VIII.
BRAHMAN VÀ ÀTMAN: NHẤT THỂ TUYỆT ĐỐI
Chiêm nghiệm bản thể tuyệt đối Brahman là chủ đích cứu cánh của
Vedànta. SÙanïkara nhiều lần xác định như vậy. Giới thiệu bản chú
giải SÙvetàsùvara-Upanishad, SÙanïkara trưng dẫn từ các thánh
thư Khải thị lục (SÙruti) và Ký ức lục (Smrïti) để chứng minh
điều này. Cũng trong phần giới thiệu đó, khi định nghĩa danh từ
“Upanishad”, SÙanïkara muốn nói đó là sự hướng tới tri thức chiêm
nghiệm Brahman46.
Tri
thức của chúng ta có hai bậc, thượng trí và hạ trí; do đó, thực
tại xuất hiện dưới hai trường hợp. Trong chân lý thông tục của
thế gian, thế giới được nhìn thấy như là thực hữu. Trên chiều
hướng tuyệt đối, chân lý tối thượng, thế giới này như huyễn. Cũng
vậy, Brahman, như là bản thể tuyệt đối từ đó diễn ra quá trình
thành-trụ-hoại-không của thế gian, cũng được chiêm nghiệm qua hai
trình độ tri thức sai biệt ấy. Bậc thượng trí chiêm nghiệm
Brahman từ tuyệt đối vô hình, không sinh, không diệt. Hạ trí chiêm
nghiệm Brahman như là một Tạo hóa chủ (visùva-karman) hữu hình, toàn
trí toàn năng. Brïhadananyaka-Upanishad II.3.1 phân biệt hai sắc
thái của Brahman như vậy: hữu hình và vô hình (mùrtamï
càivà-murtam), tử và bất tử (martyamï càmrïtam)...
Brahman tuyệt đối vốn vô hình, vô tướng, không thể
đạt đến bằng ngôn ngữ, bằng tâm tưởng. “Thoạt kỳ thủy, thế giới
này là vô thể”47, nói như vậy cũng có nghĩa rằng “thoạt kỳ thủy,
thế giới này là Brahman”, bởi vì “Ai biết được Brahman là vô,
người đó cũng là vô và nếu ai biết được Brahman là hữu, người ấy
cũng là hữu”48. Như vậy, bản thể cứu cánh chỉ là một, nhưng do
tri thức có sai khác, mà bản thể ấy xuất hiện như là sai khác.
SÙàriraka-bhàsya nói: “Brahman có hai bản tính, tùy theo, hoặc là đối
tượng của tri thức, hoặc là đối tượng của vô minh”49.
Nếu là đối tượng của tri thức, Brahman ấy là vô đức
(nirgunïa), vô hình (niràkàra), vô sai biệt (nirvisùesïa), không
thuộc tánh (nirupàdhika). Nếu là đối tượng của vô minh, thì trái
lại. Đó là sự phân biệt một Brahman tuyệt đối (para-brahman) và
Brahman tương đối (apara-brahman), hay Ìsùvara, đấng Tự tại chủ.
Tất cả những gì mà chúng ta nói và nghĩ về một tuyệt đối thể, đấy
không phải là Brahman, mà đích thực chỉ là Ìsùvara. Sự sùng bái
(upàsanà), con đường của hành nghiệp tế tự, cứu cánh của tư duy
trong thế giới tương đối, tất cả đều quy về một Ìsùvara. Đó là
sagunïa-brahman, hữu đức.
Bản thể của vũ trụ là Brahman, và Àtman là nguyên
lý mà từ đó nhận ra hiện hữu của Brahman tuyệt đối. “Quả vậy, tất
cả ở đây là Brahman”50, “Ai biết rằng: Ta là Brahman, người ấy
là tất cả ở đây”51, “Tất cả ở đây, quả vậy, là Brahman. Tự ngã
này là Brahman...”52. Brahman được kinh nghiệm qua các trình độ
của Tự ngã đối với thực tại. Các trình độ này gồm có bốn: thức,
ngủ mộng, ngủ say và turìya. Ba trình độ đầu là các hoạt động sai biệt
tự ngã; thực tại được kinh nghiệm ở đó là sat-cit-ànanda.
Trong trạng thái thức, Àtman hoạt động như là một
chủ tri (sàksïi) hướng ra thâu nhận các đối tượng ngoại giới, đó
là thực tại của đối đãi (advaita). Trong lúc ngủ mộng, đối tượng
không còn là thực tại ở ngoài tâm thức nữa, dù vậy, ở đây vẫn còn
có phân biệt đối đãi giữa chủ tri và sở tri; vẫn còn là thế giới
của vô minh. Phân biệt đối đãi này sẽ biến mất trong trạng thái
ngủ say; đó là thực tại của ànanda, tịnh lạc. Àtman như là
Ìsùvara, vì là đấng chủ tể của thế giới như huyễn, là căn nguyên đệ
nhất của thế giới như huyễn. Trong trạng thái thứ tư, turìya, Àtman
đồng nhất với Brahman; đây là tự ngã tuyệt đối, tối thắng ngã
(paràtman). Khi nói “Brahman là tất cả”, có nghĩa rằng bản thể
Brahman bao gồm tất cả các trạng thái sai biệt của Àtman, gồm cả
thế giới ngoại tại của tâm thức như là sat; gồm cả thế giới nội
tại của tâm thức như cit; và gồm cả thế giới phi đối đãi, như là
ànanda, tịnh lạc.
Trên mặt hiện tượng giới (vyavahàrika), nhất thể là
Ìsùvara và sai biệt là Jìva. Trên mặt tuyệt đối (pàramàtthika),
nhất thể là Brahman và sai biệt là Àtman. Tuyệt đối Brahman và
tương đối Brahman giống như mặt trời giữa hư không và mặt trời
phản chiếu trong dòng nước. Tuyệt đối ngã (àtman) giống như hư
không kia và tương đối ngã (jìva) giống như hư không trong lu
nước. Nếu ngã tương đối (jìva) không thoát khỏi sự chi phối của vô minh,
tự coi mình như một chủ tri của phân biệt đối đãi, thì đó là sự
lầm lẫn như nhìn sợi dây trong đêm tối mà tưởng là con rắn. Cũng
vậy, àtman trở thành jìva chỉ là sự gán ghép sai lầm đó. Như vậy,
sự sai biệt giữa ngã cá biệt và ngã tối thượng chỉ do mê vọng
chứ không phải do thực tại vốn như vậy.
IX. TRI THỨC VÀ GIẢI THOÁT
SÙanïkara luôn luôn phủ nhận vai trò và khả năng
diễn đạt của ngôn ngữ trước tuyệt đối Brahman. Thực tại cứu cánh
chỉ có thể đi đến bằng những chuỗi phủ định liên tiếp, neti neti.
Tri thức chỉ có công dụng là diệt trừ vô minh. Tri thức này
không phải do suy luận suông mà có. Trước hết, đó là sự học hỏi
các thánh điển, rồi do suy tư và chiêm nghiệm. Tri thức nơi bậc
thượng trí mới dẫn đến chỗ suy tư và chiêm nghiệm Brahman. Tri thức nơi
bậc hạ trí chỉ đưa đến các hành vi thờ phụng, tế tự, và chỉ đạt
đến Brahman tương đối, tức chỉ có thể chiêm nghiệm Ìsùvara.
Hành nghiệp (karma) không phải là con đường dẫn đến
Brahman, nhưng nhờ vào đó mà người tịnh hóa tâm thức của mình;
lấy đó làm phương tiện gián tiếp để dẫn đến tri thức về Brahman,
athato brahma-jijnõàsà: rồi từ đó, tư duy chiêm nghiệm Brahman.
SÙanïkara giải thích chữ athatas, từ đó, bằng cách vẽ ra một quá
trình tu tập, khước từ và hy vọng để đạt đến chân trí thức về
Brahman. Vậy, trước khi có thể tư duy chiêm nghiệm Brahman, người ta
phải thực hành thỏa mãn các điều kiện:
1. Phân biệt những gì là thường trụ và những gì
không thường trụ: những hạnh phúc thế gian, những khoái lạc hưởng
thụ trong đời này hay đời sau, thảy là những thứ của vô thường,
nên cần phải khước từ, xả bỏ, để hướng tới thế giới của hạnh phúc
chân thật, thường trụ;
2. Vô sở đắc tâm, khước từ mọi hưởng thụ, danh vọng
trong đời này và đời sau, chỉ đi theo một mục đích là săn đuổi
chân lý;
3. Rồi thì, người ấy thực hành sáu phép: tịch tĩnh
(sùama), tiết chế (dama), ly dục (uparari), kiên nhẫn (titiksïa),
định tâm (samàdhi) và thành tín (sùraddhà);
4. Sau khi đã thực hành đầy đủ như vậy, người ấy
phát khởi hy vọng chí thiết, mong đạt được tri thức về Brahman.
Để thỏa mãn hy vọng chí thiết như vậy, trước hết
phải học hỏi các thánh điển Upanishads, học hỏi, phân biệt, bằng
suy luận, bằng kiểm chứng, cho đến lúc thiết lập xác tín đối với
những gì được khải thị trong các Upanishads. Học hỏi không thôi
như vậy vẫn chưa phải là đủ, mà cần phải suy tư về những điều đã
học hỏi ấy. Sau khi đã học hỏi và suy tư, bấy giờ lại phải tu tập
Du già để đạt đến sự hợp nhất. Đó là ba giai đoạn của quá trình học
hỏi và tu tập: văn (sùravanïa), tư (manana) và tu (nididhyàsama).
Nếu chỉ thực hành các bổn phận tế tự, người ta có
thể thác sinh lên các thế giới Phạm Thiên (Brahamanloka), hưởng
thọ các phước báo vi diệu. Đó là tiệm giải thoát (krama-mukti).
Bậc thượng trí đạt đến giải thoát bằng con đường chiêm nghiệm
Brahman; và cuối cùng đạt đến sự giải thoát trọn vẹn, chân giải
thoát (vedeha-mukti). Chân giải thoát được đạt đến sau khi thân
xác này tiêu hủy, sau khi chết. Cũng như một cây đuốc thiêu hủy một
thành thị; sau khi trọn cả thành thị thiêu hủy hết, vật dẫn lửa
và bản thân của lửa cũng biến mất, tắt hết. Cũng vậy, khi đạt đến
chân giải thoát, thế giới mê vọng của màyà hoàn toàn biến mất.
X. PHÁT TRIỂN KHUYNH HƯỚNG HỮU THẦN
(RÀMÀNUJA: CỤC HẠN BẤT NHỊ)
Kỳ Na giáo (Jainism) và Phật giáo là hai nguồn ảnh
hưởng lớn đối với tư tưởng vô thần trong triết học Ấn Độ. Một số
các Upanishads sơ khởi, không xác quyết lắm, nhưng cũng báo hiệu
một ý nghĩa nào đó cho khuynh hướng vô thần trong truyền thống
chính thống. Đây có thể coi như là phản ứng của giai cấp Sát đế
lỵ trước đặc quyền tư tưởng của giai cấp Bà la môn.
Cho đến khoảng đầu kỷ nguyên trước Tây lịch, dưới
sự thịnh hành của Phật giáo và Kỳ Na giáo, cả hai vốn phát xuất
từ giai cấp Sát đế lỵ, khuynh hướng hữu thần bắt đầu cố gắng phục
hồi để chống lại các trào lưu phản chính thống ấy. Trong khoảng
thời gian này, Phật giáo hưng thịnh tại Nam Ấn. Có lẽ những nỗ
lực khôi phục khuynh hướng hữu thần cũng khởi sự tại các vùng đất
này.
Dĩ nhiên các Upanishads không hoàn toàn loại bỏ tư
tưởng hữu thần và coi nhẹ con đường hành nghiệp như SÙanïkara
giải thích. Chẳng hạn, trong SÙvetàsùvara-Upanishad mà chúng ta
đã từng nhắc đến với các giải thích của SÙanïkara, rõ ràng chỉ
điểm tư tưởng hữu thần, và đặc biệt là thần SÙiva. Những từ ngữ
nào có thể ngụ ý một khuynh hướng hữu thần ở đây đều được
SÙanïkara giải thích như là thuật ngữ biểu tượng của tuyệt đối bất nhị.
Ngay sau thời SÙanïkara, dấu hiệu khôi phục khuynh
hướng hữu thần xuất hiện trong Vedànta. Nếu ở nơi SÙanïkara, con
đường hành nghiệp không được coi như là con đường chân chính để
đạt đến tri thức về Brahman, thì cách SÙanïkara không lâu, trên
dưới 100 năm, Bràskara đã tái lập giá trị của con đường đó. Tri
thức hành động cũng được phối hợp mới có thể đạt đến tri thức về
Brahman. Đấy là chủ trương tri hành hiệp nhất
(jnõàna-samuccita-karma). Sau Bràkskara, truyền thống hữu thần khởi
nguyên từ Veda hoàn toàn được khôi phục với Ràmànuja, trên căn
bản tư tưởng bất nhị của SÙanïkara.
XI. TIỂU SỬ RÀMÀNUJA
Ràmànuja sinh năm 1017 tại Bhùtapurì. Cha là Àsùurì
Kesùava, và mẹ là Kàntimatì, em gái của Pahàpùrna, một đồ đệ của
Yàmuna vốn là người được coi như một trong những triết gia đầu
tiên thuộc phái Vaisïnïava giải thích Brahma-sùtra theo khuynh
hướng hữu thần. Kesùava chết sau khi cưới vợ cho con chưa bao
lâu, bấy giờ Ràmànuja mới 16 tuổi. Rồi Ràmanuja theo mẹ dời sang ở
Kanõcipura, học với Yavadaprakàsùa. Nhưng vì có nhiều chỗ bất
đồng với Yàvada về giải thích Upanishad, cuối cùng Ràmànuja bị thầy
đuổi, lại theo học với Mahàpùrnïa, cậu ruột của mình.
Đương thời, tại SÙrìranïgam, Yàmuna là một học giả
lừng danh về tư tưởng cục hạn bất nhị. Qua trung gian của
Mahàpùrnïa mà Ràmànuja biết được danh tiếng của Yàmuna, và cả hai
cùng khởi hành đi đến SÙrìranïgam. Khi đến nơi thì Yàmuna đã
chết. Ràmànuja nghe nói sau khi chết, ba ngón tay của Yàmuna cong
lại, liền nghĩ ra rằng đó là dấu hiệu ám chỉ ba ước vọng chưa được
thỏa mãn nơi Yàmuna: thứ nhất, đưa mọi người trở về giáo thuyết
Prapatti của phái Vaisïnïava, để họ thông hiểu các thánh giả
Alivarï 1.2.3, kế đó, viết một bản chú giải về Brahma-sùtra theo
phái SÙrìvaisïnïava; và sau hết, viết nhiều tác phẩm về phái
Sùrìvaisïnïava. Ràmànuja hứa hẹn sẽ thực hiện ba ước vọng này.
