Phần Pháp thoại
Bài một
Tại sao lại Pháp?
"Tại sao lại Pháp?"
Trước khi trả lời câu hỏi nầy,
chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của chữ Pháp: Dhamma. Sau
đó, mới bàn
đến các lý do tại sao chúng ta cần phải học
tập về Pháp và thực hành theo Pháp.
Pháp và các bí ẩn của
đời sống.
Lối giải thích dễ hiểu về Pháp
(Dhamma) là: "Bí ẩn của thiên nhiên cần
được hiểu rõ
để có thể phát triển đời sống đến mức lợi lạc
cao nhứt."
"Để
phát triển đời sống đến mức cao nhứt" có nghĩa là
đạt tới một giai đoạn của đời sống được giải
thoát khỏi mọi vấn đề (khó khăn) và mọi khổ sở (dukkha).
Đời sống như thế đó đã vượt thoát khỏi
những gì được xem như là "vấn
đề (khó khăn)" và "khổ sở" (dukkha).
Một sự giải thích rõ ràng thêm
về danh từ "bí ẩn" rất quan trọng cho việc thông hiểu
đề tài của chúng ta. Nếu chúng ta còn
chưa biết bí ẩn của một sự vật gì, thì chúng ta chẳng thể nào hành
động cho thành công
để đạt được các kết quả cao nhứt và
thâu được lợi lạc tối đa về sự vật đó. Thí dụ
như các tiến bộ về việc thám hiểm ngoại tầng không gian và các phát
triển về năng lực hạch tâm, cũng như ở các
điạ hạt khác, sở dĩ thực hiện được là nhờ sự thông hiểu về các bí
ẩn của các sự vật đó. Với đời sống, thì
cũng như vậy. Để có thể đạt được sự phát
triển cao nhứt về đời sống, chúng ta cần phải biết rõ các bí ẩn của
đời sống.
Đời sống, đặc biệt là
trong khung cảnh của Pháp (Dhamma), là một
đầu đề về thiên nhiên (Dhamma jàti).
Chữ Pali dhamma jàti được dịch ra là
thiên nhiên (hay bản thể) (nature )có thể còn chưa
đúng hẳn, nhưng nghĩa cũng đã khá gần.
Xin hãy xem đó như có nghĩa là cái gì
tự nó hiện hữu ở bên trong nó, tự nó sanh ra nó, và có những qui luật của
riêng nó. Cái nghĩa thiên nhiên đó
chẳng hề chống đối với con người, khác với sự suy tư của người Tây phương
thường nghĩ, mà trái lại nó bao gồm con người, và tất cả những kinh
nghiệm của con người, vào bên trong nó. Vậy, chúng ta cần phải hiểu bí ẩn
của đời sống, thì mới có thể hiểu
được Pháp.
Pháp: Bốn phương diện.
Pháp của
đời sống có bốn nghĩa:
1.- thiên nhiên,
2.- qui luật của thiên nhiên,
3.- bổn phận cần phải làm, chiếu theo qui luật đó của thiên nhiên,
4.- các thành quả hoặc lợi lạc do sự thi hành bổn phận đó mang lại.
Xin hãy luôn luôn ghi nhớ bốn
nghĩa có liên hệ hỗ tương với nhau đó.
Các bạn hãy cứu xét
đến Sư Thật ở bên trong bạn, nơi thân
tâm nầy mà bạn thường tưởng như là chính bạn. Bên trong mỗi chúng ta có
nhiều thiên nhiên kết hợp nhau thành ra tấm thân, trở nên một chúng sanh.
Kế đó, có những qui luật thiên nhiên
đang kiểm soắt các thiên nhiên
đó. Rồi lại có bổn phận liên quan
đến các qui luật thiên nhiên cần phải
được các thiên nhiên
đó thi hành
đứng đắn cho chính các thiên nhiên ấy.
Và sau cùng là các kết quả của việc thi hành bổn phận
đó. Nếu bổn phận được thi hành
đúng đắn, thì kết quả sẽ là an lạc,
tĩnh lặng và thoải mái. Tuy nhiên, nếu bổn phận
được thi hành chẳng
đúng đắn, thì kết quả sẽ là khổ sở (dukkha),
bất toại nguyện, thống khổ, đau đớn, bất mãn.
Ngay cả ở giai đoạn sơ khởi, xin các bạn hãy
quán sát thật kỹ lưỡng và thấy thật rõ ràng nơi mỗi chúng ta
đều có đủ bốn phương diện của Pháp (Dhamma)
hay thiên nhiên.
Khi chúng ta
đã cứu xét kỹ bốn nghĩa
đó của thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy
ra đời sống chỉ được tạo thành bởi bốn
phương diện đó của thiên nhiên. Tuy
vậy, giờ đây chúng ta còn phải hiểu rõ
bốn phương diện ấy cho thật đúng đắn và
đầy đủ. Chúng ta còn chưa
đi sâu vào bí ẩn của cái mà ta gọi là
đời sống. Chúng ta còn chưa nắm vững
được bí ẩn của Pháp (Dhamma),
do vậy mà chúng ta chưa đủ khả năng để thực
tập theo một đường lối mà ta có thể thâu hoạch
được lợi lạc trọn vẹn từ nơi đời sống. Chúng
ta hãy dùng nhiều thời giờ hơn nữa để
nghiên cứu thêm về các danh từ "Pháp" (Dhamma) và "Bí ẩn của
đời sống" hầu có thể rút tiả được lợi lạc nơi
chúng.
Phát triển
đời sống vượt khỏi sự khổ (Dukkha).
Chúng ta cũng cần xét kỹ
đến từ ngữ "phát triển đời sống". Chúng ta
vẫn chưa biết được bí ẩn của sự việc nầy. Khi nói phát triển đời sống,
chúng ta chưa có một sự hiểu biết rõ ràng về cái
điều chúng ta đang muốn nói đến và còn
mờ mịt về tầm mức mà đời sống có thể phát
triển được. Chúng ta chưa nhận thức được các lợi lạc tối cao mà
nhơn loại có thể vươn lên tới, và vì thế mà chúng ta còn chưa có
đủ sự quan tâm cần thiết đến các bí ẩn của
đời sống khả dĩ giúp ta đạt đến các mức cao nhứt. Bạn cần nên hiểu
rõ đời sống có thể phát triển xa đến tận đâu,
tới các cao độ nào, và phải quan tâm
đặc biệt về sự phát triển đó.
Ngay tại giai
đoạn sơ khởi, chúng ta chỉ cần nắm vững nguyên
tắc căn bản nầy: "phát triển đời sống" có
nghĩa là "khiến cho đời sống tiến
triển đến một giai tầng cao nhứt", tức là, vượt qua khỏi tất cả mọi
vấn đề (khó khăn) và sự khổ sở (dukkha),
vượt khỏi các ý nghĩa chính yếu và tế nhị mà hai chữ ‘vấn
đề" và ‘khổ sở" có thể có
được. Với những ai, từ trước đến giờ, còn
chưa được nghe đến chữ dukkha,
khổ sở, chúng tôi xin cố dịch gượng là "đau
khổ, bất toại nguyện, tranh chấp, xao động -- tất cả những gì làm
xáo trộn đời sống". Khổ sở (dukkha)
là những gì mà chúng ta luôn luôn chạy trốn
để khỏi gặp. Nó là điều gì
đang khuấy động sự tĩnh lặng và thoải
mái của đời sống. Nó cũng là bất cứ
điều gì cản trở sự toàn thiện của tâm
linh. Khi được phát triển vượt khỏi mọi khổ
sở (dukkha), đời sống sẽ đạt
đến giai tầng cao nhứt có thể có được.
Vài người còn chưa hiểu biết về
các vấn đề (khó khăn) của chính họ. Họ chẳng
hiểu được thế nào là khổ sở (dukkha), theo nghĩa tổng quát,
hoặc chỉ liên quan đến đời sống riêng
của họ. Họ nhìn vào chính họ và thốt lên: "Ồ! Tôi chẳng có vấn
đề (khó khăn) nào cả, mọi việc
đều yên ổn cả." Họ chịu coi mọi nổi
khó khăn và lo lắng của họ như thông
thường cả. Chúng ta có giống như vậy không? Ta cần phải có một cái nhìn
đứng đắn, nhìn thật kỹ càng trong chi
tiết vào đời sống của ta để xem thật ra chúng
có điều gì đáng để gọi là một
"vấn đề (khó khăn)" chăng. Có khổ sở (dukkha)
chăng? Có điều gì chẳng
được như ý chăng, hoặc đang làm cho
đời ta bị xáo trộn? Những câu hỏi như thế rất
cần thiết khi các bạn đến viếng Suan Mokkh nầy. Nếu bạn còn chưa
nhìn thẳng vào bên trong bạn, nếu bạn còn chưa lưu ý
đến vấn đề (khó khăn) nào, nếu bạn cảm
thấy chẳng có khổ sở (dukkha) nào cả, thì bạn còn chưa biết
đúng bạn đang làm gì ở
đây hoặc bạn chưa rõ
được lý do tại sao phải học tập về Pháp (Dhamma).
Xin tha thiết mời bạn hãy nhìn cho rõ, cho kỹ về các sự vật
đó được gọi là ‘khổ sở" (dukkha),
là "vấn đề (khó khăn)", trước khi bạn tiếp
tục tiến xa hơn nữa.
Khi nói phát triển
đời sống, ta có thể phân biệt bốn phương
diện. Phương diện thứ nhứt là ngăn
chặn chẳng cho các sự vật gây nguy hiểm đến đời sống, được khởi sanh. Thứ
hai là gạt bỏ và phá hủy các sự vật nguy hại
đã sanh ra. Thứ ba là tạo dựng các sự
vật hữu dụng và có ích lợi cho đời sống. Thứ
tư là duy trì và tăng trưởng các sự
vật ích lợi đó. Tính chung lại, ta có bốn phương diện phát triển đời sống:
ngăn chặn các nguy cơ mới, diệt trừ các nguy cơ cũ, tạo thêm các sự
vật đáng mong muốn, giữ gìn và gia tăng
các sự vật hữu ích. Bốn điểm đó lập thành
điều mà chúng ta gọi là "phát triển
đời sống". Phát triển đời sống là bổn
phận của chúng ta, chúng ta phải nên nhận
định rõ đó là bổn phận của
chúng ta, nếu muốn cho sự phát triển được
thực hiện.
Để làm tròn bổn phận nói
trên, chúng ta cần phải có sẵn trong tay bốn dụng cụ quan trọng, gọi là
bốn Pháp khí. Bốn khí cụ về Pháp (Dhamma)
đó là: (1) Sati, Giác niệm, tức
là sự tỉnh thức, chánh niệm; (2) Sampajanna, Trí phân biện, quán thông,
tức là sự thông hiểu thấu suốt; (3) Panna, Bát nhã, tức là trí
huệ; (4) Samàdhi, Định lực, tức
là tâm ý tập trung lại. Có sẵn đủ bốn Pháp
khí đó sẽ giúp ta phát triển được đời sống.
Sự thực tập Vipassanà, Quán
chiếu Minh sát, tức là sự phát triển tâm linh, nhắm vào việc vun bồi
và huấn luyện tâm thức, khiến cho bốn Pháp khí
đó được sung mãn hầu giúp ta phát
triển đời sống. Ta nên quan tâm nhiều
đến việc tu tập phát triển tâm linh về bốn
Pháp khí ấy.
Thứ giác niệm về hơi thở (Ànàpànasati)
mà ta cần đến.
Có rất nhiều
đường lối, hệ thống, để đào luyện tâm
linh, thường cùng được gọi là
Vipassanà, Quán chiếu Minh sát. Có rất nhiều hệ thống và kỹ thuật khác
nhau được dùng
để phát triển tâm linh. Nhưng trong số tất cả
các kỹ thuật mà chúng được biết đến,
kỹ thuật tốt nhứt được gọi là Ànàpànasati bhàvanà, Quán tưởng
Giác niệm về Hơi thở, sự tập luyên chánh niệm về hơi thở ra, hơi thở
vào. Đấy là sự thực tập mà chúng ta sẽ
bàn luận thật chi tiết trong các bài thuyết giảng nầy.
Ý nghĩa
đứng đắn và
đầy đủ của phép Quán tưởng Giác
niệm về Hơi thở (Ànàpànasati bhàvanà) là nắm lấy một sự thật,
hay là thực tế về bản thể thiên nhiên, để
quán sát, suy tầm và soi chiếu nó trong nội tâm cùng với mỗi hơi
thở vào và mỗi hơi thở ra. Như thế, giác niệm về hơi thở giúp ta suy
nghiệm về bất cứ sự thật thiên nhiên quan trọng nào trong lúc ta
đang thở vào và thở ra.
Việc nghiên cứu như thế rất là
quan trọng và có một giá trị thật to tát. Nếu ta mong muốn biết rõ một sự
thật về điều gì, ta phải nắm lấy sự
thật của điều đó để suy nghiệm, quán sát,
phân tách và nghiên cứu với nhiệt tâm mỗi khi ta
đang thở vào và thở ra. Xin cho phép
tôi nhắc lại, đối tượng (của việc quán sát)
phải được tác động đến một cách thật liên tục, bền bỉ trong nội
tâm. Ngay đây, "liên tục" có nghĩa là
"với mọi hơi thở vào và mọi hơi thở ra". Khi thở vào, biết rõ
đối tượng đó. Khi thở ra, biết rõ
đối tượng đó. Khi thở vào, hiểu rõ
đối tượng đó. Khi thở ra, hiểu rõ
đối tượng đó. Điều nầy thật hết sức cần thiết
và cũng hữu ích vô cùng, để phát triển
đầy đủ mọi kiến thức mà ta cần phải hiểu rõ. Việc nghiên cứu như
thế sẽ mang đến một sự chuyển hoá nơi tâm
trí, tức là vào ngay bên trong của đời
sống.
Thật ra, ý nghĩa của Giác niệm
về Hơi thở (Anàpànasati) rất rộng rãi và tổng quát. Giác
niệm đó có nghĩa là "chánh niệm chiếu
soi vào bất cứ điều gì ngay trong lúc
thở vào thở ra". Bạn hãy tưởng tượng rằng, trong khi thở vào thở ra, bạn
đang nghĩ đến gia đình của bạn nơi hải
ngoại, đến mẹ của bạn, đến vợ, chồng, con
cái. Điều ấy cũng gọi là Giác niệm về hơi thở (Ànàpànasati).
Nhưng đó chẳng phải là
điều mà chúng ta cần làm ở
đây. Điều mà chúng tôi
đòi hỏi ở bạn là phải niệm
đến Pháp (Dhamma), tức là,
những sự thật thiên nhiên có thể giải thoát tâm trí ra khỏi sự
đau đớn của khổ sở (dukkha).
Bạn hãy nắm bắt các sự thật đó để tác động
đến tâm trí, tác động một cách hữu hiệu và
đầy đủ để có thể vứt bỏ được mọi "vấn đề (khó
khăn)", và loại trừ sự khổ sở (dukkha). Nói cách khác, bạn
hãy thâu nhận bốn Pháp khí (dụng cụ tinh thần) mà chúng tôi vừa nói qua.
Đấy mới thật là Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
hữu dụng bực nhứt.
Bốn
điều mà
chúng ta cần suy nghiệm.
Giờ
đây, đến lượt câu hỏi: "Các điều nào
thích nghi, đứng đắn và cần thiết
để được nắm lấy như các đối tượng của sự suy
nghiệm mỗi khi ta thở vào, thở ra?" Câu trả lời là: các bí ẩn của
thân (kàya), các bí ẩn của cảm thọ (vedanà),
các bí ẩn của tâm (citta) và các bí ẩn của Pháp (Dhamma).
Các bí ẩn của bốn điều đó: thân,
thọ, tâm, pháp, là những gì mà ta cần đem
vào trong tâm trí để nghiên cứu
tại đấy.
Bốn
điều đó khá quan trọng, tưởng bạn nên
ghi nhớ đến tên của chúng bằng danh từ
Pali. Để tiện thấu hiểu rõ ràng và
tham chiếu dễ dàng sau nầy, bạn nên nhớ bốn danh từ Pali nầy: kàya,
vedanà, citta, dhamma. Chớ nên quên đó là
bốn đề tài vô cùng quan trọng. Ta nên
xử dụng đến chúng nhiều hơn bất cứ đối tượng
nào để huấn luyện và phát triển
tâm trí, bởi vì bốn điều đó đã có sẵn
nơi chúng ta, và là căn nguyên của
biết bao nhiêu "vấn đề (khó khăn)" trong đời
ta. Bởi vì chúng ta còn chưa hiểu rõ
được chúng, và bởi vì chúng ta chẳng
đủ khả năng để điều chỉnh chúng, nên chúng mới trở thành những sự
việc đưa ta đến đau khổ. Vì lẽ
đó, thật là quan trọng tuyệt
đối để phân biệt rõ ràng bốn
điều đó: thân, cảm giác, tâm và các
pháp(= sự vật).
Giai
đoạn I: Thân thể và
thân hơi.
Giờ
đây, ta hãy cứu xét bốn
điều trên
đây riêng rẻ nhau ra, bắt đầu với
Kàya, Thân. Chữ Pali kàya có nghĩa là "nhóm" và có
thể được áp dụng vào bất cứ nhóm, mớ,
hay tập hợp nào gồm nhiều sự vật. Trong trường hợp nầy, chữ kàya có
nghĩa đặc biệt là một nhóm sự vật
được kết hợp với nhau thành nột tấm
thân vật chất, thân thể. Tiếng Anh body, thân, cũng có nghĩa là một
nhóm. Vậy ta nên thận trọng về ý nghĩa mà chữ thân, chữ nhóm,
có thể gợi lên.
Bạn nên nhìn kỹ vào chính bạn
để thấy rõ các thân
đó được lập thành như thế nào. Có
những cơ quan nào ở đó và có cả thảy
được bao nhiêu? Thuộc loại yếu tố nào?
Bộ phận nào của cơ quan, thành phần nào đã
kết hợp với nhau trong thân thể nầy? Sâu xa hơn nữa, có một thành phần rất
quan trọng đã nuôi dưỡng các phần còn
lại của thân thể nầy, đó là hơi thở.
Hơi thở cũng được gọi là kàya,
tức là thân, thân hơi, ở ngay trong toàn thể các yếu tố khác. Ta sẽ
nghiên cứu tấm thân thể xương thịt đó đã
an lập như thế nào và mối tương quan giữa thân thể với hơi thở.
Cái thân hơi rất quan trọng,
bởi vì ta thấy rằng nó đã duy trì và
kéo dài đời sống nơi các phần còn lại
của thân. Tấm thân tổng quát, tức là tấm thân thể xương thịt nầy, thuộc về
những sự vật mà ta chẳng thể trực tiếp điều
chỉnh được. Sự chỉnh đốn đó nằm ngoài khả năng
của ta. Tuy nhiên, có một đường lối để
kiểm soát thân thể đó, làm chủ được
nó, một cách gián tiếp, nhờ xử dụng đến hơi thở. Nếu ta tác động bằng cách
nào đó đến một thân nầy (thân hơi), thì
sẽ có một ảnh hưởng nào đó đến với một thân
kia (thân thể). Vì lẽ đó ta mới dùng
hơi thở làm một dụng cụ để huấn luyện. Hễ
canh chừng hơi thở đến một mức độ nào thì ta có thể
điều chỉnh tấm thân thể xác nầy được đến mức
độ đó. Điểm nầy sẽ được bạn nhận thấy thật rõ ràng, khi bạn
đã thực tập
đến một giai đoạn đặc biệt của Giác niệm về
Hơi thở (Ànàpànasati).
Trong các bước của
giai đoạn I, những bước
đầu có liên quan
đến thân (kàya), ta
nghiên cứu hơi thở theo một cách đặc biệt. Ta
ghi nhận mỗi loại hơi thở đến và đi, và
hình thức của mỗi hơi thở ra sao. Hơi thở dài, hơi thở ngắn, hơi thở an
tịnh, hơi thở ồn ào, hơi thở mau, hơi thở chậm: ta phải ghi nhận và biết
rõ về chúng. Với tất cả các loại hơi thở khởi lên, ta phải biết rõ bản thể
của mỗi thứ, đặc tánh và công năng
của chúng.
Hãy quan sát kỹ các loại hơi
thở đã có ảnh hưởng nào
đến tâm thân thể chất nầy. Hơi thở ảnh hưởng
to tát đến phần còn lại của tâm thân thể chất, và ảnh hưởng
đó cần phải được thấy ra cho thật rõ
ràng. Quán sát cả hai mặt của mối tương quan ấy cho
đến khi nào thấy
được chúng liên hệ hỗ tương với nhau
và chẳng thể tách rời nhau ra. Thấy rõ rằng cái thân hơi nầy gây ảnh hưởng
và "pha chế" (chuyển biến) được cái thân thể
kia. Đấy là bước thứ nhứt. Hãy
đặc biệt nghiên cứu hơi thở. Hãy biết rõ các
đặc tánh của tất cả các loại hơi thở. Rồi
thấu hiểu rằng hơi thở liên quan mật thiết với tấm thân thể chất
nữa. Nhờ đường lối nầy, ta có thể điều chỉnh
thân thể được bằng cách điều chỉnh hơi thở.
Ý nghĩa của các bước
đầu trong việc thực tập nầy là hiểu
biết được các bí ẩn của kàya,
của thân. Ta biết rằng thân hơi, tức là sự hô hấp bằng hơi thở, là
một tác viên gây ảnh hưởng đến tấm thân thể
chất. Điều bí ẩn quan trọng nầy có thể được dùng
để mở khoá các bí ẩn khác trong cơ thể ta,
thí dụ như sự kiện dùng hơi thở để làm
chủ được thân thể. Chẳng ai ngồi đó mà
có thể thư giãn trực tiếp được tấm thân thể
chất nầy, nhưng ta đã khám phá ra được
rằng, ta có thể làm thư giãn tấm thân thể chất nầy bằng cách làm
cho hơi thở trở nên êm dịu. Nếu hơi thở êm dịu thì thân thể cũng êm dịu
theo. Đó là cách ta dùng
để kiểm soát gián tiếp tấm thân nầy. Về sau.
ta còn biết được thêm, nỗi mừng
và niềm vui với tất cả các lợi lạc có giá trị khác cùng
đi theo với sự lắng dịu hơi thở và sự
an tịnh thân tâm.
Giai
đoạn II: Cảm thọ là
chủ nhơn của ta
Sau khi
đã hiểu biết rõ các bí ẩn của Kàya,
Thân, ta quay sang các bí ẩn về Vedanà, Cảm thọ. Các cảm thọ (Vedanà)
có một năng lực rất mãnh liệt
để ảnh hưởng đến con người và các sanh
vật khác. Lời tôi nói có thể làm bạn ngạc nhiên, nhưng toàn thể thế gian,
người thú, và các loại sanh vật khác, đều tùy
thuộc vào các cảm thọ (vedanà). Họ đều
sống dưới sự ngự trị của các cảm thọ. Điều nầy có vẻ buồn cười và
khó tin, nhưng xin bạn hãy quán sát kỹ lấy mà xem.
