THIÊN
XVIII
Khu vực tái sinh
Phần kết luận
KHU VỰC TÁI SINH
Khu vực là pháp tuyệt diệu lên cao từng
bậc của tâm vương và tâm sở, dịch theo thể tự [1]
là hạng hay cấp bực có bốn là:
1.-
Kaamaavacarabhuumi: là bậc tâm vương và tâm sở của phàm nhân
vì còn đề cập đến phiền não dục và vật dụng là đối tượng, như những kẻ
còn vừa lòng, vui thích trong sắc, thinh, hương, vị, xúc v.v.
2.-
ruupaavacarabhuumi: là bậc tâm vương và tâm sở của người đắc
thiền hữu sắc đã vượt qua cõi dục có sắc là đối tượng, hay nói cho dễ
hiểu, là hạng người đắc sơ thiền, nhị thiền v.v.
3.-
A ruupaavacarabhuumi: là bậc tâm vương và tâm sở của người
đắc vô biên thiên thức, vô biên thiền, vô hữu thiền và phi phi tưởng
thiền (1 trong 4 thiền vô sắc) bậc Này đã thoát khỏi sắc pháp, có vô sắc
pháp là đối tượng.
4.-
Lokuttabhuumi: là bậc tâm vương và tâm sở của thánh nhân đã
thoát ly được giới hạn của đời.
Nhưng trong Vi diệu pháp Paali trang 25 chia Bhuumi ra
làm bốn giống nhau, trừ, lấy thánh vực ra rồi thêm Apaayabhuumi[2]
(Khổ vực) vào như vầy:
Tattha
apayaabhuumi kaamasugatibhuumi, ruupaavacarabhuumi,
aruupaavacarabhuumi
ceti catasso bhuumiyo naamaataasu nirayo tiracchaanayoni pettivisayo
asurakaayo ceti paayabhuumi catubbidhaa hoti .
Manussa
caatummahaarajkaa tavatinsa yaamaa tisitaa nimmaanaratii
paranimmitavasavattii cetii kaamasugatibhaami sattavidhaa hoti. Saa
panaayani ekaadasavidhapi kaamavacarabhaamicceva sa.ngaha.m
gacchaati.
Brahmapaarisajjaa
brahmaputohitaa mahaabrahmaa ca pathamajjhaabhuumi, parittaabhaa
appamaanaabhaa aakassaraa ca dutiyajjhaanabhuumi, parittasubhaa
appamaanasubhaa subhaki.nhaa ca taliyajjhaanabhuumi, vehapphaalaa
asa~n~nasattaa suddhaavaasaa ca cuttutthajjhaanabhuumi, ceti
ruupaavacarabhuumi solaasavidhaa hoti.
Avihaa
otappaa sudassaa sudassi akani.t.thaa ceti suddhaavasabhuumi
pa~ncavidhaa
hoti.
Akaasaana~ncaayatanabhuumi
vi~n~na.na~ncaayatanabhuumi aki~ncaa~n~naayatanabhuumi
nevasa~n~naanaasa~n~naayatanabhuumi ceti aruupaabhuumi cutubbidhaa
hoti.
Dịch 4 khu vực là:
1.-
Apaayabhuumi: Khổ vực [3]
2.- Kaamasugatibhuumi: Hạnh
phúc trong dục vực.
3.- Ruupaavacarabhuumi: Tâm
trải đi trong sắc vực.
4.- A ruupaavacarabhuumi:
Tâm trải đi trong vô sắc vực.
Trong những khu vực ấy , khổ vực có bốn là:
1.-
Naraka: Địa ngục.
2.- Tiracchaanaagoni: Cầm
thú vực.
3.- Petavisaya: Ngạ quỉ vực.
4.- Asurakaaya: A-tu-la hội.
Kaamasugati có
7 là:
1. Người.
2. Tứ đại Thiên vương [4]
3. Đạo lợi thiên [5]
4. Dạ ma thiên [6]
5. Đẩu xuất đà [7]
6. Hóa lạc thiên [8]
7. Tha hóa tự tại thiên [9]
Hai khu vực đã giải trên (4 khổ vực+7 hạnh phúc dục vực) (thường kể
vào trong dục vực) (cõi dục).