Vì thái độ vô lễ của vợ mình đối với vợ của
Mahàpùrnïa, và đối với những người hành khất, Ràmànuja đuổi vợ về
nhà ông nhạc. Kể từ khoảng 30 tuổi trở đi, Ràmànuja sống cuộc
đời của một sannyàsi, giai đoạn thứ tư trong bốn giai đoạn sống
của một người Bà la môn. Tư tưởng của Ràmànuja rất khoan dung.
Trong tín ngưỡng tôn giáo, ông chấp nhận cả Phật giáo, Kỳ Na
giáo. Ông cũng tỏ ra thân thiện với những người Thủ đà là (SÙudra), và
giai cấp hạ tiện. Do đó, khi ông chết, bấy giờ đã 120 tuổi, tất cả
mọi người trong bốn giai cấp xã hội đều luyến tiếc.
Hứa hẹn thứ nhất của Ràmànuja, thực hiện điều mà
Yàmuna ước mong nhưng chưa thỏa mãn, đó là tích cực phát huy chân
tinh thần prapatti của các thánh giả Àlïivàr. Họ là những vị
hoàn toàn dâng hiến mình cho đấng chủ tể (svàmì), chỉ có một con
đường duy nhất để giải thoát, nhờ vào ân huệ của đấng chủ tể
(svàmikrïpà). Những vị alïivàr do đó cũng được gọi là những người
của Nhất thừa đạo (Ekayana). Prapatti là sự thực hành bằng cầu
nguyện, ca ngợi đấng chủ tể với xác tín sâu xa rằng duy nhất chỉ có Ngài
là đấng cứu rỗi, và không có con đường nào khác để đến giải
thoát ngoài ân huệ của Ngài; và để đạt được ân huệ ấy, hành giả
chỉ có một phương tiện duy nhất là dâng hiến mình trọn vẹn. Tất
cả mọi phương tiện khác đều là hư không (upàya-sùùnyatà).
Các vị thánh Àlïivàr gồm đủ mọi giai cấp: Bà la
môn, Sát đế lỵ, Thủ đà la và tiện dân. Đấng chủ tể của họ là thần
Visïnïu. Những vị thánh đầu tiên xuất hiện ở Nam Ấn, mà truyền
thuyết cho rằng Àlïivàr đầu tiên sống khoảng 4203 trước Tây lịch
và Àlïivàr cuối cùng khoảng 2706 trước Tây lịch. Từ ngữ “Àlïivàr”
chỉ cho một người có tri thức trực giác thần bí về Thượng đế và
hoàn toàn đắm mình trong sự chiêm nghiệm thần linh. Các Àlïivàr đó là
những vị thánh của tôn giáo SÙrìvaisïnïva, mà Ràmànuja có nhiều
liên hệ, về huyết thống cũng như về tri thức.
Với
các hứa hẹn khác, Ràmànuja viết SÙrì-bhàsïya (chú giải
Brahma-sùtra), Vedàrtha-samïgraha, Vedànta-sàra và Vedànta-dìpa.
XII. PHÊ BÌNH SÙANÏKARA
Ràmànuja đã một thời theo học với Yàvada, người theo Nhất nguyên
tuyệt đối của SÙanïkara. Tuy nhiên, thái độ khước từ các bổn phận
tế tự của SÙanïkara nhất định đi ngược với những gì mà Ràmànuja
đã có liên hệ ngay nơi huyết thống. Do sự bất đồng ấy mà xảy ra
những cuộc cãi lộn giữa hai thầy trò, để rồi Ràmànuja bị đuổi.
Cuối cùng, Yàvada trở lại quy thuận với Ràmànuja.
Ngay trong phần đầu của chú giải Brahma-sùtra, Ràmànuja tóm tắt những
điểm tinh yếu trong thế hệ của SÙanïkara, sau đó lần lượt bài
bác53. Điều mà SÙanïkara và các môn đệ (pùrvapaksïin) chủ trương
rằng tâm thức thường trụ, tuyệt đối bất biến nhưng do vô minh nên
trở thành sai biệt; điều đó Ràmànuja cho rằng chủ trương như vậy
không có chứng cứ. Những ai chủ trương học thuyết về một bản thể
hoàn toàn không có sai biệt, những người ấy không được quyền đề
nghị sự kiện này hay sự kiện kia làm chứng cứ cho một bản thể như
vậy, bởi vì tất cả mọi phương tiện của tri thức chân chính đều
phải có đối tượng của chúng là những sự thể bị chi phối bởi sai biệt
tính.
Kế đó, Ràmànuja phân tích kết cấu của ngôn ngữ,
chứng tỏ rằng một lời nói tự chứng tỏ bao gồm nhiều chi tiết sai
biệt của ngôn ngữ. Ngôn ngữ tự chứng tỏ bản chất sai biệt của nó;
mọi đề cập về một bản thể không sai biệt bằng ngôn ngữ thảy đều
thiếu căn cứ. Ngay trong nhận thức cũng vậy. Giai đoạn tiền nhận
thức là trực giác vô phân biệt (nirvikalpa-pratyaksïa) và kế tiếp
là tri giác có phân biệt (savikalpa-pratyaksïa). Dù có phân biệt hay
không phân biệt, tri giác vẫn tiếp nhận một tính chất nào đó của
đối tượng.
Ràmànuja cũng trưng dẫn các Upanishads để giải
thích theo quan điểm của mình, chứng minh rằng không phải các
thánh thư ấy khải thị một Brahman tuyệt đối không hình tích,
không dị biệt, vô tướng. Thí dụ: Brïhad.Up.IV.v.15 nói: “Nơi nào
như là có hai tính”. Hay Brïhad.Up.IV.iv.19 nói: “Nơi đây không
tính sai biệt. Ai thấy nơi đây có tính sai biệt, người ấy đi từ
chỗ chết đến chỗ chết”, v.v... Những gì mà các đoạn Upanishads đó
phủ nhận, chỉ là sai biệt tính trái ngược với nhất thể của thế
giới, vì nhất thể của thế giới nương tựa trên Brahman. Vậy, khi
các thánh điển nói Brahman là độc nhất, điều đó không ám chỉ rằng
Brahman là nhất thể tuyệt đối, vô danh, vô tướng, mà muốn nói rằng
Brahman là nguyên nhân độc nhất của thế giới.
Kế tiếp, Ràmànuja bác bỏ thuyết vô minh của
SÙanïkara, theo đó toàn thể thế giới này có là chỉ do vô minh,
gán ghép sai lầm chân tính của thực tại vô sai biệt. Ràmànuja
chứng tỏ cho thấy vô minh (avidyà) hoàn toàn không có thực tại
nào làm sở y. Ngã tương đối (jìva) không phải là sở y (asùraya)
của nó, bởi vì theo thuyết của SÙanïkara, ngã tương đối là một gán ghép
sai lầm khác do vô minh. Brahman dĩ nhiên không phải là sở y ấy.
Tất
cả luận chứng của Ràmànuja chỉ nhắm mục đích tái thiết một hình
ảnh Brahman mà trước đây SÙanïkara đã đẩy đến thành một bản thể
tuyệt đối, không còn là đối tượng cho chiêm ngưỡng và phụng thờ
nữa. Và như vậy, Ràmànuja mới chứng tỏ được rằng, các thánh điển
không dạy chỉ có con đường duy nhất đưa đến giải thoát cứu cánh
là tri thức về Brahman.
XIII. CỤC HẠN BẤT NHỊ (VISÙISÏTA-ADVAITA)
Sau
khi bác bỏ lập trường Vedànta của các nhà Tuyệt đối bất nhị,
Ràmànuja trình bày ý nghĩa một cách ngôn trọng yếu của thánh thư
Upanishad: “tat tvam asi”54. Người là cái đó, và chứng tỏ thánh
thư không hề giảng dạy rằng giải thoát là do tri thức về một
Brahman không phẩm tính (nirguna-brahman). Ràmànuja trưng dẫn các
Upanishads. SÙvet.Up.III.8 nói: “Tôi biết đấng siêu nhân vĩ đại
như mặt trời vượt trên bóng tối. Chỉ nhờ biết được Ngài mà người
ta vượt qua sự chết. Không có con đường nào khác”. Như vậy, tất
cả các thánh thư đều khải thị rằng giải thoát là do tri thức về
một sagunïa-brahman, chứ không phải một nirgunïa-brahman.
Tat
tvam asi không hàm ngụ ý tưởng về một nhất thể tuyệt đối vô sai
biệt (nirvsùesïa). Trong đó, chữ tat, cái đó, chỉ điểm Brahman
toàn trí, toàn năng... và tvam, người, ngôi thứ hai, chỉ điểm
Brahman hiện thân nơi các ngã tương đối cùng với vật chất phi tâm
(acit). Đây là nguyên lý căn bản cho Visùisïtïàdvaita. Nguyên lý
này nói rằng55, một nhất thể phải bao gồm ba yếu tố. Nghĩa là,
một toàn thể luôn luôn chứa đựng trong nó hai thành tố riêng
biệt. Khi nói, “Người này là Devadatta kia”, tức đã hàm ngụ rằng
trong nhất thể Devadatta bao gồm một Devadatta của quá khứ và một
Devadatta hiện tại.
Cũng vậy, trong nhất thể Brahman bao gồm hai thành
tố: tâm (cit) và phi tâm (acit). Nơi một con người, thực tại phi
tâm là thân thể của nó, và thực tại tâm là ngã tương đối (jìva)
của nó. Thực tại phi tâm, hay vật chất, chịu chi phối của mọi
biến đổi, từ tuổi thơ, qua tráng niên đến tuổi già; những biến
đổi ấy chỉ xảy ra trong giới hạn của thân thể56. Ngã tương đối là
chứng nhân của những biến đổi như vậy, hưởng thụ các hậu quả của
hoan lạc hay đau đớn do chúng đưa đến. Cả hai thành tố này kết hợp một
cách bất khả phân (aprïthak-siddhi), tạo thành một Tự ngã bất
biến. Brahman hiện thân nơi Tự ngã đó, lấy thực tại phi tâm làm
thân thể của mình. Những phẩm tính bất toàn chỉ diễn ra nơi thân
thể (sùàrira), không có ảnh hưởng nào đối với Brahman.
Ý nghĩa phủ định trong các thánh thư, nói “neti
neti” không phải phủ nhận mọi phẩm tính đặc thắng của Brahman, mà
kỳ thực là phủ nhận những phẩm tính bất toàn kia. Cũng như đất
sét, hay vàng ròng, dù được chế tạo dưới mọi hình thức nào đi
nữa, nhưng bản tính không hề bị biến đổi. Bản chất của Brahman
cũng vậy. Lại nữa, như một hoàng tử ngồi ở một nơi đầy muỗi,
nhưng với cái quạt trong tay, xua đuổi các đàn muỗi kia. Cũng vậy,
Brahman không hề bị ảnh hưởng bởi những đau khổ, buồn phiền57.
Các thánh thư đã khải thị Tuyệt đối thể như là Nhất
thể cục hạn (visùisïtïatdvaita), một toàn thể với hai thành tố. Ở
Chand.Up.: “Tất cả thế giới này là Brahman; hãy tịnh tâm tư duy
thế giới này như là khởi thủy, chung cục và sinh tồn trong
Brahman”. Nơi khác, các thánh thư cũng dạy rằng, Tự ngã của thế
giới này ở trong Bahman, chừng nào mà toàn thể tập hợp của những
thực tại tâm và phi tâm lập thành thân thể của Brahman. SÙvet.Up.
nói: “Có hai vô sinh, cái biết và cái không biết, cái toàn năng
và cái vô lực. Quả vậy, có một cái vô sinh khác, liên kết người hưởng
thụ và vật hưởng thụ. Và có một tự ngã vô hạn, biến mãn, vô tác.
Khi nhận ra ba thực tại này, đó là Brahman”. Nói cách khác, có ba
thực tại (tattatraya): Thượng đế, thực tại thường trụ, toàn trí
và toàn năng; tâm, thực tại thường trụ nhưng vô lực; và thực tại
vật chất thường trụ. Trong đó, thực tại phi tâm (acit), vật chất
(prakrïti) là đối tượng của hưởng thụ (bhogyàrtha); thực tại hữu
tính (cit), các ngã tương đối (jìva) là kẻ hưởng thụ (bhoktrï),
và Brahman là nguyên lý chỉ đạo58.
Ràmànuja lại dẫn chứng các thánh thư khác khi nói
rằng Brahman tuyệt đối không phẩm tính, chỉ có nghĩa là không có
những phẩm tính bất toàn. Chànd.Up.VIII.i.5 nói: “Tự ngã ấy không
có tội lỗi, không có tuổi già, không có sự chết, không có buồn
rầu, không có đói và khát”. Đây là bắt đầu bằng phủ định, nhưng
kế đó thánh thư lại khẳng định: khát vọng của tự ngã là chân
thật, tư duy của tự ngã là chân thật. Như vậy, Ràmànuja nói, cho
phép chúng ta quả quyết rằng những phủ định trong các nơi khác thực sự
chỉ là phủ định những phẩm tính xấu. Rồi sau đó, trưng dẫn thêm
một số các thánh thư khẳng định những phẩm tính của Brahman,
Ràmànuja đi đến kết luận59:
“Bằng cách giải thích đó, chúng ta thấy rằng các
bản văn tuyên bố tính dị biệt và phân ly từ yếu tính của thực tại
phi tâm, tâm và Thượng đế; và những bản văn tuyên bố ngài là
nguyên nhân và thế giới là kết quả, và nhân quả đồng nhất; những
bản văn ấy nhất định không mâu thuẫn với những bản văn khác vật
chất (prakrïti), linh hồn (jìva) tạo thành thân thể (sùàrira) của
Thượng đế; và vật chất và linh hồn ấy trong trạng thái nguyên nhân
(karanï-avastha) của chúng, đúng là thực tại vi tế không có sự phân
biệt nào giữa danh và sắc; khi có sự phân biệt ấy, đúng là thực
tại thô hiện”.
XIV. THẦN LUẬN
Nói về Brahman, Ràmànuja chỉ định ngay rằng đó là
Thần ngã Tối cao (purusùottama) vượt ngoài mọi phẩm tính bất
toàn, và gồm đủ vô lượng lực dụng, vô lượng diệu đức. Từ ngữ
“Brahman” được Ràmànuja chỉ cho bất cứ sự thể nào có phẩm tính
tối cao, tuyệt đối; và dĩ nhiên chỉ có đấng chủ tể của vạn hữu
mới có phẩm tính đó. Từ đó suy diễn ra, trước hết, từ ngữ
“Brahman” duy nhất chỉ cho Ngài, và kế đó cũng chỉ định luôn những sự
thể có được một phần nhỏ nơi phẩm tính của Ngài60. Nói cách khác,
trước hết, đấng chủ tể, hay Thượng đế, là Tuyệt đối thể, tức
Brahman.
