37. THAM Y HÓA RẮN
Thuở Phật còn tại thế, ở vườn 
Cấp cô độc, có một vị tân tỳ kheo (tỳ kheo mới thụ 
giới) được cúng một bộ y katê tuyệt đẹp. Thầy mân mê 
bộ y không rời, tối dùng làm gối ngủ. Ðêm ấy rủi thay 
thầy bị trúng gió nặng, cấm khẩu, các vị đồng phạm 
hạnh tìm đủ cách cứu chữa, nào cạo gió, nào thoa bóp 
dầu nóng, nào hô hấp nhân tạo... song đều vô hiệu. Thầy 
trút hơi thở cuối cùng. Vì tâm thức cuối cùng của thầy là 
ham thích bộ y mới, nên khi thoát xác, thần thức thầy thác 
sanh vào loài rắn đeo cứng vào bộ y katê. Con rắn khôn ngoan 
chui tuốt vào cái giải "Bần bà" (1) để mọi người 
khỏi thấy.
Sau khi vị tỳ kheo qua đời, y lệ nhà 
chùa chúng tăng chia đều cái tài sản nhỏ bé của thầy, 
trong đó có bộ y. Với Phật nhãn đức Thế tôn rõ vị tỳ 
kheo đã hóa làm con rắn đang ôm giữ chiếc y, nên ngài bảo 
đại chúng:
- Các ông có "quân tăng" (2) 
tài sản của tân tỳ kheo ấy, thì hãy chừa bộ y lại, để 
tuần sau hãy chia.
Các tỳ kheo không hiểu vì sao Thế tôn 
bảo chừa bộ y, nhưng không dám trái mệnh bèn đem bộ y ấy 
xếp để một nơi. Vừa khi bộ y bị dời chỗ, con rắn đã 
cuống cuồng la lối om sòm:
- Trời đất quỷ thần đi! Người 
ta cướp giựt của tôi bộ y nè! Ai cứu cho với! Bộ y này là 
của tôi, không phải của các người! Các người toan mang nó 
đi đâu, bớ làng nước đi, quân cướp giật!
Con rắn la khan cả cổ mà nào có ai 
hay! Có chăng chỉ đức Từ phụ thần thông quảng đại 
thấy nghe được nỗi khổ đau của nó. Trong tuyệt vọng con 
rắn chạy quanh cái giải bần bà để cầu cứu cảnh sát đến 
bắt bọn cướp đã cướp cái y của nó. Chạy rã giò chẳng 
có ma nào đến cứu, người ta vẫn ngang nhiên nhấc bổng 
bộ y mang theo khổ chủ không biết đi đâu. Ðức Phật thương 
xót gọi thị giả Anan đang ôm bộ y để cất vào tủ:
- Con hãy đem bộ y vào trong tịnh 
thất của ta.
Tôn giả Anan vâng lệnh. Ðức Thế tôn 
đến bên bộ y, thuyết pháp cho con rắn nhớ tiền kiếp của 
mình:
- Này rắn, con vốn là một vị tỳ 
kheo vừa thụ giới. Cái y này là của thí chủ cúng cho con. 
Con đã quên quán sát rằng "không có gì là ta, không có gì 
là của ta, thân này không phải là tự ngã của ta". Vì 
một phút bất giác cận tử nghiệp (nghiệp xẩy ra lúc lâm 
chung) đã khiến cho con phải sa đọa vào loài súc sinh. Con hãy 
tịnh tâm nhớ lại tiền kiếp, Ta đức Như Lai, đang ở trước 
mặt con.
Do mãnh lực từ tâm nơi Phật, con 
rắn thoạt nhớ lại kiếp vừa qua của mình, lòng trở nên 
nhẹ nhàng thanh thản. Rắn nằm im bảy ngày không ăn uống, 
rồi trút hơi cuối cùng. Thần thức rắn thác sinh lên cõi 
trời tứ thiền, chỗ thác sinh những vị tỳ kheo siêng tu 
thiền định.
Khi rắn thoát xác, đức Phật mới 
bảo tôn giả Anan đem bộ y cắt ra chia đều cho mỗi người 
một mảnh làm khăn mu soa. Các vị t? kheo hỏi lý do vì sao Ngài 
đợi đến bảy ngày mới phân chia bộ y, đức Thế tôn kể 
lại câu chuyện và dạy :
- Nếu các ông chia ngay lúc đó, con 
rắn sẽ nổi sân và bị đọa vào loài ngạ quỷ. Nay nhờ 
nghe pháp, nhờ thần lực của Như Lai, lại nhờ bản thân đã 
từng tu hành thanh tịnh, mà vị tỳ kheo hóa rắn ấy đã được 
sinh lên cõi trời.
Các vị tỳ kheo nghe xong, ai nấy toát 
mồ hôi hột, ngán ngẩm cho cái "cận tử nghiệp" ác 
ôn kia. Sợ thay, mà lại mừng thầm cho ai!
LỜI BÀN:
Cận tử nghiệp là cái nghiệp đến 
sát nút lúc gần chết mới xuất hiện. Làm sao để tránh 
được một cận tử nghiệp xấu xa, hiểm nghèo? Cách hay 
nhất là huân tập hồng danh của Phật A Di Ðà. Ði đứng 
nằm ngồi luôn luôn nhớ Phật, được vậy thì khi cái chết 
đến thình lình (kiểu bất đắc kỳ tử ) ta vẫn được an 
nhiên tự tại, dù dưới mắt người đời có vẻ là một 
tai họa, là "vô phước". Nếu suốt đời niệm Phật 
mà lâm chung không có người tiếp dẫn, không được chết trên 
giường, đó cũng là dư báo do ác nghiệp quá khứ. Cốt 
nhất là tâm niệm của ta hiện tại luôn luôn tưởng nhớ 
hồng danh đức Phật cho đến khi lâm chung thì quyết không đọa 
lạc vào ác đạo.
Chú thích:
(1) Tương 
truyền, khi nhiều người cúng vải để may y cho Phật, cái y 
sắp xong thì có một bà nghèo tới cúng một mảnh vải. Ðức 
Thế tôn thương xót nhận của hiện cúng muộn màng ấy để 
gieo phước cho bà, và bảo thị giả Anan may vào hai góc y để 
làm dây buộc y. Do đó sợi dây buộc y ngày nay có tên là 
"bần bà" để nhớ đến bà già nghèo khó đã cúng dường 
mảnh vải cho Phật.
(2) Chia 
đều cho tăng chúng.
--o0o--