Tâm trải đi trong sắc vực có 16 là:
1.-Brahmapaarisajjaa: Phạm hộ
thiên [10]
2.-Brahmapurahibha: Phạm cố
thiên vấn [11] Thuộc về Sơ thiền
3.-Mahaabrahma: Đại Phạm
thiên [12]
4.-Parittabhaa: Thiếu quang
thiên [13]
5.-Appamaanaabhaa: Vô lượng
quang thiên [14]
Thuộc về Nhị thiền
6.-Abhassaraa: Quang âm
thiên [15]
7.- Parittasubhaa: Thiếu
tịnh thiên[16]
Thuộc
8.- Aappamaa.nasubhaa: Vô
lượng tịnh thiên [17] về Tam thiền
9.- Subhaki.nhaa: Biến tịnh
thiên [18]
10.- Vehapphalaa: Quán quả
thiên [19]
11.- Asa~n~nisatta: Vô
tưởng thiên [20]
12.- Avihaa: Vô phiền thiên
[21]
13.- Atappaa: Vô nhiệt
thiên [22] Thuộc về Tứ thiền
14.- Sudassa: Thiện hiện
thiên [23]
15.- Sudassii: Thiện kiến
thiên [24]
16.- Akani.t.thà: Vô thiển
thiên [25]
Từ số 12 đến số 16 là Suddhaavaasabhuumi nhưng cũng liệt vào
tứ thiền (cõi mà các bậc A na hàm trú ngụ)
Aruupaabhuumi: vô sắc vực có 4 là:
1.-
Aakaasaana~ncaayataa: Không vô biên thiền.
2.- Vi~n~naana~ncaayatana:Thức
vô biên thiền
3.- Aaki~nca~n~nayatana:Vô
hữu sở thiền.
4.- Nevasa~n~naanaasa~n~naayatana:
Phi phi tưởng thiền.
Cộng tất cả là:
A
paayabhuumi: Khổ vực -- 4
K aamaasujatibhuumi: Hạnh phúc dục vực -- 7
ruupaavacarabhuumi: Phạm thiên trải đi trong sắc vực -- 16
Aruupaabhuumi: Phạm thiên trải đi trong vô sắc vực -- 4
Tổng cộng thành 31 vực
Trong 31 vực có thánh nhân sinh chăng? Hay là chỉ có phàm nhân mà
thôi?
Có Paali trong Vi Diệu Pháp đáp rằng:
Puthujanaaa labhanti
Suddhavaasu sabbathaa
Sotaapannaa ca sakidaa
Gaamino caapi puggalaa
Ariyaa no palabbhanti
Asa~n~naapaayabhumisu
Sesa.t.thaanesu labbhanti ariyanariyaapi
Phàm
nhân: 1
Đức Tu đà huờn: 1
Đức Tư đà hàm: 1
Cả 3 hạng người này hằng không sinh trong Suddhaavaasabhuumi
(ngũ tịnh phạm vực). Tám bậc thánh nhân cũng không sinh trong vô tưởng
chúng sinh vực (Asa~n~niisatvaabhaami)
và trong 4 A paayabhaami (khổ vực).
Cả Đức Thánh nhân và không phải Bậc Thánh nhân hằng sinh trong 21 vực
còn lại.
Trong Vi diệu pháp
Paali trang số 26 có đề cập đến sự tái sanh như vầy:
Apaayapatisandhi
kaamasugatipa.tisandhi ruupaavacara-pa.tisandhi
aruuvacarapa.tisandhi ceti
catubbidhaa pa.tisandhi naama. Tatha akusalavit
vipaakapekkhaasahagata
santiirana.m apaayabhuumiya.m okantikkhanepa tisandhi hutvaa tato
para.m
bhava.nga.mhutvaa bhaga.ngapariyosaane cavana.m hutvaa vocehijjhati
ayamekaa
apaayapa.tisa.ndhi naama .