Ngài là hiện thân của vũ trụ, bởi vì các thực tại
tâm và phi tâm kết thành thân thể của Ngài. Khi vũ trụ chưa được
sáng tạo, vật chất và tâm ở trong tình trạng nhân thái
(kàranïa-avastha) của Brahman, bấy giờ đấng chủ tể không hiện
thân. Khi vũ trụ được sáng tạo, vật chất và tâm ở trong tình
trạng quả thái (kàryavastha) của Brahman. Như vậy, đấng chủ tể được coi
như là đấng chi phối nội tại (antaryàmì)61, là bản thể sai biệt
(visùesïya) nhưng tự Ngài vẫn bất biến, bất động.
Vật chất và tâm là dạng thức (prakàra) của Ngài.
Chúng tuyệt đối nương tựa không thể phân ly Ngài. Sự lệ thuộc đó
được diễn tả là aprïthak-sid dhi, thành tựu vô dị, sự phối hợp
thành một toàn thể không có dị biệt. Đấng chủ tể ấy, vừa là Tuyệt
đối thể, và vừa là một Thượng đế Hữu ngã, được mô tả qua năm
hình thái:
1. Vi tế tướng (suksïma)62, đó là Vàsudeva, Thế
Thiên, mà thế giới là thân thể của Ngài, và thế giới bao gồm hai
thành tố như đã nói. Bởi vì đó là Nguyên lý sáng tạo, phá hoại và
duy trì thế giới vạn hữu. Vàsudeva là Brahman tối cao, hoặc thị
hiện bằng vi tế tướng, hoặc phân thân (vyùha), hoặc quyền hiện
(vhibava); những ai phụng thờ Ngài bằng những hành động được
hướng dẫn bởi tri thức sẽ đạt đến. Phụng thờ quyền hiện tướng của
Ngài, người ta đạt đến phân thân của Ngài, và phụng thờ phân thân đó
người ta đạt đến vi tế tướng, tức Vàsudeva hay Brahman tối cao.
2. Đấng chỉ đạo nội tại (antaryàmin). Từ vi tế
tướng, Brahman tối cao, nguyên nhân của vũ trụ, thể nhập vào các
thực tại hữu tình thiết lập Tự ngã cho các ngã tương đối cá biệt.
Ngã tương đối hay linh hồn (jìva) chi phối thân thể; Tự ngã
(àtman) chi phối ngã tương đối. Brïhad.Up. III.7.3 nói: “Ai đứng
trên đất tức là ở trong đất, mà đất không biết đến, mà thân thể của
người ấy là đất; là người chi phối đất từ bên trong; người đó là tự
ngã của người, là kẻ chỉ đạo nội tại, là đấng bất tử”. Các thánh
thư như vậy đều khải thị rằng thế giới bao gồm thực tại hữu tình
là thân thể của Ngã tối cao, và Ngã tối cao là Tự ngã của tất cả.
3. Bốn phân thân (vyùha): Khi hiện thân như là đấng
chủ tể, Ngài là Vàsudeva phát xuất từ Vàsudeva vi tế tướng như
là Brahman tối cao trên kia. Khi hiện thân là đấng chỉ đạo các
thực tại hữu (jìvattva) hay thực tại hữu trí (buddhitattva), và
hiện thân làm đấng hủy diệt vũ trụ này, Ngài được gọi là
Sanïkarsïanïa. Khi hiện thân làm đấng chi phối thực tại ý chí
(manatattva) và làm đấng sáng tạo vũ trụ, ngài là Pradymna. Khi hiện
thân làm đấng chỉ đạo cho thực tại ngã chấp (ahanïkàratattva) và
là đấng duy trì thế giới, Ngài là Anirudha.
4. Quyền hiện (vibhava), đây là hiện thân nhập thế,
hoặc trong lốt người hoặc trong lốt vật, chủ trì thưởng thiện
phạt ác. Hoặc trực tiếp hiện thân nhập thế, như thần Krïsïnïa.
Hoặc gián tiếp khai sáng các linh hồn nhập thế, như SÙivà, Phật,
v.v...
5. Ngẫu tượng (àrchàvàtàra), Ngài hiện thân nơi các
tượng gỗ, tượng đá, đối tượng thờ phụng của chúng sinh, thỏa mãn
linh ứng các cầu nguyện của chúng.
XV. GIẢI THOÁT
Mở đầu chú giải Adhyàya III của Brahma-sùtra,
Ràmànuja tóm tắt những gì đã trình bày ở hai Adhyàya trước, và
giới thiệu Adhyàya III có mục đích nói về những phương cách để
đạt đến Brahman ấy, và phương cách ấy là tư duy.
Chúng ta cũng đã biết rằng, các Àlïivàr coi sự giải
thoát chỉ có thể thực hiện trên một con đường duy nhất là dâng
hiến mình trọn vẹn cho đấng chủ tể. Ràmànuja cũng noi theo con
đường đó. Không phải như SÙanïkara, giải thoát chỉ có thể đạt
được bằng chân tri thức về Brahman. Chân tri thức này, nơi
Ràmànuja, đồng nghĩa với bhakti, tín ngưỡng. Đây là chủ trương
của tôn giáo Vaisïnïava. Sarvadarsùana-samïgraha đề cập đến năm giai
đoạn đi đến sự dâng hiến thần linh như sau:
1. Thân cận (abhigamana), siêng năng tới lui gần
gũi những nơi thờ phụng thần linh.
2. Cúng dường (upàdàna), mang các thứ hương hoa đến
những nơi thờ phụng ấy để dâng cúng thần linh.
3. Tế tự (jyà), thực hành các nghi lễ tế tự thần
linh.
4. Học tập (svàdhyàya), học tập các bài ca ngợi,
chú văn, danh hiệu Nàràyanïa, một biệt danh của thần Visïnïu.
5. Thiền định (yoga), thực hành sự chiêm nghiệm
thần linh. Sự thực hành này cũng được phân biệt dưới ba khía
cạnh. Hoặc chiêm nghiệm bằng cách thực hành các bổn phận tế tự,
gọi là karma-yoga; hoặc chiêm nghiệm bằng tri thức, jnõàna-yoga;
vốn là những chuẩn bị và thanh lọc tinh thần, chuẩn bị cho
bhakti-yoga.
Nói
vắn tắt, giải thoát là nhờ vào ân huệ của đấng chủ tể. Điều này
không khác mấy với quan niệm của Gia Tô giáo.
XVI. MADHVA và VEDÀNTA NHỊ NGUYÊN
Madhva sinh trong khoảng 1197 hay 1199, và thọ khoảng 79 tuổi. Người
ta cũng thường gọi ông dưới danh hiệu Ànandatìrtha hay
Pùrnïaprajnõa, và được coi như là hóa thân của thần Vàyu, xuống
thế gian với mục đích phá hủy các chủ trương của SÙanïkara.
Tác
phẩm của Madhva kể có 37 bộ. Trong số đó, một bản chú giải
Rg.Veda, 1 bản chú giải về Brahmanïa, 11 bản chú giải về các
Upanishads, 1 bản chú giải về Mahàbhàrata, 3 bản chú giải
Bhagavad- Gìta, 4 bản chú giải Brahma-sùtra, và một số tác phẩm
khác trình bày những điểm chính trong hệ thống nhị nguyên hữu
thần của ông, bác bỏ những chủ trương liên hệ tư tưởng nhất
nguyên tuyệt đối của SÙanïkara.
Madhva coi SÙanïkara và môn đệ là những đối thủ chính, do đó phần lớn
trong các tác phẩm của ông chỉ trích kịch liệt những người này.
Trong khoảng thời gian hoạt động của Madhva, nhiều triết gia theo
khuynh hướng nhất nguyên của SÙanïkara khá phồn thịnh, như
Vàcaspati, Prakàsùàtman, Suresùvara; họ đã viết nhiều tác phẩm
quảng bá bênh vực triết lý nhất nguyên của SÙanïkara.
Madhva và môn đệ, như Jayatìrtda, Vyàsatìrtha, và
một số khác, tích cực nỗ lực bác bỏ triết lý chủ trương thế gian
mê vọng này; họ thiết lập quan điểm về Thực tại tính và Đa nguyên
tính của thế giới, chủ trương sự khác biệt giữa tự ngã và
Brahman, và coi Brahman như một Thượng đế Hữu ngã. Những người
theo khuynh hướng của SÙanïkara cũng tích cực chống đối lại. Cuộc
tranh luận nhất nguyên và nhị nguyên như vậy kéo dài giữa hai nhóm
Vedànta.
Chúng ta đã biết rằng, khi chú giải Brahma-sùtra
I.i.1, SÙanïkara tuyên bố ngay phần giới thiệu rằng, tri thức
chân thực về Brahman là cùng đích của Vedànta, và chỉ có tri thức
này mới diệt trừ vô minh, dẫn đến giải thoát trọn vẹn. Để đạt
đến cùng đích này, SÙanïkara đề nghị bốn điều kiện tiên quyết,
hay bốn tiền phương tiện, trước khi theo đuổi suy tư chiêm nghiệm
về Brahman.
Với Madhva, athàto brahma-jijnõàsà được nói nơi
Brahma-sùtra I.i.1 có nghĩa là suy tư chiêm nghiệm về Brahman
(brahma-jijnõàsà) chỉ có thể đạt được bằng vào ân huệ của
Visïnïu, đấng chủ tể. Bởi vì duy nhất chỉ có Ngài là động lực của
tất cả mọi tác động tinh thần mà thôi.
Như vậy, Madhva đề nghị ba giai đoạn để đạt đến ân
huệ (prasàda) này. Thực hành các nghi lễ tế tự của Veda chỉ đạt
đến ân huệ thấp. Học hỏi thánh điển thì đạt được ân huệ cao hơn
một chút. Mà ân huệ cao nhất là giải thoát (mukti) bằng trí tuệ
(mata).
Không phải như SÙanïkara quan niệm giải thoát do
tri thức trực nhận nhất thể tuyệt đối giữa Brahman tuyệt đối và
Ngã tuyệt đối, nhất thể của minh trí (vidyà) và vô minh (àvidyà),
Madhva coi trí tuệ ấy như là kết quả của chiêm nghiệm
(nididhyàsana) và dâng hiến (bhakti) sau khi trải qua giai đoạn
học hỏi thánh điển (sùravanïa) và tư duy (manana) về các thánh điển.
Thêm nữa, cũng không phải như SÙanïkara, theo đó
Brahman là Tuyệt đối thể không có phẩm tính; mà Brahman ấy, đối
với Madhva, chính là thần Visïnïu, và chỉ khi nào Visïnïu hài
lòng với tri thức nhận biết của Ngài thì người ta mới có thể đạt
được giải thoát do Ngài ban bố.
Như vậy, Madhva và các môn đệ bác bỏ bốn tiền
phương tiện mà SÙanïkara đã đề nghị cho brahma-jijnõàsøà.
Sanïkara đòi hỏi, để chiêm nghiệm Brahman (brahma-jijnõàsøà),
trước hết người ta phải phân biệt rõ giữa những cái thường
(nitya) và vô thường (anitya) và cuối cùng phải cái khát vọng nhiệt
thành. Ở đây, cái thường được hiểu như là cái thực, và vô thường là
cái mê vọng, chỉ có Brahman là chân thật, còn tất cả những cái
khác là hư dối (brahmaiva satyam anyad anrïtam). Nếu sự phân biệt
ấy là một tiền phương tiện, thì chính nó đã là một cứu cánh rồi;
brahma-jijnõàsøà, bấy giờ sẽ không còn có ý nghĩa cần thiết gì
nữa.
Sanïkara cũng đề nghị rằng, trong tiền phương tiện
của Brahma-jijnõàsøà, người ta phải khước từ mọi hưởng thụ của
đời này và đời sau. Nhưng, nếu nói theo chủ thuyết nhất nguyên
của SÙanïkara, các đối tượng giác quan (visïaya) mặc dù được coi
như chỉ cung cấp khoái lạc tạm thời, giả ảo, nhưng chúng lại là
tự tánh của tự ngã (àtmasvarùpa). Như vậy, không có sự khác biệt
nào giữa một người hưởng thụ khoái lạc hư vọng và một người hưởng
thụ khoái lạc của giải thoát.
Tư tưởng nhị nguyên của Madhva chấp nhận cả hai
thực tại chân thật. Với SÙanïkara, duy chỉ Brahman là chân thật,
ngoài ra đều là hư vọng. Madhva cho rằng thế giới, triền phược,
giải thoát, tất cả cũng chân thật như Brahman. Lý luận căn bản
cho tư tưởng nhị nguyên này có thể tóm tắt rằng: nếu tất cả đều
hư giả, người ta sẽ không tìm thấy sự thực nào đó để chứng minh
sự hư giả đó là hư giả.
Chủ trương bất định thuyết (anirvàcanìya) của các
nhà nhất nguyên không đứng vững. Theo thuyết này, thực tại hư giả
không thể quyết định rằng là hữu (sat) hay phi hữu (asat). Sợi
dây mà bị tưởng lầm là con rắn, trong tri giác hiện tại, con rắn
ấy không phải là hữu, nhưng quả thực người ta đang thấy nó thì
cũng không thể cả quyết nó là phi hữu. Vậy, con rắn không xuất
hiện như là hữu hay phi hữu: sad-asat-vilaksïanïa.
Nhưng với các nhà madhva, nếu thực tại là phi hữu,
tất nhiên con người phải có khái niệm về sự phi hữu đó. Như nói,
sừng thỏ, người ta có ngay khái niệm rằng trên đầu con thỏ không
hề có sừng; vậy sừng thỏ là một phi hữu. Hoặc giả, khi nói, đây
là cái lu, người ta cũng biết ngay đó không phải là cái áo. Lu và
áo là hai thực tại dị biệt, một cái là hữu và một cái là phi
hữu. Không ai lại lầm lẫn cái lu là cái áo, hay nghi ngờ bất
quyết giữa cái lu và cái áo. Vậy thì, hữu (sat) và phi hữu (asat) là hai
thực tại dị biệt (bheda).
Dị biệt thể (bheda) vừa nói đó, là điểm mấu chốt
trong tư tưởng nhị nguyên của Madhva và môn đệ. Đối với họ, có
năm phạm trù của dị biệt thể: dị biệt giữa tiểu ngã và Thượng đế
(jìva-ìsùayor bhìdà); dị biệt giữa các tiểu ngã (jìva-bhedïa
parasparam); dị biệt giữa thế gian và Thượng đế (jadïïạ-ìsùayor
bhìdà); dị biệt giữa thế gian và tiểu ngã (jadïa-jìva bhidà); dị
biệt giữa thế gian và thế gian (jadïànàm jadïa bhidà).
Nếu không dị biệt giữa Thượng đế và tiểu ngã, thì
khi tiểu ngã chịu đau khổ trong luân hồi sinh tử, Thượng đế cũng
phải cùng số phận; hơn thế, brahma-jijnõàsà cũng trở thành vô
nghĩa, vì nếu giữa ta và Brahman không có dị biệt nào cả, thì
Brahman không thể là đối tượng cho suy tư chiêm nghiệm. Khi tiểu
ngã đạt đến giải thoát, hưởng thụ khoái lạc dưới ân huệ (prasàda)
của Ngài chứ không phải trở thành làm một với Ngài; thì lúc bấy
giờ, tiểu ngã tiến đến gần Ngài hơn mà thôi.