Đây là một sự kiện thực tế: chúng ta,
và cả muôn loài, đều bị bó buộc phải hành
động theo lịnh của các cảm thọ. Khi có
lạc thọ (sukha vedanà) (cảm giác sướng), chúng ta cố
tìm cách có thêm lạc thọ nữa. Các lạc thọ thường
đẩy tâm trí theo một hướng nào
đó và gây ảnh hưởng
đến một loại hành
động nào
đó. Khổ thọ (dukkha vedanà) (cảm giác
đau khổ, chẳng vừa ý) ảnh hưởng đến tâm trí và
đời sống của ta, theo một chiều hướng ngược
lại, nhưng vẫn dẫn dắt ta đến các phản ứng quen thuộc. Tâm trí phấn đấu
chống lại chúng và khiến chúng trở thành các "vấn
đề (khó khăn)" để đưa đến sự khổ sở (dukkha).
Các cảm thọ có ảnh hưởng rất lớn mạnh đối với
các hành động của chúng ta. Toàn
thể thế giới đặt dưới quyền chỉ huy của các
cảm thọ, mặc dầu cũng có những yếu tố khác xen vào. Thí dụ, như sự
khát ái (tanha) (ham muốn quá mức) có thể kiểm soát tâm trí,
nhưng chính sự khát ái cũng chịu ảnh hưởng của các cảm thọ. Vì thế,
đã biết rõ các cảm thọ có ảnh hưởng
mãnh liệt đến tâm trí, ta cần phải nên
thấu hiểu các bí ẩn của chúng.
Tôi sắp nói
đến một điều mà có lẽ bạn sẽ bật cười,
nếu bạn muốn. "Nếu ta làm chủ nổi các cảm thọ (vedanà), ta sẽ nắm
lấy được chủ quyền trên toàn thế
giới." Ta sẽ đủ sức để kiểm soát toàn
thế giới khi ta có thể kiểm soát được các cảm
thọ như chúng ta thường đòi hỏi. Rồi ta sẽ canh chừng cả thế giới
nầy như hiện nó đang ở vào tình trạng
cần được kiểm soát thật cấp bách. Nay, vì
có chẳng ai lưu tâm đến việc chế ngự các cảm
thọ, cho nên thế giới mới vượt ra ngoài sự kiểm soát
đứng đắn. Bạn còn chưa thấy các cuộc
khủng hoảng, các vấn nạn khởi lên luôn luôn ư? Chiến tranh, nạn
đói, tham nhũng, ô nhiễm môi trường, các sự
việc nầy đều là những hành vi bắt nguồn từ sự thất bại trong việc
kiểm soát các cảm thọ của chúng ta ngay tự buổi
đầu. Nếu ta kiểm soát được các cảm thọ, ta sẽ
kiểm soát được toàn thể thế giới. Đấy
là điều mà bạn cần phải nên cứu
xét đến.
Nếu ta biết nói
đúng theo các lời của Đức Phật, ta sẽ nói
rằng nguyên nhân của tất cả mọi việc trên thế giới
đều đặt tâm điểm nơi các cảm thọ. Hằng hà
sa số hành vi đã xảy ra trên thế giới
cũng bởi vì các cảm thọ đã thúc
đẩy chúng ta đi đến sự ham muốn, và
rồi lại hành động theo đúng các sự ham muốn
đó. Ngay cả các sự tin tưởng như đầu thai, tái sanh đều chịu ảnh hưởng của
các cảm thọ. Nếu ta đã tin tưởng, ta sẽ ngao du khắp cõi Luân hồi,
theo vòng lẩn quẩn của sanh và tử, của thiên
đường và điạ ngục. Mọi việc đều bắt
nguồn từ các cảm thọ. Kiểm soát được cảm thọ là kiểm soát
được nguồn gốc, căn nguyên, sanh quán
của muôn việc. Đó cho thấy sự cần thiết phải
thông hiểu các cảm thọ một cách đứng đắn và tổng hợp. Và nhờ
đó mà ta sẽ có khả năng
kiểm soát nổi các cảm thọ để rồi các bí ẩn của chúng chẳng thể nào
lừa gạt được ta phải có các hành
động điên rồ nữa trong tương lai.
Có ba
điểm chánh cần nhận thức về các cảm thọ (vedanà).
Thứ nhứt, thông hiểu chính các cảm thọ, sự vật nào
đã làm khởi sanh các cảm thọ nơi tâm,
và làm tâm bị giao động. Thứ hai,
hiểu rõ bằng cách nào các cảm thọ đã
ảnh hưởng đến tâm (citta).
Cảm thọ đã khơi dậy các tư tưởng, ký
ức, lời nói và hành động. Phải nên
biết rõ các chuyển biến đó của tâm.
Thứ ba, khám phá ra rằng ta có thể kiểm soát tâm tư bằng cách kiểm
soát các cảm thọ, cũng giống như cách tấm thân thể chất nầy chịu ảnh hưởng
của việc điều hoà hơi thở vậy. Rồi ta
mới có đủ khả năng làm chủ tâm ta,
bằng cách làm chủ được, một cách đúng đắn,
các cảm thọ đang gây ảnh hưởng đến tâm tư. Bí ẩn của các cảm thọ chính là
ba điểm chánh yếu nầy:
1.- Hiểu rõ chính các cảm thọ.
2.- Biết các điều gây ảnh hưởng đến các cảm
thọ.
3.- Rồi, phải biết cách kiểm soát các điều đã gây ảnh hưởng
đến các cảm thọ; cách nầy cũng giống như cách
kiểm soát chính các cảm thọ.
Vì hai giai
đoạn I và II vừa qua của sự
thực tập đều tuân theo một nguyên tắc
chung, nên sự so sánh giữa đôi bên sẽ
có ích lợi thêm. Trong giai đoạn I, liên
quan đến thân, ta thấy
được sự việc gì
đã gây ảnh hưởng
đến cho tấm thân thể chất, và ta
nghiên cứu sự việc đó rất kỹ lưởng từng chi
tiết. Ta thấy rõ sự việc ấy đã
gây ảnh hưởng đến thân thể; và do
điều chỉnh sự việc ấy mà ta có thể
kiểm soát được tấm thân thể chất nầy. Đó là
đường lối ấy (điều hoà hơi thở) mà ta
noi theo để khiến cho thân thể được tĩnh lặng
và an hoà. Đối với tâm tư, sự việc gây
ảnh hưởng đến các tâm trạng chính là các cảm thọ. Do kiểm soát
được các cảm thọ để khiến chúng, chẳng khuấy
động được đến các tâm trạng, mà trái lại, gây ảnh hưởng tốt
đến tâm tư, ta mới có thể khiến cho tâm trí
ta trở nên an tịnh. Thế nên, giai đoạn
I liên quan đến Kàya,
đến thân thể, và giai
đoạn II liên quan
đến Vedanà,
đến cảm thọ, cả hai đều cùng tuân theo
chung một nguyên tắc và song hành với nhau trong phương pháp thực tập.
Giai
đoạn III: cái tâm tế nhị.
Trước tiên, ta thực tập
để biết các bí ẩn của Thân (Kàya).
Kế đó, ta thực tập để biết các bí ẩn của Cảm
thọ (Vedanà). Sau khi đã
thực tập hai giai đoạn I và II xong,
ta sẽ thực tập để biết rõ các bí ẩn
của Tâm (Citta). Tâm tư là vị giám đốc
và bực lãnh tụ của đời sống. Tâm tư
hướng dẫn, còn thân thể chỉ giản dị là một dụng cụ
đang bị hướng dẫn. Nếu muốn đời sống được
hướng dẫn theo con đường đúng đắn, ta cần phải thông hiểu rõ ràng
và chính xác về tâm (citta) cho đến
mức mà ta có đủ khả năng để kiểm soát
được tâm. Điều nầy đòi hỏi một sự nghiên cứu
đặc biệt, bởi vì các sự việc mà ta gọi
là tâm trí đó rất là tế nhị,
phức tạp, và sâu xa. Ta đâu có thể nhìn
tâm bằng mắt thịt, ta cần có một cái gì đặc
biệt để "thấy" được tâm. Với giác niệm được huấn luyện tốt, việc nghiên
cứu đặc biệt về tâm có thể thực hiện được,
nhưng đòi hỏi nơi ta một sự cố gắng vượt bực. Xin bạn chớ vội ngã
lòng mà bỏ dở. Mọi người trong chúng ta, ai cũng
đủ khả năng để học hỏi, nghiên cứu về
tâm, hầu thông hiểu các bí ẩn của nó.
Chẳng thể nào biết trực tiếp
được tâm (citta). Ta chẳng thể
sờ, chẳng thể xúc chạm trực tiếp đến nó. Tuy
nhiên, cũng có thể biết được tâm, qua
các tư tưởng. Nếu ta biết được các tư tưởng là như thế nào, ta cũng
sẽ biết được tâm là như thế nào. Trên
điạ hạt vật chất, để tiện so sánh, ta chẳng
thể nào biết trực tiếp thế nào là điện
khí, ta chỉ biết điện khí qua các đặc tánh của nó như dòng
điện, điện thế, điện lực, v.v. Về tâm, thì
cũng như vậy. Ta chẳng thể thể nghiệm trực tiếp về tâm, nhưng ta có thể
thể nghiệm về các đặc tánh của tâm, các loại
tư tưởng khác nhau. Mỗi ngày, có bao nhiêu loại tư tưởng khởi lên,
có bao nhiêu trình độ tư tưởng diễn ra? Bạn hãy
quan sát các loại tư tưởng đó. Đó là
cách mà ta tìm hiểu trước nhứt về tâm.
Ta khởi
đầu nghiên cứu về tâm bằng cách quan
sát các loại tư tưởng đang diễn ra trong tâm.
Tư tưởng đứng đắn của tâm diễn ra sao, còn các tư tưởng chẳng thích
đáng hiện ra cách nào? Các tư tưởng
đó có bị cấu nhiễm hay chẳng bị cấu nhiễm?
Tâm đang nghĩ theo chiều hướng đứng đắn hay bất chánh, thiện lành
hay dữ ác? Hãy quán sát cho đến khi nào
tìm biết được rõ tâm qua các loại tư
tưởng mà tâm có thể tư duy được. Thế thôi!
Bạn chỉ biết sự thật đó đến chừng ấy, rằng bản thể (dhamma jàti)
của tâm (citta) là như thế. Đến giai
đoạn nầy, nhờ sự tập luyện về thân, kàya, và về cảm thọ,
vedanà, (gây ảnh hưởng đến tâm), ta đủ
khả năng để hướng tâm theo điều ta mong muốn. Ta có thể khiến tâm suy tư
theo nhiều cách, hoặc dừng yên lại. Ta có thể khiến tâm trở nên mãn
nguyện, hoặc bất mãn nữa, nếu ta muốn. Tâm có thể thể nghiệm các giai tầng
của nỗi mừng và niềm vui. Tâm có thể an trụ, lắng yên, và
định tĩnh theo nhiều cách và nhiều
trình độ. Cuối cùng, tâm có thể
được giải thoát. Ta khiến cho tâm buông bỏ
những sự việc mà tâm đã mến
yêu, oán ghét và bấu níu vào. Tâm được giải
thoát khỏi tất cả các sự việc đó. Đấy là bài học về các bí ẩn của
tâm mà ta cần phải thực tập trong giai
đoạn III nầy của việc Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati
bhàvanà).
Bạn hãy học biết rõ tất cả các
trạng thái của tâm. Bạn nên có đủ khả năng để
làm cho tâm trở nên thỏa thích và bằng lòng. Rồi bạn hãy buộc tâm
dừng lại và trụ yên đó. Sau hết, bạn hãy
thúc dục tâm buông bỏ hết mọi sự ràng buộc, tríu mến. Hãy ép buộc tâm phải
buông bỏ. Tâm buông bỏ các sự việc đã
ràng buộc tâm, và các sự việc đã ràng
buộc cũng buông bỏ tâm ra. Đó là những
gì cần phải làm để trở nên thiện xảo,
lão luyện về đề tài tâm, nơi
bài học thứ ba của Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Giai
đoạn IV: Thành
tựu Pháp tối cao (dhamma).
Sau khi
đã học các bí ẩn của thân, cảm thọ, và
tâm, ta đến giai
đoạn thứ tư bàn về Pháp (Dhamma).
Như đã có nói trước
đây, Pháp, Dhamma, là Thiên
nhiên trong mọi ý nghĩa của chữ nầy. Giờ đây,
ta nắm lấy sự thật về tất cả các sự vật đó, cái Chơn Lý Tối hậu của tất cả
mọi thiên nhiên, mọi bản thể, để nghiên
cứu. Đây là
điều mà ta thường gọi là "học Pháp".
Học nghiên cứu cả sự thật lẫn sự kiện nào là cái bí ẩn tối cao của thiên
nhiên. Với sự thông hiểu đó, ta có thể nhìn
đời sống theo một chiều hướng tốt nhứt. Ta
phải nên học tập về bí ẩn của sự thật
đang kiểm soát đời sống, sự thật về vô thường, khổ, vô ngã,
không và như thị (aniccam, dukkham, anattà, sunnatà, tathatà).
Vô thường (Aniccam):
biết tất cả pháp hữu vi (= sự vật bị điều
kiện hoá) đều chẳng thường hằng, và thăng
trầm luân lưu.
Khổ (Dukkham): biết
tất cả pháp hữu vi, nơi tự thân chúng, chẳng có
đủ khả năng đáp ứng được nguyện vọng của
chúng ta.
Vô ngã (Anattà):
biết tất cả muôn pháp chẳng có tự ngã, chẳng có linh hồn.
Không (Sunnatà):
biết tất cả đều rỗng vắng, chẳng có tự thể,
chẳng có cái "Ta", hoặc chẳng có cái gì là "của Ta".
Như thị (Tathatà):
biết đúng như thế, biết muôn
pháp là như thế đó.
Chung nhau lại. Các
đặc tánh đó hợp thành Chơn Lý Tối hậu.
Ta phải quán sát các sự việc đó mãi
cho đến khi nào chúng
được hoàn toàn nhận thức, hầu tâm trí
chẳng còn bao giờ lạc mất hướng đi. Khi đã
thông suốt chơn lý của mọi thực tế rồi thì tâm trí chẳng còn lầm lẫn nữa
và luôn luôn biết theo đúng con đường chánh
đạo.
Bạn có thể thấy hơi buồn cười,
nếu bảo rằng tất cả Chơn lý -- vô thường, khổ, vô ngã, không, như thị
-- đều qui kết về như thị (tathatà)(=
như thế đó). Có lẽ bạn cũng thấy ngộ nghỉnh
khi bảo rằng Chơn Lý Tối hậu của muôn pháp trên hoàn vũ nầy
đều rốt ráo quay về với sự "như thế
đó". (...) Toàn thể Chơn Lý gom
gọn lại thành câu nói hằng ngày, rất tầm thường nầy: "mọi sự việc là như
thế đó". Chẳng có gì
được xem như: tốt hay xấu, đúng hay sai, lời
hay lỗ, chiến bại hay chiến thắng, phước báu hay tội ác, tích cực hay tiêu
cực, khi ta nhìn đến Pháp tối cao nhứt. Pháp
ấy lại ở ngay tại đây, nơi câu nói "giản dị là như thế", bởi vì sự
"như thế đó" nó cao hơn và vươn lên
khỏi mọi ý nghĩa về tích cực và tiêu cực, lạc quan hay bi quan, vượt qua
cả mọi luận cứ nhị nguyên. Đấy là nét
chấm phá sau cùng. Chơn lý cần phải biết đến
ở giai đoạn IV nầy chính
là sự bí ẩn của thiên nhiên được diễn đạt thành
một câu nói hết sức giản dị: "muôn sự vật đều
như thế đó, chỉ giản dị là như thế
đó".
Giai
đoạn đầu là thấy
được Pháp đầy đủ. Giờ đây, ta sẽ thấy tâm trí
bắt đầu buông bỏ, bắt đầu nới lỏng các sự bấu níu của nó. Các chỗ bấu níu
đó sẽ tan biến đi. Điều nầy sẽ được thể nghiệm khi bước vào thực
tập về các sự bấu níu. Một khi các sự bấu níu
đã được dẹp xong, bước chót là
thể nghiệm được điều mà "tâm trí
được giải thoát, mọi việc đều được giải
thoát". Tuy nhiên, văn kinh lại dùng
đến từ ngữ "quẳng trả lại". Đức Phật có nói
rằng, đến lúc cuối cùng, ta sẽ quẳng bỏ trả lại tất cả". Ý nghĩa
của lời nói đó là, bấy lâu nay, suốt
đời, chúng ta đều là phường trộm cắp,
vì đã ăn
cắp những sự vật của thiên nhiên, lấy
đó làm "của Ta", xem đó là
"Ta". Chúng ta đã ngu khờ và vì thế mà
phải chịu đau khổ. Giờ đây, chúng ta trở nên
khôn ngoan hơn nên mới biết từ bỏ hết mọi sự vật. Chúng ta trả chúng lại
hết cho thiên nhiên, và kể từ nay chẳng bao giờ lại
đi trộm cắp nữa. Đến bước cuối cùng
nầy, chúng ta mới nhận thức được ra rằng, "Ồ!
Đó là của thiên nhiên, đâu phải của
Ta." Và lúc ấy chúng ta mới có thể quẳng trả lại hết về cho thiên
nhiên.
Bước cuối cùng
được kết thúc ở chỗ đáng buồn cười nầy. Nó
chấm dứt với việc chúng ta hết còn là phường trộm cắp nữa, với sự
giải thoát khỏi bất cứ hậu quả và ảnh hưởng nào của sự bấu níu, ràng buộc.
Bước cuối cùng của sự tập luyện phát triển Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
chấm dứt tại đây. Học được bí ẩn của Pháp là
học được sự hiểu biết rằng chẳng có gì
đáng để chấp thủ và rồi cũng chẳng
chấp thủ vào bất cứ gì. Tất cả đều được giải
thoát. Vấn đề nay đã vào chung cuộc rồi và chấm dứt ở
đây.
Nếu chúng ta muốn lựa một tên
để đặt, ta sẽ nói đó là sự "giải
phóng", sự "cứu rỗi". Dường như tất cả mọi tôn giáo
đồng có một mục đích và gọi
đó bằng một tên chung. Với chúng tôi,
ý nghĩa của điều vừa được mô tả ở trên
-- chấm dứt sự bấu níu và quẳng trả lại tất cả về cho thiên nhiên -- là sự
thông hiểu của chúng tôi về giải phóng. Có lẽ các tôn giáo khác cũng gán
cho sự giải phóng các ý nghĩa nào khác nữa, nào ai
đã biết chắc? Trong Phật giáo, giải
phóng có nghĩa là giải thoát ra khỏi mọi loại và mọi hình thức của sự bám
chặt (chấp thủ) để chúng ta có thể sống cuộc
đời vượt lên trên thế gian nầy. Mặc dầu thân thể chúng ta còn nương
tựa vào thế gian nầy, nhưng tâm trí chúng ta vượt thoát lên khỏi
đó. Như thế, tất cả "vấn đề (khó khăn)" của
chúng đều biến mất. Đấy là thể thức phát triển tiềm năng
cao nhứt của đời sống, bằng đường lối bốn giai đoạn của sự thực tập. Còn
nhiều chi tiết khác cần được cứu xét, nhưng
tôi xin dành lại vào các buổi pháp thoại sau nầy.
Hôm nay, tôi chỉ
đưa ra một đại cương tổng quát về những gì
cần làm khi thực tập. Với các dữ kiện bối cảnh
đó, việc thực tập sẽ được dễ dàng hơn
ở mỗi bước, mỗi giai đoạn. Giờ đây, tôi xin
kết thúc buổi pháp thoại nầy.
Bài 2
Bắt đầu dấn bước
Trong bài pháp thoại hôm nay,
chúng tôi sẽ nói đến sự thực tập ở giai đoạn
I của sự Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) liên
quan đến Thân (Kàya).
Nhưng tôi xin được báo trước với các bạn, có
đến bốn nhóm sự việc mà ta cần phải quán sát. Mỗi nhóm lại bao gồm
bốn pháp (dhamma). Như thế, có tất cả là mười sáu pháp.
Trong mười sáu pháp đó, chỉ có hai pháp
liên hệ đến chính hơi thở thôi. Hơi
thở chỉ được quán tưởng trong hai bước. Mười bốn pháp còn
lại qui chiếu về các pháp khác. Tổng cộng, có tất cả bốn phần, gọi
là bốn bộ bốn (tetrads), mỗi bộ bốn chia ra bốn
bước. Hôm nay, tôi sẽ nói về hai bước
đầu tiên của bộ bốn thứ nhứt.
Đó là sự thực tập quán tưởng về
Thân (Kàya).
Các chuẩn bị về vật chất .
Ta khởi sự ngay tại chỗ bắt
đầu việc thực tập Quán tưởng Giác niệm về Hơi
thở (Ànàpànasati). Trước hết, ta cần phải chọn một nơi thích
hợp cho việc thực tập. Ta lựa một chỗ nào khá nhứt, biết rằng chẳng làm
sao mà có được một nơi thật hoàn hảo.
Ta cố lựa một nơi nào yên tịnh và an ổn, đủ
điều kiện, thời tiết khá tốt, và chẳng hề bị khuấy rầy. Thế nhưng,
khi các điều kiện chẳng được như ý mong muốn,
ta cũng nên tạm vui lòng với những gì ta
đang có. Thế nào rồi ta cũng phải chọn
một nơi nào đó, ở chốn nào
đó. Ta phải nên có
đủ sức để ngồi quán tưởng ngay cả trên
chuyến xe lửa đến từ Bangkok. Đôi khi, ta có
thể chú tâm đến hơi thở cho đến lúc chẳng còn nghe tiếng xe lửa
đang lăn bánh và chẳng cảm thấy lắc lư
khi xe di chuyển.
Điều đó cho thấy rằng ta có thể
chọn một điạ điểm và lợi dụng các điều
kiện có sẵn theo cách nào tốt nhứt cho ta.
Ta chớ nên
để mình bị bất cứ hoàn cảnh nào
đánh bại, ngay cả khi ngồi trên xe
lửa. Cho dầu ta có đủ các điều kiện hoàn
hảo hay không chăng nữa, ta cũng cố gắng lợi
dụng chúng đến mức tối đa và thực hành những gì ta có thể làm
được. Khi muốn thực tập, ta có thể lợi dụng
tiếng xe lửa chạy làm một đề tài
quán tưởng. Tiếng "xình xịt xình xịt" của xe lửa lăn
bánh trên đường rầy có thể là
đề tài quán tưởng, thay vì hơi thở.
Như thế ta cũng chẳng từ chối bất cứ điạ điểm
nào trên thế giới, cho dầu điạ điểm ấy
có thích hợp cùng không. Ta chẳng nên vịn vào cớ nào khác
để đòi hỏi phải có cho
được một điạ điểm lý tưởng.
Bước chuẩn bị thứ hai tiếp theo
là sự dọn mình. Thân thể cần phải được bình
thường, chẳng bịnh tật, và chẳng vướng các khó khăn
về hô hấp hay tiêu hoá. Đặc biệt hơn
nữa, ta cần "sửa soạn" cái lỗ mũi để nó có thể làm tròn nhiệm vụ
một cách êm ái và đúng đắn. Vào thời
xưa, người ta rót nước trong sạch vào lòng bàn tay,
đưa mũi hít vào rồi thổi hắt mạnh ra.
