45. LÒNG CHA
(phỏng dịch theo
R..Tagore)
Mini, bé gái năm tuổi của tôi, có
lẽ không sống được nếu không nói ba hoa suốt ngày. Tôi
nghĩ suốt đời cô bé đã không phí một phút giây nào im
lặng. Mẹ nó thường bất bình về điều ấy, và thường
tốp cô lại, nhưng tôi thì không. Với Mini, im lặng là
chuyện bất thường, và tôi không thể chịu đựng lâu. Bởi
thế, câu chuyện giữa tôi và cô bé luôn luôn linh động.
Chẳng hạn một buổi sáng, khi tôi đang viết dở một chương
tiểu thuyết thì cô bé lẻn vào, cầm lấy tay tôi mà nói:
- Cha! Lão bộc gọi con chó là con muông.
Lão không biết gì cả, phải không cha?
Tôi chưa kịp giảng giải, thì cô bé
đã bắt sang một vấn đề khác:
- Cha nghĩ sao, Cha? Bộc nói có con voi
trong những đám mây, vòi nó phun nước, và thế là trời mưa.
Có phải vậy không, Cha?
Trong khi tôi đang tìm cách trả lời
câu này, bé đã hỏi một câu khác:
- Cha, mẹ và cha bà con ra sao nhỉ?
Tôi cố lập nghiêm bảo:
- Ra chơi với Bộc đi, Mini. Cha đang
bận.
Cửa sổ phòng tôi trông ra đường.
Cô bé đã ngồi xuống dưới chân tôi cạnh bàn viết, và đang
chơi một mình. Tôi đang suy nghĩ rất lung để viết. Bỗng cô
bé Mini vùng chạy lại cửa và reo lên:
- Ông Cabul, ông Cabul!
Và quả thế, ngoài đường dưới
kia, một người đàn ông miền Cabul đang tiến bước. Y mục
bộ y phục lỏng lẻo dơ dáy, buộc một thắt lưng dài, lưng
mang chiếc bị, tay cầm những hộp nho khô. Không biết cô bé
nghĩ gì khi thấy người này, nhưng cô bắt đầu gọi ông
thật lớn. Ngay lúc ấy lão ta quay lại nhìn lên cô bé. Cô bé
thấy vậy thật kinh hồn vía, chạy bay đến núp bên mẹ. Cô
tin chắc thế nào trong chiếc bị mà lão đang mang cũng có hai
ba đứa trẻ con như cô. Người hàng rong ấy đã vào đến
cửa và mỉm cười chào tôi. Phản ứng đầu tiên của tôi là
mua một món gì đó, vì Mini đã gọi y vào nhà. Tôi mua ít
vật dụng, và chúng tôi khởi sự nói chút đỉnh chuyện chính
trị. Khi sắp từ giã, bỗng hắn hỏi:
- Còn cô bé đâu rồi, thưa ông?
Nghĩ rằng nên làm cho Mini hết sợ hão
huyền, tôi cho đem cô bé ra. Cô đứng bên ghế tôi, nhìn chòng
chọc vào người Cabul cùng chiếc bị. Y biếu cô ả đậu
phụng và nho khô, nhưng cô nhất định không để bị dụ
dỗ. Cô càng bám riết lấy tôi, và càng nghi ngờ lão thêm.
Ðấy là cuộc gặp gỡ đầu tiên
giữa lão Cabul và cô bé. Tuy nhiên, vài hôm sau, khi đi ra có tí
việc, tôi giật mình thấy Mini ngồi trên chiếc ghế nhỏ
cạnh cửa ra vào, đang cười nói với lão Cabul ngồi dưới
chân. Suốt đời, cô chưa bao giờ được ai ngoài cha cô, đã
nghe cô một cách chăm chú như vậy. Cái túi cô đã đầy ắp
đậu phụng và nho khô quà của người khách lạ. "Sao ông
cho nó làm gì thế?" Tôi nói, vừa rút tiền trả cho lão.