Đằng khắc, nếu không có sự dị biệt giữa các tiểu
ngã, thì khi một người này đạt đến giải thoát thì tất cả mọi
người khác cũng phải coi như là đạt đến giải thoát cùng lúc như
nhau. Ở đây, Madhva còn phân biệt rõ, là chỉ có các loài trời và
loài người mới có thể đạt đến giải thoát nhờ ân huệ của Brahman;
còn giữa loài người, thì cũng chỉ có hạng thượng thặng mới đạt
được, còn hạng bình thường như các giai cấp Thủ đà la hay tiện dân
không thể nhận được ân huệ của Ngài; họ là những người mãi mãi chìm
đắm trong vòng luân hồi sinh tử; còn những người xấu xa tồi tệ
nhất, vĩnh viễn đọa xuống địa ngục không hy vọng có ngày giải
thoát.
Hậu quả thứ nhất của tư tưởng nhị nguyên như vậy
đưa đến một Đa nguyên luận. Hậu quả thứ hai của nó là duy thực.
Thế giới này vốn là thực hữu, và vì những phẩm tính xấu xa của nó
cũng thực hữu, cho nên ta mới có thể mong mỏi một nơi khác sung
mãn hơn, và do đó họ tìm con đường phụng thờ Thượng đế để được
gần gũi Ngài. Tất cả triền phược và đau khổ trong thế gian cũng
thực hữu. Trí năng, giác quan, cho đến ngoại cảnh, và tất cả đều thực
hữu dưới sự chi phối và chỉ đạo của Thượng đế.
Vô minh, ngu dốt, là do phân biệt sai lầm rằng thế
giới vật chất kia như những thành phần sở hữu của ta, hay ta là
thế giới; chứ không phải là do không nhận ra thế giới vốn như
huyễn như các nhà Nhất nguyên luận. Khi nhận ra bản tính của
Brahman, người ta khởi tâm thờ phụng (bhakti) đối với Ngài. Thờ
phụng, sùng kính (bhakti) là liên tục làm tăng trưởng tình yêu
Thượng đế, và tất cả phải quy vào tình yêu này.
Như vậy, khởi điểm từ một quan điểm Nhất nguyên
tuyệt đối nơi Gaudïapàda, và hoàn thành hệ thống nơi SÙanïkara,
theo đó giải thoát là thể nhập bản thể tuyệt đối, và chỉ có con
đường thuộc tri thức mới đủ khả năng dẫn đến đây; cuối cùng
Vedànta đi đến một hệ thống nhị nguyên, mang âm hưởng đa đơn và
duy thực. Bây giờ, giải thoát không còn có nghĩa là thể nhập bản thể
tuyệt đối nữa, vì tuyệt đối thể Brahman chính là Visïnïu, một
Thượng đế hữu ngã, và do đó, giải thoát phải bằng ân huệ của Ngài
để có thể được gần gũi với Ngài. Sự gần gũi ấy mang lại cho con
người giải thoát sự hưởng thụ những khoái lạc tự tại như Ngài,
trong cảnh giới sung mãn với sự hiện diện của Ngài. Dâng hiến và
sùng kính là nỗ lực làm hài lòng Ngài để nhận được ân huệ mà Ngài
ban bố, và cũng nhờ đó mà nhận được giải thoát, vượt ngoài thế
giới triền phược và đau khổ này.
Chú
thích:
1
Mànïdïùkya-Upanishad I.1.4: dve vidye veditavye iti.
2
Sđd, I.1.5.
3
Sđd, III.2.6: vedànta-vijnõàna-sunisùcitàrthàh samïnyàsa-yogad
yatahï sùuddhasattvàhï / te brahma-lokesïu paràntakàle
paràmrïtàhï parimucyanti sarve.
4
Sđd, I.2.10.
5
Brïhad.Upanishad IV.4.22.
6
Katïh.Upanishad II.1.1: kasù cid dhìrahï pratyag-àtmànam aiksïad
àvrïtta-caksïur amrïtatvam icchan.
7
Brïhad.Upanishad II.
8
Sđd, I.4.1. so sánh đoạn trên. Sđd, I.2.1: naiveha kimïcanàgra,
thoạt kỳ thủy không có gì hết.
9
Kimura Taiken, Sáu phái triết học Ấn Độ. tập II, tr. 390-391.
10
Các phái này xuất hiện trong khoảng từ thế kỷ II đến V Tây lịch.
11
SÙùnya-vàda coi như trực thuộc các bộ
Prajnõnàpàramità.Vijnõàna-vàda ở đây được coi như là thuyết Chân
như (Tathatà) của Asùvaghosïa.
12
Sùtra có nghĩa là sợi dây, quán xuyến, xuyên suốt.
13
S. Dasgupta, A History of Indian Philosophy, q. I, tr. 421-422.
14
Mànïdïùkya-Upanishad 6.
15
Radhakrishnan, The Principal Upanishads, tr. 697.
16
Mànïdïùkya-Upanishad 6.
17
Gaudïapàda chú giải Mànïdïùkya-Upanishad 12: bìja-nidrà-yuktahï sà
ca turye na vidyate.
18
So sánh giữa Nàgàrjuna và Gaudïapàda. Màdhyamikakàrikà nói:
anirodham anutpàdam anucchedam asùàsùvatam anekàrtham anànàrtham
anàgamam anirgamam, không diệt, không sinh, không gián đoạn,
không thường hằng, không đồng nhất, không dị biệt, không đến,
không đi. Gaudïapàda, Mànïdïùkya-kàrikà: na nirodho na cotpattir
na baddho na ca sàdhakahï / na mumuksïur na vai mukta ityesïà
paramàrthatà, không diệt và không sinh khởi, không hệ phược và
không giải thoát... đấy là chân lý tối thượng.
19
S. Dasgupta, sđd, tr. 423: he was possibly himself a Buddhist;
sđd, tr. 429: It is immaterial whether he was a Hindu or a
Buddhist… Đối chiếu với ý tưởng của Ch. Sharma, Indian
Philosophy, tr. 239: (...) this should never mean that Gaudïapàda
is a Crypto-Buddhist. Sđd, tr. 230: (...) instead of dubbing
Gaudïapàda as a Crypto-Buddhist it will be far truer to dub the
Mahàyànists as Crypto-Vedàntins. (1) Kimura Taiken, Sáu phái triết
học Ấn Độ, tập II, tr. 438.
20
S. Dasgupta, A history of Indian Philosophy, q. 1, tr. 423, 432.
21
Kimura Taiken, sđd, tr. 439.
22
The Vedànta Sùtras with the Commentary by SÙanïkara, translated by
George Thibaut, Sacred Books of the East, vol. XXXVIII, section
II.ii.31.
23
SÙarìraka-bhàsïya, chỉ trích phái Nhất thiết hữu bộ
(Sarvàsti-vàda) của Tiểu thừa, và thuyết sát na sinh diệt
(ksïanabhạnïha-vàda) của Duy thức chủ luận lý
(Svatantra-vijnõàna-vàda); ibid II.ii.20, 25, 26; chỉ trích
thuyết A lại da thức (Àlayavi-jnõàna-vàda), ibid II.ii.32 v.v...
24
Các Upanishads chính yếu được chú giải: Ìsùa, Kena, Katïha,
Prasùna, Mùnïdïaka, Aitareya, Taittirìya, Brïhadàranïyaka và
Chàndogya.
25
SÙàrìraka-bhàsùya, II.i.2, bản Anh ngữ của G. Thibaut: ... the
comprehension of Brahman is effected by the ascertainment,
consequent on discussion of the Vedànta-texts, not either by
inference or the other means of right knowledge... Scripture
itself, moreover, allows argumentations for certain passages,...
declare that human understanding assists scripture.
26
Brahma-sùtra, bản dịch Anh ngữ và chú giải của S. Radhakrishnan,
I.i.1. Chú giải này liệt kê tất cả những giải thích về ý nghĩa
hàm ngụ trong chữ “athatas” kể từ SÙanïkara cho đến các nhà
Vedànta, bao gồm cả giải thích theo chiều hướng nhất nguyên tuyệt
đối, và hữu thần.
27 Cf. SÙanïkara, giới thiệu chú giải
SÙvetàsùvara-Upanishad, trưng dẫn các SÙruti và Smrïti:
Taittirìya Àran (?)-Upanishad IV.i.6; Kena-Upanishad II.5;
Katïha-Upanishad II.iii.2; Brïhadàranïyaka-Upanishad IV.iv.12;
Chàndogya -Upanishad VII.i.3...
28 Brahma-sùtra, I.i.2: jamnàdi asya yata, Anh ngữ,
Brahman is that from which the origin, subsistence, and
dissolution of this world proceed; và chú giải của SÙanïkara.
29 Brahma-sùtra, I.1.3-4, và chú giải của
SÙanïkara.
30 Xem chú thích (7) ở trên.
31 Vidyàmï càvidyàmï ca yas tad vedobhayam saha,
avidyayà mrïtyumï tìrtvà vidyayàmrïtam asùnute.
32 Vidyàmï càvidyamï ca ù devatàjnõànamï karma cety
arthahï.
33 Kurvann eveha karmànïi jijìvisïet sùatamï
samàhï.
34 Ìsùa Upanishad I: Ìsùàvàsyam idamï sarvam yat
kimï ca jagatgàmïjagat, tena tyaktena bhunõjìthà, mà grïdhahï
kasyavid dhanam.
35 Kimura Taiken, sđd, tr. 442.
36 Ìsùa Upanishad I.2.5: avidyàyàm antare
vartamànàhï svayamï dhìràhï panïdïitam manyamànàhï,
dandramyamànïàhï, pariyanti mùdïhàhï andhenaiva nìya-mànà
yathàndhàhï.
37 Chàndoga-Upanishad I.1.10.
38 SÙàriraka-bhàsïya, giới thiệu.
39 Anàdi-bhàvavarùpatve sati jnõànanivartyatvam:
tính chất của vô trí là vô thủy (anàdi) và tích cực (abhàvarùpa),
bị loại trừ bởi minh trí (jnõàna).
40 Giải thích MK.XXIV.8 của Càndrakìrti, một luận
sư của phái Trung quán: ajnõànamï hi samantàt
sarvapadàrthatattvàvacchàdanàt samïvrïti-ity ucyate; samïvrïti
được hiểu như là vô trí (ajnõàna) bởi vì nó che khuất tất cả ý
nghĩa của sự thực.
41 Gaudïapàda, Kàrikà, II.17, và chú giải về Kàrikà
này của SÙanïkara.
42 Xem Tuệ Sỹ, Triết học về Tánh không, trọn chương
cuối.
43 Xem chú thích (22) ở trên.
44 SÙàrìraka-bhàsïya, II.i.14.
45
SÙanïkara phân tích: tiếp đầu ngữ “upa” có nghĩa là “gần kề” và
“ni” có nghĩa “trọn vẹn”; động từ căn “shad” có nghĩa “triệt
tiêu”, “thành tựu”, “hủy diệt”. Như vậy, từ ngữ Upanishad chỉ cho
minh trí chiêm nghiệm tuyệt đối Brahman.
46
Taittirìya-Upanishad II.7: asad và idam agra àsìt; trích dẫn bởi
SÙanïkara, SÙàrìraka-bhàsïya, I.iv.15.
47
Taittirìya-Upanishad II.6: asann eva sa bhavati asad brahmeti veda
cet, asti brahmeti cet veda santam enamï tato viduhï, trích bởi
SÙanïkara,sđd.
48
SÙàrìraka-bhàsïya, I.i.11.
49
Chandogya Upanishad III.14.1: sarvam khalv idamï brahma.
50
Brïhadàranïyaka-Upanishad I.4.10: aham brahmàsti tasmàt tat sarvam
abhavat.
51
Mùnïdaka-Upanishad 2: sarvamï hy etad brahma, ayam àtmà brahma.
52
The Vedànta-sùtra, with the commentary of Ràmànuja, translated by
George Thibaut. In The Sacred Books of the East, vol.XLVII.
Adyàya I, Pàda I. page 20 ff.
53
Ibid., p. 129 ff.
54
Ibid., p. 130, visùisïtïàntarbhàva eva aikyam.
55
Ibid., p. 422.
56
Ibid., p. 429.
57
Ibid., p. 139.
58
Ibid., p. 144.
59
Ibid., p. 4.
60
Ibid., p. 226.
61 Ibid., p. 525.
PHỤ LỤC
I
I. TRIẾT THUYẾT CỔ SÀMÏKHYA (SỐ LUẬN)
T riết phái Sàmïkhya do Kapila (Ca Tỳ La - khoảng
350-250 trước dương lịch) dựng lên và do danh đệ là Asuri nối
tiếp hoằng dương. Sau Asuri đến Panõcasikha (khoảng 150-50 tdl)
và Vindhyavasin (thế kỷ IV sau dl) đều là những triết gia chuyên
đả kích mạnh mẽ vào những nhược điểm trong kinh sách các phái
Phật giáo. Sách vở do những vị này sáng tác ngày nay hầu hết đều
bị thất lạc; còn lại một ít thì chẳng có chương nào hay mục nào được
nguyên vẹn. Truyền đến nay, và được kể là sách triết học Sàmïkhya cổ
điển nhất, là bộ Sàmïkhya tụng do Isïvarakrïsna (Tự Tại Hắc)
viết vào thế kỷ IV sdl.
Triết thuyết căn bản của phái Sàmïkhya là dung hòa
tư tưởng của phái này với thuyết nguyên lý duy nhất của phái
Uddalaca trong phong trào triết học Upanishad để lập thành thuyết
Nhị nguyên thực hữu. Đệ nhất nguyên là nguyên lý tinh thần tức
phần tinh thần thuần túy mà học phái Sankhya gọi là Purusa (thần
ngã) hay là Atman. Đệ nhị nguyên là nguyên lý vật chất tức phần
căn bản của nguyên chất mà học phái gọi là Prakrïti (tự tính) hay là
Pradhana; phần này là nguyên lý chủ yếu tạo nên mọi hiện tượng trên
thế gian, là đấng chủ tể hay là bực phi biến dị (Avyakrïta).
Theo triết thuyết này, phần tinh thần thuần túy cũng có thực thể cá
ngã của nó do một vùng đại nguyên tử tụ lại mà thành trong từng
lĩnh vực riêng biệt, như phạm vi bản chất của Trí (Jnõàna), phạm
vi bản chất của Tư (Cit, cetana), v.v... Tinh thần thuần túy
không để lộ ra những vẻ hoạt động hay biến động cụ thể như vật
chất mà chỉ trụ tại một chỗ để quán chiếu cho mọi vật thể, nên Số
luận gọi phần này là phi hoạt động (akrïti). Phi hoạt động là
thường trú bất biến, là thuần túy thanh tịnh, chỉ quan chiếu cho vật
chất chứ không liên quan gì đến vận mạng, sinh, tử hay luân hồi của
vật thể, trong đó có con người. Do đấy, con người mới có thể tu
hành để giải thoát cho tinh thần thoát ra khỏi lĩnh vực của vận
mạng, của luân hồi.