Nếu ta làm như thế đôi ba lần, thì mũi
trở nên sạch sẽ và hơi thở được thông. Như
thế, mũi sẽ nhạy cảm hơn mỗi khi hơi thở ra vào.
Đây là một thí dụ làm thế nào
để chuẩn bị cho thân thể sẵn sàng.
Thời gian và thầy dạy.
Kế
đến, tôi muốn nói đến thời gian và cách chuẩn bị thời gian
để thực tập. Một khi quyết tâm thực tập thật
sự đàng hoàng, ta cần nên chọn lấy một khoảng thời gian thật thích
nghi mà ta có thể tìm thấy được. Bằng không,
ta hãy chấp nhận bất cứ thời gian nào ta có thể xử dụng
được. Ta đâu cần phải lệ thuộc vào một
thời cố định trong ngày. Nếu có thể,
ta nên chọn khoảng thời gian nào chẳng bị khuấy rối hay xao lãng. Nếu
chẳng có thời gian được như thế, thì
ta hãy dùng ngay thời gian khi rảnh rỗi nhứt. Rồi thì tâm trí sẽ học lấy
cách giữ sao cho khỏi bị xao lãng dầu có bao nhiêu sự khuấy rối
đến làm rộn. Thật ra, ta
đang luyện tâm để khỏi bị xao lãng,
cho dầu có việc gì đang xảy ra ở chung quanh
ta. Tâm sẽ tự học lấy cách khiến tâm trở nên an tịnh. Bạn
đừng tự hạn chế mình vào một thời nào
khi mọi việc đều êm xuôi cả, làm sao
mà tìm ra được một thời như thế? Nhiều người
cứ chờ tìm mãi cho đến lúc họ chẳng
thấy có thời giờ nào để thực tập quán
tưởng. Điều đó chẳng đúng. Bạn hãy luôn luôn mềm dẻo và
đủ sức để thực tập vào ngay bất cứ lúc
nào.
Điều cần cứu xét tiếp theo là
điều mà người ta thường gọi là
đi tìm kiếm một vị sư phụ, àcàriya,
một bực thầy. Nhưng thật ra, ngay cả trong các hệ thống huấn luyện cổ
truyền, người ta cũng ít khi nói đến một vị
sư phụ, mà thường gọi vị ấy là một người bạn tốt, một thiện hữu
tri thức, (kalyàna mitta) hay là thiện tri thức. Bảo
rằng đó là một "người bạn" -- một vị
cố vấn có thể giúp đỡ ta được -- thì
đúng. Tuy nhiên, ta chớ nên quên
nguyên tắc căn bản là chẳng có một ai
có thể giúp trực tiếp một ai cả. Thế mà ngày nay, lắm kẻ lại muốn có một
vị giáo sư để trông nom canh chừng cho họ!
Một người bạn tốt là kẻ nào có sự hiểu biết và kinh nghiệm bổn thân
rộng rãi về sự thực tập quán tưởng, hay về bất cứ
điều gì mà chúng ta
đang nỗ lực thực hành. Mặc dầu người
ấy có đủ khả năng để giải đáp các câu hỏi
thắc mắc và giải quyết vài khó khăn,
nhưng cũng chẳng cần thiết để người ấy phải ngồi bên cạnh ta canh
chừng mỗi hơi thở. Một người bạn tốt sẵn sàng giải
đáp các câu hỏi và giúp ta vượt qua
vài trở ngại, như thế cũng đã quá
đủ rồi. Có được một bực thiện trí thức như
vậy là một điều chuẩn bị nữa mà
ta cần lo thu xếp.
Tư thế ngồi.
Giờ
đây, chúng ta xét đến các động tác thực sự
của chính việc quán tưởng. Việc đầu tiên phải bàn luận là tư thế
ngồi. Thật là cần thiết phải ngồi thế nào cho vững vàng và an toàn,
để khi nơi tâm tư, sự tỉnh giác chỉ còn
nửa phần, ta chẳng phải ngã té. Bạn hãy có đủ
sức để ngồi vững như một ngọn kim tự tháp. Các kim tự tháp chẳng thể nào
ngã đổ xuống, vì chúng
được xây dựng trên một nền rất vững
chãi và bốn sườn xung quanh vươn lên ngay giữa
đỉnh. Chẳng cách nào
để chúng có thể đổ xuống cả. Bạn hãy
nghĩ đến các ngọn kim tự tháp bên Ai
cập, đã
đứng vững rất lâu đời. Cách tốt nhứt để làm giống như thế là hãy
ngồi xếp bằng lại. Duỗi hai chơn ra phía trước, rồi kéo chơn mặt gát lên
đùi trái, và chơn trái gát lên
đùi mặt. Những ai còn chưa ngồi theo
lối ấy lần nào, những ai còn chưa từng ngồi bẹp trên sàn nhà, có lẽ họ cần
một thời gian để tập cho thân thể ngồi trong
tư thế vừa nói; nhưng mà tư thế đó
cũng rất đáng công để tập cho được. Bạn có thể bền chí, từ từ tập luyện
thân bạn ráng ngồi như thế đó. Và rồi bạn chẳng bao giờ té ngồi
nữa. Chẳng thể nào ngã tới trước, ngã ra sau, hay ngã nghiêng bên hông
được. Vào thời xưa, tư thế ngồi như
vậy được gọi là thế ngồi kiết già,
hay là tư thế hoa sen (padmàsana).
Ngồi thẳng lưng rất quan trọng,
với các xương sườn và cột xương sống ngay hàng nhau, chẳng cong vẹo. Các
xương sườn cần được nằm chồng vừa vặn lên
nhau để ăn khớp với nhau một cách thích hợp.
Đó là thế ngồi đúng cách bình
thường của thân thể. Cột xương sống làm nơi nương tựa thiết yếu cho hệ
thống thần kinh, cho nên ta phải ngồi thẳng
đứng lên để cho nó được ngay ngắn. Đây
là tư thế ngồi tốt.
Buổi ban sơ, có thể vài bạn còn
chưa bao giờ ngồi như thế. Tuy vậy, tôi yêu cầu các bạn nên cố gắng thử
tập. Lần đầu tiên, có lẽ bạn xếp
được hai chơn phía trước nhưng chưa tréo nhau
lại được. Nhưng như thế cũng đủ khi mới bắt đầu. Về sau, bạn kéo được một
chơn gát lên đùi bên kia và
tréo được một chơn. Sau cùng, bạn sẽ
tréo cả hai chơn trong tư thế kiết già, ngồi thế hoa sen. Tư thế
ngồi nầy thật vững chắc như một ngọn kim tự tháp và chẳng hề ngả nghiêng
khi tâm bắt đầu nhập định, hay vừa đến mức
cận định. Cột xương sống thẳng đứng rất là cần thiết, vì có nhiều
loại hơi thở khác nhau: khi xương sống cong xuống, có một loại hơi thở;
khi xương sống thẳng lên, lại có một loại hơi thở khác hơn hơi thở trước.
Vì lẽ đó, bạn phải cố gắng giữ xương sống
thật thẳng, dẫu rằng có sự khó khăn ở buổi ban đầu.
Kế
đến là hai bàn tay. Cách thoải mái và dễ nhứt là buông thỏng hai
bàn tay đặt trên hai
đầu gối. Một cách khác là
đặt bàn tay nầy vào lòng bàn tay kia.
Cách nầy có vẻ hơi thiếu tiện nghi với vài người, vì hai bàn tay sẽ trở
nên hâm nóng. Nếu được đặt trên gối,
chúng sẽ bớt nóng. Vài nhóm thực tập khuyên nên xếp hai bàn tay (bàn tay
nầy lên trên bàn tay kia) với hai ngón tay cái chạm vào nhau,
để có được hai bàn tay "nhập
định". Áp chặt hai bàn tay vào nhau
cũng giúp cho định lực, điều đó cũng tốt. Ở
Trung Hoa người ta thường làm như thế. Bạn hãy chọn lấy lối nào bạn
thấy thích hợp với bạn: hoặc đặt trên
đầu gối ít nóng hơn, hoặc để trên
đùi nếu thấy thoải mái, hoặc áp mạnh
vào nhau để tăng định lực. (...)
Mắt dịu mát và chú tâm.
Giờ
đến cặp mắt. Ta phải nên
để mắt mở hay nhắm lại? Nhiều người tin rằng
họ phải nhắm mắt lại, vì họ chẳng thể nào quán tưởng
được khi mở mắt. Nếu bạn nghiêm chỉnh
trong khi thi hành các điều bạn đang thực tập
và có đầy đủ dõng tâm thì chẳng
thấy có khó khăn chi khi thực tập với đôi mắt
mở rộng. Bạn hãy bắt đầu với mắt mở.
Mở mắt với quyết tâm nhìn vào chót mũi.
Điều nầy chẳng phải là chẳng thể
được. Chỉ cần một chút cố gắng là làm
được. Nhìn vào chót mũi
để cho mắt đừng nhìn lảng sang các sự
vật khác. Khi mắt nhắm, ta thường có khuynh hướng thiu thỉu ngủ, vậy nên
thận trọng về việc nhắm mắt. Lại nữa, khi nhắm lại thì mắt sẽ trở nên nóng
và khô. Quán tưởng với đôi mắt mở sẽ giúp ta
giữ được sự tỉnh táo và duy trì được
sự dịu mát và thoải mái cho mắt. Hơn nữa,
điều nầy sẽ trợ lực cho tâm được tập trung
lại và thúc đẩy sự phát triển của
định lực (samàdhi, phiên âm: tam ma
đề, nghĩa:
định lực). Khi
định lực được phát triển tới nửa đường, thì
tự nhiên đôi mắt tự động nhắm lại. Mí mắt
được thư giãn và tất nhiên sẽ khép lại. Chẳng có chi phải lo lắng
về điều nầy cả. Kỹ thuật trọn vẹn là
bắt đầu với đôi mắt mở, nhìn vào chót
mũi cho đến khi nào
định lực (samadhi) phát
triển, bấy giờ mắt sẽ tự động nhắm lại. Đó là
cách săn sóc về mắt.
Thực tập với
đôi mắt mở ra, nhìn vào chót mũi là
một giai tầng đáng lưu ý về định lực. Nếu ta
an lập được tâm tư chăm chú đến chót mũi, ta sẽ chẳng nhìn thấy
đến các sự vật khác. Nếu làm
được như vậy, thì
đó đã là một loại
định lực (samadhi) rồi. Ta có
được lợi điểm ngay vào lúc mới khởi
tập, bằng cách giản dị hướng tâm trụ lại trên chót mũi chẳng nhìn thấy gì
khác nữa. Nếu toàn thể tâm tư, nếu tất cả các mối quan tâm,
đều gom lại trong việc nhìn lên chót
mũi, thế là chẳng còn gì để nhìn thấy
ra nữa. Đó là
định lực (samadhi), một
thứ định lực chẳng phải là không
đáng kể. Vì lẽ
đó, bạn nên cố gắng thử khởi sự bằng
đôi mắt mở ra.
Xin bạn hãy quan sát
điều nầy mà bất cứ ai cũng làm
được. Ta chú tâm nhìn
đến chót mũi, vừa có cảm giác ở mũi lại vừa
có cảm giác ở hơi thở. Cả hai việc đó có thể cùng làm một lúc.
Dường như cả hai cùng xảy ra đúng vào
một lúc, nhưng thật sự thì không như vậy. Sự kiện nầy cũng chẳng có gì
khác thường, hay siêu nhiên cả. Do vì tốc lực rất nhanh của tâm, cho nên
trong khi mắt nhìn vào chót mũi, hành giả vẫn hay biết
đến hơi thở ra, hơi thở vào.
Điều đó, chính bạn sẽ tự mình nhận
thấy ra như thế.
Theo dõi hơi thở với giác niệm.
Rốt cuộc rồi ta cũng
đi đến việc ghi nhận, việc quán tưởng về hơi
thở. Để khởi đầu, ta cần phải có giác niệm (Sati),
tức là sự hay biết hoặc sự tỉnh giác. Ta bắt
đầu xử dụng giác niệm bằng cách chú tâm vào mỗi hơi thở vào,
mỗi hơi thở ra. Ta huấn luyện giác niệm bằng cách ghi nhận rằng ta
sắp thở vào hoặc sắp thở ra. Hãy để hơi thở
tiếp tục một cách thoải mái và bình thường. Hãy
để cho hơi thở được tư nhiên.
Đừng can thiệp chút nào vào hơi thở.
Rồi thì quán sát kỹ mỗi hơi thở với giác niệm. Ta thở vào như thế nào? Hơi
thở ra ra làm sao? Hãy dùng giác niệm
để ghi nhận hơi thở bình thường. Trong buổi
đầu, ta tập luyện và phát triển
giác niệm với kỹ thuật thường được gọi là
"theo dõi" hay "đuổi theo". Hơi thở vào,
bắt đầu từ chót mũi và ta tưởng tượng
như nó tận cùng nơi rún. Hơi thở ra, ta tưởng tượng như bắt
đầu nơi rún và chấm dứt ở chót mũi. Ở
giữa chừng là khoảng không gian mà hơi thở di chuyển vào và ra. Giác
niệm quan sát các đặc tánh của sự di
chuyển vào và ra đó, từ nơi chót mũi
cho đến rún, và rồi tới lui, tới lui...
Đừng để cho có kẽ hở, cũng đứng để cho có đứt
khoảng. Đây là bài học thứ nhứt: quán sát hơi thở với giác niệm
(sati).
Ta chẳng phải là nhà giải phẩu,
nhưng ta cũng biết rằng hơi thở chỉ đi vào
phổi, và hơi thở chẳng đi xuống trọn con
đường cho đến rún. Ta chỉ tưởng tượng rằng hơi thở chấm dứt ở rún, và
chẳng cho đấy là sự thật
đâu. Đó chỉ là một sự giả
định căn cứ trên cảm giác của ta cùng
với sức nhạy cảm đang ứng với sự di chuyển
của hơi thở. Khi thở, ta "cảm thấy" sự di chuyển xuống đến tận rún. Ta dùng
cảm giác đó làm căn
bản cho việc thực tập của chúng ta và theo dõi hơi thở ở khoảng
giữa từ chót mũi đến rún.
Sự phân biệt giữa việc có phải
chính giác niệm đã theo dõi hơi
thở vào và hơi thở ra, cùng với việc có phải giác niệm
đã thúc dục tâm phải theo dõi hơi thở
vào và hơi thở ra, ngay trong lúc nầy, còn chưa mấy quan trọng.
Điều quan trọng duy nhứt là hiện nay
là phải quan sát hơi thở như thể là đang rượt
đuổi theo hơi thở mà chẳng để bị lạc
mất nó. Hơi thở vào trong và ngưng lại một chốc. Kế
đó, hơi thở ấy đi ra rồi ngưng một chốc. Vào
và ra, vào và ra, với nhiều hơi thở ngắn hơn xen vào ở giữa. Hãy ghi nhận
tất cả và đừng bỏ sót để bất cứ gì
thoát khỏi được. Đừng để có khoảng trống mà
tâm có thể đi lang bang. Hãy giữ chặt
tâm luôn luôn cắm sâu vào hơi thở vào và ra.
Đấy là bài học thứ nhứt
cần được tập luyện. Có thể chẳng dễ gì
đâu nhé. Có thể nó đòi hỏi ba ngày, ba
tuần, hay ba tháng cho đến khi nào bạn
đã đủ sức
làm được như thế. Đó là sự việc
mà ta cần làm ngay trong bước thứ nhứt. Ở
đây, tôi chỉ giản dị giải thích phương pháp
tập luyện thôi. Các bạn có thể chẳng tiến được xa bao nhiêu trong
một khoá tu học mười ngày như thế nầy, nhưng
điều quan trọng là biết rõ những gì cần phải làm và bắt
đầu dấn bước. Một khi các bạn đã thông
hiểu đúng đắn phương pháp rồi, thì các
bạn có thể thực tập lấy cho đến khi các bạn
thành công. Vậy, hãy bắt đầu quán sát
hơi thở giữa hai tiêu điểm đó mà
chẳng để cho tâm có được cơ hội chạy lang
bang theo việc gì khác.
Nhiều loại hơi thở.
Trong việc thực tập sự theo dõi
hơi thở, ta có dịp quán sát nhiều đặc điểm
khác nhau của hơi thở. Ta có thể cảm nhận được nhiều sư việc. Thí dụ như,
ta cảm được chiều dài và chiều ngắn của hơi thở. Ta học một cách tự
nhiên về hơi thở dài và hơi thở ngắn. Rồi ta lại học
được hơi thở thô và hơi thở tế. Lại
nữa, ta quan sát được hơi thở êm dịu
với hơi thở khó khăn. Về sau, ta sẽ quan sát
sự phản ứng đối với các đặc tánh đó. Trong bước thứ nhứt, bạn hãy
quán sát các loại hơi thở nầy: dài và ngắn, thô và tế, nhẹ nhàng và nặng
nề. Hãy bắt đầu quán sát các loại hơi thở đó
bằng cách dùng giác niệm (Sati) mà cảm nhận
được chúng.
Ta còn cần học tập cách quán
sát trong chi tiết kỹ hơn, tức là, quán sát phản ứng hay ảnh hưởng của các
loại hơi thở. Chúng đã gây ra những
phản ứng nào? Chúng ảnh hưởng ra sao đến sự
hay biết của ta? Thí dụ như, hơi thở dài ảnh hưởng như thế nào
đến sự tỉnh giác của ta? Phản ứng nào
xảy ra khi thở hơi ngắn? Hơi thở thô phù và hơi thở tế nhị, hơi thở êm dịu
và hơi thở khó khăn, đã có những ảnh
hưởng nào? Ta quán sát các loại hơi thở khác nhau và các ảnh hưởng dị biệt
của chúng cho đến khi nào ta có thể
phân biệt rõ ràng thế nào là hơi thở dài chẳng giống với hơi thở ngắn, hơi
thở thô khác với hơi thở tế, hơi thở êm dịu bất
đồng với hơi thở khó khăn. Ta phải nên
thấu biết rõ về các đặc tánh của các hơi thở,
các loại ảnh hưởng của chúng đã tạo nên, và các phản ứng về cảm
tính, về tỉnh giác của tâm trí ta đối với
chúng.
Song hành với sự quán sát vừa
kể, ta còn cần tìm nếm đến các hương vị của
các loại hơi thở. Hương vị của chúng chính là sự khởi lên các loại
cảm thọ như hỉ lạc, ưu bi, khổ sở, phiền muộn, và mãn nguyện. Hãy quán sát
và thể nghiệm các hương vị, tức là hậu quả đã
được gây nên,
đặc biệt là hơi thở dài, hơi thở ngắn,
thô và tế, êm dịu và khó khăn. Hãy
khám phá ra tại sao chúng lại có hương vị khác nhau. Thí dụ như, ta sẽ
thấy hơi thở dài thường mang đến một cảm quan
lớn lao về an hoà và phước lạc, nó có một hương vị vui sướng nhiều
hơn một hơi thở ngắn. Mỗi loại hơi thở mang
đến một loại hương vị vui sướng khác nhau. Ta học tập được cách phân tách
và phân biệt hương vị bất đồng của các
loại hơi thở khi ta quan sát chúng.
Sau cùng, ta sẽ khám phá ra các
loại nguyên nhân đã khiến cho hơi thở
trở nên dài, ngắn khác nhau. Tự mình, ta từ từ khám phá ra
được các nguyên nhân
đó. Điều nào
đã khiến cho hơi thở dài ra? Hơi thở
dài đem lại một khí sắc như thế nào?
Còn hơi thở ngắn thì sao? Như thế, ta nhờ đó
mà biết được những nguyên nhân
và điều kiện gây ra hơi thở dài, ngắn
khác nhau.
Có một cách giúp ta
điều chỉnh được hơi thở dài hay ngắn
ngay trong các bước đầu tiên. Nếu ta
muốn học cách đó, thì ta có một kỹ
thuật gọi là "đếm". Thí dụ như, trong thời
gian của một hơi thở vào, ta đếm đến
năm, bắt đầu từ một cho đến năm. Nếu trong thời gian đó, ta đếm được đến
mười, từ một đến mười, thì hơi thở theo
đó đã dài ra chừng ấy. Trong thời gian
một hơi thở thường, ta chỉ đếm được đến năm.
Trong thời gian một hơi thở ngắn, có thể ta chỉ đếm tới ba thôi và
lúc ấy thì đổi hơi thở, nếu ta muốn. Lúc nào
cũng nên đếm cùng một nhịp
độ, vì nhịp
độ nhanh chậm nếu bị thay đổi thì ảnh
hưởng của sự đếm nhiều hơn hay ít hơn sẽ bị
huỷ mất. Nhờ sự đếm mà bề dài của thời gian hơi thở
được điều chỉnh lại. Ta có thể kéo dài,
hoặc rút ngắn các thời gian đó lại với kỹ
thuật đặc biệt nầy. Nhưng ta chẳng cần phải dùng
đến kỹ thuật ấy luôn. Đấy chỉ là một
cuộc thử nghiệm nhỏ, để lâu lâu ta điều chỉnh
lại hơi thở hoặc để tìm biết về hơi thở kỹ lưỡng hơn. Bạn có thể
làm thử như thế, nếu bạn muốn.
Bước một: Hơi thở dài .
Đến đây, ta đã phát
triển được một sự hiểu biết sơ khởi thích hợp
về hơi thở. Ta biết được các loại đặc tánh của hơi thở: dài, ngắn,
thô, tế, êm dịu, khó khăn. Sự hiểu biết của
ta nới rộng đến các sự việc có liên hệ với hơi thở, các phản ứng
cùng ảnh hưởng của các đặc tánh đến tâm tư
ta. Ta cũng biết cả cách kiểm soát chiều dài của mỗi hơi thở. Việc
kế tiếp phải làm là bước vào sự luyện tập với chúng. Giờ
đây, ta đã hiểu biết rõ tất cả mọi sự
việc đó, ta bắt đầu sự tập luyện với hơi thở
dài.
Ta
đang đi đến bài học thứ nhứt, bước một, tức là sự quán tưởng
về hơi thở dài. Ta có thể thở dài hơi bất cứ lúc nào ta cần
đến. Ta đã học cách kéo dài hơi thở ra
và giữ nó như thế. Trong bài học thứ nhứt nầy, ta sẽ chỉ khảo sát riêng về
hơi thở dài mà thôi. Ta nghiên cứu bản thể của hơi thở dài và tất cả các
sự kiện liên quan đến nó. Khi có hơi thở dài,
hơi thở đó có thích thú không? Hơi thở đó tự
nhiên và tầm thường như thế nào? Tình trạng êm ả và hoan lạc nào
đã có mặt? Hơi thở dài khác với hơi
thở ngắn ở những điểm nào?
Đây là cách ta
đang học tập nghiên cứu về hơi thở
dài, ứng dụng theo phương pháp vừa được mô tả
ở trên, để khám phá ra các đặc tánh,
ảnh hưởng và hương vị của hơi thở dài. Ở
đây, chỉ học tập về hơi thở dài mà
thôi. Bạn hãy ngồi yên và điều nghiên
kỹ chỉ riêng về hơi thở dài. Đó là bài
học thứ nhứt: hiểu biết được tất cả những gì
có liên quan đến hơi thở dài.
