thừa nhận bởi các nhà thanh thường trú luận,        trong khi các nhà 
Phật học phản đối.
       (3)        Bàng chuẩn nghĩa tông (adhikaranïa-siddhànta), 
nêu lên một quan điểm mà        trong đó còn hàm ngụ một quan điểm khác 
nữa. Chẳng hạn khi một nhà Phật        học nêu quan điểm “Âm thanh là vô
thường” trong đó còn hàm ngụ ý nghĩa vô        ngã nữa.
       (4)        Bất cố luận tông (abhyupagama-siddhànta), một 
định thuyết có tính cách giả        thiết; một tông nghĩa được thiết lập
theo quan điểm riêng của mình, không        dựa vào kiến giải phổ 
thông, hay quan điểm học phái.
       7.        Luận thức (Avya), pháp thức suy luận. Một luận 
thức gồm năm thành phần,        gọi là “ngũ chi tác pháp”.
       (1)        Tông (pratijnõa)
       (2)        Nhân (hetu)
       (3)        Dụ (uhàharanïa)
       (4)        Hiệp (upayana)
       (5)        Kết (nigamana)
       8.        Tư trạch (Tarka)
       9.        Quyết định (Nirnïaya)
       10.        Luận nghị (Vàda)
       11.        Luận tránh (Ialpa), và
       12.        Luận kết (Vitandà): đây là quá trình nội tại và
ngoại tại của ngũ chi tác        pháp. Trước hết phải nhận thức chơn 
tướng của vấn đề, tức tư trạch, rồi        tiến đến quyết định. Cả hai 
là quá trình nội tại của ngũ chi tác pháp. Sau        khi luận thức, tức
ngũ chi tác pháp, được thiết lập, vấn đề được phát biểu        cho đối 
phương, đòi hỏi được chấp thuận. Đó là luận nghị. Để được chấp        
thuận, luận giả phải bênh vực quan điểm của mình và thỏa mãn những gì mà
đối phương thoạt tiên không thừa nhận. Đây là luận tránh. Sau 
khi đả thông        tư tưởng, luận giả và đối phương cùng tiến tới kết 
luận chung, tức luận        kết.
       13.        Tợ nhơn (Hetvàbhàsa)
       14.        Khúc giải (Chala)
       15.        Đảo nạn (Jàti), và
       16.        Đọa phụ (Nigrahasthàna): bốn vấn đề cần phải 
biết để tránh lập luận không        vững.
              Trên đây là toàn bộ các chủ đề triết lý của Nyàya. 
Tổng quát, chúng có thể        được quy chiếu dưới hai thể tài chính: 
nội dung của tri thức và pháp thức        của luận lý. Chúng được gọi là
cú nghĩa hay padàrtha. Theo định nghĩa,        padàrtha là một sự thể 
khả tri (jnõeya), hay đối tượng chơn thực của tri        thức (prameya).
Chúng ta sẽ thấy 16 padàrthas này khác với 6 padàrthas của        
Vaisùesïika mà Nyàya sau này chấp nhận làm căn bản cho Thực tại luận của
mình. 
       
           
III.   TRI GIÁC HAY HIỆN LƯỢNG (Pratyaksïa - Hiệu lực của tri thức)
           
Định nghĩa của Gautama về Pratyaksïa: “Indriyàrtha 
samïnikarsïa-upatnamï        jnõànam avyapadesùadam avyabhicàri 
vyavasàyàtmakamï pratyaksam”. Một cách        đại cương, định nghĩa này 
được hiểu rằng: “Hiện lượng là nhận thức        (jnõànam) khởi lên do sự
tiếp xúc (sạmnikarsïa) của căn và cảnh        (indriyàrtha), không thể 
diễn bằng lời (padesùadam), không sai lầm        (avyabhicàrin), quyết 
định tánh”. 
           
Theo định nghĩa của Gautama, hiện lượng gồm ba đặc tính: không thể 
diễn        bằng lời, không sai lầm và quyết định tánh 
(vyavasàyàtmakam). Nhưng theo        Dignàga, nhà luận lý học trứ danh 
của Phật giáo, một định nghĩa như vậy        không thể chấp nhận được, 
vì tự mâu thuẫn với lập trường Nhận thức luận        của chính Nyàya. 