Phần vật chất nguyên lý tức căn bản của nguyên chất, tự nó hàm chứa
nguyên nhân cho cơ năng để tạo nên vật chất. Tự tính của nguyên
lý vật chất là hoạt động không ngừng, bất tuyệt. Căn bản nguyên
chất chia thành ba loại:
-
Thuần chất (sattava)
-
Kích chất (rajas)
-
Uế chất (tamas)
Mỗi
loại đều cấu tạo nên một thứ yếu tố, tức là có ba loại yếu tố gọi
chung là ba đức (trigunïa). Ba đức sinh ra chỉ một nửa trên cán
cân sinh lực nên còn nằm trong trạng thái tĩnh chỉ để chờ nguyên
nhân cơ hội của tinh thần thuần túy quan chiếu đến. Khi mà được
quan chiếu thì trước hết, phần kích chất (rajas) tự phá ra ngoài
trạng thái tĩnh chỉ để bắt đầu trở thành sinh động và chuyển biến
(parinama) nhưng chỉ mới thành có một cơ quan trong thân thể, là
cơ quan tự nắm cơ năng cho tư duy (buddhi: giáo). Cơ quan này
tức là phần cực đại (mahat) của cơ thể. Hiệu năng của phần cực đại này
là chủ về xác nhận, chủ về quyết trí hướng dẫn cho cơ năng sinh
hoạt, cơ năng hoạt động của thân thể. Đấy là hiệu quả thứ nhất
của tác dụng quan chiếu giữa tinh thần thuần túy và căn bản
nguyên chất.
Thứ đến, hiệu năng quan chiếu của tinh thần thuần
túy với yếu tố thuần chất (sattava) là tạo nên phần hình tượng có
sinh hoạt của cơ thể chứ không có tư duy. Bởi đấy, phần giá trị
chủ yếu bậc nhất nơi cơ thể vẫn là cơ quan đầu não nắm cái tư duy
của con người, của sinh vật. Giải thích rõ nghĩa hơn về tư duy,
Số luận cho rằng mặc dù đồng thuộc ba đức, nhưng thuần chất và uế
chất đều chịu chung dưới sự chi phối tinh thần của tư duy, hoặc tư
duy là chiếc cầu liên lạc giữa quan chiếu của tinh thần thuần túy để
tạo thành thế sinh biến, biến sinh cho hình tượng của cơ thể.
Khi hình tượng của cơ thể đã nên hình hài toàn vẹn
thì phần giác của tư duy cũng bắt đầu nảy nở, tạo cho con người ý
thức tự ngã (ahamkara, tức ngã mạn) là đầu mối của quan niệm tự
ngã chủ thể, gọi chung là ý thức ngã chấp. Bởi ngã chấp này mà
con người mới tự hào. “Có cái ta đây. Vật này thuộc của ta. Cái
này do ta mà thành”, nó chứng tỏ sự ngộ nhận sâu xa về chủ thể,
ngộ nhận rằng ta là chủ thể của ta, mà không hiểu rằng ngay đến
giác quan nơi chủ thể cũng chỉ là một bản vị do căn nguyên cơ năng của
tư duy đem đồng nhất hóa với phần tinh thần thuần túy của nhị
nguyên mà thành. Từ ngã chấp ngộ nhận đó, con người mới đi lạc ra
ngoài phạm vi của tự tính để bị rơi lọt vào nghiệp chướng của
luân hồi. Nói cách khác, nghiệp luân hồi ấy đã do con người tự
tạo nên, nằm tại trung tâm của ý thức tự ngã.
Ý thức tự ngã ấy cũng là nghiệp thân. Nghiệp thân
biểu hiện dưới hai loại, mỗi loại gồm nhiều cơ quan trong thân
thể. Một loại gồm mười một cơ quan. Mười một cơ quan này cũng
chia thành hai loại nữa: cơ quan cảm giác và hành động. Cơ quan
cảm giác có năm: mắt, mũi, tai, lưỡi và thân. Cơ quan hành động
cũng có năm: phát thanh, tay, chân, bài tiết và sinh thực. Còn cơ
quan thứ mười một là ý. Một loại nữa thuộc nghiệp thân do yếu tố vi tế
(tanmatra: duy) trong cơ quan hành động mà thành là:
1. Thanh duy đồng tính với Không của ngoại giới.
2. Xúc duy đồng tính với Phong của ngoại giới.
3. Sắc duy đồng tính với Hỏa của ngoại giới.
4. Vị duy đồng tính với Thủy của ngoại giới.
5. Hương duy đồng tính với Địa của ngoại giới.
Tổng kết những quan điểm nói trên đây, triết phái
Sankhya gọi đấy là 25 Nguyên lý hay 25 Đế.
Trở lại phần tinh thần thuần túy, Số luận chủ
trương tinh thần nguyên lai là thuần túy thanh tịnh, nhưng vì
phải quan chiếu, phải hòa hợp để chế tạo và dưỡng thanh sự sinh
tồn của vật chất, nên mỗi vật chất cứ bị đắm chìm trong nghiệp
luân hồi. Do đó, tinh thần cũng bị đau khổ lây. Tinh thần biểu
hiện nơi con người ở phần tư duy, ở ý thức tự ngã, ở ngũ duy
(tanmatra) tổng hợp lại thành vi tế thân (linga). Vi tế thân này tuy bị
biến đổi nhưng vi tế thân vẫn còn mãi để đón chờ lần nhục thể
khác của nghiệp hậu thân. Muốn giải thoát cho vi tế thân tức tinh
thần thuần túy thanh tịnh và vĩnh cửu được thoát nghiệp luân
hồi, con người phải dốc lòng quyết tâm tu hành theo phương pháp
đặc biệt, tẩy rửa cho tinh thần được sạch hết nhơ bẩn để tinh
thần trở lại nguyên vị tự tính của nó, trường tồn, bất sinh, bất
biến, bất diệt. Muốn đắc quả giải thoát ấy, trước phải trở lại
nơi cái Trí của mình, bởi chỉ có Trí mới trực tiếp giải thoát được
cho tinh thần.
Luận về cầu đến Trí để giải thoát, Số luận cho
rằng, Trí ở đây không do ảnh hưởng bên ngoài mà thành trí thức
như đã dạy trong kinh điển Vedas. Trí này là Trí nội tại tự hữu,
là phần anh minh của tinh thần thuần túy. Thế nên, Số luận triệt
để thuyết minh về phần Trí này để đưa ra kết luận: chỉ có Trí nội
tại tự hữu mới là cứu cánh của giải thoát cho thực tình và hiệu
nghiệm. Để bổ trợ cho Trí nội tại hoàn thành sứ mạng giải thoát cho
vi tế thân, con người phải tu hành theo phương pháp Yoga.
Người tu hành đắc quả giải thoát, tuy ở kiếp này,
dầu có nhắm mắt quy ẩn như thế nhân thông thường nhưng không phải
là chết, mà là đạt đến giai đoạn được trả phần tinh thần thuần
túy và thanh tịnh về với chân tự tính để được phiêu diêu tĩnh
tại. Quãng thời gian được “sống” trong tĩnh tại ấy dài hay ngắn
là tùy nơi thần thông trực giác (tiên thiên) của người đắc quả
hay tùy theo công nghiệp tu hành ở kiếp trước hay kiếp này của mình.
Quãng thời gian tĩnh tại ấy mới đúng là chân mệnh, và đến khi nào
chân mệnh sống đến cùng của thời hạn do tiên thiên quy định thì
đấy mới là mệnh tuyệt, đấy mới là chết thực. Nghĩa của “chết” ở
đây tức tinh thần không thể duy trì được tự tính nữa để bắt đầu
trở lại lĩnh vực sinh sinh diệt diệt của hai mươi lăm đế.
Trong những khoảng thời gian sống bằng nhục thể để
tu hành giải thoát, Sàmïkhya gọi là sinh tiền giải thoát
(Jivanmukti). Sau khi phần nhục thể tan đi, trả tinh thần về cõi
tĩnh tại, hoàn toàn thoát ly khỏi quy tuần của nhị nguyên 25 đế,
ấy là ly thân giải thoát (Videhamukti). Trong khoảng thời gian
“sống” bằng ly thân giải thoát ấy, tinh thần thuần túy được hoàn
toàn độc lập và độc tồn (kaivalya) và nếu trong khoảng độc tồn này, Trí
vẫn liên tục phát huy được thuần túy tính của tinh thần thì chân
mệnh mới khả dĩ trường cửu đến vô cùng.
II. PHÁI ĐẠO HỌC YOGA
Phái Yoga chủ trương và hoằng bá đường lối giải
thoát theo phương pháp riêng của phái mình, gọi là phép tu Yoga
(Du già). Bộ kinh căn bản của học phái này là bộ Yoga-sùtra (Du
Già kinh) do đạo sĩ Patanjali trước tác. Tuy truyền thuyết cho
rằng bộ kinh này ra đời rất sớm, nhưng thực tế chỉ viết vào
khoảng từ những năm 400 đến 450 sdl.
Nhận xét về chủ trương tổng quát của đạo phái Yoga,
ta thấy Yoga chịu ảnh hưởng nhiều của Phật giáo. Xét về đại thể
phần siêu hình của nó thì Yoga giống với triết phái Sàmïkhya, có
khác là ở điểm đề ra một vị chủ tể thượng linh, gọi là thần Tối
cao. Phái tôn thờ thần Tối cao làm đại linh hồn duy nhất của hết
thảy thế gian, chúng sinh và vạn vật. Linh hồn của mỗi cá thể chỉ
là một điểm nhỏ của đại linh hồn thần Tối cao phân tán ra mà có
đấy thôi. Thuyết như vậy, có nghĩa là, nếu quy tụ linh hồn của vạn
vật thế gian lại thì đấy chính là thần Tối cao, hoặc ngược lại, mỗi
linh hồn là bộ phận vi tế của thần Tối cao. Thế nên, linh hồn
chúng sinh mới đồng tình với thần Tối cao và luôn luôn chịu sự
chi phối của Ngài. Tuy nhiên, Yoga không cho rằng thần Tối cao là
chủ tể sáng tạo nên thế gian.
Tại Ấn Độ, kể từ thượng cổ, khi phát khởi nên nền
văn minh ở triền sông Indus, thì tại những bộ lạc tiền trú xa xưa
của thời đại ấy đã có đường lối tĩnh tọa minh tưởng ở dưới cổ
thụ thanh vắng, hoặc trong rừng núi u tịch. Ở thời buổi sơ khai,
đường lối tĩnh tọa minh tưởng này chỉ là để tránh cảnh náo nhiệt,
khỏi bận tâm mà cầu lấy những ngày giờ an thái cho tinh thần. Về
sau, nó được chuyển sang thành một phương pháp tu hành của nhiều giáo
phái, lấy tĩnh tọa làm đường lối thực tiễn dụng tâm để chế ngự ý.
Ngoài ra, đời sống con người buộc cái thân con người phải luôn
luôn hoạt động, bận bịu đến nỗi quên bản căn của mình. Thế nên,
chỉ có tĩnh tọa mới là phương pháp duy nhất để có thời giờ và
hoàn cảnh “rút” thân mình ra khỏi trường hoạt động, đặt lòng mình
vào cõi tuyệt đối tĩnh mịch. Đó là con đường thần bí kỳ diệu khả
dĩ đưa giác thức tới gần đấng Đại Cao nắm giữ bản căn của mình.
Trải qua nhiều thế hệ, các nhà tri thức, bất luận là trong giáo
phái nào cũng công nhận tĩnh tọa rất có lợi cho sự tu hành. Tóm
lại, đạo phái Yoga lấy tĩnh tọa làm đường lối duy nhất để tu dưỡng đến
đắc quả giải thoát. Người tu hành theo Yoga được gọi là Yogin và
người nào đắc quả giải thoát là Muni (Mầu Ni, ẩn sĩ).
Yoga có nghĩa là thống nhất tâm thể về một mối.
Thống nhất tâm thể tức tạo thuần tâm, tức diệt hết mọi tác dụng
của tâm. Nói một cách khác, tức là không để tâm bị vọng động bởi
ngoại giới mà phải kìm giữ nó luôn ở trong lĩnh vực thanh tĩnh và
bất động. Muốn giữ cho khỏi bị dao động, ta phải tránh những môi
trường hoạt động, tìm vào những chỗ xa lắng u nhàn mà tĩnh tọa.
Tĩnh tọa là ngồi ngay ngắn nghiêm chỉnh thật lâu, hai chân vòng lại
xếp bằng, hơi thở thong thả nhẹ nhàng để tâm khỏi bị tán loạn, không
dùng đến những dự cảm của ngũ quan, nói chung là tập trung hết
mọi khả năng của ý, của chí lại để giữ cho tâm được thanh tịnh.
Vậy, tĩnh tọa là điều kiện tất yếu để đạt tới chế giới và nội chế
ở bước đầu nhập đạo.
1. Chế giới (yama) là không sát sinh, chân thực,
không trộm cướp, không dâm dục và không có của riêng. Thế gọi là
chế ngũ giới.
2. Nội chế (niyama) là giữ cho lòng lâng lâng bất
động trước ngoại cảnh, cho lòng được thanh tĩnh, dấn thân vào khổ
hạnh mà học, mà chuyên tu, đặt hết tin tưởng, ngưỡng vọng vào
thần Tối cao mà gia công chuyên niệm. Lại phải gạt bỏ hết mọi thế
tục thường tình về danh, về lợi cho tinh thần được trong sạch,
chỉ lấy sự chuyên tu làm phương tiện duy nhất đưa giác thức tới
gần thần Tối cao.
Ngoài chế giới và nội chế ra, người tu Yoga còn
phải thực thi sáu phép tu nữa, khởi đầu bằng tọa pháp rồi mới đến
những phương pháp khác ở trình độ cao hơn, tuần tự như sau:
3. Tọa pháp là những quy pháp tĩnh tọa. Trước khi
vào tĩnh tọa, hãy chuẩn bị tâm cho lắng, thần cho lặng và khi
tĩnh tọa, toàn thân phải nghiêm trang, không cử động.
4. Điều tức pháp, giữ gìn nhịp thở trong lúc tĩnh
tọa, không được hít nhiều thở mạnh, mà phải khoan thai nhẹ nhàng,
hạn chế hoạt động của phổi cho khỏi lạc hướng tâm thần.
5. Chế cảm pháp, làm cho mọi cảm giác của ngũ quan
hầu như trơ trơ trước ngoại cảnh, ngoại vật.
6. Tổng trì pháp, thu gọn tâm vào một chỗ để lắng
yên suốt thời gian tĩnh tọa và tiếp đến kiên trì với đặc pháp tu
hành, suốt đời không còn một ngoại ý nào lọt vào tâm được.
7. Tĩnh lự pháp, hay thiền định pháp là tập trung
toàn tư tưởng vào một đối tượng chính là tư pháp và đạo pháp để
mỗi ngày mỗi tới gần đến chỗ cực uyên thâm và vi diệu.