Tái sinh có 4 là:
1.-
Apaayapatisa.ndhi: T ái sinh trong khổ vực.
2.- Kaamasugatipa.tisa.ndhi:
T ái sinh trong hạnh phúc dục vực.
3.- Ruupaavacarapatisa.ndhi:
t ái sinh trong sắc vực.
4.- Aruupaavacarapatisa.ndhi:
t ái sinh trong vô sắc vực.
Trong 4 loại ấy, tâm Akusalavipaakaupekkhaasantiira.na (quả
của tâm xả tìm tòi, tái sinh). Trong lúc chưa xuống khổ vực, tiếp theo
đó là trong nơi cuối, tiềm thức (Bhaganga) là Javana (tốc
lực) sinh rồi diệt. Đấy liệt vào Apaayapatisa.ndhi (khổ vực tái
sinh).
Tâm xả của thiện quả tìm tòi hằng sinh trong dục hạnh phúc vực, tức
là cõi người, là người bệnh tật như mù (từ khi sinh). Trong Tứ đại thiên
vương vực, dành cho hạng Atula như chư Thiên, do sự tái sinh, tiềm thức
tử rồi diệt.
Tiếng Paatisa.ndhi trong Vi Diệu Pháp mong mỏi đến tâm cho
chúng sinh sanh và chia theo 4 vực như vầy:
1)-
a paayapatisa.ndhi là tâm cho sanh trong khổ vực, tâm này là
ác quả xả tìm tòi.
2)-
K aamasugatipa.tisa.ndhi là tâm cho thụ sinh trong hạnh phúc
dục vực, tâm ấy là K usalavipaakupekkhaasantiira.na (thiện quả
tâm xả tìm tòi và Mahàvipàka 8 tâm đại quả thành 9 tâm).
3)-
Ruupaavacarapatisa.ndhi là 5 tâm cho thụ sinh trong 16 sắc
giới. Đây là Ruupaavacaravipaaka (5 quả tâm trải đi trong sắc
giới).
4)-
A ruupaavacarapatisa.ndhi là 4 làm cho thụ sinh trong Arùpabrahma
(vô sắc Phạm thiên vực) 4 tâm là A
ruupaavacaravipaaka (vô sắc quả tâm trải đi trong vô sắc
giới).
Tổng cộng thành 19 tâm là:
a
paayapatisa.ndhi: tâm tái sinh trong khổ cảnh --1
K aamasugatipa.tisa.ndhi: tâm tái sinh trong hạnh phúc dục
vực -- 9
Ruupaavacarapatisa.ndhi: tâm tái sinh trong sắc giới -- 5
A ruupaavacarapatisa.ndhi: tâm tái sinh trong vô sắc giới -- 4
Tổng cộng thành: 19
Khi đã giải về p a.tisa.ndhi (tái sinh) rồi trong Vi Diệu Pháp
có thuyết về tuổi thọ của chúng sinh trong các vực, như vầy:
Tesu catunna.m
apayaana.m manussaana.m vinipaatikaa-suraana~nca
aayuppamaa.naga.nanaaya
niyamo natthi:
Trong chúng sinh gồm có tâm tái sinh như đã giải dành cho 4 chúng
sinh trong khổ vực, người và thú không xác định tuổi thọ.
Tuổi trong hạng khổ vực và người không quyết định chắc được sự chết.
Có loại sống lâu, hay chết non. Nghiệp là chủ, nghĩa là còn nghiệp đến
đâu thì chúng sinh còn sống chịu quả của nghiệp đến đó. Có hạng thụ quả
của nghiệp 7 ngày, vừa hết nghiệp thì chết (như nàng m
allikaa hoàng hậu). Có hạng thụ quả của nghiệp dữ đến trọn A
tăng kỳ kiếp (như Đề Bà Đạt Đa).