Như thế có nghĩa là, định nghĩa tự mâu thuẫn với chính        nó, vì với
giới thuyết rằng hiện lượng là nhận thức khởi lên do sự tiếp        xúc
của căn và cảnh (indriyàrtha samïnikarsïopatnnam jnõànam) không cho    
phép đưa đến kết luận về ba đặc tính như vậy.
           
Phản đối của Dignàga được ghi trong tác phẩm Tập Lượng luận của ông  
(Pramànasamuccaya). Lý do chính mà Dignàga phản đối là:
       a.        Với đặc tính phi ngôn thuyên (avyavadesùya), 
không thể diễn bằng lời.        Nhưng ngôn thuyên chỉ hiệu lực trong 
những đối tượng tổng quát, gọi là        tổng tướng (samànyalasana). 
Trong sự tiếp xúc trực tiếp của căn và cảnh,        đối tượng luôn luôn 
là những cái cá biệt (svalaksana: tự tướng). Như thế,        nhận thức 
có đặc tính là ngôn thuyên hay phi ngôn thuyên chỉ có thể khảo        
sát trong những lượng khác: tỷ lượng chẳng hạn, chứ không thể ở hiện    
lượng.
       b.        Với đặc tính không sai lầm (avyabhicàrin). Nhận 
thức sai lầm chỉ xuất hiện        khi có sự can thiệp của ý thức 
(manas). Dù vậy chăng nữa, theo định nghĩa        của Gautama, ta vẫn 
phải hiểu rằng trong tri giác hiện lượng chỉ thuần là        tác động 
tương giao giữa các quan năng và sự vật, không hề có sự can thiệp       
nào của ý thức. Trong trường hợp này, không thể nói hiện lượng có hay  
không có sai lầm.
       c.        Với quyết định tánh (vyavasàyàtmaka). Theo 
Dignàga, vyava-sàyàtmaka phải        được hiểu như là “có quyết định 
quả” (vyavasàya-phalam). Như thế nghĩa là,        nếu người ta cho rằng 
từ ngữ vyavasàyàtmaka trong định nghĩa được dùng với        mục đích 
loại trừ tính cách hoài nghi bất định khi nhận thức khởi lên, mục       
đích này sẽ không nhắm đến tri giác hiện lượng, vì trong tri giác hiện 
lượng, sở tri xuất hiện trực tiếp. Thí dụ, khi sở tri là sợi dây,
thì đấy        nhất định là sợi dây, chỉ khi nào có can thiệp của ý 
thức, bấy giờ mới có        sự hoài nghi bất định giữa sợi dây và con 
rắn. Thế nên, ở đây không thể        gán cho tri giác là có tính cách 
quyết định hay bất định.
       Chỉ 
trích của Dignàga căn cứ trên định nghĩa của chính ông về tri 
giác hiện        lượng, theo đó, “hiện lượng trừ phân biệt”. Trong khi 
đó, các nhà học giả        Nyàyayikas công nhận có hai giai đoạn của tri
giác hiện lượng: giai đoạn        thứ nhất là vô phân biệt (nirvikalpa)
và giai đoạn thứ hai là có phân biệt        (savikalpa). Nhưng Dignàga 
và các nhà luận lý học Phật giáo chỉ thừa nhận        vô phân biệt như 
là đặc tính duy nhất của tri giác hiện lượng. Còn đặc        tính có 
phân biệt phải dành cho các lượng khác, tỷ lượng chẳng hạn.
       Dù        vậy chăng nữa, “về hiện lượng vô phân biệt, các 
nhà hậu Nyàyayikas cho        rằng chúng ta không thể biết đến một cách 
trực tiếp được, nhưng cũng vẫn        phải chấp nhận xem như là giai 
đoạn tất yếu và khởi thủy mà nếu không có        thì cũng không thể có ý
thức quyết định”10. Về mặt khác, không phải như        các nhà luận lý 
học Phật giáo thừa nhận rằng hiện lượng vô phân biệt chỉ        đạt được
đối tượng trong bổn tánh (svalaksïana) sát na sanh diệt của nó,        
các nhà Nyàyayikas lại chứng tỏ rằng tri giác hiện lượng vô phân biệt 
cũng        có thể đạt đến một thực tại thường hằng (sanmàtram, tức 
làBrahman)11. Về        điểm này, quan điểm của Jayantakhatta, một tay 
cự phách của Nyàya, cho        rằng thực tại xuất hiện trong Savikalpa 
(hữu phân biệt) và NirvikalpaI (vô        phân biệt) đều như nhau; chúng
chỉ khác nhau ở chỗ một đằng là môi trường        của ngôn thuyết và 
một đằng vượt ngoài ngôn thuyết12.