Ông thản nhiên nhận tiền cho vào túi.
Một giờ sau trở về tôi mới thấy
tai hại của đồng bạc tôi đưa ra, vì Cabul đã đưa cho
Mini, và khi mẹ nó thấy đồng bạc bèn vồ lấy cô bé:
- Mày lấy đồng bạc kia ở đâu, bé?
- Ông Cabul cho con! Mini hớn hở đáp.
- Ông Cabul cho mày! Mẹ nó thét lên.
- Mini, sao dám lấy bạc hở?
Vừa lúc ấy tôi đi vào cứu cô bé
thoát nạn bị đòn. Tôi tiếp tục điều tra về đôi bạn.
Tôi khám phá đấy không phải lần
đầu họ gặp nhau. Người Cabul đã đánh tan sự hãi sợ
của cô bé bằng cách đút lót thật nhiều đậu phụng và
nho khô. Ðến nay hai bên đã thành đôi bạn thiết. Họ có
nhiều trò đùa mà họ rất khoái. Mini thường ngồi trước lão
Cabul, nhìn xuống vóc dạng khổng lồ ấy với vẻ đường
bệ của một bà chủ tí hon, khuôn mặt cười lên rạng rỡ,
và cô hỏi:
- Ông Cabul, ông Cabul, ông đựng cái
gì trong bị ấy?
Và ông lão sẽ trả lời bằng
giọng mũi của người thượng du:
- Một con voi!
Không có gì đáng tức cười lắm,
vậy mà họ khoái làm sao. Và riêng tôi, cuộc chuyện trò
giữa một đứa trẻ với người lớn luôn có vẻ gì rất
quyến rũ.
Rồi người Cabul, để khỏi thua
bạn, bắt đầu hỏi lại cô bé:
- Còn cô, này cô bé, bao giờ thì cô
về nhà ông nhạc?
Hầu hết các cô bé Ấn đều sớm
nghe danh từ ấy, nhưng chúng tôi thì không bao giờ nói những
chuyện như thế với con gái. Cho nên trước câu hỏi này, cô
hơi chột dạ. Nhưng cô không muốn để lộ sự lúng túng
của mình, và đã hỏi lại:
- Còn Ông có về đấy không?
Ðối với giai cấp người Cabul này,
thì từ ngữ "về nhà ông nhạc" lại có nghĩa là nhà
tù, nơi họ được ăn ở miễn phí. Người ấy bèn trả
lời:
- Ồ, tôi sẽ đánh vỡ mặt ông
nhạc ra!
Vừa nói lão vừa nắm tay hăm dọa
một viên cảnh sát vô hình. Mini nhíu mày, rồi cười lên như
nắc nẻ. Lão cũng cười theo phụ họa.
Ðấy là vào những buổi sáng đầu
thu, mùa các vua chúa ngày xưa lên đường viễn chinh dẹp
giặc. Còn tôi không rời khỏi góc nhà quê hương nhưng vẫn
để tâm hồn phiêu du khắp chân trời góc bể. Mỗi khi nghe
địa danh một nơi nào, hồn tôi đã vươn tới chỗ ấy, và
bóng một người xứ khác đến trên đường cũng khiến tôi
dệt nên những giấc mơ xa xăm về quê hương của anh ta ở
cuối chân trời, nghĩ đến những cuộc đời giang hồ phóng
lãng. Những xứ lạ hiện lên trong trí tôi càng sống động,
có lẽ vì cuộc sống hiện tại của tôi quá giống với cỏ
cây. Tiếng gọi viễn du réo rắc trong tôi như tiếng sóng
triều gào thét. Bởi thế, trông thấy người Cabul này, trí tôi
liên tưởng ngay đến những vùng núi non cản cỗi trên cao,
chen chúc với mây trời. Tôi mường tượng những đoàn lạc
đà chở hàng đi trên sa mạc, những thương gia lưng đeo vũ
khí hộ thân đang tiến về hướng bình nguyên. Tôi thấy và
thấy trong trí tưởng...