Có Pàli như vầy:
Y
o ciira.m jiivati so vassasata.m jiivati appa.m va
bhiyyo vaa du.tiyampi vassasata.m na paapu.nati:
Người nào trường thọ, người ấy sống được 100 năm hoặc ít hơn 100 năm,
nhưng không đến 200 năm, như vậy.
Câu ấy cho biết rằng không có sự quyết định cái chết rằng: người đến
tuổi chừng ấy phải chết.
- C
aatummahaaraajikaana.m
pana devana.m nibbaani pa~ncavassasataani aayuppamaanam
manussagananaaya
navutivassasatasahassappamaana.m hoti .
Tato
catugu.na.m taavatinsaana.m
Tato
catugu.na.m yaamaana.m
Tato
catugu.na.m tusitaana.m
Tato
catugu.na.m nimmaanaratina.m
Tato catugu.na.m
paranimmitavasavatina.m navasata.n-cekaviisa vassaana.m kotiyo
tathaa
vassasatasahassaani satthi~nca vasavattisu (Paali Vi Diệu
Pháp).
- Về Chư Thiên cõi Tứ đại thiên vương có 500 tuổi. Nếu đếm theo
tuổi người là 9.000.000 năm (chín triệu năm).
Về Chư Thiên cõi Đạo lợi, nhơn với 4:9.000.000 X 4 = 36.000.000
Về Chư Thiên cõi Dạ ma là: 36.000.000 X 4 = 144.000.000
Về Chư Thiên cõi Đâu suất đà là: 144.000.000 X 4 = 576.000.000
Về Chư Thiên cõi Hóa lạc thiên là:
576.000.000 X 4 =
2.304.000.000
Về Chư Thiên cõi Tha hóa tự tại là:
2.304.000.000 X 4 =
9.216.000.000
Theo thứ tự như vậy.
Trong Vi Diệu Pháp chú giải có thuyết rằng:
50 năm ở cõi người bằng 1 ngày một đêm ở cõi Tứ đại thiên vương.
1.500 -- 1 tháng
27.000 -- 1 tháng
9.000.000 -- 500 năm
Đếm năm trời:
- Cõi: Năm
Tứ đại Thiên vương: 500 năm
Đạo lợi thiên: 10.000 năm
Dạ ma thiên: 20.000 năm
Đâu xuất đà thiên: 4.000 năm
Hóa lạc thiên: 8.000 năm
Tha hóa tự tại thiên: 16.000 năm
Tuổi trong hữu sắc Phạm thiên:
1.-
Brahma parisajjaa:có tuổi 1 phần 3 của kiếp.
2.- Brahmapurahita: nửa kiếp
3.- Mahaabrahma: 1 kiếp
4.- Parittabhaa: 2 kiếp
5.- Appama.naabhaa: 4 kiếp
6.- Abhassaraa: có tuổi của 8
kiếp
7.- Parittasubhaa: 16 kiếp
8.- Appama.naasubhaa: 32
kiếp
9.- Subhaki.nhaa: 64 kiếp
10.- Vehapphalaa: 300 kiếp
11.- Asa~n~nisatvaa: 500
kiếp
12.- Arihaa: 1.000 kiếp
13.- Atappaa: 2.000 kiếp
14.- Sudassaa: 4.000 kiếp
15.- Sudassii: 8.000 kiếp
16.- Akanniitthaa: 16.000
kiếp
17.- Aakaasaana~ncaayatana:
có tuổi của 21.000 kiếp
18.- vi~n~naana~ncaayatana:
40.000 kiếp
19.- Aaki~nca~n~nayataca:
60.000 kiếp
20.- n
evasa~n~naanaa~n~nayatana:
884.000 kiếp
PHẦN KẾT LUẬN
Vấn đề "Nghiệp" đã giải vừa thích đáng rồi.
Đây là phần kết luận để chư độc giả được xét nghiệm cho vừa với sự
phán đoán của mình rằng:
Triết lý về "Nghiệp" đây có xứng đáng đến sự tín ngưỡng chăng? Điều
khuyên để tự mình xét ấy là căn bản của Phật giáo. Bởi Phật giáo dành
phần cho ta chủ quyền ngẫm nghĩ kỹ càng vấn đề nghiệp bằng cách sáng trí
rồi nhận thức theo chân lý, không cho kẻ khác chi phối trong sự quyết
định.