       Do        đó, vấn đề đặt ra cho chúng ta là: thế nào là 
nirvikalpaka và thế nào là        savikalpaka? 
              Giải thích một cách đại cương, trước tiên, theo 
Vàcaspatimisùra, định        nghĩa của Gautama về tri giác hiện lượng 
phải được hiểu rằng ở đây không        phải là một định nghĩa tổng quát,
nhưng là lược nêu những sắc thái của tri        giác. Vì vậy, theo ông,
từ ngữ avyapadesùya trong định nghĩa của Gautama        là chỉ cho hiện
lượng vô phân biệt (nirvikalpakapratyaksïa) và từ ngữ        
vyavasàyàtmaka chỉ cho hiện lượng có phân biệt (savikalpaka pratyaksïa).
Thêm nữa, theo sự giải thích của Jinendralenddhi, người ta có 
thể trình        bày những chỉ định từ avyadesya và avyabhicàrin trong 
định nghĩa của        Gautama theo hai cách:
       1.        Nếu coi những chỉ định từ này là những tập hợp 
theo hữu tài thích        (bahuvrìhi), chúng sẽ chỉ định cho nhận thức 
không sở hữu đối tượng khả        thuyết, và nhận thức không sở hữu đối 
tượng sai lầm. Trong trường hợp này,        vyavadesùya (khả thuyết) và 
vyabhicàrin (sai lầm) chỉ cho đối tượng.
       2.        Nếu chúng được coi như là những tập hợp theo y 
chủ thích (tatpurusa), thì        chúng chỉ cho nhận thức không khả 
thuyết và không sai lầm. Như thế, ở đây,        avyapadesïya và 
avyabhicàrin chỉ cho bản chất của nhận thức. Với giải        thích này, 
bản chất nhận thức của tri giác hiện lượng là không sở hữu đối        
tượng khả thuyết và sai lầm. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Dignàga chỉ 
trích        lối này như đã kể ở trên. Nghĩa là, bất cứ theo trường hợp 
nào, về phía        đối tượng hay về phía bản chất của tri thức, vấn đề 
như thế không thể đặt        ra, vì Nyàya chấp nhận quan điểm về tính 
cách tương giao trực khởi        (sannikarsïà) giữa năng tri và sở tri.
       Lập        trường của Nyàya có thể được bênh vực bằng 
thuyết sannikarsïà. Đây là sự        tiếp xúc hay tương giao giữa căn và
cảnh, trong tính cách trực khởi, không        phải là tương ưng 
(samyoga), nghĩa là không ràng buộc nhau. Sơ khởi, Nyàya        xác định
vị trí tương giao giữa căn và cảnh. Sự xác định này có mục đích        
minh chứng rằng chủ tri tiếp xúc với sở tri trong toàn diện hay phiến   
diện. Nếu chỉ tiếp xúc phiến diện, sự vật không thể xuất hiện như 
là đối        tượng của nhận thức. Như vậy, ngay từ khởi điểm của nhận 
thức, với nhận        thức của hiện lượng vô phân biệt, đối tượng đã 
mang tính cách quyết định.
       Có        hai trường hợp tương giao giữa căn và cảnh, chủ 
yếu là tác động của năng        tri, theo đó, năng tri lìa bỏ vị trí của
nó để đi đến tiếp xúc với đối        tượng: pràpyahàrin (chí cảnh); và 
ngược lại: apràpyahàrin (bất chí cảnh).        Nguyên thủy, các nhà 
Nyàya như Jayantalkhatta và Sridhara cho rằng tác        động của tất cả
năm quan năng đều là prapyahàrin (chí cảnh) vì tính cách        tương 
giao trực khởi của chúng. Các nhà Phật học cho rằng mắt (caksïu),       
tai (sùrotra) và ý (manas), khi tiếp xúc với đối tượng riêng của chúng,
đòi hỏi có một khoảng cách, do có, apràpyahàrin. Ngoài ra, đều 
là        pràpyahàrin. Uddyotakara bác bỏ quan điểm này. Giữa căn và 
cảnh không thể        có trung gian, dù là hư không (àkàsùa), dù là vô 
thể (abhàva) hay bất cứ        một thật vật (dravya) nào, bởi vì: 
       a)        àkàsùa vô hình nên không thể nói là làm trung 
gian; 
       b)        abhàva không thể tư hữu ngoài sở y của nó, và
       c)        dravya nếu làm trung gian, nó chú ý sẽ cản trở 
sự tiếp xúc của căn và        cảnh13.