8. Tam muội pháp (samadhi: đẳng trì) là hoàn toàn
làm chủ được tâm, được ý, được chí, để đạt tới chỗ ngoại giới của
giải thoát, đưa chân giác vào trong cõi Không, lâng lâng và xán
lạn.
Trở lại phần tinh thần thuần túy, Số luận chủ
trương tinh thần nguyên lai là thuần túy thanh tịnh, nhưng vì
phải quan chiếu, phải hòa hợp để chế tạo và dưỡng thanh sự sinh
tồn của vật chất, nên mỗi vật chất cứ bị đắm chìm trong nghiệp
luân hồi. Do đó, tinh thần cũng bị đau khổ lây. Tinh thần biểu
hiện nơi con người ở phần tư duy, ở ý thức tự ngã, ở ngũ duy
(tanmatra) tổng hợp lại thành vi tế thân (linga). Vi tế thân này tuy bị
biến đổi nhưng vi tế thân vẫn còn mãi để đón chờ lần nhục thể
khác của nghiệp hậu thân. Muốn giải thoát cho vi tế thân tức tinh
thần thuần túy thanh tịnh và vĩnh cửu được thoát nghiệp luân
hồi, con người phải dốc lòng quyết tâm tu hành theo phương pháp
đặc biệt, tẩy rửa cho tinh thần được sạch hết nhơ bẩn để tinh
thần trở lại nguyên vị tự tính của nó, trường tồn, bất sinh, bất
biến, bất diệt. Muốn đắc quả giải thoát ấy, trước phải trở lại
nơi cái Trí của mình, bởi chỉ có Trí mới trực tiếp giải thoát được
cho tinh thần.
Luận về cầu đến Trí để giải thoát, Số luận cho
rằng, Trí ở đây không do ảnh hưởng bên ngoài mà thành trí thức
như đã dạy trong kinh điển Vedas. Trí này là Trí nội tại tự hữu,
là phần anh minh của tinh thần thuần túy. Thế nên, Số luận triệt
để thuyết minh về phần Trí này để đưa ra kết luận: chỉ có Trí nội
tại tự hữu mới là cứu cánh của giải thoát cho thực tình và hiệu
nghiệm. Để bổ trợ cho Trí nội tại hoàn thành sứ mạng giải thoát cho
vi tế thân, con người phải tu hành theo phương pháp Yoga.
Người tu hành đắc quả giải thoát, tuy ở kiếp này,
dầu có nhắm mắt quy ẩn như thế nhân thông thường nhưng không phải
là chết, mà là đạt đến giai đoạn được trả phần tinh thần thuần
túy và thanh tịnh về với chân tự tính để được phiêu diêu tĩnh
tại. Quãng thời gian được “sống” trong tĩnh tại ấy dài hay ngắn
là tùy nơi thần thông trực giác (tiên thiên) của người đắc quả
hay tùy theo công nghiệp tu hành ở kiếp trước hay kiếp này của mình.
Quãng thời gian tĩnh tại ấy mới đúng là chân mệnh, và đến khi nào
chân mệnh sống đến cùng của thời hạn do tiên thiên quy định thì
đấy mới là mệnh tuyệt, đấy mới là chết thực. Nghĩa của “chết” ở
đây tức tinh thần không thể duy trì được tự tính nữa để bắt đầu
trở lại lĩnh vực sinh sinh diệt diệt của hai mươi lăm đế.
Trong những khoảng thời gian sống bằng nhục thể để
tu hành giải thoát, Sàmïkhya gọi là sinh tiền giải thoát
(Jivanmukti). Sau khi phần nhục thể tan đi, trả tinh thần về cõi
tĩnh tại, hoàn toàn thoát ly khỏi quy tuần của nhị nguyên 25 đế,
ấy là ly thân giải thoát (Videhamukti). Trong khoảng thời gian
“sống” bằng ly thân giải thoát ấy, tinh thần thuần túy được hoàn
toàn độc lập và độc tồn (kaivalya) và nếu trong khoảng độc tồn này, Trí
vẫn liên tục phát huy được thuần túy tính của tinh thần thì chân
mệnh mới khả dĩ trường cửu đến vô cùng.
Vậy kể từ chế giới trở xuống, đây là bát bảo tu
pháp của đạo phái Yoga. Về phép tu thứ tám là tam muội pháp, Yoga
chia thành hai lẽ sâu cạn khác nhau, gọi là hữu tưởng tam muội
và vô tưởng tam muội. Hữu tưởng tam muội là mức độ giác thức về
tam muội chưa thuần thục trước quyến rũ của ngoại cảnh, ngoại
vật, còn ghé mắt để ý tới, hoặc giả, còn phải để tâm suy lự mới
thấu được lẽ cao diệu mà né tránh quyến rũ. Nói một cách khác, tức là
còn ở trong tầm lưu vướng những tác dụng của tâm, chưa rũ được sạch
căn. Cho nên, hữu tưởng tam muội cũng là hữu chủng tử tam muội.
Cao hơn, vô tưởng tam muội mới là thượng đẳng của giác thức giác
đạo để vào hẳn được cõi Không của giải thoát. Đạt tới vô tưởng
tam muội, lòng lâng lâng rũ sạch mọi trần duyên, không một ngoại
cảnh nào làm lay động nổi tâm chí, gạt bỏ hết mọi tác dụng của
tâm để hoàn toàn tự tháo được ra ngoài vòng trói buộc của ngũ
quan. Đấy là vô chủng tử tam muội.
Trên đây là chủ trương chân tu của đạo phái Yoga để
được đấng nguyên nhân Purusa độ cho giải thoát về cõi an trú
vĩnh lạc.
III. HỌC PHÁI MÌMÀMÏSÀ (DI MAN TÁC)
Những triết gia Mìmàmïsà là những nhà nghiên cứu và
biện luận trên căn bản triết lý để chú thích biện minh và thống
nhất tất cả những nghi thức về tế lễ kỳ đảo, quy định lại những
bộ thánh điển Vedas. Khoa học vấn này gọi là Tế sự học Mìmàmïsà
(Karina-Mìmàmïsà). “Mìmàmïsà” có nghĩa thẩm sát và khảo cứu. Môn
học này do triết gia Jaimini (khoảng 200-100 tdl) sáng lập. Tuy
nhiên, tác phẩm của ông viết ra mới chỉ là những bài thơ ngắn về ý nghĩa
tế tự để cầu tụng trong những cuộc lễ bái mà thôi. Khoảng 100
năm sau (thế kỷ I dl), một nhóm học giả kế thừa chí nguyện và ý
tưởng của Jaimini viết thành kinh điển Mìmàmïsà-sùtra có hệ thống
quy mô để truyền bá. Sau nhóm này, vào khoảng những năm 550 sdl
trở lại, triết gia Sabarasvamin mới thành lập hẳn đường lối chú
giải và biện minh những tương quan giữa thánh kinh Vedas và
Mìmàmïsà-sùtra thành hệ thống riêng của học phái trong bộ Bhàsya
của ông.
Để nghi thức hóa những cuộc tế lễ một cách cụ thể,
học phái Mìmàmïsà chú trọng hơn cả vào biện minh về chữ Pháp
(Dharma). Theo quy định trong kinh điển Vedas, Pháp là những
nguyên tắc làm căn bản cho quan niệm về nghi thức và đường lối
thực hành cùng tổ chức tế lễ. Cho nên, Pháp có giá trị tối thượng
trong lĩnh vực đạo giáo Bà La Môn. Về hình thức tổ chức tế lễ
theo Pháp là cần phải định rõ ba cấp bậc của thần minh mà thiết lập, thì
tế lễ mới được linh ứng như sở cầu của tín đồ.
Về ý nghĩa siêu hình của Pháp, theo Mìmàmïsà, muốn
được tỏ rõ phải dựa vào những lẽ cao xa tuyệt đối của thánh điển
Vedas mà chứng luận mới được. Nếu không dựa vào thánh điển mà
chứng luận, dẫu biện minh đến thế nào đi nữa cũng đều là phi pháp
cả. Học phái này tin tưởng như vậy vì cho rằng thánh điển Vedas
không thể do học giả phàm nhân trước tác nên nổi, mà toàn bộ
thuần là những lời cực cao diệu của thần minh, có tính cách vĩnh tồn
siêu thời gian. Dầu vạn vật có biến đổi, sinh sinh diệt diệt qua
muôn vạn kiếp đi chăng nữa, thánh điển vẫn còn mãi mãi, bởi đó là
lời nói của thần.
Về “âm thanh”, phái Mìmàmïsà chủ trương “thanh
thường luận” vì đó là những âm vận in đậm vào cùng khắp không
gian với thường trú tính nên cứ tự lưu truyền đến vĩnh viễn,
không thể nào tan mất được. Thế nên, thánh kinh Vedas không phải
là văn chương phàm nhân mà là lời nói của thần minh in đậm ra,
gởi vào đấy. Vì vậy, thánh kinh mới có tự nhiên thường trú tính.
Nếu ai cho rằng, lời nói chỉ là một loại âm thanh, nói ra rồi tan đi, là
ngộ nhận lớn về giá trị của lời nói. Lời nói là cái cầu môi giới
xây bằng âm thanh để biểu lộ những ý nghĩa của tư tưởng, mà tư
tưởng là tinh thần, mà tinh thần là vĩnh cửu cho nên lời nói bao
giờ cũng đồng nhất thường trú với tinh thần.
Triết gia Upavarsa (450-500 sdl) cho rằng, lời nói
là âm của chữ varna do thần minh nghĩ ra để có cách truyền mệnh
lệnh của đấng Thượng tôn xuống dân gian. Cho nên thế nhân, dầu
kinh nghiệm và khôn ngoan sung mãn đến mấy, cũng không thể nào
chế ra được văn tự, vì văn tự chính là công nghiệp của thần minh
lưu lại cho nhân loại. Thánh điển Vedas gồm cả lời nói lẫn văn tự
thì đâu có phải là sách vở, mà là giáo lệnh (codana). Cho nên, con
người chỉ có phận sự tuyệt đối phụng tuân giáo điều và phục tùng mệnh
lệnh của Thánh kinh mà thôi. Việc tuân phụng phục tùng ấy gọi là
Pháp.
Riêng về những nghi thức tế lễ do học phái Mimamïsa
quy định thì học phái này khuyến hóa rằng, nếu tổ chức tế lễ
theo đúng như thể thức và tụng nguyện cầu khẩn y như văn bài là
được hưởng phúc “dư lực” cả về phần thể lẫn phần hồn. Những người
được hưởng phúc dư lực này, đều được chư thần xếp vào hạng tân
đắc lực (apuvra). Khi đã được nhập hạng tân đắc lực mà vẫn nhất
tâm tuân phụng chính đạo theo Mìmàmïsà-sùtra, theo thiện ý của
thánh kinh Vedas, thì sẽ được dẫn độ lai sinh, vĩnh viễn được vinh hoa
(abhyudaya), phúc lạc nơi thiên giới.
IV. HỌC PHÁI VAISÙESÏIKA (THẮNG LUẬN)
Tương truyền, triết gia sáng lập nên học phái Vaisùesïika là Kanada
(biệt danh là Uluka, 150-50 tdl). Tuy nhiên, mãi đến khoảng giữa
thế kỷ II sdl, học phái này mới trước tác được kinh điển căn bản,
gọi chung là Vaisùesïika-sùtra.
Luận thuyết căn bản của Thắng luận là phân định về tiềm năng trí thức
nơi con người. Trí thức sở dĩ thành tựu là do tri giác trực tiếp
tức hiện lượng và suy luận tức tỉ lượng. Đối với các học phái
triết học lấy kinh điển Vedas làm thành ngữ tối uy và thượng
kính, Vaisùesïika cho rằng chỉ có thể lấy những kinh điển này làm
phương tiện nghiên cứu và suy luận để trau giồi tri thức thì
được, nếu chỉ một mực đề cao mà không nhận định là tự mình làm
lạc mất quyền độc lập tư tưởng của mình. Học phái này cũng bài
xích luận điệu cho lời nói là sự nghiệp của thần minh tạo nên cho nhân
loại có tính cách thiêng liêng thường trú tính. Theo Thắng luận,
“lời nói chỉ là tiện nghi của thói quen, con người dùng để phổ
biến những ý kiến của tư tưởng. Lời nói do từ trực giác mà nảy
sinh, rồi kinh nghiệm bồi bổ cho tri thức mà trở nên phong phú,
chứ không do thần thánh nào tạo lập”.
Căn
cứ từ trí thức mà suy luận về vũ trụ, Thắng luận cho rằng vạn vật
trong hiện tượng giới sở dĩ cấu tạo nên được là do sáu nguyên lý
hay gọi là sáu cú nghĩa (padarthas).
1. Thực thể, Thực
2. Tính chất, Đức
3. Vận động, Nghiệp
4. Phổ biến, Đồng
5. Đặc thù, Dị
6. Nội thuộc, Hòa hợp.
Trong sáu nguyên lý này, thực thể bao trùm cả năm
nguyên lý kia. Nói cách khác, năm nguyên lý kia phải lấy nguyên
lý thực thể làm căn cứ tạo thành và tồn tại. Do đấy, thực thể mới
là nội thuộc nhân (samavayi-karana) hay là hợp nhân tổng quát.
Ngược lại, nguyên lý tính chất và vận động lại là nội chất, là
nội cơ tùy thuộc riêng của thực thể. Chúng phối hợp với ba nguyên
lý kia mà thành thực hình thực trạng, gọi đấy là kết quả (tức là
quả). Vậy cả sáu nguyên lý để nguyên là riêng rẽ, nhưng hợp lại thì
nguyên lý nọ tùy thuộc nguyên lý kia, cũng ước chế lẫn nhau mà
thành. Sự tòng thuộc và chế ước ấy là nguyên nhân, và thanh ấy là
kết quả. Từ nguyên nhân đến kết quả lại tùy cơ mà có nhanh có
chậm, không nhất thiết phải liên đới nhau trong khoảng trước,
khoảng sau nhất định. Đấy là tổng quy về nội thuộc nguyên lý
chung. Tuy nhiên, có những trường hợp chỉ riêng hai nguyên lý:
tính chất (đức) và vận động (nghiệp) cũng tạo nên nhân để mà thành
quả. Những trường hợp xuất lệ ấy, gọi là phi nội thuộc nhân
(asamavayi-karana).
Nguyên lý thực thể do hợp nhân mà tạo thành chín
thể loại khác trên thế gian là: địa, thủy, hỏa, phong (gọi chung
là tứ đại), hư không, thời gian, phương hướng, atman (hay bản
ngã) và ý. Riêng về tứ đại, tuy hình thế có khác, nhưng căn bản
đều do hằng hà nguyên tử mà thành. Nguyên tử là độc lập đơn
thuần, cực vi tế, hình tròn và bất khả hủy diệt. Tính chất của
nguyên tử là khi hợp lại thành địa ấy tức là hương, thành thủy ấy là vị,
thành hỏa ấy là sắc, thành phong ấy là xúc. Riêng thủy và hỏa
còn có hữu tính đặc nữa, là thủy thì lạnh mà hỏa thì nóng và con
người không thể biết được nguyên căn của lạnh và nóng, vì những
nguyên tử cấu thành lạnh và nóng ấy đều là loại nguyên tử phức
hợp thể, chỉ do trí giác của cảm quan mới nhận biết được mà thôi.