Nghiệp là căn bản, là giai đoạn đầu tiên có quan hệ trọng yếu đến sự
tồn tại của sinh mệnh. Nếu ta hiểu lầm và không tin tưởng thì là mối hại
vô cùng nguy hiểm, khiến ta thực hành theo sở kiến ái dục rồi phải trầm
luân khổ hãi.
Phật giáo dạy nghiệp hướng về nhân quả, căn cứ vào: "Có nhân tất có
quả"; "Hết nhân cũng dứt quả" và biểu thị rằng: "Nghiệp tức là sự hành
vi, động tác của chính mình nghĩa là không thừa nhận có kẻ khác xen vào
trong sự tạo nghiệp của người. Như những quan niệm có giảng chung để
trong Thiên II và III.
Phật giáo cũng có phân nghiệp một cách tinh tế thành 12 thứ (xem
Thiên IV).
Để điều tra cho thấy rằng: Nghiệp cho quả hiển nhiên. Ta hiểu được
bằng cách thí dụ theo điều chế định, là có sự động tác tất có sự phản
ứng tương phản nhau (xem Thiên V). Nên điều tra sự tác nghiệp rằng: Ta
căn cứ vào cái chi mới biết được thế nào là lành nên hành sao là dữ phải
lánh? Điều này rất quan trọng. Vì thế thường, hay hành theo sự hiểu
riêng của mình, nên chi đời mới băn khoăn, lo sợ mỗi ngày. Trong Thiên
VI có dạy, phải tra xét tìm tòi sự thật rằng nghiệp như thế này có hại
đến mình chăng? Hoặc có hại đến kẻ khác chăng?
Bởi sự tạo nghiệp trong các tôn giáo khác phần nhiều sai hẳn với luật
nhân quả (xem Thiên VII). Trong Thiên VIII có chỉ dẫn rằng: người như
thế nào cũng do là nghiệp, không phải vì dòng dõi huyết thống.
Phần đông mong tạo nghiệp lành, hy vọng được lên nhàn cảnh, không ai
cầu xuống ác đạo. Nhưng có phương pháp nào hộ trợ, nâng đỡ cho chừa bỏ
được nghiệp ác và chỉ tạo việc lành mãi mãi chăng? Ðức Thế Tôn có thuyết
để trong Thiên IX và X.
Chúng sinh hằng tìm hạnh phúc theo lòng băn khoăn, lo lắng mới chịu
những phiền não khó khăn liên tiếp. Đức Chánh đẳng, Chánh giác mới phát
biểu sự tạo "4 nghiệp" như vầy:
1)- Có nghiệp cho vui trong hiện tại song cho khổ tiếp theo .
2)- Có nghiệp cho khổ trong hiện tại, cho khổ liên tiếp.
3)- Có nghiệp cho khổ trong hiện tại, nhưng cho vui về sau.
4)- Có nghiệp cho vui cả trong hiện tại và trong tương lai.
Nền tảng này là trọng yếu cho sự tạo nghiệp bằng nước tâm nhẫn nại,
và từ bi để hưởng hạnh phúc về sau. (xem Thiên XI và XII). Khi đã tạo
nghiệp nào, nghiệp ấy sẽ cho quả đến ta.
Nghiệp lành có danh rõ rệt là người tốt; nghiệp dữ cũng có danh rõ
rệt là kẻ hạ tiện.
Quả của pháp và bất hợp pháp chẳng đồng. Ta phải chọn lấy bằng cách
nào?