       Như        vậy, ở khởi điểm của nhận thức, các quan năng 
không tiếp xúc toàn diện với        đối tượng. Ở đây, chỉ có sự tiếp xúc
y như các vật thể tương ưng hay tiếp        cận nhau, do đó không có 
tác dụng của nhận thức. Vì vậy, nhận thức trong        mọi trường hợp, 
không thể thiếu quyết định tánh (vyavasàtmaka). Nói một        cách 
khác, nhận thức luôn luôn bao hàm một phán đoán (vyasàyàtmaka). Cố      
nhiên, ở đây phải hiểu là nhận thức của hiện lượng phân biệt        
(savikalpaka-pratyaksïa).
       Sau        giai đoạn tương giao tiếp cận giữa căn và cảnh,
giai đoạn kế tiếp của        tương giao trực khởi (sannikarsïa) diễn ra
theo Tarkasamgraha của        Annambhatïta, lược nêu như sau:
              Pratyaksajnõànahetuhï indriyàrthasannikarsah
              sïadïvidhahï: samïyogah, samyuktïasamavàyahï
              samyuktasamavetasamavàyahï, samavàyah
              samavetasamavàyahï, visùesïanïavisesyakhàvasùca 
iti.
              Nhận thức hiện lượng do tương giao trực khởi của 
căn và cảnh        (indriyàrthasannikarsa), với sáu cách:
       1.        Samyogahï (tương ưng). Cũng như Vaisùesïika, 
Nyàya trên quan điểm Thực tại        luận cho rằng, các cực vi của thật 
vật (dravya) kết hợp tạo thành nội căn        và ngoại cảnh. Sự kết hợp 
này gọi là Samyoga (tương ưng); đây là kết hợp        ngoại tại. Kết hợp
nội tại, như thật vật và phẩm tánh (gunïa) của nó được        gọi là 
samavàya (hòa hiệp).
       Ở        đây, mắt chẳng hạn, là một tập hợp vật thuộc 
dravya, tương giao với lu        nước (ghatïa) chẳng hạn, cũng là thật 
vật (dravya). Do tính cách tiếp xúc        tương ưng (samïyoga) này mà 
mắt nhìn thấy lu nước.
       2.        Samyukta-samavàya (tương ưng hòa hiệp). Như đã 
nói, hòa hiệp (samavàya)        chỉ cho tương quan nội tại giữa một thật
vật với phẩm tính của nó. Như        vậy, do tính cách tương giao ở đây
mà mắt khi nhìn thấy lu nước đồng thời        cũng nhận thấy màu sắc 
(rùpa) của nó.
       3.        Samyukta-samaveta-samavàya (tương ưng hòa hiệp 
hòa hiệp). Nhờ đây, khi mắt        nhìn thấy màu sắc của lu nước đồng 
thời tri nhận luôn cả đặc tính tổng        quát của màu sắc này 
(rùpatva).
       4.        Samavàya (hòa hiệp). Đây là tương giao điển hình
của thính giác và âm        thanh. Nyàya quan niệm thính giác được cấu 
tạo bởi nguyên tố hư không        (àkàsùa). Vì thanh hiện hữu trong hư 
không, do đó, có loại tương giao theo        tính cách hòa hiệp hay kết 
hợp nội tại này.
       5.        Samaveta-samavàya (hòa hiệp hòa hiệp), do cách 
này, thính giác tiếp nhận        đặc tính tổng quát nơi âm thanh.
       6.        Visùesana-visùesya-bhàva: tương quan năng biệt 
sở biệt, hay sự tiếp xúc        giữa một giác quan và đối tượng phi hữu 
(abhàva). Thí dụ, trong gian phòng        này, trước đây có bàn ghế. 