Sau cùng, ta cần quan sát thân
thể tác động liên quan như thế nào với
hơi thở dài. Khi hít vào một hơi thở dài, thân thể chuyển
động ra làm sao? Ở chỗ nào có sự nở
rộng ra? Ở nơi nào thân thể thu rút lại? Khi có một hơi thở thật dài và
sâu, ngực có nở ra hay rút lại không? Còn bụng, có phình lên hay xẹp xuống
không? Đấy là những sự việc mà ta cần
quan sát. Khi quan sát như thế, rất có thể bạn học
được, thân thể đã chuyển
động một cách khác hơn bạn đã tưởng.
Phần đông người ta thường nghĩ quá giản dị
rằng khi thở vào thì ngực nở ra và khi thở ra thì ngực thu rút lại.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu hơi thở thật kỹ lưỡng, ta thấy khi hít vào một
hơi thở thật dài thì bụng co lại và ngực nở ra. Với một hơi thở dài
đến mức tối đa, thì bụng lại nở ra và
ngực lại xẹp xuống. Ta thấy nó khác hẳn với sự tin tưởng thông thường. Ta
đừng bao giờ nên xem bất cứ việc gì
như là một sự thật đã
được có sẵn từ trước. Bạn cũng còn cần
phải tìm hiểu cho rõ ràng ngay cả về các sự kiện thiên nhiên căn
bản nhứt nữa.
Ta nghiên cứu mọi sự việc liên
quan đến hơi thở dài và học tập các bí
ẩn của nó để biết rõ
được về bản thể. Ta đủ khả năng để quán tưởng
chiều dài hơi thở. Ta đủ sức để duy trì
và bảo vệ hơi thở dài. Đìều
đó có nghĩa là ta trở nên thiện xảo về
các vấn đề có liên quan
đến hơi thở dài. Vậy, thực tập thở hơi
thở dài là bài học thứ nhứt.
Một
điều vô cùng quan trọng cần phải học
là mối liên hệ hỗ tương giữa hơi thở và thân thể. Cả hai kết nối với nhau
thật chặt chẽ. Bạn hãy khám phá ra các hiệu quả của hơi thở dài lên trên
thân thể, và phát hiện ra các niềm vui sướng và an lạc
được mang đến. Về sau nầy, bạn sẽ biết được
điều bí ẩn nầy: có hai thân: thân thể và thân hơi, tức là,
tấm thân vật chất nầy với các luồng hơi thở. Ngay ở giai
đoạn sơ khởi nầy, bạn cũng nên quan
sát điều đó cho thật cẩn thận, mặc dầu chúng
ta sẽ nghiên cứu thêm về điều đó, đặc
biệt là ở bước thứ ba. Ngay tại bài
đang học đây, ta nên nhận thức rõ rằng
thân thể với hơi thở liên kết với nhau như thế nào. Do
đó, xin bạn hãy quán sát kỹ lưỡng hơi
thở khi dài khác với hơi thở khi ngắn ra làm sao, và ảnh hưởng của chúng
đã gây ra cho thân thể. Ta càng vững
niềm xác tín thêm -- qua kinh nghiệm bản thân, chớ chẳng phải qua suy tư,
lý luận -- rằng hơi thở kết hợp thật mật thiết với tấm thân vật chất.
Bước hai: Hơi thở ngắn.
Bài thứ nhứt về hơi thở dài
đã được
học xong. Ta có thể bước sang bài thứ hai về hơi thở ngắn. Thật ra,
ta chẳng có chi nhiều để nói về sự thực tập ở
bước nầy, vì cách hành trì cũng giống với bước thứ nhứt.
Điểm sai biệt duy nhứt giữa hai
bước là ở bài thứ hai ta xử dụng đến
loại hơi thở ngắn. Những gì đã
học về hơi thở dài, ta cũng học tương đương
như thế với hơi thở ngắn.
Thí dụ như, ta quan sát và cảm
nhận ngay rằng hơi thở dài mang đến sự
êm dịu và thoải mái, trong khi đó hơi thở
ngắn đưa tới sự bất bình thường tức là, sự bất an, xao
động và thiếu thoải mái. Với sự thông
hiểu đó, ta biết cách làm thế nào cho
thân thể trở nên thoải mái, hoặc chẳng thoải mái, bằng phương pháp
điều chỉnh hơi thở. Ta cần hiểu rõ sự
sai biệt bổ túc cho nhau giữa hai loại hơi thở nầy, càng rõ ràng càng tốt.
Vậy, trong bài thứ hai nầy, ta quan tâm đặc
biệt đến hơi thở ngắn. Hãy nghiên cứu mọi khía cạnh, mọi
đặc tánh của hơi thở ngắn cho đến khi bạn
hiểu thật rộng rãi về nó cũng như bạn
đã hiểu về hơi thở dài. Mặc dầu hai loại hơi thở có bản thể
đối ngược nhau, nhưng phuơng pháp nghiên
cứu cả hai cũng đồng nhất.
Điểm chú tâm thật đặc biệt ở
đây là sự quan sát khi ta thở hơi dài thì hơi thở
đó trở nên tế nhị. Còn khi ta thở hơi
ngắn, hơi ấy lại thô phù. Khi ta đã
học được cách làm cho hơi thở trở nên
tế nhị hay thô phù theo ý ta muốn, thì ta có thể ứng dụng sự hiểu biết
đó để đem phần lợi lạc về cho ta. Lợi lạc đó
là hơi thở tế nhị làm lắng dịu thân thể ta.
Hơi thở ấy trở nên mát dịu. Khi
ta muốn thân thể ta trở nên thanh lương, thì ta thở hơi thở tế nhị. Và khi
muốn hơi thở trở nên tế nhị, ta chỉ cần thở hơi thở dài ra.
Đây là một
điều mà ta rất cần học và cần tập.
Một thí dụ khác là khi ta giận
thì hơi thở trở nên ngắn. Khi có hơi thở ngắn, thì thân thể trở nên bị xáo
trộn và bị phiền rộn. Nếu ta có thể thở hơi dài hơn thì cơn giận chẳng thể
nào tiếp tục lâu được nữa. Khi ta giận, hơi
thở sẽ ngắn và thô phù, và rồi thân thể cũng trở nên thô phù theo.
Ta có thể đẩy cơn giận đi ra xa bằng cách thở
hơi dài và nhẹ. Thân thể sẽ được thư
giãn và cơn giận kia sẽ biến mất. Đây
là một trong các thí dụ của sự liên hệ hỗ tương mật thiết giữa hơi
thở, thân thể và tâm tư. Đấy là
điều mà ta cần thông hiểu về sự liên
hệ và dị biệt giữa hai loại hơi thở dài và ngắn. Ta cần nên thể nghiệm
điều đó, tự mình cảm nhận lấy
điều đó, thực tập điều ấy cho tinh chuyên
và thiện xảo.
Thổi bay
đi các tình
cảm.
Để tóm tắt hai bước
đầu: ta có thể điều chỉnh, kiểm soát,
giới hạn và chế ngự các tình cảm bằng cách vận dụng hơi thở. Ta có
thể khiến cho tình cảm trở nên đứng đắn, hữu
dụng và lợi ích, qua hơi thở. Xuyên qua sự thông hiểu về hơi thở,
ta phát triển được khả năng kiểm soát chính
hơi thở. Nếu ta luyện tập được hơi thở, thì ta cũng kiểm soát
được các tình cảm, tức là, thích ứng
được với niềm hoan lạc và sự thống khổ
của đời ta. Hãy thực tập cho
đến khi nào bạn cảm nhận
được điều đó. Sự luyện tập sẽ còn dở
dang, nếu ta còn chưa thấy rõ điều đó.
Khi bạn
đang ngồi quán tưởng, có một con muỗi chích
bạn, tâm bạn khởi lên một tư tưởng bất thiện. Làm cách nào
đuổi đi được tư tưởng xấu đó? Đuổi nó đi bằng
cách cải thiện hơi thở: khiến hơi thở trở nên dài hơn, tế nhị hơn
và đủ sức thổi bay đi cái tình cảm
chẳng lành đó. Đó là cách tốt nhứt
để giải quyết một vấn đề như thế. Đấy lại là
một thí dụ khác nữa về sự ích lợi của việc thông hiểu và về các khả năng
mà chúng ta hiện đang thực tập để phát
triển.
Các
đề tài cùng các quan
điểm cần được học tập nơi bài thứ nhứt
về hơi thở dài và bài thứ hai về hơi thở ngắn,
đều giống nhau. Điểm sai biệt duy nhứt là
mọi sự việc đều bổ túc cho nhau. Số lượng và
chủng loại các sự việc cần học tập đều bằng
nhau. Nhưng chỗ khác nhau giữa hơi thở dài và hơi thở ngắn
đã đưa
đến nhiều loạt sự kiện bổ sung cho nhau.
Vâng, thời gian dành cho buổi
pháp thoại hôm nay đã chấm dứt. Chúng
ta chỉ có thời giờ để bàn luận bước
một và bước hai thôi. Ta sẽ xét đến các
bước khác trong bộ bốn thứ nhứt vào ngày mai. Hôm nay
xin ngưng tại đây.
Bài 3
An tịnh thân hành
Hôm nay, tôi xin nói về các
bước thứ ba và thứ tư trong bộ bốn thứ nhứt (1st tetrad), tức
là các bước còn lại có liên quan đến
Thân (Kàya).
Bước thứ ba: Thể nghiệm mọi
thân.
Trong bước thứ ba, mục
tiêu là sự thể nghiệm tất cả các Thân (Kàya). Cốt lõi của
bước nầy là trong khi thở vào, thở ra, hành giả cảm nhận
đến tất cả thân (Kàya,
nhóm, tập hợp). Ta đã bắt
đầu quan sát, trong khi thực tập hai
bước đầu tiên, rằng hơi thở là
một tác viên gây điều kiện đến tấm thân vật
chất bằng xương bằng thịt của chúng ta. Và bước thứ ba nầy
cũng chẳng có gì mới mẻ, ta sẽ giản dị quan sát thêm cho sâu xa, rõ ràng,
và thận trọng hơn trong hai bước trước. Ta quán tưởng một cách phân
biệt rõ ràng hơn về sự kiện là ta có hai thân (Kàya). Liên
tục, chẳng gián đoạn, bạn hãy quan sát
điều đó trong khi thở vào và thở ra.
Hành giả phải nên nhớ lại một
cuộc quan sát mà ta đã thể nghiệm
trước đây, nhớ lại sự kiện là hơi thở
là động lực tạo nên
điều kiện, gây ảnh hưởng đến tấm thân xác
thịt. Ta sẽ phân biện rõ giữa hai sự vật (thân và hơi thở), nhưng
ta lại gọi cả hai là thân, là kàya. Hơi thở là một thân,
với nghĩa, đó là một sự tập họp, một
nhóm. Thân thể chất cũng là một thân, một kàya, vì
đó cũng là một sự tập họp (nhiều cơ
quan, bộ phận). Có hai nhóm, hay là hai thân: một nhóm là hơi thở
gây ảnh hưởng đến nhóm kia là tấm thân
thể chất. Bạn hãy phân tách kinh nghiệm nầy
để thấy thật rõ ràng rằng hiện có hai nhóm, hay hai thân. Và
hãy xem cho rõ hai thân đó đã ảnh
hưởng lẫn nhau như thế nào. Hãy quán tưởng
đến chúng, một cách càng ngày càng nhấn mạnh, cho
đến khi nào thấy
được thật hiển nhiên.
Khi nghe nói
đến từ ngữ "thân" (Kàya),
xin bạn hãy hiểu từ ngữ đó bao trùm ý
nghĩa của chữ "nhóm". Trong văn kinh thuộc
Kinh điển hệ Pali, Đức Phật dùng chữ kàya như vầy:
sabbakàyampatisamveti (thể nghiệm mọi thân) (...) Từ ngữ nầy
chẳng phải chỉ áp dụng riêng cho tấm thân vật chất của con người mà thôi,
lại còn ứng dụng vào các sự vật khác nữa. Thí dụ như trong tiếng Pali, một
đội quân lính cũng là kàya, một
kàya quân lính. Kàya, thân, có nghĩa là một nhóm, một
đống, một tập hợp; xin đừng hiểu một cách hạn
chế chữ ấy như chỉ là một tấm thân xác thịt. Hơi thở
được gọi là thân, (Kàya)
hoặc một nhóm. Muốn hiểu được "thể
nghiệm mọi thân" là gì, ta cần phải biết nghĩa
đúng đắn của chữ "thân" rồi mới
thấy được cả hai nhóm, nhóm hơi thở và
nhóm thân thể.
Mục tiêu
đặc biệt của bước thứ ba nầy là
ta phải biết rằng có hai nhóm và một nhóm nầy lại nuôi dưỡng, hộ trì và
tạo nên điều kiện có ảnh hưởng đến nhóm kia.
Nhóm hơi thở nuôi dưỡng nhóm thân thể. Thật ra, ta đã có kinh
nghiệm về điều đó ngay từ khi mới bắt đầu
thực tập Quán tưởng Giác niệm về hơi thở (Ànàpànasati).
Trước đây, ta đã thể nghiệm rằng khi
hơi thở thô phù thì thân thể trở nên trầm trệ và khi hơi thở
được tế nhị thì thân thể lắng dịu
xuống. Ta đã quan sát các sự kiện
đó trong khi thực tập bước thứ nhứt
và bước thứ hai. Tại bước nầy, ta
đặt nặng sự quan tâm đến bí ẩn đó cho đến khi nào nó trở thành rõ
ràng tuyệt đối. Có hai nhóm. Một nhóm nuôi
dưỡng và gây ảnh hưởng đến nhóm kia.
Bạn hãy biết rõ chỗ sai biệt giữa chúng.
Ba nghĩa của chữ Hành (sankhàra).
Chúng ta
đang làm một thí nghiệm nội tâm về hai
thân đó đang ảnh hưởng hỗ tương lẫn
nhau. Cái thân làm nguyên nhân gây ra
điều kiện có ảnh hưởng được gọi là
thân hành (kàya sankhàra), để phân
biệt với tấm thân kia, cái thân đang chịu ảnh hưởng, đang nhận lấy các
điều kiện, được gọi là thân bị điều
kiện hoá. Bạn hãy nghiền ngẫm trong tâm sự kiện
đó, xem nó như một cái gì bằng vật
chất có thể sờ mó, tiếp xúc đến được. Bạn hãy
thấy cho thật rõ một nhóm nầy đang gây điều
kiện và điều dưỡng nhóm kia. Bạn hãy
thấy cho thật rõ cả hai cùng khởi lên một lượt, cùng biến diệt một lượt,
cùng trở nên thô phù một lượt, cùng trở nên tế nhị một lượt, cùng tiến
triển một cách thoải mái, và cùng trở nên bất an cũng một lượt. Bạn hãy
nhận thức cho rõ chúng liên hệ thật mật thiết với nhau như thế nào.
Đấy là tất cả những gì cần phải hiểu
thật rõ về ý nghĩa của câu nói "thể nghiệm mọi thân". Canh chừng cả
hai thân và thấy rõ chúng đang ảnh
hưởng lẫn nhau. Điều nầy thật là cần thiết
để có thể thấy được Chơn lý một cách quảng
bác hơn, tức là, nhận thức được đặc
tánh vô ngã (anatta). Khi quan sát
đúng đắn mối tương quan đó, ta thấy rõ
những gì xảy ra chỉ giản dị là một tiến trình tự nhiên tạo nên ảnh hưởng.
Chẳng hề có một tự ngã (atta) nào, chẳng hề cái "Ta" nào,
cũng chẳng hề có một cái gì thường được gọi là
"linh hồn" trong đó cả. Sự thông hiểu nầy vô
cùng hữu ích, mặc dầu điều đó vượt hơi
xa đối với mục tiêu hiện tại của bước thực tập nầy. Hiện
giờ, ta chỉ cần thông hiểu về sự kiện tạo
điều kiên gây ảnh hưởng, vừa đủ để ta
có thể điều chỉnh thân thể, tức là tấm thân xác thịt, xoa
dịu để lắng yên nó, bằng cách
điều chỉnh lấy thân hơi, tức là
cái nhóm hơi thở.
Tôi muốn nhơn cơ hội nầy bàn
luận thêm về ba nghĩa của chữ Hành (Sankhàra).
Đây là một danh từ hết sức thông dụng
và quan trọng trong Kinh điển hệ Pali, nhưng
có lắm người gặp khó khăn với chữ nầy, vì nó
được dùng
đến với nhiều nghĩa khác nhau. Ngôn ngữ thì thường là như thế,
chẳng được chắc chắn và ít
đáng tin cậy. Có mỗi một chữ Hành,
Sankhàra, mà có đến ba nghĩa:
(1) nghĩa: tác viên gây
điều kiện, tức là nguyên nhân
đã tạo
điều kiện để gây ra ảnh hưởng;
(2) nghĩa: điều kiện, tức là tình trạng kết quả của
động tác đã gây ra ảnh hưởng;
(3) nghĩa: tác động của điều kiện,
tức là chính các động tác trong tiến trình
tạo thành ảnh hưởng.
Ta có thể dùng chữ Hành,
Sankhàra ấy để nói đến vấn đề các điều
kiện gây thành ảnh hưởng, vừa chủ thể gây ảnh hưởng, vừa
đối tượng chịu ảnh hưởng và cả cái
động tác gây ra ảnh hưởng nữa. Như thế thì
dễ cho các bạn lầm lẫn thật, nhưng xin bạn hãy cứ nhớ chữ Sankhàra,
Hành, có đến ba nghĩa, và cái
nghĩa đúng của nó thì còn tùy theo vị
trí của nó trong khung cảnh của bài văn. Kiến
thức nầy rất có ích cho sự nghiên cứu sau nầy của bạn.
Bạn hãy học tập về ba nghĩa
đó của chữ Hành ngay trên tấm
thân thể chất của bạn. Đâu cần gì phải
nghiên cứu trong sách vở, hoặc theo một đường
lối lý thuyết nào. Thân thể nầy chính là một hành (sankhàra).
Nó bị điều kiện hoá bởi một số các nguyên
nhân và bởi các yếu tố đã tạo nên nó.
Do đó, thân thể nầy là một hành,
với nghĩa là một điều kiện, một tình
trạng chịu điều kiện hoá. Khi thân thể nầy
hiện hữu, nó chính là nguyên nhân làm khởi sanh lên nhiều sự việc
khác, như tư tưởng, cảm thọ, và hành động.
Nếu chẳng có tấm thân nầy thì các tư tưởng và hành
động chẳng thể nào hiện khởi
được. Do đó thân thể nầy là một tác
viên tạo điều kiện, bởi vỉ chính
nó đã gây nên các
động tác vừa nói. Sau cùng, ngay trong
tấm thân hành (sankhàra kàya) bằng xương thịt nầy của chúng
ta, hiện đang diễn ra một tiến trình
điều kiện hoá chẳng ngừng. Vậy ta có thể khám
phá ra ba phương diện của Hành (Sankhàra) ngay trong
thân thể. Bạn hãy nghiên cứu nghĩa của Hành theo cách bao quát hàm
súc đó. Rồi bạn sẽ thấy việc nhận thức về
Pháp (Dhamma) càng ngày càng thâm sâu hơn, sẽ
được dễ dàng và tiện lợi, khi bạn tiến
triển trên đường tu tập.
Thể nghiệm Hành (sankhàra).
Nơi bước thứ ba -- "thể
nghiệm mọi thân", thể nghiệm cả hơi thở và thân thể -- mỗi ý nghĩa
trong ba nghĩa vừa nói của chữ Hành, (Sankhàra)
được thực tập. Trước nhứt, ta quán sát thân
thể chất như một sự vật được điều kiện hoá bởi hơi thở. Kế, ta xem hơi thở
như một tác viên gây nên điều kiện có
ảnh hưởng đến thân thể. Và sau chót là chúng ta quan sát cái tác
động điều kiện hoá luôn luôn xảy ra cho cả
hai, hơi thở và thân thể. Như thế, trong việc thực tập bước thứ
ba, ta thấy rõ được cả ba: điều kiện, chủ
thể gây điều kiện và động tác tạo ra
điều kiện. Sự điều kiện hóa của thân thể là giai tầng vật lý của
hành (sankhàra). Ta còn chưa thấy việc nầy ở giai tầng tâm
linh. Bước thứ ba chính là việc làm để
thấy được, ngay trong nội tâm ta, đủ cả ba giai tầng đó khởi lên
đồng thời và liên tục. Rồi thì ta sẽ
thấy được mọi sự việc về Hành,
nhứt là khi nó liên quan đến thân
(Kàya) và các động tác của thân
ấy, ngay tại bước thứ ba nầy.
Khi ta nghiên cứu kỹ lưỡng sự
kiện đó cho đến lúc thấy nó thật rõ
ràng, hiển nhiên và hiểu biết nó một cách phổ quát như
đã được
giải thích trên đây, thì ta mới
có thể thể nghiệm cùng một lúc cả ba sự kiện
đó. Ngay trong khoảng thời gian của một hơi thở vào hoặc hơi thở
ra, ta cũng có thể thể nghiệm cả ba sự kiện
đó "thẳng một lèo" trong một hơi thở duy nhứt. Nếu ta có khả năng
làm được như thế, thì ta
đang "thể nghiệm trọn vẹn thân hành
(kayà sankhàra)" (tức là cái thân gây
điều kiện ảnh hưởng). Và như thế, ta
đã hoàn tất
được trọn vẹn bước thứ ba.
Cốt lõi của việc thực tập
bước thứ ba là để hiểu biết được có hai
thân (kàya) và biết cách
điều chỉnh một thân (kàya) nầy qua sự
điều chỉnh thân (kàya)
kia. Nói cách khác, ta có thể điều chỉnh
thân thể (tấm thân xương thịt) qua thân hơi (hơi thở
vào và ra). Một khi ta biết chắc về điều nầy,
một khi ta đã thấy điều ấy rõ
ràng rồi, một khi ta đã tin chắc vào
sự thể nghiệm của ta về mỗi hơi thở vào, mỗi hơi thở ra, thì ta
đã thành công trong việc thực tập
bước thứ ba nầy.
Bước thứ tư: Làm dịu hơi
thở.
Sau khi
đã biết
được rằng ta có thể điều chỉnh thân thể bằng thân hơi, ta bắt đầu thực tập
bước thứ tư . Đức Phật mô tả
bước thứ tư nầy như là "làm dịu thân hành,
passambhayam kàyasankhàram". Ta có thể làm như thế
được, một khi đã biết rõ rằng, khả dĩ
dùng thân hơi để kiểm soát thân thể.
Đầu đề của bước thứ
tư là làm dịu thân hành (Kàya sankhàra) trong khi thở
vào và làm dịu thân hành trong khi thở ra.
Điều đó có nghĩa là ta có thể làm cho thân hành (hơi thở) êm dịu
hơn, và êm dịu hơn nữa, cùng một lúc với khi ta hít vào và thở ra.
Đây là vấn
đề mà tôi sắp giải thích.