Nhưng giữa lúc ấy, luôn luôn mẹ
Mini sẽ xen vào, tha thiết dặn tôi phải "coi chừng lão
ấy". Bà rất dè dặt mỗi khi nghe tiếng huyên náo ngoài
đường, hay thấy người vào nhà, và luôn đi đến kết
luận một là kẻ cướp, hai là kẻ say, hoặc rắn hổ mang,
bệnh sốt rét, phong cùi. Sau bao nhiêu năm kinh nghiệm giữa
đường đời, bà vẫn chưa thắng lướt được nỗi sợ hãi
kinh niên trong lòng bà. Bởi thế, bà luôn luôn nghi ngờ về
người Cabul, và thường van nài tôi phải coi chừng lão ấy.
Nếu tôi cố xua đuổi nỗi sợ hãi vô căn cứ của nàng
bằng cách cười lớn, thì nàng nghiêm mặt hỏi với đáng điệu
rất trịnh trọng:
- Thế trẻ con không bao giờ bị
bắt cóc ấy à? Thế không phải ở Cabul còn có bán nô lệ
à? Một người đàn ông to lớn bắt một đứa trẻ bé xíu
không được hay sao?
Tôi nói, không phải là không được,
nhưng không lẽ nào có chuyện như thế xẩy ra. Tuy thế nàng
vẫn lo sợ. Nhưng vì nỗi sợ hãi ấy thật bâng quơ, nên không
lý gì để cấm đoán lão vào nhà. Sự thân thiện giữa đôi
bạn một khổng lồ một chim chích vì thế vẫn tiếp tục không
bị ngăn cản.
Hàng năm vào giữa tháng giêng, Rahman
tên người Cabul ấy, thường về xứ một lần, và khi sắp
về, y thường rất bận rộn đi các nhà để thâu tiền nợ.
Năm nay tuy vậy ông vẫn còn thì giờ đến thăm Mini. Một người
khác rất có thể nghi ngờ lão có mưu toan gì đấy, vì khi không
tới được buổi sáng lão cũng tới vào buổi chiều. Ngay
cả tôi đôi khi cũng phải chột dạ chút đỉnh lúc bắt
gặp bóng người to lớn ấy đứng trong góc phòng tôi. Nhưng
khi Mini hớn hở reo "Ồ ông Cabul, ông Cabul" và đôi
bạn khởi sự những trò đùa thường lệ, thì tôi lại yên
tâm ngay.
Một buổi sáng vài ngày trước khi lão
về xứ, tôi đang chữa lại bản thảo trong phòng viết.
Trời rất lạnh. Qua song cửa, ánh mặt trời chiếu vào sưởi
ấm hai chân tôi. Lúc ấy vào khoảng tám giờ, những khách
bộ hành đi đường đang trùm khăn lạnh. Bỗng chốc tôi nghe
ngoài đường huyên náo. Nhìn ra thì thấy Rahman đang bị còng
tay dẫn đi giữa hai người cảnh sát, sau lưng là một lũ
trẻ tò mò. Áo quần Rahman dính đầy máu, và một trong hai
cảnh sát đang cầm một con dao. Tôi vội bước ra h?i xem có
chuyện gì. Từ mỗi người một ít, tôi được biết rằng
một người lối xóm đã nợ Rahman tiền mua một cái khăn quàng,
nhưng lại chối bảo không từng mua nó. Trong lúc cãi vả,
Rahman đã đánh người kia. Bây giờ, trong cơn tức giận,
phạm nhân chửi rủa đối phương đủ điều.
Nhưng bỗng chốc từ hiên nhà tôi,
Mini đã xuất hiện với tiếng reo thường lệ "Ông Cabul,
ông Cabul". Gương mặt người Cabul rạng rỡ lên khi nhìn
thấy cô bé. Hôm nay lão không mang chiếc bị, nên cô bé không
thể nói về con voi với lão. Bởi thế cô hỏi sang câu thứ
hai:
- Ông về nhà ông nhắc ấy à?