Nhưng bây giờ là một phòng trống. Sự vắng mặt        của bàn ghế là một 
đối tượng phi hữu, nó tồn tại như một thực tại, không        phải tùy 
thuộc căn phòng trống. Ở đây, khi mắt nhìn thấy căn phòng trống,        
gọi là năng biệt (visùesanïa), tức thì, cùng lúc nhìn thấy luôn cả sự 
vắng        mặt của bàn ghế, sở biệt vật (visùesya).
       Sáu        loại tương giao căn cảnh đây được liệt vào hàng
tương giao thông tục        (jankikasannikarsïa). Nyàya còn đề ra ba 
loại tương giao, tương giao siêu        thế (aukikasannikarsïa) khác:
       1.        Sàmànyalaksïansannikarsïa. Cũng như Vaisùesïika,
Nyàya coi sàmànya là một        thực tại, tức là một padàrtha. Sàmànya 
là tổng thể của một vật cá biệt,        tồn tại ngay trong vật cá biệt 
này. Khi sàmànya là đối tượng, tức        sàmànyalaksïana hay tổng tướng
nhận thức không diễn ra trong tính cách        thông tục. Bởi vì, ở đây
tác động của năng tri vượt qua giới hạn không        gian và thời gian 
hiện tại của nó. Nyàya cho rằng sự tương giao căn cảnh        trong 
trường hợp siêu thế này cũng thuộc tri giác hiện lượng (pratyaksïa),    
và đây là hiện lượng siêu thế (alaukikapratyaksïa) nhưng các nhà 
luận lý        học Phật giáo không chấp nhận tổng tướng 
(sàmànyalaksïana) có thể được tri        nhận bởi hiện lượng. 
       Đối        với họ, tổng tướng không phải là thực tại, chỉ 
có thực tại duy nhất tồn        tại trong sát na sanh diệt. Tổng tướng 
không mang tính cách sát na sanh        diệt, do đó không thể là thực 
tại vì không có tác dụng. Thực tại có tác        dụng, vì có sát na sanh
diệt. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng hệ thống tư        tưởng 
Nyàya-Vaisùesïika là Đa nguyên Thực tại luận, và tiêu chuẩn thực tại    
của hệ thống này không phải là tác dụng bởi sát na sanh diệt, mà là 
thường, hằng, biến tại. Do đó, Nyàya mới coi tổng tướng như là 
đối tượng        xuất hiện trong tri giác hiện lượng siêu thế ở đây.
       2.        Jnõànalaksïanïasannikarsïa. Trong loại tiếp xúc 
này, đối tượng xuất hiện        ngang qua tri thức (jnõàna). Qua trung 
gian tri thức, do đó nhận thức có        tính cách phức tạp: trong cái 
nhìn, không chỉ thấy có hình sắc mà còn có        thể ngửi ra hương vị, 
nghe được âm hưởng. Sự vật ở đây cùng lúc xuất hiện        các phẩm tính
của nó, cả trong quá khứ. Nhìn thấy một vật từ xa, mà cảm        được 
hương vị của nó, thì hương vị ở đây là một hoài niệm quá khứ xuất       
hiện như là đối tượng trong hiện tại. Do loại tiếp xúc này, đôi khi cảm
quan hiện tại có đối tượng sai lầm, như nhìn sợi dây mà tưởng là
con rắn.
       3.  
Yogaja. Tiếp xúc do quán hạnh trí của hành giả Du già, cảm nhận sự
vật một        cách trực tiếp trong quá khứ, hiện tại và vị lai.
           
Trên đây là giải thích phức tạp phần đầu định nghĩa Gautama:        
“indriyàrthasannikarsopannamï jnõànam…” và hệ luận hợp lý sẽ là “...    
avyapadesùyam avyakhicàri vyavasàyàtmakam pratyaksïam”.
Nếu phân biệt theo các nhà 
Nyàya về sau        với hai giai đoạn của hiện lượng: vô phân biệt và 
hữu phân biệt, chúng ta        vẫn thấy điểm tất yếu của Nyàya về hiện 
lượng. Theo đó, trong tri giác        trực khởi của nhận thức, đối tượng
vẫn có thể là thực tại thường hằng. Tức        là, không như các nhà 
Phật học, vì họ quan niệm thực tại là sát na sanh        diệt, chỉ có 
hiện lượng vô phân biệt mới là hiện lượng đúng nghĩa.