XIn hãy lưu ý
đến cách hành văn
mô tả bước thứ tư "làm dịu thân hành" là muốn nói
đến sự làm dịu thân hơi, làm dịu các
hơi thở ra và vào. Tại bước thứ tư, mục
đích của việc thực tập là khiến hơi
thở êm dịu lại. Ta làm cho hơi thở trở nên tế nhị và an hoà bằng cách xử
dụng các kỹ thuật có sẵn. Nếu ta làm êm dịu
được hơi thở, thì sẽ có được nhiều kết
quả khá thích thú và mạnh mẽ. Trước hết là thân thể trở nên thư
giãn, êm ả và rất dễ thương. Kế đó, một sự
lắng yên tâm tư lại khởi lên. Lại còn nhiều kết quả khác nữa, nhưng
tôi xin gát lại về sau sẽ nói đến. Bài
học tức thời hôm nay là làm êm dịu hơi thở. Biết cách
điều lý hơi thở là
điểm quan trọng nhứt cần phải cứu xét trong
việc thực tập bước thứ tư.
Năm
kỹ thuật khéo.
Khi thực tập bước thứ tư,
ta có các loại phương pháp hay phương tiện -- ta còn có thể gọi chúng
là các xảo thuật nữa -- để xử dụng trong việc
làm êm dịu hơi thở. (...) Có tất cả năm
kỹ thuật khéo để làm hơi thở êm dịu lại và năm
kỹ thuật đó được xếp vào năm giai
đoạn:
1.- theo dõi hơi thở;
2.- canh giữ hơi thở ở một
điểm nào
đó;
3.- làm khởi lên một tâm ảnh
(định tướng, nimitta) tại
điểm đang canh giữ đó;
4.- vận dụng các hình ảnh
đó theo bất cứ cách nào cũng
được, cốt để ta có thể điều khiển, kiểm
soát chúng;
5.- chọn một trong các hình
ảnh đó và quán tưởng về nó một cách
thật chú tâm, cho đến khi hơi thở trở nên
thật sự êm dịu và an hoà.
Đây là năm
kỹ thuật: theo dõi, canh giữ, khởi lên tâm ảnh, vận dụng các tâm
ảnh và chọn một tâm ảnh là đối tượng đặc biệt
của định lực (samàdhi) cho
đến khi nào có
được sự hoàn toàn êm dịu.
Về giai
đoạn thứ nhứt -- theo dõi hay
đuổi theo hơi thở -- ta đã làm ngay tự
lúc mới bắt đầu thực tập. Với các hơi thở dài
và hơi thở ngắn, ta nên săn đuổi theo, hoặc
theo dõi chúng. Nay, ta chỉ cần ôn và duyệt lại cho
đến khi nào ta trở nên thành thạo,
thuần thục trong việc theo dõi hơi thở. Chẳng cần phải giải thích dài dòng
thêm, vì ta đã xét kỹ qua các bước
thứ nhứ, thứ hai và thứ ba rồi.
Kỹ thuật thứ nhì về sự canh giữ
là chọn một điểm trên lộ trình của hơi
thở và canh chừng, hay là giữ gìn hơi thở ngay chỗ
đó. Ta chẳng còn cần phải theo dõi hơi
thở nữa, nhưng kết quả cũng vẫn như là ta
đang theo dõi chúng vậy. Cái tâm nầy (citta), cái
giác niệm nầy (sati)chẳng được rời
đi chỗ nào khác, mà phải trụ lại đúng
vào điểm đã chọn. Giác niệm ấy
canh chừng các hơi thở khi chúng vào và ra ngang qua
điểm ấy, và kết quả cũng giống như sự
theo dõi hơi thở, với một sự khác biệt là canh chừng thì tế nhị hơn.
Thông thường, ta dùng chót mũi
làm điểm canh chừng, vì chính nơi
đó các hơi thở va chạm vào.
Điểm đó rất dễ giữ, ngoại trừ khi mũi bạn
quắm xuống, hoặc môi trên của bạn quá cao; trường hợp nầy bạn sẽ
cảm thấy hơi thở chạm vào môi trên. Đối với
mỗi chúng ta, điểm va chạm có thể ở vào chỗ khác nhau, tùy theo
hình dạng và cấu trúc của mũi và môi.
Hãy tìm một chỗ nào dễ nhứt
để quan sát hơi thở. Kể cũng khó tìm
khi ta thở bình thường; bạn hãy thở một hơi dài và sâu và
điểm đó sẽ nổi bật lên hiển nhiên.
Điạ điểm cho thật đúng chính xác cũng chẳng
cần thiết, chỉ cần tìm ra được một
điểm nơi mà hơi thở chạm vào chót mũi hay ở môi trên của bạn khi
bạn cảm thấy hơi thở di chuyển thật rõ ràng. Một khi bạn thấy ra
được rồi, hãy canh chừng
điểm đó mỗi khi hơi thở vào và ra.
Giác niệm (Sati) trụ tại đấy và
quán tưởng hơi thở khi vào, khi ra. Hãy cứ thở vào, cứ thở ra bình thường
với giác niệm canh chừng tại điểm đó.
Đấy là giai đoạn hai, trong năm kỹ
thuật khéo của chúng ta.
Bạn có thể tự mình quán sát
thấy rằng khi bạn chẳng màng ghi nhận hơi thở và cứ
để cho nó tự ra vào như ý nó, thì nó
sẽ gây ra chút cảm giác nào đó. Vừa khi ta
bắt đầu ghi nhận nó, ngay cả khi chỉ giản dị theo dõi nó, hơi thở
liền trở nên tế nhị và êm dịu hơn. Hơi thở, tự nó, tự
điều chỉnh lấy và trở nên tế nhị
để gạt gẫm ta. Hơi thở "mưu mẹo" mánh khoé
như vậy đó. Rồi thì ta ngừng chẳng
đuổi theo hơi thở nữa, chỉ canh chừng tại điểm đặc biệt trên chót
mũi, thì bấy giờ hơi thở lại càng lắng dịu xuống hơn nữa. Các bạn có thể
kiểm chứng lại điều nầy theo kinh nghiệm riêng
của các bạn.
Một tâm ảnh (định
tướng) hiện lên.
Giờ
đây, hơi thở trở nên tế nhị và lắng
dịu hơn nữa, khi ta tạo một tâm ảnh (nimitta,
định tướng) tại chỗ
điểm canh chừng. Tâm ảnh đó chỉ là một
hình ảnh tưởng tượng, chẳng hề có thật. Nó
được tâm (citta) tạo nên.
Đó là một sản phẩm của tâm. Bạn có thể
nhắm mắt lại và "nhìn"đến nó; và khi
mở mắt ra, bạn cũng vẫn còn "thấy" nó. Nó cũng như một ảo ảnh của thị giác
mà tâm đã tạo ra
để làm lắng dịu hơi thở. Muốn làm
được như thế, tâm phải tế nhị. Hơi thở, hay
bất cứ việc gì, cũng phải được thanh
lọc để có thể làm khởi lên được một
tâm ảnh. Hơi thở phải trở nên càng tế nhị hơn, êm dịu hơn, cho
đến khi nào tâm ảnh
đã tạo xong.
Tâm ảnh có thể mang bất cứ hình
thể nào, tùy theo sự thích hợp với thân thể của mỗi người. Vài người tạo
một trái cầu -- đỏ, trắng, xanh hay bất cứ màu
nào. Nó cũng có thể là một ngọn lửa đèn
cầy, hoặc một cục bông gòn, hay một làn khói. Nó có thể xem giống như mặt
trời, hoặc mặt trăng, hay một vì tinh
tú. Khả năng sáng tạo của tâm còn có
thể gợi lên ngay cả hình ảnh của một mạng nhện bóng loáng phản chiếu ánh
mặt trời nữa. Các loại tâm ảnh tùy thuộc vào người tạo nên nó. Tâm chỉ
nghiêng về một hướng nào đó và tâm ảnh
tự nó liền khởi lên. Nó thuần túy là một hiện tượng tâm linh chẳng có thực
thể vật chất. Và kỹ thuật khéo thứ ba được hoàn
tất khi nào ta đủ khả năng tạo nên một
tâm ảnh ngay tại điểm canh chừng.
Giờ tới phiên kỹ thuật khéo thứ
tư. Kỹ thuật nầy là làm thay đổi hay vận dụng
các tâm ảnh theo ý ta muốn. Biến đổi hình nầy ra hình khác. Biến
đổi chúng theo cách nầy, theo cách khác, theo
bất cứ cách nào ta muốn. Điều nầy có
thể làm được, vì việc làm trước
tiên của tâm là tâm thường tạo luôn ra các hình ảnh. Do
đó, tâm có đủ khả năng để biến đổi các hình
ảnh, vận dụng chúng, và "chơi đùa" với
chúng. Tất cả những việc đó đều có thể thi hành
dễ dàng vì nằm trong khả năng của tâm. Và
đồng thời ta lại phát triển được khả năng làm
chủ được tâm, hướng nó theo ngõ tế nhị
hơn và hùng dũng hơn.
Ta có thể kiểm soát tâm nhiều
hơn lúc trước và cái tâm ấy (citta), tự nó, càng ngày càng
được thanh lọc và trở nên tế nhị hơn.
Nó lắng dịu xuống đến tận mức mà ta có
khả năng làm cho nó êm dịu hoàn toàn.
Giờ đây ta chỉ cần kiểm soát các tâm ảnh,
biến đổi chúng theo khuynh hướng của tâm. Tùy theo khuynh hướng của
tâm, ta thể nghiệm sự thay đổi của các tâm
ảnh để có thể khiến cho hơi thở càng lúc càng trở nên êm dịu.
Điều nầy cũng chẳng khác hơn là một
mánh khoé, một xảo thuật. Tuy vậy, đó là
một xảo thuật tiến bộ giúp ta nắm thêm quyền lực
đối với tâm. Rồi thì hơi thở, tự nó,
tự động lắng dịu xuống. Hơi thở cần phải lắng
dịu hơn mới có thể vận dụng các tâm ảnh. Mặc dầu tâm cũng lắng dịu xuống,
nhưng sự nhấn mạnh hiện giờ là nhằm vào sự lắng dịu của hơi thở.
Vậy, kỹ thuật khéo thứ tư là kiểm soát các tâm ảnh theo ý ta muốn.
Tâm ảnh cuối cùng .
Nếu ta muốn quán sát tiến trình
theo thứ tự, của việc làm hơi thở trở nên êm dịu, ta phải coi chừng và
thấy rằng, khi ta huấn luyện theo cách được
mô tả ở đây, hơi thở tự nó tự thanh lọc lấy và lắng dịu xuống một
cách tự động. Khi ta thực tập theo cách nầy,
hơi thở sẽ trở nên êm dịu. Khi hơi thở êm dịu thì thân thể cũng tự
động êm dịu theo. Và khi thân thể
đã lắng dịu thì có một hiệu quả ảnh
hưởng đến tâm tư. Tâm (citta)
lắng dịu theo chiều tỷ lệ thuận với sự lắng dịu của thân thể, nhưng
đây còn chưa phải là ý
định của chúng tôi ở điểm nầy. Sự lắng dịu
tâm tư sẽ được bàn luận đến trong một
bước sau nầy. Hãy làm lắng dịu hơi thở và rồi thân thể sẽ
lắng yên. Và cộng thêm vài hiệu quả đến tâm
tư nữa. Ta có thể quan sát được tiến trình lắng dịu
đó trong khi thực tập.
Kỹ thuật khéo thứ năm
là chọn một tâm ảnh (nimitta) nào thích nghi nhứt. Ta chẳng
biến đổi tâm ảnh đó nữa. Lựa được một tâm ảnh
vừa vặn và thích hợp, ta quán tưởng
đến nó với sự chú tâm hoàn toàn, hầu có thể
đạt đến trình
độ đầy đủ của định lực (samàdhi).
Tôi khuyên bạn nên chọn một tâm ảnh nào êm dịu, thư giãn và dễ
để gom vào tiêu
điểm. Hãy chọn một tâm ảnh nào chẳng
làm khởi dậy tư tưởng hay tình cảm, một tâm ảnh nào chẳng mang sẵn một ý
nghĩa đặc biệt. Một điểm trắng giản dị thì
cũng đủ tốt rồi.
Loại tâm ảnh tốt nhứt là lọai
trung hoà. Nếu ta chọn một tâm ảnh màu mè, nó sẽ gợi lên nhiều tư tưởng và
cảm thọ. Với các tâm ảnh hấp dẫn, ngộ nghĩnh hay phiền phức thì cũng như
thế. Vài người chọn hình ảnh của Đức Phật để
làm tâm ảnh (nimitta), nhưng họ sẽ bị lôi kéo theo nhiều
loại suy tư khác. Tư tưởng giản dị là đi theo
hình ảnh được thấy, thay vì cắm
sâu xuống vào sự lắng yên. Vì lẽ đó, ta sẽ
chọn một hình ảnh nào tự nhiên, chẳng có ý nghĩa
đặc biệt, chẳng gợi lên các mối liên
tưởng khác. Một điểm trắng là thích
hợp nhứt. Một điểm nhỏ ánh sáng cũng phù
hợp. Vài người chọn hình tượng của Đức Phật,
hoặc bất cứ hình ảnh nào thấy hợp với sở thích của họ. Còn chúng ta
thì không làm như vậy; ta chọn môt điểm nào
dễ quán tưởng mà chẳng làm tư tưởng nào khởi sanh lên. Ta chọn một hình
ảnh như thế và gom tất cả tâm ý vào tiêu điểm
đó, để phát triển định lực của tâm ý. Chú tâm nhìn vào tiêu
điểm giản dị đó. Tâm (citta)
chẳng còn đi lang thang nơi nào nữa,
mà qui chiếu vào một đìểm duy nhứt.
Vậy, kỹ thuật khéo thứ năm là chú tâm
quán tưởng vào một điểm.
Định lực hoàn
toàn.
Và rồi ta chọn một tâm ảnh (nimitta)
thích hợp nhứt cho tâm để quán tưởng. Đến
điểm nầy, ta cần phải biết rằng tâm thường hay phân tán, trải rộng ra và
rọi chiếu ra ngoài về mọi hướng. Giờ đây, ta
cần phải quay lại vào trong, gom tất cả luồng hướng ngoại
đó vào tiêu
điểm. Danh từ Pali gọi tình trạng gom
tâm ý lại nầy là ekaggatà, tâm nhất điểm,
có nghĩa là "tại đỉnh duy nhứt, tiêu
diểm hay là điểm cao tuyệt đích" Mọi sự việc
đều gom vào tiêu điểm duy nhứt. Ta đã
tìm thấy một tâm ảnh thích hợp nhứt -- một
điểm nhỏ ở giữa -- thì giờ đây tâm ý
sẽ cắm sâu vào điểm đó. Dòng
tâm linh gom về một điểm đó cũng tựa như một
tấm kính lúp phóng đại gom các yến sáng của mặt trời hội tụ về một điểm
duy nhứt, mạnh mẽ cho đến mức làm phát cháy lên. Thí dụ nầy cho
thấy sức mạnh được tập trung lại khi tất cả
năng lực của tâm đều gom về một điểm. Một khi tâm chuyên chú vào
một đối tượng được lựa chọn, thì sự
rạng rỡ của nó tập trung về nơi ấy và trở nên ekaggatà, tâm nhất
điểm -- qui về
điểm duy nhứt, đến một đỉnh cao duy nhứt.
Khi tâm
đến tình trạng tâm nhứt
điểm, thì chẳng còn cảm thọ, tư
tưởng hoặc đối tượng nào khác của tâm
nữa. Nơi đây chỉ có các thiền chi
(jhànanga), tức là các yếu tố thiền
định. Ở tình trạng Sơ thiền, có năm
thiền chi. Ở tình trạng nầy, tâm vẫn còn thô phù
để thực hiện nhiệm vụ quán tưởng đối tượng.
Tâm đang ghi nhận đối tượng được gọi tầm (vitakka).
Tâm đang thể nghiệm đối tượng đó gọi là
tứ (vicàra). Do nhờ có tầm (vitakka) và tứ
(vicàra), nên tâm trở nên thỏa mãn và mừng (piti).
Và một khi có nỗi mừng (piti) ở
đó, thì cũng sanh niềm vui (sukha) cùng một lúc. Sau
cùng, tâm nhứt điểm lại tiếp tục như trước.
Như thế, tâm ở trình độ định lực
(samàdhi) nầy có năm yếu
tố: ghi nhận (vitakka), thể nghiệm (vicàra), nỗi mừng
(piti) cùng niềm vui (sukha) và tâm nhứt
điểm (ekaggatà). Năm
yếu tố đó cho thấy tâm đang đi vào Sơ Thiền, tình trạng
thiền định hoàn toàn thứ nhứt.
Sự hay biết nầy chẳng bao trùm bất cứ sự suy tư nào, nhưng cả năm
hành vi đó của tâm đều khởi sanh ra.
Ta gọi chúng là các thiền chi (Jhànanga) của Thiền
(Jhàna). Nếu ta có thể nhận diện
được các yếu tố đó đầy đủ hết, thì ta có thể thoả mãn vớí sự thể
nghiệm đã thành công vì
đạt đến Định lực (Sanàdhi),
mặc dầu còn ở giai đoạn thứ nhứt, ở Sơ Thiền.
Điều đó xem như lạ lùng thật -- hoàn toàn, mà vẫn ở giai
đoạn đầu tiên.
Trên
đỉnh cao.
Tôi muốn nói kỹ thêm về từ ngữ
Ekaggatà, tâm nhứt điểm. Tiếng
Pali Ekaggatà nầy thường được dịch ra
là "tánh nhứt điểm" (one pointedness).
Dịch sát nghĩa từ chữ thì Ekag là "có một
điểm duy nhứt" và Agga là "đỉnh
cao". Thái ngữ dịch là yod. Chữ yod của Thái có thể
chỉ vào cái ngọn, đỉnh cao nhứt, đỉnh nhọn
của một sự vật gì như ngọn núi chẳng hạn, hoặc một kim tự tháp, hay
là đọt cây non nhô lên. Tôi chẳng lấy
làm chắc lắm chữ Anh "point" có đồng
một nghĩa hay không. Một điểm thì có thể ở vào bất cứ nơi nào. Nó
có thể lộ ra bên hông, hoặc ở thấp bên dưới.
Đây là lý do vì sao tiếng Pali dùng chữ Agga (đỉnh,
ngọn, thiên đỉnh). Ekaggatà
cũng như là chóp đỉnh của ngọn kim tự
tháp. Đâu có xứng đáng cho tâm gom vào một
điểm thấp ở bên dưới. Nó phải
được tập trung lại từ dưới thấp mà
vượt lên cao tận đỉnh. Đấy mới là
nghĩa đứng đắn của chữ Ekaggatà.
Bạn chớ quá âu lo nếu tâm tập
trung lại tại một tiêu điểm nào chẳng
được cao nhứt. Đó chỉ là bước
đầu. Khi nào có Ekaggatà, tâm nhứt
điểm, thì bắt
đầu có một việc thật là hữu dụng. Khi
nào có một chút tâm nhứt điểm
là khi đó có định lực (samàdhi).
Trong việc thực tập của chúng ta về Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati),
ở bước thứ tư nầy, cũng chẳng cần thiết phải
đi vào thiền
định hoàn toàn. Sự thực tập Quán
tưởng Giác niệm về Hơi thở còn chưa đòi
hỏi đến các giai tầng thật tế nhị của định
lực. Ta chỉ cần có một cấp bậc vừa phải và thích hợp về
định lực để tiếp tục việc thực tập, tức là,
có khá đủ định lực (samàdhi)
để nhận thức các cảm thọ mừng (piti)
và vui (sukha) Ta cần xử dụng nỗi mừng và niềm vui
trong bước thực tập kế tiếp. Nếu ta nhập vào các bực Thiền của
cõi sắc giới (rùpa jhàna) thì rất tốt, vì
điều đó khiến cho các bước thực
tập về sau sẽ dễ dàng hơn. Nhưng ngay khi chưa
đạt đến Thiền, mà vẫn cảm nhận
được nỗi mừng (piti) và
niềm vui (sukha) thì cũng là
đang thực tập tốt. Giờ đây, chẳng có chi là quá khó, phải vậy
không?
Khi các cảm thọ mừng và
vui có đủ sức mạnh để tâm thức cảm
nhận chúng thật rõ ràng, thì đó là
có đầy đủ định lực để tiếp tục thực tập
bước thứ năm. Nếu bạn
nhập vào các bực Thiền, Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền của cõi
Thiền sắc giới (rùpa jhàna) thì thật là tuyệt rồi!
Nhưng, có
định lực cần và
đủ để thể nghiệm được nỗi mừng
(piti) và niềm vui (sukha) một cách thật rõ ràng,
đó cũng là vừa
đủ cho bước thứ tư.
Cũng dễ, khi ...
Vài bạn ở
đây thắc mắc chẳng biết có khó hay dễ để thực
tập. Đó là điều mà tôi chẳng
thể nào giải đáp cho bạn được. Nhưng tôi có
thể nói, chẳng có chi khó khăn nếu phương pháp được ứng dụng một cách đứng
đắn. Nếu bạn đã lắng nghe cẩn thận, thì bạn sẽ hiểu cách thực tập
thế nào cho đúng. Nếu bạn tuân theo kỹ thuật
đúng đắn, thì chẳng có gì quá khó đâu.
Bạn có thể hoàn tất trong một thời gian ngắn. Nếu bạn chẳng thực
tập đúng theo phương pháp, thì sẽ có
nhiều khó khăn và có thể chẳng bao giờ
bạn hoàn tất được. Đối với vài người,
có thể là ba ngày; hoặc ba tuần đối với người
khác, hay là ba tháng, hoặc ba năm, nào
ai biết được chắc?
Phần lớn các bạn còn ở giai
đoạn đầu, tập luyện về bước thứ
nhứt, nhưng điều đó chẳng có nghĩa là
các bạn ấy chẳng cần chú ý đến các lời giảng
dạy về bước thứ tư nầy. Nếu bạn chẳng biết
được sẽ phải làm gì, thì sẽ vấp nhiều
khó khăn khi gặp việc xảy đến. Chúng tôi cống
hiến các lời chỉ dẫn thật rõ ràng theo sự cố gắng của chúng tôi,
để các bạn có thể hiểu được đường lối đúng
đắn nhứt mà thực tập. Tuy nhiên, nhiều người chẳng thích tập theo
lời chỉ dẫn. Họ muốn pha trộn tất cả vào các ý kiến và tư tưởng riêng của
họ. Họ thích dồn chung lại một cách hỗn tạp những
điều họ đã nghe
được ở nơi nầy, đọc thấy ở nơi kia. Bạn có
thể làm theo cách bạn thích. Nhưng nếu bạn muốn khiến cho việc thực
tập nầy thành công và dễ dàng nhứt cho bạn, thì tôi khuyên bạn nên theo
các lời chỉ dẫn đã
được giải thích rõ ràng, hữu hiệu và
thành tựu về đường lối của kỹ thuật nầy.
Thực tập theo
đúng phương pháp cũng chẳng quá khó. Chẳng
theo đúng lời chỉ dẫn sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ
đó, ta cần học kỹ phương pháp đúng đắn và
cách áp dụng như thế nào. Rồi ta mới kỳ vọng vào các kết quả mong muốn.