Trong nơi cuối, giải về dây xích của nhân và quả cho hiểu rõ pháp
xoay tròn trong nẻo luân hồi, gồm có tâm sở, vực (cõi, tái sinh). Theo ý
nghĩa đây mong rằng vấn đề "triết lý về nghiệp" sẽ đem lại nhiều lợi
ích đến chư quý độc giả. Muốn tu dưỡng[26]
và tiến hành vững bước trên đường giải thoát, điều cần
thiết trước tiên, phải tin tưởng, đem lòng chắc đặt vào nghiệp là có sự
ngưỡng mộ, kiên cố trong lý nhân quả [27]
như thế mới mau đạt đến mục đích cứu cánh, thoát
ly được sinh tử luân hồi, theo 12 năng lực dưới đây:
Sự tín ngưỡng thuyết nhân quả là phần đầu tiên của 12 năng lực là:
- 1.-
Saddhaa jaato upasa.nkamati: Người có đức tin hằng vào
tìm bậc trí tuệ.
2.-
Upasa.nkamatvaa payiruupaasati: Đã vào tìm rồi hằng ngồi
gần.
3.-
Payiruupaasanto sota.modahati: Khi được ngồi gần hằng
lóng tai.
4.-
Ohitasoto dhamma.m su.naati: Đã lóng tai rồi hằng nghe
pháp.
5.-
Sutvaa dhamma.m dhaareti: Nghe rồi hằng ghi nhớ pháp.
6.-
Dhatana.m dhammaana.m upararikkati: Khi đã ghi nhớ pháp
rồi hằng xác định ý nghĩa.
7.-
Attham upaparikkhato nijjaana.m khamanti: Khi đã xác định
ý nghĩa rồi, các pháp hằng đáng đến sự điều tra.
8.-
Dhammanijjhaanakkhantiyaa dhantojaayatido: Sự điều tra
pháp ấy, tâm thỏa mãn sẽ phát sinh.
9.-
Chanda jaate ussaahati: Khi đã phát sinh sự thỏa mãn thì
chăm chỉ, cần mẫn.
10.-Ussahitvaa
tulayati: Khi đã chuyên cần rồi hằng đắn đo cân nhắc.
11.-Tulayitvaa
padahati: Đã cân nhắc rồi hằng cố gắng để đạt mục đích.
12.-Pahitatto
samaano kaayena ceva paramatthasacca.m sacchikaroti pa~n~naaya ta.m
pativijjha passati: Khi đã cố gắng đạt mục đích rồi hằng làm cho
thấy rõ pháp diệu đế bằng thân, hằng quán triệt, pháp diệu đế bằng trí
tuệ.
Hết
Chú thích:
[1] Thể tự: Ruupaasabda: hình thể của chữ.
[2] Khổ vực: nơi khổ cảnh.
[3] Vực: cõi.
[4] Chỗ ngụ của 4 Đại Thiên Vương.
[5] Chỗ sinh, chỗ ngụ của 33 người đã tạo phước chung
cùng nhau.
[6] Hạng có đầy đủ hạnh phúc.
[7] Hạng vui mừng hớn hở.
[8] Biến hóa theo mong muốn.
[9] Chư thiên khác biến hóa theo sở thích.
[10] Phạm thiên tầng này là hộ tống của đại Phạm
thiên.
[11] Phạm thiên tầng này là cố vấn của đại Phạm thiên
.
[12] Đại phạm thiên có sắc đẹp và trường thọ.
[13]
Có hào quang ít.
[14] Có hào quang vô lượng.
[15] Có hào quang tía ra như ngọn lửa.
[16] Có sự tốt đẹp ít.
[17] Có sự tốt đẹp vô lượng.
[18] Có sự tốt đẹp do nhiều hào quang, như tia sáng
của vàng ròng mênh mông.
[19] Có quả.
[20] Không tư tưởng.
[21] Không tiêu tan hạnh phúc của mình.
[22] Không làm cho người nào nóng nảy.
[23] Có sắc đẹp cực kỳ.
[24] Có kiến thức chân chánh tốt đẹp.
[25] Có đầy đủ tín ngưỡng và tài sản.
[26] Tu dưỡng: dùng công phu mà trau dồi tâm tánh.
[27] Lý nhân quả: ta phải tin nhân, tin quả, tin
nghiệp là của mình, tin sự giác ngộ của Phật.