Sức
mạnh của nguyên lý vận động (nghiệp) trong thời buổi sơ khai để
cấu kết thành hình hài và đặc hữu tính gọi là bất khả kiến
(adrïsïtïa). Kết quả tạo thành vật thể của bất khả kiến ấy là:
-
Địa, có hương, vị, sắc và xúc tính.
-
Thủy, có vị, sắc, xúc tính, lưu động tính (tính này gọi là dịch
thể) và niêm trước tính (tức là tính tạo sức hút nối gắn các vật
thể khác lại với nhau).
-
Hỏa, có sắc và khả xúc tính.
-
Phong, có khả xúc tính.
-
Hư không là môi trường vận động bao la đến vô cùng vô tận của thực
thể. Đó là nơi duy nhất thường trú, duy nhất biến hóa và duy nhất
tồn tại của thực thể. Đặc hữu tính của hư không là âm thanh
nhưng hư không không có vận động tính.
- Thời gian, tùy theo nhận thức chủ quan mà thực
thể của nó là trước, là sau, là bây giờ, là nhanh, là chậm, nhưng
vốn nó chỉ là dòng tương tục duy nhất vô thủy vô chung, vô hoạt
động, vô tính chất.
- Phương hướng, cụ thể là tứ phương, tứ duy1. Đặc
hữu tính của nó là trước, là sau, là xa, là gần.
Sự tồn tại của bản ngã (atman) là một sự tồn tại
thực sự không phải là giả, là hư. Vaisesika chứng minh như sau:
Người sống khác với người chết là ở nơi có hơi thở, ở cặp mắt có
linh hoạt, ở ý tưởng có lưu chuyển. Hơn nữa, người sống có những
hiệu năng linh diệu của cảm quan để tạo cảm giác và thông cảm với
cảm quan của người khác, của sinh vật khác. Ngoài ra, người sống
còn có bộ máy tri giác để biết khoái cảm đam mê, biết chán nản từ bỏ,
có sở thích để mà tìm đến sở cầu, đòi thỏa mãn khát dục, yêu cái
tốt, ghét cái xấu, quyết chí quyết tâm, nuôi dưỡng tinh thần thêm
hứng khởi và thâu nhập kinh nghiệm. Vì thế, không thể bảo không
có sự tồn tại của bản ngã. Đã biết có bản ngã, ta cũng cần rõ đến
nguyên bản và tính cách hoạt động của bản ngã. Nguyên bản của
bản ngã là duy nhất thể, rồi bị cấu xé thành từng hạn định nhỏ
một, đem phân phối vào cá thể mỗi người. Một phần nhỏ ấy tạo
thành cá tính sinh động của mỗi người.
Cá tính sinh động ấy là “ta” hay “chủ thể của ta”.
Chủ thể đã là của ta, nên mọi đường lối suy nghĩ và ý niệm (ý)
phát tự nơi ta cũng là thực thể của ta. Nói cách khác, ý ấy đích
thị là vật chất. Thân thể là vật chất, ý là vật chất. Như thế,
con người là duy nhất thể, trong đó có sinh lực hoạt động với tốc
độ mau như điện. Cả vật thể lẫn sinh lực ấy cùng ở trong một
khối lượng đại nguyên tử có bao hàm cơ quan cảm giác. Cơ quan này phối
hợp ý làm thành tri giác. Vậy, vật thể, cảm giác, ý, tư và tri
giác của ta ấy là Atman của ta.
Về tính chất hay đức (guna), Thắng luận công nhận
có mười bảy thứ:
1. Sắc
10. Bỉ thể (vật kia)
2. Hương 11.
Thử thể (vật này)
3. Vị
12. Tác dụng tri giác
4. Khả xúc tính 13.
Khoái cảm (lạc)
5. Số
14. Bất khoái cảm (khổ)
6. Lượng 15.
Dục cầu (dục)
7. Biệt dị tính (biệt thể) 16.
Hiềm ố (sân)
8. Kết hợp 17.
Quyết chí (cần, dũng)
9. Phân ly
Về vận động (karman), nghiệp có năm thứ:
1. bay lên
2. rơi
xuống
3. rút lại
4. trương
ra
5. tiến
hành
Về phổ biến hay đồng (samanaya) và đặc thù hay dị
(visesa), Thắng luận cho rằng, hai nguyên lý này vừa ứng lẫn
nhau, vừa đối lẫn nhau. Ứng lẫn nhau vì có phổ biến thành đồng
nhất tính mới có hoạt động để biến thành đặc thù. Đối lẫn nhau vì
phổ biến nguyên lý trên thượng tầng bao quát để hòa đồng mà đặc
thù thì ở hạ tầng cá biệt, nằm tại mỗi nguyên tử để cố định tạo
dị thù, dị thể (biến dị). Bao quát trên khắp thượng tầng để hòa đồng
các nguyên lý cho nên phổ biến là nguyên lý hữu tính. Còn nằm tại
mỗi nguyên tử để cố định tạo dị thù, cho nên nguyên lý đặc thù là
nguyên lý cực đoan. Mọi vật thể đều nằm trong cái thế giằng co,
buông phóng để hòa đồng của phổ biến (đồng) và để tạo dị thù của
đặc thù (dị) nên vật thể nào cũng có phổ biến đặc thù tính.
Bốn nguyên lý: tính chất, vận động, phổ biến, đặc
thù đều độc lập nhưng không bao giờ xa rời nhau. Chúng cùng kết
hợp nhau mà nằm trong thực thể để nuôi dưỡng thực thể. Như thế,
thực thể là nội thuộc nguyên lý (samavaya). Nói cách khác, nguyên
lý có nội thuộc tính để bao dung và dưỡng tạo.
Với kinh điển Vedas, Thắng luận công nhận cũng có
giá trị ở những phần có giá trị, chứ không phải là tuyệt đối. Do
đó, phái này bài bác chủ trương lễ bái, tích lũy khổ tu qua nhiều
đời để đạt cứu cánh giải thoát của kinh điển. Thắng luận giải
thích rằng muốn giải thoát phải nghiên cứu rất nhiều để thấu
triệt sáu cú nghĩa rồi mới tu hành. Phải biết rằng, Atman nơi con
người nhiều khi bị ý dục che lấp cho nên Atman cũng bị nhục thể đưa vào
vòng ám muội. Vì vậy, để giải thoát Atman cá ngã, trước phải tự
chế ý dục của mình theo phương pháp Yoga. Khi đã được giải thoát,
phần Atman của ta được tháo ra khỏi vòng hòa hợp của 6 cú nghĩa
để mà vĩnh viễn tự tồn, bất sinh bất diệt.
V. HỌC PHÁI NYÀYA (CHÍNH LÝ) VỚI KHOA LUẬN LÝ HỌC
Thực ra, khoa luận lý học đã phát sinh rất sớm kể
từ thời cổ Ấn Độ. Ngay như bộ sách thuốc của Charaka
(Charaka-samhita) đã có trước tác một thiên luận giải về luận lý.
Phật giáo cũng có trước tác bộ Phương Tiện Tâm luận chuyên về
luận lý. Có điều, với Phật giáo, vấn đề đặt tên cho môn học có
khác, đáng lẽ gọi là luận lý thì lại gọi là nhân minh. Tuy nhiên, dẫu từ
thời cổ đã có khoa luận lý, nhưng phải chờ đến khi học phái
Nyàya này ra đời thì khoa luận lý mới được hệ thống hóa vào quy
củ đích thực của trọng tâm. Nói cách khác, chỉ có học phái Nyàya
mới thành công trước nhất về ngành luận lý học.
Danh từ “Nyàya” vốn có nghĩa là luận lý hay chính
lý. Về sau mới chuyển sang nghĩa là “nghiên cứu khoa luận lý
học”. Đến đây, học phái Nyàya mới lấy tên của môn học làm tên của
học phái mình. Người đầu tiên khởi xướng việc nghiên cứu về luận
lý là học giả Gautama (biệt danh là Aksapada, khoảng 50-150 sdl)
nhưng phải chờ đến hơn một thế kỷ sau, khoảng 250-350 sdl, mới
có những học giả kế chí Gautama mà trước tác nên những thư điển
căn bản của học phái, gọi chung là bộ Nyàya-sùtra. Từ sau 350 sdl trở
lại, học giả Vatsyayana viết loại sách Bhàsya để giải minh và chú
thích bộ Nyàya-sùtra, rất có giá trị về tư tưởng. Ngoài ra, còn
có những tác phẩm khác như Nyàya-varttikà của Uddyotakara (thế kỷ
VI sdl), Nyàya vàrttika-tàtparya-tìka của Vàscaspati Misùral
(thế kỷ IX sdl), Nyày-vàrttika-tàtparya-parisùuddhi và
Nyàya-kusumànõjah của Udayama (thế kỷ X sdl), Nyàya-manõjarì của
Jayanta và Nyàya-sàra của Bhàsarvajnõa (thế kỷ X sdl).
Nghiên cứu đại cương học thuyết của phái Nyàya, ta
thấy về phần hình nhi thượng có nhiều điểm giống với học thuyết
của phái Vaisùesika. Đối với vấn đề triền miên khổ não ưu tư của
con người, học phái Nyàya cho rằng, căn nguyên của khổ não là sự
kiện con người phải hoạt động để duy trì sự sinh tồn. Vì phải duy
trì sinh tồn nên phải hoạt động. Vì phải hoạt động mà con người
đa mang tạp nhiễm, như: tham, sân, si, dục, hiềm, ố. Những khuyết
điểm ấy phát sinh do tự trí của ta bị lu mờ lầm lẫn (mithyajnõàna: tự
ngộ tri). Do đó, nếu con người tự giác đến căn nguyên gây nên
những khuyết điểm ấy mà từ bỏ được tự ngộ tri, con người sẽ nhận
chân được thực tướng của mình. Nhận chân được thực tướng của mình
rồi, ta sẽ tự nhận chân được thực tướng của vạn vật và thế gian.
Khi đã nhận chân được thực tướng của vạn vật thế gian là tâm đã
tự lâng lâng trong sáng mà từ bỏ được hết ưu tư khổ não. Tâm có
được trong sáng rồi ta mới chuyển sang giai đoạn tu hành để tự
giải thoát. Giải thoát theo thuyết Nyàya, không phải chờ đến kiếp
lai sinh mà giải thoát ngay từ kiếp hiện sinh này. Người được giải
thoát sẽ cắt lìa khỏi mọi mối dây của luân hồi, không còn bị ràng
buộc với “kiếp” với tử tử sinh sinh nữa. Và, để giải thoát, ta
cần triệt để tuân trì giới luật và tu tập tọa thiền.
Đồng học thuyết với Vaisùesika, phái Nyàya cũng chủ
trương vũ trụ thế gian được cấu tạo nên do vô số những nguyên
tử. Những nguyên tử này đều có đặc tính trường cữu, xưa nay vẫn
vậy, không biến đổi, không tiêu diệt. Điểm thứ hai, về thực hữu
của Atman, học phái Nyàya cũng tích cực chứng minh rằng có. Về
lời nói, cũng bài bác lập trường “ngôn ngữ thường trú” của học
phái Mimamïsa.
Để xác định phương pháp đạt tới chân trí thức, học
phái Nyàya chia nhận thức ra làm hai loại: Pràna, nghĩa là lượng:
nhận thức đúng; và a-pràma, phi lượng: nhận thức sai.
Pràna có 4 phương pháp nhận thức:
1. Dùng tri giác trực tiếp (pratyaksïa: hiện lượng)
mà nhận thức.
2. Dùng suy luận (anumàna: tỉ lượng) mà nhận thức.
3. Dùng cách so sánh vật loại để nhận thức
(apamàna). Tỉ dụ khi học về loài trâu bò, phải hiểu rằng có hai
loại khác nhau là giống trâu và giống bò. Vậy, cái học ấy là phải
nhận thức để so sánh sự đồng âm dị tính, phân biệt rõ ràng, cốt
không lầm giống này với giống khác.
4. Tin vào danh ngôn (sùabda: thánh giáo lượng và
thánh lượng), học hỏi nhiều nơi thánh kinh Vedas, học rồi cầu dốc
tín vào thánh ngữ
***thá (anumàna), Nyàya thành lập ngũ phần tác pháp
để làm thế nào suy luận đúng***: tôn (pratitjnõa), nhân (hetu),
dụ (udàharana), hợp (upanaya) và kết (nigamana).
1. Tôn: như thấy hỏa diệm sơn có lửa.
2. Nhân: biết trong hỏa diệm sơn có lửa, vì thấy có
khói bốc lên.
3. Dụ: xưa nay, hễ có khói là có lửa, ví dụ như là
nung, hễ khói lên khỏi nóc là trong lò có lửa.
4. Hợp: trên nóc có khói là trong lò có lửa, vậy
trên miệng hỏa diệm sơn có khói là trong lòng hỏa diệm sơn cũng
có lửa.
5. Kết: như vậy không thể nào lầm được nữa, khi
biết rằng trong hỏa diệm sơn có lửa, để làm đích tin tưởng cho
suy luận.
Tóm lại, toàn bộ học thuyết của học phái Nyàya bao
gồm mười sáu vấn đề:
1. Phương pháp nhận thức 9. Quyết định
2. Đối tượng nhận thức 10. Luận
nghị
3. Nghi hoặc 11.
Luận tránh
4. Động cơ 12.
Luận kết
5. Thực lộ 13.
Lý do ngộ nhận, ngộ tưởng
6. Định thuyết 14.
Ngụy biện
7. Chí phân 15.
Sỉ mạ (bị đàm tiếu)
8.
Tự biện 16. Bại bắc (bị thất
bại).
VI. HỌC PHÁI VEDÀNTA (PHỆ ĐÀN ĐA)
Trong các học phái có liên hệ đến biên soạn, chú
thích, giải minh về kinh điển Vedas, thì học thuyết Vedànta là
hậu thế cuối cùng, và cũng là học phái có nhiều thức giả tham gia
đông đảo hơn cả. Bởi có nhiều học giả gắng công tìm trong kinh
điển xem còn những điểm nào chưa sáng tỏ thì chú thích và giải
thuyết nên phần nội dung lý thuyết của học phái này thật phong
phú. Giáo lý, giáo điều, giáo điển cho đến những điểm tương quan với số
học cũng không bỏ sót. Trong nội dung phong phú ấy, ta thấy có
phần triết lý là đa lượng, đa dạng và sâu rộng hơn cả những phần
khác.
Trong số những học giả và triết gia đông đảo ấy, có
hai người nổi tiếng hơn cả: Jaimini (khoảng từ 200 đến 100 tdl)
và ***Badarayna*** (khoảng 100 tdl). Học thuyết của Jaimini về
sau mở đường cho học phái Mimamïsa ra đời, và ***Badarayna*** là
ngọn đuốc tiền phong cho học phái Vedanta. Thế nên, về hậu đại,
hai học phái Mimamïsa và Vedanta đều suy tôn hai ông là khai tổ
sáng lập nên học phái.