Ngoài việc đó, cũng chẳng còn gì phải
làm thêm, ngoại trừ việc lập đi lập lại, và
lập đi lập lại các bước cho
đến khi trở thành thuần thục như một
chuyên viên. Hãy lập lại chúng cho đến khi
bạn có thể nhanh chóng làm êm dịu được
hơi thở và lắng dịu thân tâm. Hãy thực tập cho
đến khi nào các bước
đó chẳng cần đòi hỏi cố gắng, nỗ lực
gì cả, bạn trở nên nhuần nhã trong các hoạt
động đó.
Và cũng xin chớ quên! Ở mỗi
bước, ở mỗi giai đoạn và mỗi
khoảng cách giữa hai cuộc thực tập, ta vẫn phải ghi nhận các hơi thở vào
và các hơi thở ra. Đây là bối cảnh và
cơ bản của giác niệm (sati).
Đây là cách làm thế nào để luôn luôn
giữ tâm tuyệt đối trong chánh niệm. Ghi nhận sự thở vào và ghi nhận
sự thở ra ở mỗi giai đoạn của việc thực tập.
Rồi sự thành công trong bộ bốn thứ nhứt của Giác niệm về Hơi
thở (Ànàpànasati) sẽ đến với ta. Đây là
bối cảnh lý thuyết của Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) và cũng
là các nguyên tắc hướng dẫn sự thực tập đó.
Đã hết giờ. Xin chấm dứt
buổi pháp thoại ở đây.
Bài 4
Làm chủ các cảm thọ
Trong bài pháp thoại nầy, tôi
xin nói về bộ bốn thứ nhì của Pháp Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati). Bốn bước trong bộ bốn nầy có liên quan
đến các cảm thọ, nên
được gọi là Vedanànupassànà, sự
Quán tưởng về các cảm thọ. Hai bước
đầu của bộ bốn nầy lấy Hỉ, tức là nỗi mừng
(pìti) và Lạc, tức là niềm vui (sukha) làm
đối tượng cho sự thâm cứu và quan sát
chi tiết.
Việc thực tập các bước
mới nầy phát triển dựa theo sự thực tập các bước trước. Một khi
thân hành, tức là hơi thở, đã
được lắng dịu, thì các cảm thọ mừng
(pìti) và vui (sukha) sẽ khởi hiện. Rồi ta lấy
ngay hai cảm thọ mừng và vui đó
làm đối tượng, hay là chất
liệu, cho việc thực tập của chúng ta.
Nếu ta làm dịu
được thân hành (kàya
sankhàra) tới mức độ đạt đến Thiền định (Jhàna,
Sơ Thiền, Nhị Thiền v.v.) thì Hỉ, nỗi mừng (pìti) và
Lạc, niềm vui (sukha) trở nên
đầy và đủ
như hai yếu tố của Thiền, tức là hai Thiền chi. Tuy nhiên,
nếu ta còn chưa đủ khả năng để nhập vào
thiền định, mà chỉ
đủ sức làm dịu thân hành
được một phần nào, thì cũng có thể có
được một mức độ về mừng và
vui nào đó, tỷ lệ thuận với phần làm
êm dịu đó. Như thế, ngay cả đối với những ai
chưa đủ khả năng để vươn tới thiền định, cũng vẫn có thể xoay trở hầu có
đủ mừng và vui để thực
tập các bước nầy.
Ngay
đây, ta sẽ nghiên cứu các
đặc tánh và ý nghĩa của mừng (pìti)
và vui (sukha). Pìti, Hỉ (= mừng, là sự bằng
lòng khởi lên do nhờ thành công trong việc
đạt đến định lực (samàdhi) ở các bước trước,
đó có nghĩa là, ta
đã đủ sức
làm cho thân hành (= hơi thở)
được êm dịu lại. Sự bằng lòng, hay là sự thoả ý, khởi lên cùng với
sự thành công. Một khi đã có sự bằng
lòng rồi, thì bạn đâu còn cần phải
nghi ngờ gì nữa, sự hoan lạc (Lạc, vui, sukha) sẽ khởi lên theo. Do
có thoả ý mà hân hoan khởi lên. Đấy là
cách nên làm sao mà ta có đủ được
Hỉ (Pìti, mừng) và Lạc (sukha, vui )để
tiếp tục thực tập hai bước năm
và sáu.
Mừng (Hỉ) (Pìti) chẳng
được
êm ả lắm.
Điều nên quan sát tiếp
theo là có nhiều giai tầng ý nghĩa khác nhau nơi chữ Pìti (Hỉ,
Mừng), như sự bằng lòng, sự thoả mãn, và sự ngây ngất. Bạn phải
nên hiểu biết rõ các giai tầng ấy của nỗi mừng (Pìti, Hỉ)
được thể hiện ra dưới hình thức khác
nhau, hoặc có ít, hoặc có nhiều năng lực
trong đó. Đặc tánh quan trọng của Hỉ (Pìti, nỗi mừng)
mà bạn cần lưu ý nhiều đến là Hỉ
(Mừng) chẳng được êm ả cho
lắm. Nơi cái điều mà ta gọi là Hỉ
(Piti, mừng) đó có một loại kích
thích, hay xáo trộn. Chỉ khi nỗi mừng (pìti)
đó trở thành niềm vui (sukha),
bấy giờ nó mới an tịnh lại. Nỗi mừng, hay là Hỉ (Pìti)
có nhiều cấp độ, nhưng các cấp độ ấy đều mang
đặc tánh là gây kích thích, khiến cho tâm (citta) bị
giao động. Còn Lạc, niềm vui (sukha),
đối ngược lại, làm tâm trở nên
êm dịu. Đấy là
điểm sai biệt giữa Mừng và
Vui, giữa Hỉ và Lạc, giữa Pìti và Sukha.
Giờ
đây ta đã sẵn sàng
để thực tập bước một và bước
hai của bộ bốn thứ nhì (2nd tetrad) -- thể nghiệm Hỉ (Pìti
patisamvedi) -- có nghĩa là ta quán tưởng Hỉ (= Piti =
nỗi mừng), mỗi khi ta thở vào và thở ra. Ta phải luôn luôn
canh chừng cho đến khi nỗi mừng
(pìti= Hỉ) khởi lên vào lúc ta thành công trong việc làm êm dịu
thân hành (tức là hơi thở) lại. Bạn hãy khám phá xem cảm thọ mừng
đó ra như thế nào. Hãy thể nghiệm
nó trọn vẹn. Lấy nó làm đối tượng quán tưởng
mới cho tâm. Khi quán tưởng nỗi mừng (Hỉ) đó, tâm (citta) sẽ
bị thu hút vào trong nó, cũng tựa như là tâm nhứt
điểm (Ekaggatà). Tâm tư
hoàn toàn thấm nhập vào đối tượng duy nhứt là
Hỉ (Pìti, nỗi mừng).
Từ trước
đến giờ, ta đã quan sát một số
đối tượng như hơi thở dài, hơi thở
ngắn, tất cả thân, và làm êm dịu các thân. Giờ
đây, ta chuyển sang Hỉ, nỗi mừng
(Pìti). Cái Hỉ nầy có năng
lực khích động. Nó khiến cho tâm tư giao động, run rẩy, và xúc
động. (...) Khi bằng lòng, thì bị kích
thích ra sao? Khi thoả mãn, sự kích động lên
đến độ nào? Và lúc ngây ngất, tâm tư
bị sự kích thích tràn ngập tới đâu? Hãy
tìm quan sát cho kỹ để, tự bạn, bạn khám phá
ra được. Tâm tư chuyên chú vào nỗi mừng (pìti) và thể
nghiệm nó trọn vẹn, mỗi khi ta thở vào và mỗi khi ta thở ra.
Đây là cốt lõi của việc thực tập nơi
bước thứ năm.
Nói cho gọn hơn nữa, mỗi khi ta
thở là ta thể nghiệm nỗi mừng (Pìti, Hỉ). Thở vào và thở ra,
thể nghiệm trọn vẹn cảm thọ mừng (= bằng lòng) và
đồng thời có sự hay biết về hơi thở vào
và về hơi thở ra. Khi thực tập bước nầy, một cảm giác thật thích
thú về an lạc sẽ khởi lên bên trong ta. Công việc
đang làm khá ngộ nghĩnh, và cũng rất
thích thú vậy. Xin bạn hãy cố tập thử bước thứ năm
nầy xem.
Nghiên cứu hương vị của hỉ
(Pìti, mừng).
Mỗi lúc ta thở với sự thể
nghiệm về nỗi mừng (Pìti = Hỉ),
đó là ta đang vừa nghiên cứu
học và đang vừa luyện tập. Lúc trước, ta
luyện tập và nghiên cứu trong khi thở dài hơi, thở ngắn hơi, và các
hơi kế tiếp. Giờ đây, ta nghiên cứu và
luyện tập ngay trong khi thể nghiệm nỗi mừng (Pìti, Hỉ)
trong tâm tư. Mừng đó như thế nào? Nó
có nặng nề không? Nó có nhẹ nhàng không? Có thô phù không? Nó tế nhị như
thế nào? Đó là
điều mà ta gọi là "nếm hương vị của
Hỉ, của nỗi mừng (Pìti)".
Đặc biệt phải nên biết rõ ảnh hưởng của hương vị
đó đến tâm tư, hoặc đến các ý tưởng. Hãy
nghiên cứu để hiểu thấu được bản thể của
Hỉ, của nỗi mừng (Pìti), cũng giống như cách
ta đã nghiên cứu trước
đây, cho đến khi nào ta hiểu thật rõ
ràng về bản thể của hơi thở trong việc thực tập về bộ bốn thứ nhứt
(1st tetrad). Đó là cách thực tập về
bước thứ năm nầy.
Điều quan trọng nhứt cần phải
nghiên cứu và quán sát là sức mạnh của nỗi mừng (Pìti, Hỉ)
đã ảnh hưởng
đến tâm. Nỗi mừng đã ảnh hưởng lên tâm
và lên các ý tưởng như thế nào? Hãy quán sát thật cẩn thận xem tâm như thế
nào, khi Mừng chưa khởi lên. Một khi Mừng
đã khởi sanh lên, thì tâm ra làm sao?
Có hiệu lực như thế nào, khi mừng nhiều? Tâm tư ra sao, khi
mừng ít? Khi nỗi mừng quá mạnh, như trong trường hợp ngất
ngây, thì tâm trạng bị ảnh hưởng kích thích nhiều
đến mức nào? Hãy nghiên cứu hình thức
thô phù, trung bình và tế nhị của một nỗi mừng,
để thấy cho rõ chỗ chúng khác biệt
nhau. Rồi xét xem ảnh hưởng của chúng lên tâm tư khác nhau thế nào.
Đây là
điểm then chốt của sự thực tập bước thứ năm.
Sau chót, ta nhận
định ra được Hỉ, nỗi mừng (Pìti)đã
kích thích tâm tư theo một cách thô phù. Hỉ (Pìti)
chẳng có được cái hiệu lực thanh lọc và
tế nhị của Lạc (Sukha) mà ta sẽ xét tiếp theo sau
đây. Ngay tại bước nầy, bạn
phải nên biết rõ bản thể, sự kiện và bí ẩn của hiện tượng
được gọi là Hỉ, là nỗi mừng,
là Pìti. Hãy quán sát mối tương quan giữa nó với tâm tư, mãi
cho đến khi nào bạn thật sự quen thuộc
với sự thể nghiệm ấy.
Lạc (Sukha, niềm vui)
làm dịu tâm tư.
Giờ
đây, ta đi đến bước thứ nhì của
bộ bốn thứ hai (2nd tetrad), đúng ra là
bước thứ sáu nếu kể chung lại hết. Đây
là bước thể nghiệm Lạc (sukha patisamvedi) trong
đó ta sẽ quán tưởng lạc (sukha,
niềm vui), cùng với mỗi hơi thở vào và với mỗi hơi thở ra. Hãy
đặt tiêu
điểm của việc quan sát vào Lạc, (Sukha, niềm vui)
trên phương diện Lạc (Sukha, niềm vui ) nầy là kết quả của
nỗi mừng (Pìti). Khi Hỉ (Pìti, nỗi mừng)
đã hết kích thích tâm tư (citta)theo
cách thô phù của nó, thì nó giảm bớt năng
lực. Nói cách khác, Hỉ đó đã
lắng dịu lại, rồi biến thái để trở thành
Lạc (Sukha, niềm vui).Ta sẽ thấy cả hai cảm thọ
đó: nỗi mừng và niềm vui,
rất khác nhau. Cái niềm vui (tức là lạc, Sukha)
đó chẳng kích thích hay khích động nữa, mà
trái lại, nó làm cho lắng dịu và êm ả lại. Tại
đây, ta quán tưởng Lạc (Sukha,
niềm vui) như một tác viên khiến cho tâm (citta) trở nên an
tịnh. Thông thường, thì Hỉ che mờ Lạc; khi Hỉ
đã phai nhạt thì Lạc vẫn còn
duy trì. Cảm thọ thô phù nhường chỗ cho cảm thọ tế nhị. Bạn hãy nếm hương
vị của Lạc, của niềm vui, ngay trong mỗi hơi thở vào, ngay
trong mỗi hơi thở ra. Đây là cốt lõi
của bước thứ sáu.
Trong khi tâm tư
đang quán tưởng về Lạc, niềm vui
(Sukha), ta nghiên cứu và tập luyện cũng giống như ta
đã làm về hơi thở và về Hỉ, nỗi
mừng (Pìti). Cảm thọ Lạc nhẹ nhàng như thế nào? Nó có
nặng nề không? Nó có thô phù không? Nó tế nhị như thế nào? Cảm thọ Lạc
đã mang hương vị nào
đến cho sự tỉnh giác và sự thể nghiệm?
Trong ngôn ngữ Thái và Pali, người ta dùng
động từ "uống" để diễn tả sự
thể nghiệm đó. Vậy, bạn hãy uống, hãy nếm cái hương
vị của Lạc, của niềm vui đó,
ngay trong khi bạn thở vào và thở ra.
Đồng thời, cũng nghiên cứu bản thể của nó và sự thật về nó.
Ta thấy rõ dễ dàng rằng, khi
sức mạnh của Hỉ, của nỗi mừng (Pìti), khởi lên thì
hơi thở trở nên thô phù. Khi ảnh hưởng của Lạc, của niềm vui
(Sukha) đã trở nên rõ rệt thì
hơi thở lại lắng dịu xuống. Ta có thể nói ngay rằng, khi Hỉ bộc lộ
sức mạnh của nó ra, thì tấm thân thể chất nầy trở nên thô phù. Lại còn có
ảnh hưởng của Hỉ đến tâm (citta)
nữa. Khi Hỉ (Pìti) càng mạnh bao nhiêu thì nó khuấy
động tâm tư cũng mạnh đến chừng ấy, trong khi
đó thì ảnh hưởng của Lạc (Sukha) là xoa dịu và làm
thư giãn tâm tư (citta). Cả hai cảm thọ: Hỉ và Lạc, nỗi
mừng và niềm vui, Piti và Sukha, trái ngược nhau như
thế. Đó là
điều mà bạn phải nên quán sát cho thật
kỹ khi gặp được cơ hội, tức là, ở mỗi
hơi thở vào và ở mỗi hơi thở ra.
Để tóm tắt lại, khi
Hỉ (pìti) và Lạc (sukha) khởi lên, thì chúng có
ảnh hưởng đến hơi thở. Cảm thọ nầy làm
hơi thở thô phù, còn cảm thọ kia làm hơi thở êm dịu. Chúng có ảnh hưởng
khác nhau lên trên tấm thân thể chất. Cảm thọ nầy làm thân thể trở nên thô
phù, trong khi đó cảm thọ kia làm lắng
dịu thân thể. Chúng lại có những ảnh hưởng khác nhau
đối với tâm tư. Cảm thọ nầy kích thích tâm
trong khi đó cảm thọ kia làm tâm an
định. Khi nào bạn nắm vững được sự
phân biệt đó, qua chính sự thể nghiệm của bạn, chớ chẳng phải qua sự suy
tư suông về điều ấy, thì bạn mới thật sự thành công trong việc thực
tập bước thứ sáu nầy.
Sau
đây, có vài sự khó khăn.
Trong khi ta quán tưởng về Lạc (sukha), thì Hỉ
(pìti) có thể lại xen vào. Hỉ khởi lên mạnh, khiến cho
Lạc phải biến mất đi. Do đó, ta cần phải
phát triển khả năng duy trì cảm thọ Lạc cho thật lâu
để ngăn ngừa chẳng cho cảm thọ Hỉ
bước vào. Hỉ mạnh mẽ hơn, và thô phù hơn Lạc. Nếu có Hỉ
xen vào thì sự quán tưởng về Lạc bị làm hư hỏng và sự an tịnh thật
sự sẽ chẳng khởi lên. Ta phải nên cố gắng đưa
một nỗ lực "tuyệt kỹ" vào trong sự quán tưởng
để cho Lạc chẳng bị phai nhạt
đi.
Đừng để cho bất cứ cảm thọ nào
khác xen vào. Nơi bước nầy, có lẽ ta sẽ
được chan hoà trong niềm hoan lạc. Vi
diệu thay khi thành công trong việc thực tập bước thứ sáu nầy!
Thể nghiệm Tâm hành.
Giờ
đây, ta đến bước thứ bảy: "thể
nghiệm tâm hành (cittasankhàra patisamvedi)". Nếu ta
đã thực tập thành công cả sáu bước,
thì nay ta đã biết rõ tất cả về
các cảm thọ Hỉ và Lạc (pìti và sukha). Khi
Hỉ khởi lên, nó gây ảnh hưởng nào đến Tâm
(citta)? Còn Lạc khởi lên, gây ảnh hưởng nào
đến Tâm? Loại ý tưởng nào
được Hỉ
điều kiện hoá? Loại ý tưởng nào chịu
ảnh hưởng của Lạc? Ta đã ghi
nhận và chiếu rọi thật kỹ lưỡng vào các tác dụng
đó kể từ bước thứ năm
và bước thứ sáu. Một khi
đến bước thứ bảy nầy, cũng dễ cho ta nhận thức ra rằng: "Ồ!
Hỉ và Lạc cũng đều là
các tâm hành." Các cảm thọ nầy (vedanà)
đều là các tâm hành, cũng giống
như cách mà các hơi thở đều là các
thân hành vậy. Phương pháp quan sát và nghiên cứu ở
đây cũng chẳng khác với phương pháp ở
bước thứ ba.
Ta
đã quan sát thấy Hỉ thì thô phù và bị kích thích, còn Lạc
thì tế nhị và an hoà. Như thế, khi Hỉ
điều kiện hoá hoặc nhen nhúm lên một ý
tưởng, thì ý tưởng ấy sẽ trở nên thô thiển. Mặt khác, khi Lạc nhen
nhúm một ý tưởng nào, thì ý tưởng đó lại
êm dịu và yên ổn. Đây là cách
mà ta nhận thức ra các cảm thọ (vedanà)
đã điều
kiện hoá, đã gây ảnh hưởng đến, các tư
tưởng. Và ta cũng nhận định được rằng,
cảm thọ điều kiện hoá cả hai loại tư tưởng thô và tế. Ta gọi tác
động đó là sự "diều kiện hoá tâm trí".
Khi nỗi mừng, Hỉ, (Pìti)
mạnh mẽ thì nó tạo nên sự rung động trong
thân thể. Và khi nó trở nên thật mãnh liệt thì toàn thân có thể
nhảy nhót lên mừng rơn. Cảm thọ nầy thô phù và mạnh bạo. Mặt khác, Lạc,
niềm vui (Sukha) làm cho êm dịu, xoa nhẹ, và thư giãn. Ta học
được các đặc tánh của chúng rất khác biệt
nhau. Khi Hỉ ngự trị trong tâm thì chẳng thể nào nghĩ
đến các tư tưởng tế nhị được. Ta cảm thấy
ngứa ngáy, lâm râm khắp châu thân, khiến cho tóc lông phải dựng lên.
Vì thế, ta cần phải có đủ khả năng để kiểm
soát Hỉ (Pìti). Đối lại,
Lạc (Sukha) lại có nhiều ưu
điểm. Nó đưa tới các tâm trạng tĩnh lặng. Nó
thúc đẩy các tư tưởng tế nhị, sâu xa và thanh tịnh. Hai cảm thọ:
nỗi mừng (Pìti, Hỉ) và niềm vui (Sukha, Lạc)
dường như thể là kẻ thù của nhau, chống đối
nhau. Nhưng điều nầy chẳng quan trọng cho lắm, vì ta
đã biết cách
điều chỉnh chúng được rồi. Ta đủ khả năng để
kiểm soát chúng bằng cách luyện tập theo phương pháp mà ta
đang thực tập đây. Đây chỉ để thêm một
chút hiểu biết rành rẽ, vừa đủ về các
tâm hành (citta sankhàra) mà thôi.
Thân hữu và thù nhơn.
Mặc dầu vậy, ta vẫn cần nên
quán sát và thông hiểu thêm một bí ẩn khác nữa. Hai cảm thọ
đó phải cùng một lượt khởi lên; có
nghĩa là, nếu ta chẳng bằng lòng, chẳng được
thỏa mãn, thì sự vui vẻ chẳng khởi lên. Sự bằng lòng tạo nên sự vui
vẻ, sự hân hoan lại khởi lên từ sự thoả mãn. Sự bằng lòng và sự thoả mãn
là nhóm hiện tượng tâm linh mà ta gọi là Pìti, Hỉ,
đó là nhóm cảm thọ kích
động thích thú. Mặc dầu sự vui vẻ và
sự hân hoan đều thuộc nhóm cảm thọ có tánh
cách xoa dịu, nhưng chúng chẳng thể sanh khởi khi vắng bóng sự thoả mãn.
Bạn có thể quan sát để thấy rõ, bất cứ
trong một biến cố nào có sự vui vẻ thì trước
đó phải có sự thoả mãn xảy ra. Hỉ (Pìti)
đi dẫn đầu. Khi đang thể nghiệm sự thành
công, ta được thoả mãn, bị kích thích
và bị giao động bởi sự thành công
đó. Một khi Hỉ
đã giảm bớt cường lực, khi tâm tư
đã bắt
đầu mệt chán với sự xao động và kích thích
đó, thì Lạc vẫn còn duy trì ở
đó. Tình cảm lắng dịu xuống. Vậy, cả
hai cảm thọ đó đều là với thân hữu
nhau, mà lại cùng chống đối nhau. Chúng là
thân hữu với nhau, vì chúng phải khởi lên một lượt: phải có sự bằng lòng
trước rồi mới có được sự vui vẻ. Ta nên
thận trọng về điều nầy. Ta cần phải ứng phó
với chúng theo một đường lối tế nhị và thanh tịnh.
Đấy cũng như là một nghệ thuật vậy.
Một nghệ thuật tâm linh khéo léo để kiểm soát
Hỉ và Lạc (Pìti và Sukha) khiến chúng làm lợi
ích cho đời ta. Đó là
điều bí ẩn về Hỉ Lạc mà ta cần
phải biết rõ.
Tới
đây, ta khám phá ra được rằng Hỉ
(Pìti) là kẻ thù của sự quán tưởng (vipassanà), trong
khi đó thì Lạc lại chẳng như
thế. Sự vui vẻ, hân hoan là thân hữu, ủng hộ cho sự quán tưởng (vipassanà).
