39. ÐẠO TRÀNG CỦA BỒ TÁT
(Theo chuyện kể của Hòa
thượng Thiền Tâm)
Ngày xưa ở một ngôi chùa lớn tại
Trung Quốc, có một vị sư nổi tiếng là khùng. Thầy không
bao giờ ở chùa, quanh năm mặc cái áo rách đi lang thang la cà
khắp các trà đình tửu điếm bạn với những kẻ côn đồ,
xì ke, ma túy. Những kẻ này sau khi giao thiệp với thầy,
phần lớn đâm ra hiền lương và trở thành những hiệp sĩ
ưa giúp đời. Chúng tụ tập tại các bến xe, đỡ đần gánh
nặng cho những người già yếu, sản phụ trẻ con. Sau những
giờ làm việc nghĩa, chúng hội họp ôn lại những lời dạy
bảo của vị sư khùng. Ðược biếu món gì ngon chúng để dành
cúng dường vị thầy yêu mến vì lâu lâu chúng mới chúng
mới thấy được bóng thầy ngất ngưỡng trở về đô thị
một lần. Thầy đi đâu? Thì ra chỗ hóa duyên của thầy là
một làng đánh cá ở ven biển. Thầy thường ở trong làng đó,
thỉnh thoảng mới trở về chùa một vài ngày, vào các dịp
giỗ lớn.
Chúng tăng trong chùa rất bực bội
về bề ngoài của thầy khùng, thật là mất hết thể thống
của một vị tăng. Nhất là khi họ thấy thầy không thường
trai như quy luật nhà chùa. Thầy không đòi ăn gì khác hơn đại
chúng mỗi khi về chùa, nhưng buổi sáng thầy về thì buổi
chiều họ đã thấy "bổn đạo" của thầy ở biển
gánh tới chùa một gánh cá biển, tôm, cua, đủ thứ sơn hào
hải vị để cúng dường. Thầy quát mắng:
- Tiên sư tụi bay, ta ăn gì hết mà
gánh tới nhiều dữ vậy? Lần sau có muốn đem cho thì chỉ
cho tao một con cá là đủ.
Một điều quái lạ, mặc dù thầy
đối với họ có vẻ thô lỗ cộc cản, những người đánh
cá xem ra rất kính trọng thầy. Họ xoa tay cười nịnh:
- Dạ để thầy biếu bà con trong chùa...
Chúng con nghĩ là chùa đông người.
- Ý, tụi bay ngu. Các thầy chùa không
có hạp thứ này, hiểu chưa? Chỉ có tao. Thôi, về đi.
Họ riu ríu kéo nhau ra về, hớn hở
sau khi được cúng dường thầy vài con cá, và được gặp
thầy. Ðến giờ thọ trai, thầy ngồi vào bàn chư tăng, xách
theo con cá biển mới luộc. Tăng chúng không chịu nổi mùi
tanh, vác chén chạy, tránh ngồi gần thầy. Thầy cười hề
hề điềm nhiên gắp cá luộc chấm nước tương ăn qua bữa.
Chỉ có vị phương trượng hình như
rất hiểu và thương thầy, do đó tăng chúng không dám bàn ra
tán vào mặc dù thái độ nghêng ngang của thầy. Vì lâu lắm
thầy mới về chùa, nên phương trượng cùng ngồi chung bàn
với các đệ tử vào những dịp ấy. Ðó là một biểu lộ
rõ rệt của lòng ưu ái nơi bậc thầy khả kính. Có thầy,
phương trượng vui hẳn lên. Hai thầy trò đàm đạo rất tương
đắc. Phương trượng dường như không mấy may quan tâm tới
mùi tanh nồng nặc của con cá thầy đang ăn, mặc dù chính ngài
thì đang dùng rau muống luộc.
Trong bữa ăn ấy, thầy khùng lỡ đánh
rắm kêu cái đùng. Thầy điềm nhiên bỏ đũa, ra trước đại
chúng lạy ba lạy sám hối. Lạy xong, trở về chỗ cũ tiếp
tục ăn. Vài người không nhịn cười được, vừa ăn vừa cười
khúc khích. Thầy quắc mắt, mắng:
- Tiên sư tụi bay, ta đã lạy sám
hối, còn cười cái gì? Ngồi ăn trước mặt thầy không được
cười giỡn.
Bẵng đi một dạo khá lâu, thầy không
trở về chùa. Một buổi chiều nọ, tăng chúng thấy thầy
thất thểu bước lên đồi, dẫn đến chùa, mặt mày nghiêm
trang khác hẳn mọi khi. Chúng ra chào thầy:
- Hôm nay sao sư huynh nghiêm trang thế?
- Ngày mai về giỗ tổ, ta về bái
biệt thầy đây.
- Sư huynh đi đâu?
- Về chầu tổ.
Ðại chúng cười rộ, không tin lời
thầy. Nhưng đến giờ ngọ hôm sau, tắm rửa xong thầy vào
nhà lạy phương trượng ba lạy từ biệt và bảo đại chúng:
- Hãy lên chuông trống bát nhã đi. Tây
phương tam thánh sắp đến rước ta rồi.
Ðại chúng chưa tin hẳn, nhưng nhìn
ra thì thấy cả làng đánh cá ùn ùn kéo lên chùa tiễn đưa
sư phụ của họ về Tây phương. Một mùi hương lạ xông
khắp, và trên hư không, mọi người đều trông thấy ba
luồng ánh sáng chói lòa của Tây phương tam thánh (Di Ðà,
Quan Âm, Thế Chí) đến rước người con yêu dấu của các Ngài
khi vị này đã mãn duyên hóa độ.
Ba hồi chuông trống vang rền, trong
khi sư khùng điềm nhiên tọa tịch trong tư thế kiết già. Ðại
chúng rơi lụy sặp lạy sám hối trước con người mà họ thường
báng bổ vì không thể hiểu thấu hành tung của Ngài. Sau khi
ngài thị tịch, đại chúng hỏi phương trượng:
- Bạch thầy, thì ra sư huynh chúng
con tu mật hạnh khó nghĩ bàn. Nhưng tại sao người phải làm
như vậy, sao không sống bình thường như những vị khác?
- Ðể hóa độ những dân dao búa, đệ
tử ta phải là như vậy. Nhờ ông ấy mà cả làng đánh cá
mới quy y theo Phật, đa số bỏ hẳn nghề ác. Cho nên xét người,
các ông chớ nên chỉ xét bề ngoài. Ðức Phật đã dạy:
"Nếu thấy tướng mà không chấp tướng mới thấy được
Phật", các ông phải nhớ lấy điều ấy.
LỜI BÀN:
Ðừng bắt chước. Tây Thi đau
bụng nhăn mặt thì đẹp như tiên, nhưng không đau bụng và
không phải Tây Thi mà nhăn mặt thì chỉ đẹp như... khỉ.
--o0o--