Rahman cười lớn bảo: - Chính thế,
bé đi! Rồi thấy câu trả lời không làm cô bé thích thú, lão
đưa hai bàn tay bị còng lên: - A! Ðáng lẽ tôi đánh cho vỡ
mặt ông nhạc, nhưng tay tôi bị còng rồi.
Bị kết tội cố ý giết người,
Rahman ở tù nhiều năm. Thời gian trôi nhanh, Rahman đã bị quên
lãng. Công việc thường ngày trong chỗ ở thường ngày vẫn
tiếp diễn, nên chúng tôi không bao giờ nghĩ đến một người
thượng du nghèo khó đang chịu tù tội trong ngục thất. Cả
đến cô bé Mini cũng đã quên mất người bạn cũ của nàng.
Càng lớn nàng càng chơi nhiều với bạn gái, và không còn vào
phòng làm việc của tôi như trước. Bởi thế tôi rất hiếm
dịp nói chuyện với con.
Nhiều năm trôi qua, lại một mùa thu
trở về. Chúng tôi đang sửa soạn hôn lễ cho cô gái Mini
của chúng tôi. Ðám cưới sẽ cử hành trong một dịp lễ.
Với Mini về nhà chồng, ánh sáng của ngôi nhà cũng sẽ đi
theo, để lại cha nàng trong bóng tối. Buổi mai ấy thật tươi
sáng. Sau những ngày mưa, không trung như đã được rửa
sạch và ánh sáng mặt trời trông như ánh vàng ròng. Những tường
gạch cũ kỹ ngoài đường phố cũng sáng lên dưới ánh
nắng trong vắt. Từ rạng đông, những hồi còi đã vang lên
báo hiệu hôn lễ. Mỗi hồi còi làm cho tim tôi rộn ràng muôn
mối, làm tăng nỗi đau buồn của tôi trước cảnh chia ly.
Mini sẽ về nhà chồng đêm ấy. Trong sân, lọng che rợp đất.
Những đèn lồng và lục lạc được treo khắp các phòng và
hiên nhà. Khắp nơi người ta vội vàng hối hả.
Tôi đang ngồi trong phòng một mình tư
lự thì bỗng một người đi vào lễ phép chào, và đứng trước
mặt tôi. Ðấy là Rahman, người Cabul dạo nọ. Ban đầu tôi
không nhận ra lão, vì lão không mang bị, mảng tóc dài đã
được hớt cao, và vẻ cường tráng năm xưa không còn nữa.
Nhưng khi lão mỉm cười, tôi lại nhận ra ngay. - Ông về lúc
nào thế, Rahman? - Tôi được thả tối qua.
Những lời ấy làm tai tôi hơi choáng.
Tôi chưa bao giờ nói chuyện với một người nào đã cố ý
đả thương đồng loại. Lòng tôi đau nhói khi nhớ ra điều
này, vì tôi nghĩ ngày ấy sẽ tốt đẹp hơn nếu hắn ta đừng
xuất hiện.
- Hôm nay nhà có việc, và tôi đang
bận. Có lẽ ông có thể đến vào một dịp khác chăng?
Lão liền quay đi, nhưng khi ra đến
cửa, lão ngập ngừng bảo: - Thưa ông, tôi có thể thăm cô bé
một lát? Lão tin tưởng rằng Mini vẫn còn bé xíu như ngày xưa.
Chắc lão mường tượng cô bé sẽ chạy ra hớn hở gọi
"ông Cabul, ông Cabul" như dạo nào, và họ sẽ cười
đùa với nhau như trước. Quả vậy, cũng như những ngày xưa,
hôm nay lão cũng mang đến ít đậu phụng và nho khô gói kỹ
trong bọc giấy. Những thứ ấy không biết làm thế nào lão
kiếm được trong lúc mới ở tù về.