"Vipassanà" có nghĩa là "thấy rõ ràng", có
đưọc sự hiểu biết trực tiếp thẳng vào
chơn lý của vô thường (aniccam, chẳng thường còn), khổ sở
(dukkham, bất toại nguyện) và vô ngã (anatta,
chẳng có tự ngã). Ta cần phải có một tâm trí thật thanh tịnh
để nhận thức ra được vô thường, khổ
sở và vô ngã (aniccam, dukkham, và anatta), xuyên qua sự
quán tưởng (vipassanà). Nếu Hỉ (Pìti) khởi lên, sự
quán tưởng (vipassanà) chẳng thể nào phát
động được. Tâm trí bị che mờ và trở
nên giao động. Cần phải vẹt bỏ Hỉ
qua một bên, vì nó là kẻ thù của sự quán tưởng (vipassanà), là
kẻ thù của cái nhìn trong sáng và tế nhị của tâm. Trái lại, Lạc thì
chẳng như thế. Lạc xoa dịu và lắng êm, nó khiến cho tâm tư trở linh
hoạt và sẵn sàng để quán tưởng. Vì lẽ
nầy, ta cần phải có khả năng điều chỉnh
Hỉ và Lạc.
Sau cùng, ta sẽ nhận thức rằng
cả hai cảm thọ Hỉ và Lạc (Pìti và Sukha)
đều là những tâm hành. Khi
Hỉ điều kiện hoá tâm (tức là gây
ảnh hưởng đến tâm) thì tâm (citta)
trở nên thô phù và các tư tưởng cũng thô phù theo. Khi Lạc
điểu kiện hoá và ủng hộ tâm, thì tâm
trở nên tế nhị và an tịnh, rồi các tư tưởng trong tâm cũng tế nhị và an
tịnh theo. Cả hai loại cảm thọ đều có ảnh
hưởng đến tâm (điều kiện hoá), nhưng ở các khía cạnh khác nhau. Các cảm
thọ (vedanà) tạo nên điều kiện
gây ảnh hưởng đến tâm, vì thế cho nên chúng
được gọi là các tâm hành (citta
sankhàra.
Khi sự kiện vừa nói trên
đã được
ta khám phá ra, ta liền quán tưởng đến nó trong tâm ta, theo mỗi hơi thở vào,
ra. Thở vào rồi thở ra với sự xác tín về sự kiện
đó. Đấy là công việc của sự thực tập
bước thứ bảy.
An tịnh các cảm thọ.
Bước thứ tám là làm "an
tịnh các tâm hành (passambhayam cittasankharam)" trong khi thở
vào và thở ra. Hãy làm cho các tâm hành, tức là các cảm thọ (vedanà)
trở nên êm diu và an hoà. Giảm bớt cường độ
của chúng trong khi thở vào và hạ thấp năng
lực của chúng trong khi thở ra. Ta cần phải có đủ khả năng làm an
tịnh các cảm thọ, thì ta mới có thể thể nghiệm
được điều đó mỗi khi thở vào và thở
ra.
Có nhiều
đường lối làm giảm bớt cường
độ của các cảm thọ (vedanà). Hạ
thấp năng lực của chúng hoặc chấm dứt chúng
hoàn toàn chẳng phải là việc chẳng thể làm
được. Có hai cách để chúng ta xử dụng: (1)
phương pháp Định lực (Samàdhi) và (2) phương pháp
Bát nhã (Panna).
Phương pháp
Định lực.
Sức xung
động của Hỉ (Pìti) có
thể được làm êm dịu lại với phương
pháp định lực (samàdhi)
bằng cách phát triển tình trạng thiền định lên
một cấp cao hơn, để loại bỏ Hỉ
và Lạc (Pìti và Sukha) ra. Hiện nay có lẽ ta còn chưa
đủ khả năng để làm
được như thế, bởi vì chúng ta vừa mới
bắt đầu thực tập. Tuy nhiên, vẫn có bí
quyết để gạt bỏ các cảm thọ đó bằng cách đạt
đến một giai tầng cao hơn của thiền định, như Tam thiền hoặc Tứ thiền
chẳng hạn. Nhưng, ta vẫn có thể vẹt Hỉ qua
được, bằng cách thay đổi tư tưởng của ta. Hãy
đưa vào tâm một loại tư tưởng khác,
để can thiệp và loại trừ cái cảm thọ
bằng lòng (Hỉ) đó. Cả hai cách, cách nào
cũng xử dụng đến năng lực của Định lực. (...)
Thông thường, chẳng cần phải gạt bỏ Lạc (Sukha) ra.
Đúng ra thì ta cần giữ lại Lạc
để hỗ trợ cho sự thực tập tiếp theo về sau. Ở
đây, ta đặc biệt cần phải kiểm soát Hỉ. Ta kiểm soát
được Hỉ với các kỹ thuật của
Định lực, hoặc bằng cách thay đổi đối tượng
quán chiếu trong tâm, hoặc đạt đến một tình trạng thiền
định cao hơn. Hai cách đó, cách nào
cũng khiến cho Hỉ lắng dịu xuống.
Ta có thể khẳng
định rằng, khi biết dùng ý nghĩa chơn
thật của danh từ định lực (Samàdhi)
thì ta có thể đẩy Hỉ lui ra xa.
Ý nghĩa thật sự của danh từ Samàdhi, định
lực, là "đạt tới tâm
nhứt điểm (Ekaggatà citta)
với Niết-bàn (Nibbàna) làm đối tượng".
Chúng tôi có giải thích, ekaggatà citta, tâm nhứt
điểm là tình trạng tâm tập trung
lại, qui vào một đỉnh tuyệt cao. Định lực
chơn thật lấy Nibbàna (Niệt bàn hay là tịch
diệt, santi), làm đối tượng. Giờ đây, cái
cảm thọ Hỉ đó gây thêm
rắc rối, xáo trộn và khó khăn, thì ta
hãy đuổi nó đi. Ta nhắm vào mục tiêu
là tâm nhứt điểm với tịch
diệt (santi) hay Niết-bàn (Nibbàna) làm
đối tượng. Cảm thọ Hỉ tan biến
đi vì ta
đâu thèm đến nó nữa. Đó là một
phương tiện khéo léo: dùng Định lực
để đẩy Hỉ lui ra xa.
Phương pháp bát nhã (trí huệ).
Giờ
đây tới phương pháp Bát nhã,
để làm giảm cường
độ của Hỉ (Pìti),
để xoá bỏ ảnh hưởng của Hỉ,
hoặc của Lạc, nếu muốn. Ta xử dụng Bát nhã (Panna)
nhận thức được bản thể chơn thật (đặc điểm,
tánh chất, điều kiện) của mọi sự vật do đấy mà Hỉ khởi lên
và nguyên nhân nào làm cho nó biến diệt. Hỉ bộc phát lên, khi có
điều kiện thoả ý được thực hiện đúng đắn. Nó
sẽ biến diệt đi, do sự khiếm khuyết điều kiện đó, do vì nhận thức
được nó chỉ là ảo giác, chớ chẳng phải
là chơn thật. Một khi ta thấy được rõ
như thế, cảm giác bị Hỉ khuấy động, và
sẽ từ từ mất dần.
Một phương pháp khác của Bát
nhã là sự phân biệt rõ ràng giữa vị ngọt (assàda) và nguy
hiểm (àdìnava) của Hỉ. Vị ngọt (Assàda) tức là
tánh chất hấp dẫn của một sự vật, vẻ duyên dáng ngon ngọt cám dỗ của nó.
Hỉ có hương vị kỳ diệu đó.
Nguy hiểm (Àdìnava) là khía cạnh tác hại trừng phạt của sự vật.
Nguy hiểm của Hỉ là việc nó kích thích và khuấy rối, lại
đẩy lùi sự yên tịnh ra xa,
đấy là
điều đã làm cho nó trở nên kẻ thù của sự quán tưởng (vipassanà).
Một khi ta đã nhận biết rõ như thế,
thì Hỉ tan rả. Nếu ta thấy rõ được sự
khởi sanh, sự biến diệt, sự duyên dáng (vị ngọt), và sự tác hại
(nguy hiểm) của Hỉ, thì nó tan rả và biến mất
đi. Đây là xua đuổi Hỉ
với kỹ thuật của phương pháp Bát nhã.
Mỗi người trong chúng ta cần
nên hiểu rõ ý nghĩa của hai danh từ Assàda và Àđìnava.
Nếu bạn nhớ được tiếng Pali, thì
có lẽ tốt hơn là lời dịch. Assàda là khía cạnh hấp dẫn, thoả thích,
đáng yêu, làm say
đắm, hay quyến rũ của một sự vật nào.
Àdìnava là khía cạnh thấp hèn hay tác hại của một sự vật. Chẳng thể
vịn vào cớ nào để cho hai điều đó tới để
phỉnh gạt ta. Một khi đã thấy rõ hai
điều đó rồi, thì ta biết rằng, thích thú một vật, hoặc say
đắm yêu mê nó, là một sự
điên rồ tích cực. Còn
đi oán ghét một sự vật lại là một sự
điên rồ tiêu cực. Nếu
đã hiểu biết rõ ràng cả hai rằng chúng
luôn luôn phỉnh gạt ta và dụ dỗ ta hoặc phải yêu mê hoặc phải thù hận, thì
bài học rút ra ở chúng, là ta chớ có dễ dãi trong hai việc thương và ghét,
và nhờ đó mà ta
được giải thoát khỏi ma lực của mọi sự vật.
Thí dụ như tiền bạc có cả hai:vị ngọt và nguy hiểm (Assàda
và Àdìnava) thì ta chớ nên để nó
lung lạc mà đi lầm đường, hay là
điên cuồng theo
đuổi nó mải miết.
Thông hiểu cho thật
đầy đủ về cặp Assadà với
Àdìnava, tức là cặp vị ngọt và nguy hiểm, là
điều tạo nên sự an toàn nhứt mà ta có
thể biết được. Thấy biết vị ngọt và
nguy hiểm của Hỉ, bạn sẽ mệt chán với Hỉ. Rồi nó tự bay
đi mất. Đấy là cách dùng Trí huệ Bát
nhã để đuổi Hỉ
đi xa. Ngay cả với Lạc (Sukha),
cũng chớ nên dễ dãi. Mặc dầu ta còn cần giữ lại
đôi chút Lạc vì mục
đích hữu ích của nó, nhưng ta cũng chớ nên
để bị mất hướng vì nó. Xin bạn hãy nhớ
kỹ hai danh từ Assàda và Àdìnava nầy trong suốt khoảng
đời còn lại của bạn. Chúng sẽ trở
thành một thứ linh phù để thật sự bảo vệ bạn,
chớ chẳng hề làm hại bạn.
Đến điểm nầy, tâm trí có thể
điều chỉnh các cảm thọ. Tâm trí đã phát triển
được khả năng làm chủ và tự kiểm khiến
cho các cảm thọ hết mong lôi kéo ta theo
đường nầy lối nọ. Cảm thọ Lạc, lạc thọ (sukha vedanà),
tức là cái cảm giác thích thú mà chúng ta
đang bàn luận đây, thường thu hút tâm
trí theo một hướng khả ái một cách tích cực. Còn có một loạt các
cảm thọ khác trì níu ta vào đường tiêu
cực, theo một hướng chẳng đáng cho ta mong
muốn hay vừa ý.
Chúng ta
đã bàn luận
đến nhóm các lạc thọ, và ta cũng nên
biết rõ thêm về các cảm thọ đau khổ, tức là
nhóm các khổ thọ (dukkha vedanà) nữa. Ta phải biết cách làm
sao ngăn chặn các cảm giác bất như ý và
sầu muộn đừng đẩy ta vào một tình
trạng khổ sở (dukkha). Các khổ thọ có thể bị ta
đánh bại theo phương pháp giống như ta đã
làm với Hỉ (Pìti). Cho dầu là lạc thọ, hay khổ thọ, ta cũng
có thể kiểm soát chúng được cả. Ta chế ngự
được chúng cả, chẳng trừ loại nào. Ta thực tập bằng cách
đưa bất cứ cảm thọ nào vào tâm và thể
nghiệm nó cho trọn vẹn. Rồi với trí huệ Bát nhã ta soi chiếu nó
để đuổi nó đi xa. Bạn hãy thể nghiệm
cái khả năng vứt bỏ được bất cứ cảm thọ nào.
Rồi ý thức rằng các cảm thọ chẳng còn điều
kiện hoá được tâm nữa. Hãy diễn đi
diễn lại kỹ thuật nầy với mỗi hơi thở vào và mỗi hơi thở ra, cho
đến khi nào bạn trở nên thuần thục
thành một chuyên viên về vấn đề nầy. Thế là,
bạn đã thành công trong việc thực tập
bước thứ tám.
Sao lại quá bận tâm?
Một
điểm chót là vấn
đề vì sao ta lại quá bận tâm luận bàn
nhiều về các cảm thọ vậy? Tại sao lại thấy cần thiết phải
đưa các cảm thọ vào hàng các công tác
của sự thực tập? Sao lại chẳng bước ngay sang việc quán tưởng (Vipassanà)
để đạt tới Niết-bàn (Nibbàna)
càng sớm càng tốt? Lý do là ta cần phải thông hiểu về các cảm thọ (vedanà)
mới có đủ khả năng để kiểm soát tâm trí trong
khi theo đuổi việc thực tập cho tới ngày thành tựu
được mục tiêu chánh yếu là
đạo quả Niết-bàn (magga phala
nibbàna).
Nhưng ta còn có một mục tiêu
thứ yếu nữa. Đó là, một khi
đã điều
chỉnh được các cảm thọ, có thể ta đủ khả năng để giữ cuộc sống của ta theo
con đường chơn chánh và đứng đắn. Khi
còn mê mờ về các tình cảm, ta thường rơi vào vòng nô lệ của chủ
nghĩa duy vật mà ma lực luôn luôn bủa vây ta vào lúc ta buông thả theo các
lạc thú vật chất, tức là các hương vị của các cảm thọ. Tất cả những
cuộc khủng hoảng trên thế giới đều bắt nguồn
từ nơi những người còn chưa hiểu rõ cảm thọ (vedanà), và say
mê yêu đắm các cảm thọ. Tình cảm
đã thúc
đẩy ta hành động như thế đó, để đưa
đến các sự bất hoà, tranh chấp, chống
đối và cả chiến tranh nữa. Đôi khi
chúng còn đưa đến cả các trận thế
chiến. Tất cả chỉ vì con người thất bại trong việc
đương đầu với sự phỉnh gạt của cảm thọ (vedanà).
Giờ
đây, chắc các bạn đã nhận thức
được rằng cần phải thông hiểu các cảm thọ. Ta
phải biết các điều bí ẩn về chúng và vận dụng
được sự điều chỉnh lấy chúng, nếu muốn cho
thế giới nầy hoà bình. Cần chi nói đến
việc chứng đắc Niết-bàn (Nibbàna) cho quá cao xa; ngay tại
đây, sống an hoà trong nội tâm và sống
hoà bình với đồng loại trên hành tinh
nầy đã đòi
hỏi mọi người phải đủ khả năng làm chủ
các tình cảm mình, đấy là
điều mà giờ
đây chúng ta vẫn còn chưa biết cách
khéo làm. Tôi hi vọng tất cả các bạn sẽ tiếp tục khai thác lợi lạc của khả
năng đó suốt khoảng đời còn lại của
các bạn. Bộ bốn nầy sở dĩ được đưa vào
sự thực tập Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) là vì tầm
quan trọng rộng rãi và mãnh lực to tát của các cảm thọ (Vedanà).
Trên
đây là bộ bốn thứ nhì (2nd
tetrad) trong Pháp Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Xin chấm dứt bài pháp thoại tại
đây, vì hết giờ.
Bài 5
Quán tưởng Tâm
Hôm nay, chúng ta sẽ nghiên cứu
bộ bốn thứ ba của Pháp Quán tưởng về Hơi thở (Ànàpànasati),
có liên quan đến Tâm (citta).
Bộ bốn nầy được gọi là
Cittanupassanà, Quán tưởng về Tâm. Xin hãy chuẩn bị tinh thần
để học tập về Tâm.
Trước khi
đi sâu vào bộ bốn thứ ba nầy,
có một điểm rất quan trọng mà chúng ta
thường quên, ít nhấn mạnh đến. Mỗi khi bạn
ngồi xuống để thực tập Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànapànasati)
-- mỗi khi bạn bắt đầu bất cứ buổi thực tập nào
-- bạn cần phải bắt đầu bằng bước
thứ nhứt, tức là sự thể nghiệm về hơi thở dài. Cho dầu hôm qua bạn tập
đến bước nào
đi nữa, hôm nay bạn cũng phải bắt đầu lại
ngay tại chỗ phải khởi đầu. Mỗi buổi tập là một buổi mới. Từ hơi
thở dài, bạn sang hơi thở ngắn, và cứ liên tiếp như thế, bạn bước từng
bước qua bước kế, hoàn tất đầy đủ mỗi bước,
trước khi tiến lên nữa, cho đến khi nào
bạn tới cái bước bỏ dở ngày hôm qua. Mỗi bước tuỳ thuộc vào
bước trước. Nếu bạn còn chưa đủ khả
năng để thực hiện bước thứ nhứt, thì chẳng thể nào bạn có
thể tiếp tục việc thực tập xa hơn nữa. Ngay bây giờ, mặc dầu chúng ta
đang có ý định thực hiện việc quán
tưởng tâm (cittanupassanà), chúng ta cũng phải bắt
đầu ngay tại bước thứ nhứt.
Điều nầy cũng đúng với tất cả mười
sáu bước thực tập. Với hơi thở vào, với hơi thở ra, ta thực tập luôn
luôn như thế. Xin nhớ, ta phải bắt đầu bất cứ
buổi thực tập nào cũng bằng bước thứ nhứt.
Sau khi thực tập thành công hai
bộ bốn thứ nhứt và thứ hai, ta bắt tay vào việc với bộ bốn thứ
ba nầy, là sự Quán tưởng Tâm (cittanupassanà). Bước thứ nhứt
của bộ bốn nầy là quán tưởng, hay là thể nghiệm, tâm dưới mọi
khía cạnh của nó. Điều nầy được gọi là
citta patisamvedi, sự thể nghiệm về mọi tình trạng của tâm (=
các tâm trạng) vào mọi thời. Kể từ khi mới bắt
đầu thực tập, cho đến điểm nầy, nhiều tâm
trạng đã khởi sanh lên. Nay, chúng ta phải quán sát mỗi tâm trạng ở
mỗi bước. Hiện trạng của tâm ra sao? Nó thay
đổi như thế nào?
Điều gì đã
khởi lên trong tâm? Tâm có những đặc tánh gì
vào lúc nầy? Trong các bước trước, ta nhấn mạnh
đến những hiện tượng, những sự kiện, tâm linh
nào, mà tâm đang biết đến, hay là
đang thể nghiệm. Giờ đây, ta sẵn sàng
để quan sát đến chính cái tâm.
Ta phải tiếp tục quán sát để biết trực tiếp
được tâm ra như thế nào vào lúc ấy. Ta thể nghiệm
được những gì? Bước thứ chín
nầy bắt đầu thể nghiệm tâm xuyên qua
mỗi phút giây của sự thực tập.
Nhiễm dơ hay không?
Có nhiều
đặc tánh của tâm cần được quán sát ở đây, và
tất cả các đặc tánh đó, tự chúng, phải hiện
ra một cách tự nhiên. Chúng được ta
quán sát đúng như chúng đang là như thế, vào
đúng thời gian mà chúng
đang hiện hữu. Đặc tánh cần phải được ghi
nhận là, như nói theo cách cổ truyền trong Kinh
điển, là "tâm có bị nhiễm dơ
không, tức là, trong tâm có tham (ràga) hay không?"
Các bạn đều biết tham là gì,
tham mê sắc dục cũng là một thứ tham. Nghĩa của chữ tham rất
rộng. Tham tiền bạc, nữ trang, thực phẩm, nhà cửa và tài sản cũng
đều là tham cả. Cũng có thể là sự tham
luyến về một cá nhân nào (chẳng phải là vì sắc dục) như một người làm công
hay tôi tớ chẳng hạn. Tâm có nhiểm các loại tham luyến như thế
không, vào lúc nầy, hay là nó chẳng vướng
đến? Nếu có tham đang hiện diện
ở đây, thì quán sát kỹ nó để phân biệt
ra nó thuộc vào loại nào. Hãy biết rõ khi tâm tham thì như
thế nào? Nếu vắng bóng sự tham thì hãy quán sát việc vắng bóng
đó của nó. Thở vào rồi thở ra, trong
khi đó, thể nghiệm tâm trạng thực sự lúc bấy
giờ của tâm.
Đặc tánh kế tiếp của tâm cần
được quán sát là sân, (dosa) tức là sự giận,
sự hờn, sự thù nghịch, sự hiềm hận. Nghĩa của chữ sân cũng rất
rộng. Đôi khi một vật bên ngoài, một
người, một tình trạng, hoặc bất cứ sự việc gì, cũng có thể làm ta giận.
Mọi sự cau có, khó chịu của tâm cũng là sân. Sân cũng
nổi lên ngay cả đối với một sự việc ở bên
trong nội tâm. Khi tâm trở nên bị đè
nén, kích thích, va chạm, chua cay, tâm
đó được gọi là tâm sân. Ta quán
sát tâm để xem tâm
đó có sân cùng không. Nếu tâm
đang sân, hãy quán sát, hay biết và
hiểu rõ rằng tâm trạng đó là tâm
sân. Nếu tâm chẳng giận hay hờn, thì cũng phải biết rõ rằng nơi
tâm lúc ấy chẳng có sân.
Đây là
đặc điểm thứ hai mà ta cần quán sát rõ.
Đặc tánh thứ ba cần được quán
sát là sự si mê (moha)(sự mê mờ, lầm lẫn). Sự si
mê biểu hiện bằng sự say đắm vào
một sự vật gì mà còn chưa biết rõ thực sự nó như thế nào. Thí dụ như, khi
ta đang nghi điều gì, ta chẳng thể nào
chẳng nghĩ đến điều ấy. Và khi có ước
mong hay kỳ vọng nào, ta cũng chẳng thể nào tránh
được sự trụ tâm vào
điều đó. Sự si mê có thể có
nghĩa là đang bị "lạc lối bơ vơ" hoặc "mờ mịt
tăm tối", tức là, bị sự nghi ngờ và ngu tối làm tràn ngập. Rồi thì,
ý kiến nầy hay ý kiến nọ, phát xuất từ sự nghi ngờ hay sự ngu tối, khởi
lên trong tâm. Đó là
đìều được
gọi là si mê. Ta cần phải biết rõ trong tâm ta hiện có, hay
chẳng có, sự si mê. Nếu có si mê, thì hãy nắm ngay lấy nó và quán sát kỹ
nó. Còn nếu tâm vắng bóng sự si mê, thì hãy quát sát sự khiếm khuyết của
si mê. Luôn luôn quán tưởng tâm trạng đó
trong khi thở vào và trong khi thở ra.
Đây là đặc điểm thứ ba cần phải quán
sát.