Tại Ấn Độ, người ta vẫn chia toàn bộ kinh điển
Vedas thành hai phần chính. Một phần về giáo điều gọi là Tế sự
(Karmakanda), một phần về giáo lý gọi là Trí thức (Jnõànakanda).
Bộ Tế sự dạy về trật tự, lễ nghi và tổ chức các đàn tràng cầu
cúng, tương đương với bộ kinh điển Brahmana. Bộ Trí thức luận về
triết lý siêu hình, chuyên khảo sát, biện luận và giải thích về vũ
trụ vạn hữu, tương đương với khoa triết lý Upanishad.
Sau này, khi học phái Mìmàmïsà nổi lên, dù rằng
trên danh nghĩa là quảng thuyết kinh điển Vedas, nhưng trọng tâm
chỉ thiên về phần Tế sự nên mới thành khoa Tế sự học Mìmàmïsà
(Karma-Mìmàmïsà). Một học phái khác, cũng thuộc một ngành của
Mìmàmïsà nhưng lại chuyên khai thác phần trí thức thành khoa học
riêng và lấy tên là phái Vedànta. Cho nên ta phải nhận thấy rằng,
công phu khai thác và quảng thuyết cả hai phần Tế sự bộ và Trí thức
bộ của hai học phái này hợp lại, thực đã vun đắp nhiều cho sự phong
phú và sáng sủa của kinh điển Vedas; nói chung, chẳng khác nào
một gốc mà chia hai ngành hoa lá tốt tươi, khiến học giả đương
thời thường phê bình lẫn lộn Mimamïsa với Vedanta. Nhưng trên
thực tế, đó là hai ngành học vấn riêng biệt. Thí dụ, như cùng
giảng thuyết thế nào là nhân sinh, Jaimini thì chủ trương rằng lẽ
sống là tế tự và thờ cúng, còn Badarayana lại cho rằng lẽ sống
là tìm đến giải thoát để về với Brahman.
Đương thời, Badarayana là thời kỳ phong trào tin
tưởng rằng cá ngã có liên hệ chặt chẽ với Ngã chủ tể tối cao.
Thuyết này do học giả Asmarathya (có lẽ vào thế kỷ III tdl) khởi
xướng. Theo ông, cá ngã vốn là thuộc đồng nguyên chất với Ngã tối
cao, do Ngã tối cao phân tán, ví như gốc từ một đống lửa mà phun
ra những tia hoa cà, hoa cải. Có lẽ vào cuối thế kỷ này, học giả
Auduloni cũng thuyết rằng, gọi là cá ngã ấy, tức hình hài nhục thể
của con người trước mắt ta, ta vẫn ngỡ là khác với thực thể của Ngã
tối cao. Nhưng nếu dốc tâm tu hành, đạt tới bậc minh trí, là khi
quy ẩn, phần cá ngã thực tính sẽ lìa khỏi nhục thể mà về với gốc,
hòa đồng thể với Ngã tối cao để vĩnh viễn trường tồn. Lại vào
khoảng những năm 250 tdl trở lại, học giả Kasakrïìsna cũng thuyết
rằng, cá ngã vốn đồng trạng thái vĩnh cửu với Ngã tối cao.
Đến khi học phái Vedànta ra đời (khoảng 400-45000
sdl), với phương châm khai thác ngành hình nhi thượng của bộ Trí
thức trong kinh điển Vedas, các học giả cũng dựa vào lý thuyết
của những tiền bối trên đây mà chỉnh lý, phê bình, phán đoán, so
sánh và xếp đặt lại thành cơ sở luận thuyết của triết phái mình
trong những bộ Brahma-sùtra hay Vedànta-sùtra. Sau học phái
Vedànta, các học phái trong Ấn Độ giáo mới dung hòa các học thuyết của
Asmarathya, Auduloni, Kasakrïtïsïna và luận thuyết Vedànta với
giáo lý của tông phái mình, mà làm giàu thêm cho khoa triết học
của Ấn Độ giáo.
Theo Brahma-sùtra (luận thuyết của học phái
Vedànta), trong dân gian có ba hạng người siêu việt, ba giai cấp
thượng tầng, là có tư cách trí minh của Brahman. Còn những người
khác vì kém hạch tố tư tưởng nên thiếu căn bản và minh liệu về lý
luận. Với ba giai cấp thượng tầng, vì được hàm chứa cái chân trí
thức tính Brahman nên học đến thánh kinh Vedas là hiểu thấu ngay
để tạo cho mình căn bản trí tuệ vững chắc và sáng suốt như Brahman. Cho
nên, những ai trong ba giai cấp thượng tầng mà dốc tâm tu hành
là quyết nhiên được giải thoát.
Đối với vấn đề Tuyệt đối Brahman, có hay không có
Brahman, Vedànta-sùtra luận rằng tất cả các kinh điển của các
giáo phái Bà La Môn đều có viết đến cả. Dù suy luận về phần tiểu
tiết hay cách hành văn diễn tả của mỗi kinh sách có khác nhau,
nhưng nếu quy vào trọng tâm thì bộ kinh sách nào cũng phải nương
vào giáo huấn của Brahman mà biện luận. Vậy, đã có lời giáo huấn là
có thực thể, đã có thực thể là có thực hữu Brahman.
Đối với quyền lực tuyệt luân đến vạn năng của
Brahman, Vedànta-sùtra (hay Brahman-sùtra) dẫn chứng rằng:
- Brahman tạo nên nhân dạng cho con người và giữ
cho nhân dạng ấy được đắp đổi liên tục thành cái thế trường tồn.
- Brahman tạo thực thể cho phần thuần túy tinh thần
để dưỡng thành trí thức.
- Brahman sáng tạo nên những hạch tố tư tưởng cho
con người để con người biết suy luận và phát ra bằng tiếng nói.
- Brahman có tự tính vĩnh cửu vô cùng vô tận, có tự
tính biến mất đi (tính biến) nhưng vẫn có tại đấy (tính tại)
Brahman ở cả ngoài vô hạn lẫn ở trong hữu hạn. Brahman là bất
diệt.
- Brahman sinh ra và khởi nên hình thể, dựng thành
đời sống của vạn hữu, vạn vật, tạo nên sự “tồn” bằng kế tục.
Brahman cho vạn hữu ra đời đấy rồi lại gọi về đấy, cho vạn vật
thành hình đấy rồi lại hủy diệt đấy, nói chung, Brahman là bà mẹ
bào thai cho tất cả.
- Brahman là chủ thể của mọi thứ “nhân” của chất
liệu toàn vũ trụ. Brahman là bậc nghĩ ra, an bài nên, sáng tạo
thành và xếp đặt tất cả những quy mô hoạt động của vũ trụ, của
thế giới, của vạn vật.
Luận về hiện tượng của thế giới, Vedànta-sùtra đi
từ nguyên nhân trước hết của thế giới. Nguyên nhân ấy nằm trong
hư không do Brahman tạo ra, rồi từ hư không thành ra gió, gió
thành ra lửa, lửa sinh ra nước, nước tạo thành đất đai. Đấy là
năm đại hay năm nguyên tố, là nguyên nhân thế giới. Ngũ đại này
khi thành thực thể ấy là thuận hướng mà ra, khi thực thể biến vào
cõi hư không ấy là nghịch hướng mà về. Vậy thế giới từ nơi chế tạo mà
có, có rồi tồn, tồn rồi tiếp nối, tiếp nối rồi trở về, trở về rồi
mất, mất rồi sinh, nhất nhất đều do từ quá trình an bài của
Brahman mà thành thực thể hiện tượng ấy cả.
Con người là thuộc một cá ngã. Cá ngã do từ Brahman
mà ra. Vậy con người là một bộ phận của Brahman, từ vô thủy dĩ
lai vẫn là dị hình nhưng đồng chất và bị an bài trong hệ thống
luân hồi. Nay là con người thì mục đích duy nhất trong đời sống
ấy chỉ là khoảng thời gian đi tìm lối ra khỏi luân hồi để tự giải
thoát.
Giải thoát là trở về hợp nhất với gốc cũ của mình
là Brahman vĩnh cửu và bất diệt. Những người, dầu thuộc hay không
thuộc ba giai cấp thượng tầng, nhưng biết dùng phần minh trí của
mình mà tu hành thì khi chết đi, cá ngã nguyên tố được dẫn vào
con đường Thánh đạo để lần lần đi tới Brahman. Khi nào trở về đến
nơi, hợp nhất với Brahman rồi thì vô lượng vô số cá ngã chỉ là
một trường cửu, vĩnh viễn, bất sinh, bất diệt.
Trên đây là tóm lược vũ trụ quan siêu hình của học
phái Vedanta.
VII. SIÊU HÌNH HỌC VỀ NGÔN NGỮ
Vào khoảng cuối thế kỷ V sdl, môn văn pháp học được
Bhartrïhari phục hưng. Cơ sở văn pháp học của ông dựa trên văn
chương và kinh sách về triết lý của học phái Vedànta mà khảo luận
và biện minh. Về tiểu sử của Bhartrïhari, có lẽ ông là người của
địa phương Avanti trên sông Gange, miền Trung Ấn. Một đời ông
đến bảy lần xuất gia và bảy lần hoàn tục vì khát vọng đi tìm chân
lý nhân sinh. Tương truyền, ông còn để lại những bộ:
- Vakyapadiya (Văn chương đơn ngữ biên)
- Mahabhàsyadipika (Đại chú thích thư giải minh)
- Bhartrïharisataka (Bhartrïhari Bách Tụng luận).
Bộ thứ ba này là tập thơ trữ tình, rất phong phú về
ý tưởng lãng mạn, phong nhã về từ cú bay bướm nên từ thời xa xưa
ấy đến nay, không thế hệ nào mà không có người ham đọc. Còn hai
bộ về môn văn pháp học kia, có phải đích thực ông trước tác nên
hay không thì đến nay vẫn còn là nghi vấn. Có điều rằng trên
phiến diện thì bảo là của ông nên cứ biết vậy mà thôi.
Ông cũng luận nhiều về triết lý vũ trụ và nhân
sinh. Theo ông, bậc tuyệt đối vẫn là Brahman với thực thể vĩnh
cửu siêu thời gian và siêu không gian, là chủ tể sáng tạo nên vũ
trụ. Thế gian, vạn hữu vạn vật đều do Brahman mà thành, nhất thể
nhưng dị thù, đều có đấy mà đều không đấy, đối lập đấy mà tương
hòa đấy. Tuy nhiên, nếu nói về quyền năng tuyệt đối của Brahman thì
còn huyền bí và cao diệu hơn thế nữa. Dẫu có diễn tả ra như là nhất
thể, là dị thù, là hữu, là vô, là đối lập, là tương hòa, nhưng
thực tế thì những lời lẽ ấy không thể diễn ra hết và tả đến cùng
được cái huyền bí và cao diệu kia. Brahman từ không mà ra có, từ
có lại về không, thì không- có có-không ấy là biến hóa chứ gì?
Nhưng với một hạn từ “biến hóa” không thể hàm súc nổi những vi
diệu của lẽ biến hóa thực của Brahman. Hoặc giả, nếu biến hóa tuy
cùng trong đồng nhất hiện tượng giới nhưng lại có sai biệt
tướng, có đa dạng tướng, hay biến hóa là ở phần vô hình sắc nhưng lại
chứa đựng cái tuyệt đối cao quý của con người là lời nói để làm
dây chằng nối tư tưởng từ người này sang người khác, thì “biến
hóa” ấy là tuyệt diệu, nhưng mà bằng hạn từ “tuyệt diệu” cũng
không đủ bộc lộ hết những biến hóa tuyệt diệu của Brahman được.
Nói chung, theo Bhartrïhari, con người không đủ lời nói để đạt
tới lĩnh vực quyền năng của Brahman được. Đấy là khái quát về tư
tưởng thượng sùng Brahman của thi gia này.
Bhartrïhari cho rằng “lời nói: ngôn ngữ” là phần
cao quý nhất của con người. Ngôn ngữ là kết hợp của lời và ý, tuy
là vô hình nhưng có đặc tính lưu mãi ở trong không gian, và
không biến đổi. Bản thể của ngôn ngữ không phải chỉ đơn thuần âm
thanh mà là Sphota. Sphota là âm thanh hàm chứa những vẻ đẹp muôn
màu sắc, là tiếng vang trong gió với những ý nghĩa cao siêu và
với nhạc điệu quyến rũ. Sphota là âm thanh vĩnh cửu siêu thời gian
và siêu không gian, phát ra rồi là bất diệt và bất biến hóa, hoàn toàn
bảo tồn mãi mãi được bản thể.
Ngôn ngữ là “đơn nhất”, không bị một quyền lực nào
phân tán ra được. Đặc tính của ngôn ngữ là vô hình, thế mà lại có
đặc thù đến thành loại, loại đơn, loại kép, loại đồng, loại dị,
loại trừu tượng, loại khách sáo, loại chân thực, loại phi chân
thực. Như vậy, ngôn ngữ là hữu tính (satta) chứ không phải vô
tính. Cái vô hình tính của ngôn ngữ quả là kỳ diệu. Tuy vô hình
đến độ cả vô hương vô vị, nhưng lại có bản thể để mà căn cứ phân loại
về giá trị, loại hơn, loại kém, loại hay, loại dở, để mà chọn lấy
hay thả buông cho bay đi cùng với gió thoảng.
Như vậy, ngôn ngữ lại có cái “bản thể ý nghĩa”
tiếng nữa. Bản thể ý nghĩa của ngôn ngữ vừa vô nội dung lại vừa
hữu hạn nội dung. Vô nội dung vì man mác bao la, thừa dung nạp
được đủ loại âm thanh mà loại nào cũng có ý nghĩa. Hữu hạn nội
dung vì ngôn ngữ chỉ đúng trong một phạm vi với “thiên tính”
(upadhi) để móc nối các đơn ngữ lại mà quảng diễn tư tưởng, làm sáng tỏ
một vấn đề cụ thể để lưu truyền mãi mãi.
Tính của ngôn ngữ cũng vừa chân thực, vừa phi chân
thực. Chân thực vì ngôn ngữ phản ảnh đúng chân tướng của Brahman
hay chân cảm của cá ngã. Phi chân thực vì lời nói có thể đánh lạc
chân tướng Brahman hay che đậy cái chân cảm của bản ngã. Tuy
nhiên, cả cái chân thực và phi chân thực cũng đều phải nương dựa
lẫn nhau mới có thể trường tồn, mất một bên này thì bên kia cũng
không còn nữa. Điều cần thiết là nơi con người phải có trí tuệ để
phân biệt chân, giả mà thôi.
Với con người, ngôn ngữ là phần
tuyệt cao quý, bởi tất cả những cái gì gọi là văn minh, hoặc thu
hẹp trong phạm vi sinh hoạt hàng ngày mà nếu không có ngôn ngữ
tất không thành tựu được. Thế nên “học nói” mới là cả một khoa
học lớn lao bắt đầu từ văn pháp học mà đi vậy.