Tôi lặp lại: - Nhà có việc, ông không
thể gặp ai hôm nay cả. Lão sa sầm mặt, và nhìn tôi với
vẻ thèm muốn số phận của tôi, đoạn nói một lời chúc
tụng rồi đi ra. Tôi hơi thương hại, muốn gọi lão trở vào.
Nhưng lão đã tự ý quay trở lại, đến cạnh tôi mà bảo: -
Thưa ông, tôi đã đem lại chút quà này biếu cô bé. Ông có
thể trao lại giùm tôi? Tôi nhận gói quà, định trả tiền,
nhưng ông ngăn lại:
- Ông thật quý hóa. Xin ông hãy nhớ
đến tôi là đủ. Ðừng cho tôi tiền. Ông có một cô con gái.
Tôi cũng có một bé gái giống như thế ở quê nhà. Tôi nhớ
con tôi, nên mang quà tới cho cô bé, chứ không phải để hòng
kiếm chác gì đâu.
Nói xong lão sờ tay vào túi trong,
lấy ra một mảnh giấy dơ dáy, mở ra vuốt thật thẳng với
cả hai tay trên mặt bàn. Mảnh giấy in hình một bàn tay nhỏ
xíu. Không phải một bức ảnh, hay bức họa, mà chỉ là
dấu mực in một bàn tay bé con trên tờ giấy nhàu nát. Hình
bàn tay của con gái lão, lão đã luôn mang theo bên trái tim mình,
từ khi lão đến xứ này bán hàng rong năm này qua năm khác.
Mắt tôi ướt đẫm. Tôi quên rằng
lão là một người thượng du nghèo khó, còn tôi...Ồ không,
tôi có gì hơn lão? Lão cũng là MỘT NGƯỜI CHA. Bàn tay in
của cô bé con lão ở vùng thượng du quê nhà xa xăm của lão,
nhắc tôi nhớ đến con tôi. Tôi cho gọi ngay Mini vào. Cô bé
đang mục chiếc áo cưới bằng lụa đỏ, trang sức kiểu cô
dâu, rụt rè tiến đến bên tôi. Người Cabul dường như kinh
ngạc trước sự xuất hiện này. Lão không thể làm sống
lại tình bạn ngày trước. Cuối cùng lão mỉm cười: - Cô bé,
có phải cô sắp về nhà ông nhạc đấy không?
Bây giờ thì Mini đã hiểu nghĩa danh
từ "ông nhạc" nên không trả lời, đỏ mặt đứng
trước lão với vẻ e lệ của cô dâu mới. Tôi nhớ cái ngày
họ gặp nhau lần đầu, và lòng tôi se lại. Khi con tôi trở
vào nhà trong, Rahman thở dài buồn bã, ngồi phịch trên sàn
nhà. Có lẽ lão bỗng nhớ rằng con gái lão cũng phải lớn lên
nhiều, trong thời gian lão xa quê. Lão sẽ phải làm quen với
cô bé trở lại. Chắc chắn lão không còn gặp lại một cô
bé như ngày lão từ giã ra đi. Ngoài ra, biết đâu lại không
có bao nhiêu chuyện xẩy đến cho nàng sau mười mấy năm xa cách.
Tiếng còi lại vang lên, ánh mặt
trời dịu của mùa thu lan khắp không trung. Rahman ngồi trên
đất này mà tưởng như thấy trước mắt miền núi khô cảm
của quê hương. Tôi lấy ra một xấp bạc và bảo: - Rahman, hãy
về quê với con gái ông đi. Cầu nguyện cho hạnh phúc tái
ngộ của cha con ông sẽ đem lại cho con gái tôi nhiều may
mắn! Sau khi biếu lão món tiền, tôi đã giảm bớt nhiều
lễ lạc, như không thể bắt điện, cũng không thể mướn
ban nhạc giúp vui, và điều này làm nhiều bà thất vọng. Nhưng
với tôi, buổi hôn lễ thật rực rỡ hơn lên, khi nghĩ rằng
ở miền đất xa xăm kia, có một người cha biệt tích tha phương
đang được trở về gặp lại đứa con yêu dấu.