Có một cách giản dị
để phân biệt ba tâm trạng: tham,
sân, và si (ràga, dosa, và moha). Nếu
đang có một cảm tưởng muốn cần đến, tức là
muốn gom về, kéo lại, ôm chầm lấy và nắm chặt, cảm tưởng ấy là tham
(ràga). Tham có tính cách tích cực. Sân thì chẳng
thích, chẳng muốn. Sân có tính cách tiêu cực. Sân
đẩy ra xa, muốn đập phá bỏ, ngay cả muốn giết
chết nữa. Trong khi tham thì muốn kéo về, sân lại
tống đi. Thứ ba là si, tức là
si mê, ngu tối. Si chẳng phân biệt
được sự thật: phải trái, thiện ác. Si thì cứ chạy vòng vòng.
Và đây là chỗ khác nhau giữa ba tâm sở
tham, sân, si: một thì gom về cho mình, hai thì
đẩy ra xa, ba thì chạy lẩn quẩn. Mọi
người ai cũng có thể quan sát được sự khác
biệt giữa các hành vi của chúng: lôi về,
đẩy đi, và chạy lòng vòng.
Kế
đến là tìm biết tâm có bị xao lảng hay không. Các bạn
đã được
nghe đến danh từ nầy nơi tâm nhứt
điểm rồi. Tâm bị xao lảng chẳng phải là tâm nhứt
điểm. Nó bị phân tán ra khắp nơi.
Nó chẳng đủ khả năng để ở yên và thư
giãn. Nó chẳng có sự tĩnh lặng, chẳng có sự an trụ. Hơn nữa, sự xao lãng
khiến tâm bị phiền muộn, bị khuấy rối, tức là mất sự an nhiên. Tâm
có bị xao lảng không? Hay tâm đang ở
trong trạng thái bình thường, chẳng bị lơ
đễnh? Hãy quán sát kỹ
đặc điểm của tâm trạng nầy với hơi thở vào
và hơi thở ra. Thực tập để hiểu biết kỹ điều
đó, để có thể phân biệt rõ các loại tâm.
Bình thường hay phấn khởi?
Hai tâm trạng kế tiếp cần phải
quán sát là khi có được một tâm trạng tốt đẹp
hơn tâm trạng bình thường: một tâm trạng tốt, và một tâm trạng
thông thường. Tiếng Pali gọi tâm trạng tốt nầy là một tâm trạng cao quí,
vĩ đại, mahàggatà. Nếu nói theo
ngôn ngữ hằng ngày, ta sẽ nói đó một sự hay
biết rằng mình đang có một tâm trạng
khá hơn, đáng vừa ý hơn, cao hơn là vào những ngày thường. Tâm ta
hiện đang có ý thức về điều đó hay chăng? Nếu
có, hãy quán sát ngay điều đó. Nếu
không, hãy biết rằng tâm ta hiện đang
trong trạng thái bình thường, vào lúc nầy. Hãy quán tưởng
đôi tâm trạng đó trong khi thở vào và
trong khi thở ra.
Hai tâm trạng cần quán sát tiếp
theo là khi có được một tâm trạng tuyệt đỉnh,
vô thượng, chẳng có gì cao hơn được
nữa, với một tâm trạng còn có thể vượt lên cao hơn. Nói cách khác
là khi tâm ta đang thành tựu
được một tình trạng cao cả nhứt mà
chẳng có gì cao xa hơn, tốt đẹp hơn nữa.
Nhưng tâm ta hiện còn đang phải cố
gắng lắm mới đạt đến mức tuyệt đỉnh đó. Và
điều khó khăn cho chúng ta là, một tâm
trạng tuyệt đỉnh như thế, cao quí như thế,
phát triển đầy đủ như thế, chỉ có bực A la hán (Arahant,
bực giác ngộ và giải thoát hoàn toàn) mới có
được. Nếu ta chưa đạt được quả vị A la hán,
thì nói theo lẽ thông thường là, lòng ta
đang rất ư vừa ý, hay là
đang cảm thấy vẫn có một việc gì cao
cả hơn nữa còn chưa làm được? Có phải là
ta đang cảm thấy vừa thực hiện được một điều
gì thật mãn nguyện hoàn toàn rồi chăng?
Hay ta còn đang cảm thấy cần phải làm
thêm điều gì hơn thế nữa? Hai tâm
trạng nầy mô tả tâm trong tình trạng đã
có, hay chưa có, làm một điều gì cao
quí. Hãy quan sát kỹ tâm trong trạng thái cao quí nhứt
đó, quán tưởng nó càng lúc càng rõ
rệt, để hiểu được hình thức của tâm
trạng đó. Thở vào và thở ra cùng với ý
thức biết rõ như thế.
Hai tâm trạng thứ ba cần phải
quan sát là khi tâm có tập trung lại, hay chưa gom ý lại.
Đó có phải là
định lực hay chưa có định lực (samàdhi).
Hãy tập trung tâm ý lại. Cho dầu chưa hẳn hoàn toàn
đó là
định lực, thì ảnh hưởng của sự cố gắng cũng
đã khiến cho tâm tập trung lại
được. Như thế, cũng tạm gọi là một
định tâm. Bạn hãy quan sát kỹ hai tình
trạng của tâm, trước và sau khi cố gắng tập trung tâm ý lại. Thở vào và
thở ra với ý thức rõ rệt về hai tình trạng
đó.
Hai tâm trạng chót cần phải
quán sát là khi tâm được giải thoát hay chưa
được giải thoát, nghĩa là còn có các sự ràng buộc (upàdàna),
tâm đang cố bấu niú hay là
đang bám chặt vào việc gì nên chưa
được giải thoát. Tâm đang bám chặt hoặc chẳng
đang bám chặt? Đó là điều mà
tôi muốn nói khi hỏi rằng tâm có được giải
thoát hay chưa được giải thoát. Ngay bây giờ, có điều gì
đang cản trở tâm, hay là tâm
đang được tự do? Trong trường hợp nào,
bạn cũng nên tìm hiểu cả hai cho rõ ràng. Thở vào và thở ra với ý thức rõ
rệt về điều đó. Hãy phân biệt giữa
chúng đến mức thật rõ ràng,
đứng đắn.
Ta biết
được ta.
Nhờ thực tập như trên
đây, ta biết được rõ về ta, biết rõ
được những tư tưởng nào là loại tư
tưởng đặc trưng cho ta. Rồi đó, ta sẽ hiểu
biết rõ được về ta. Tâm trạng nào
thường thấy nơi ta? Thông thường, tư tưởng trong tâm hay có khuynh hướng
chạy theo một đối tượng nào
đó. Nhờ quán sát các khuynh hướng đó, ta sẽ
biết rõ ta hơn. Đây là một lợi
lạc đặc biệt của bước thực tập
nầy. Mục đích trực tiếp của ta, tuy nhiên,
là để biết tâm ta cho thật rõ ràng và
thật đầy đủ. Thông hiểu tâm ta một cách cặn
kẽ là lợi lạc đặc biệt của
bước nầy. Đấy là những gì cần thực
tập trong bước thứ nhứt của bộ bốn thứ ba nầy, tức là bước thứ
chín trong toàn bộ Pháp Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Làm cho tâm sảng khoái.
Giờ ta tới bước thứ hai
trong bộ bốn thứ ba, làm cho tâm được
sảng khoái (abhippamodayam cittam). Từ buổi
đầu, ta đã thực tập nhiều cách
để kiểm soát soát tâm, đặc biệt nhứt là
trong bộ bốn thứ nhì, tâm phát triển
được khả năng tự chủ đối với các cảm thọ và có thể kiểm soát
được chúng. Điều nầy có nghĩa là
đã tiến gần
đến với tình trạng khuất phục
được tâm, kiểm soát được tâm. Một khi ta đã
biết rõ tất cả mọi loại tâm sở và tình trạng của chúng một cách thật
đầy đủ rồi, cả tích cực và tiêu cực,
thì ta có thể đặt tâm vào một tình
trạng thích hợp, hay đáng mong muốn.
Bước thứ mười nầy chính là việc thực tập
để khiến cho tâm trở nên vừa lòng, vui
sướng và sảng khoái đó. Có nhiều tiếng để nói
đến tình trạng đó: bằng lòng,
vui thích, hân hoan, hay bất cứ tiếng nào mà ta muốn dùng
đến. Nhưng điều quan trọng là có
đủ khả năng để kiểm soát tâm để cho tâm cảm
thấy hài lòng và vui thích khi ta thở vào và thở ra.
Mỗi khi tâm cảm thấy buồn chán,
sầu não, chẳng thiết đến gì vui, ta có
thể xua đuổi phiền não
đó đi và
đưa đến một tâm trạng vui vẻ. Hoặc là, ngay cả khi tâm ở trong tình
trạng bình thường, ta cũng có thể làm cho nó vui lên, sảng khoái lên, với
kỹ thuật nầy. Đây là một
điều rất có ích lợi. Ta đâu cần phải chịu
đựng lâu dài một tâm trạng đau buồn,
bởi vì ta có thể kiểm soát được tâm
ta. Mỗi khi cần đến, ta có đủ năng lực để làm bất cứ
điều gì ta cần phải làm về phương diện
tâm linh. Ta có thể vui lên bất cứ lúc nào. Nhưng xin hãy thận trọng, hai
tiếng vui thích và sảng khoái
đều mang hai loại ý nghĩa khác nhau. Có loại vui thích và sảng
khoái tầm thường, trần tục, dựa trên vật chất và nhục cảm. Tuy
đó cũng là một loại vui thích và sảng
khoái, nhưng đấy chẳng phải là loại mà
ta chú trọng đến. Chúng tôi đòi hỏi sự
vui thích do Chánh Pháp (Dhamma) mang
đến, do thông hiểu Chánh Pháp, và biết cách ứng dụng Chánh Pháp. Ta
đâu cần lệ thuộc vào vật chất và nhục
cảm để kích thích chúng ta, ta đã có
Chánh Pháp giúp tâm ta được sảng khoái. Như
thế, có hai loại vui thích: sự vui thích bị ô nhiễm và sự vui thích
thanh cao, chẳng vướng vào các cấu nhiễm (kilesa, lậu hoặc). Cả hai
loại đều sẵn có đấy cho ta tiện dụng. Nếu bạn
muốn có loại vui thích ô nhiễm, thì rất dễ
để đạt được nó. Còn vui thích về Chánh
Pháp (Dhamma) thì cần phải đi tìm
thật đứng đắn mới gặp được. Vì lẽ nầy,
xin nghiên cứu thật kỹ điều nầy cho tường
tận.
Sảng khoái vì Chánh Pháp (Dhamma)
Kể cũng dễ
để làm cho tâm trở nên sảng khoái, một
khi ta hiểu được nguyên nhân của sự
vui thích. Sự vui thích bắt nguồn từ cảm giác thành công, vì vừa thành tựu
được một hành vi
đứng đắn và
đáng khích lệ. Một cách dễ dàng,
để làm tâm sảng khoái lên, là quay lại
thực tập bước thứ nhứt, thứ hai và thứ ba một lần nữa. Hãy
quay lại các bước đầu và thực
tập một cách thành công. Rồi thì sẽ có sự bằng lòng và vui thích với mỗi
bước. Đây là sự vui thích có
liên quan mật thiết với Chánh Pháp (Dhamma). Chúng ta hãy quay về thực tập
lại bước một, lần nữa, nhưng lần nầy thì
đặc biệt đặt tiêu
điểm vào cảm giác thành công, bằng
lòng, vui thích và sảng khoái. Hãy tiến tập như thế qua mỗi bước,
giống cách như thế, mãi cho tới lúc đến với
niềm vui thích làm cho ta thỏa mãn nhứt. Sự vui thích bắt nguồn từ
sự bằng lòng, và sự bằng lòng bắt nguồn từ sự thực hiện một hành vi
được thành công. Bằng cách làm khởi
lên sự xác tín rằng chúng ta được an toàn
và giải thoát khỏi mọi sự trói buộc sẽ khiến cho sự bằng lòng và vui thích
đến có mặt ở đây.
Một phương pháp dễ dàng, mà ta
có thể dùng đến bất cứ lúc nào, là
nghĩ đến điều lành và làm
được điều lành. Ta có
được đờì sống an lành, một
đời đã gặp
được Chánh Pháp (Dhamma) và
biết rõ chắc chắn cách dứt trừ được sự khổ sở
(dukkha). Chúng ta những người may mắn nhứt trong nhơn loại,
những người đã biết
được Chánh Pháp và dứt trừ sự khổ sở.
Suy tư như thế sẽ làm cho ta vui thích và sung sướng.
Đấy là cách tự làm cho mình thật là
vui thích và sảng khoái. Thực hiện điều lành,
thành tựu một cuộc sống an lành, làm một người tốt, khám phá
được Chánh Pháp đủ để bảo đảm cho mình
chẳng bị đau khổ -- loại suy tư nầy là
một cách giản dị để làm cho tâm
được sảng khoái.
Khi chúng ta
đã vững niềm tin rằng chắc chắn ta sẽ
diệt trừ được sự khổ sở (dukkha),
hoặc khi chúng đạt được điều tối hảo nhứt mà
con nguời có thể đạt đến nổi, thì tự
nhiên chúng ta sẽ trở nên bằng lòng và vui thích. Chúng ta nghiên cứu
để hiểu được Chánh Pháp có thể dập tắt được
sự khổ sở, để thành tựu được điều tối
hảo mà nhơn loại cần đạt đến. Và
ta được bằng lòng. Ta có
đủ khả năng làm cho tâm vui thích lên,
sảng khoái lên, bằng cách xử dụng kỹ thuật nầy.
Khiến tâm
định tĩnh.
Một khi ta có thể làm cho tâm
hân hoan, sảng khoái như ý ta muốn rồi, thì ta thực tập bước kế tiếp.
Đối tượng của bước thứ chín
nầy là định tâm (samàdaham
cittam). Điều nầy có nghĩa là ta
có thể làm cho tâm tập trung lại, đưa tâm vào
định lực (Samàdhi) mỗi
khi ta muốn hay ta cần đến. Bước nầy chẳng
khó, bởi vì chúng đã thực tập
nó ngay từ buổi đầu, nhứt là trong
bước thứ tư (an tịnh thân hành) và bước thứ tám (an
định tâm hành). Nếu ta
đã có thể làm
được như thế trước đây, thì bây giờ ở
đây ta cũng có thể làm
được như vậy. Hãy khiến tâm tập trung
vào định lực. Ta có thể dẹp bỏ các cảm thọ
khác ngay tức thời. Rồi tâm sẽ nhập định và trở nên hoan hỉ. Hơn
nữa, tâm còn có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ khác tiếp theo nữa. Khả năng
nầy rất có lợi ích.
Một vấn
đề thông thường lại đặt ra tại đây. Nhiều
người lầm tưởng rằng một khi tâm đã nhập
định rồi thì nó phải bất
động và chẳng thể nào di chuyển
được. Họ còn tưởng rằng rồi chẳng còn
có bất cứ cảm thọ nào khởi lên cả. Đấy là
sự hiểu biết rất lầm lẫn. Ngồi bất động và
cứng rắn tựa như khúc gỗ, đó chỉ là
một bài thực tập huấn luyện. Nó giản dị chỉ là sự luyện tập ở một cấp
định lực cao hơn cấp bình thường. Phát
triển định lực thâm sâu hơn ở Nhị thiền, Tam
thiền, Tứ thiền, cho đến mức thân thể chẳng còn hơi thở, cũng chỉ
là những bài tập về huấn luyện. Mặc dầu vậy, nếu thân thể có thể
đạt đến các cấp thật cao đó của định lực, thì
ngay ở các cấp định lực thấp hơn, cũng vẫn
chẳng có vấn đề gì. Ngay đây, ở
bước thứ mười một nầy, đưa tâm nhập vào
định lực (samàdhi) có nghĩa là
tâm ấy đã có những
đức tánh tốt đầy đủ và sẵn sàng
để làm nhiệm vụ của nó. Tâm ấy
đang được chuẩn bị để thực hiện các công tác
của nó khi cần đến. Ở các bước trước, tâm
đã làm thế nào
để được vui sướng. Khi tâm đó được vui sướng,
nó có thừa khả năng để hoàn thành các nhiệm vụ. Vậy, xin
đừng hiểu lầm mà cho rằng khi tâm nhập
định, thì ta phải ngồi cứng bất
động như khúc gỗ.
An
định thanh tịnh linh hoạt.
Nếu tâm nhập
định một cách đứng đắn, ta quán sát sẽ thấy
có ba đức tánh rõ rệt nơi tâm ấy. Đức
tánh của tâm trở nên cứng cỏi, ổn cố, chẳng xao lảng, và rọi chiếu
về một đối tượng duy nhứt, được gọi là
tánh an định (samàhito).
Tâm ấy trong sáng và thanh tịnh, chẳng bị khuấy
động bởi bất cứ gì, chẳng vướng bất cứ
cấu nhiễm nào. Một tâm chẳng ô nhiễm được gọi
là tâm thanh tịnh (parisuddho). Thứ ba, tâm ấy thích
hợp nhứt và được chuẩn bị đến cao độ nhứt để
hoàn thành các nhiệm vụ của tâm. Điều
nầy được gọi là tánh linh hoạt (kammaniyo) (tánh hoạt
động, tánh sẵn sàng). Cũng chẳng có
hại chi khi phải ghi nhớ nằm lòng ba chữ Pali nầy: samàhito, parisuddho
và kammaniyo vì cả ba đức tánh đó
cần phải có đủ khi biết thế nào là một tâm nhập
định một cách đứng đắn. Đây chẳng những là
loại định lực thường hành trong các
cuộc thực tập quán tưởng chánh thức mà còn
được dùng trong các công tác cần thiết hằng ngày nữa.
Ba
đức tánh đó có thể hiện diện trong khi ta đi hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc
nằm. Có một đoạn Kinh văn trong Tạng Pali, đáng lưu tâm, nói rằng, nếu có
đầy đủ ba đức tánh trên đây trong khi
đứng, thì ta gọi đó là
thiên lập, (divine standing). Nếu cả ba
đức tánh đó đều có đủ trong khi đi
thì gọi đó là thiên bộ (divine
walking). Nếu có đủ cả ba đức tánh đó
trong khi ngồi thì gọi đó là
thiên tọa (divine sitting). Nếu có
đầy đủ ba đức tánh trên
đây trong khi nằm, thì gọi
đó là thiên ngoạ (divine
lyìng). Rõ ràng là nhập định đâu phải
ngồi như một phiến đá hoặc một khúc gỗ -- dưới con mắt của thế gian, đó là
ù lì, cứng ngắt, và chết lịm. Tinh hoa của
định lực (samàdhi) là tâm (citta) hoàn toàn sẵn sàng
để thực hiện mọi nhiệm vụ của nó, tức là,
phát triển kiến thức và sự thông hiểu từ phút nầy
đến phút khác. Ở mức tối thiểu, tâm sẽ hân
hoan khi ba đức tánh đều hiện diện. Có được sự an lạc (sukha),
đó cũng là một nhiệm vụ của tâm. Và
tâm trở nên sẵn sàng để làm tròn nhiệm
vụ ấy khi nó hội đủ ba đức tánh kể trên.
Hành giả khi tâm nhập
định nhờ ba đức tánh nói trên
được xem như là một "bực có tâm an
định"; tiếng Pali gọi là samàhito.
Đức Phật có nói, được ghi lại bằng tiếng
Pali, rằng "Khi nhập định, tâm thông hiểu hết tất cả muôn pháp (dhamma,
sự vật) đúng như thật sự chúng là
như thế (samàhito yathàbhutam pajànàti)". Lợi lạc tối thượng của
samàhito, định tâm, là tâm an
định để hiểu biết mọi sự vật đúng như sự
thật. Nếu có một vấn đế nào trong đời
sống mà ta còn chưa tìm ra lời giải
đáp, thì hãy nhập định và câu
trả lời sẽ tự động tìm
đến. Khi tâm nhập định đi đến đâu, nó cũng
thấy sự vật đúng theo thực tế. Nếu ta nhìn vào bên trong chúng ta,
ta sẽ thấy mọi sự kiện đúng theo chơn lý.
Điều đó có nghĩa là ta sẽ thấy vô thường, khổ sở, và vô
ngã cách dễ dàng (aniccam, dukkham, anattà), nếu tâm hội
đủ ba đức tánh về định lực.
Tự bạn, bạn sẽ thấy rằng ba
đức tánh đó đều liên quan hỗ tương
nhau mật thiết. Cả ba phối hợp nhau lại thành một
đơn vị duy nhứt. Chẳng thể có sự thanh tịnh
của tâm mà thiếu đi được sự an định.
Nếu chẳng có sự thanh tịnh, thì chẳng thể nào có sự an
định. Và cần phải có, vừa sự thanh
tịnh, vừa sự an định, thì mới có thể
có sự linh động được. Cả ba liên hợp
hoạt động với nhau. Chúng là ba thành
tố của một định tâm. Xin bạn hãy cố
tìm hiểu rõ cả ba tiếng: an định, thanh tịnh
và linh hoạt. Cả ba cần được bình
đẳng hoá và hợp nhứt lại
để gọi là
định tâm (samàhito). Chúng thật là hữu ích, hết sức
vô giá, và mãnh liệt. Thứ định lực nầy đủ khả
năng để giải quyết tất cả các bài toán của
đời sống, liên quan
đến các vấn đề thiên nhiên, vật chất
của thế giới, và cả đến các câu hỏi về cõi
siêu thế vượt khỏi thế gian.
Sau cùng, xin bạn hãy nhớ và
hiểu cho điểm cốt yếu nầy. Khi tâm nhập định
(samàdhi), ta vẫn còn có thể
đi, đứng, hoặc ngồi, nằm, hoặc làm việc, hoặc thưởng thức thành quả
của công tác mình đã làm, hoặc giúp kẻ
khác hay tự giúp nữa. Tâm nhập định (samàdhi
citta) có thể dùng vào bất cứ vấn đề nào,
trong mọi hoàn cảnh. Nó có thể dùng để giải
quyết mọi vấn đề. Xin hãy quan tâm đến
chữ samàhito -- người có định
tâm. Nó có đủ khả năng để hoàn tất mọi nhiệm vụ.
Giải thoát tâm.
Trong khi thở vào và thở ra, ta
thực tập cho đến khi nào
đủ khả năng đạt đến ba thành tố của
định tâm. Và bước thứ mười một
chấm dứt, để tới bước thứ mười hai.
Bước thứ mười hai là giải thoát tâm (vimocayam cittam).
Giải thoát tâm có nghĩa là đừng để cho tâm
vướng mắc vào đâu cả. Hãy thúc
dục tâm buông bỏ những gì đang bám níu vào.
Tâm như thế là một tâm trong sạch chẳng chút bợn nhơ. Nó hoàn toàn tự do.
Giải thoát tâm khỏi mọi ràng buộc có hai khía cạnh. Hoặc chính tâm tự
buông bỏ lấy những gì nó đang bám níu vào,
hoặc chính ta đem các sự việc đó ra khỏi tâm.
Kết quả thì cũng như nhau. Bạn hãy lấy
đem ra hết tất cả những gì mà tâm chẳng nên bám níu vào. Rồi bạn
quan sát kỹ coi còn lại những gì đang bám níu
vào tâm. Hãy cố gắng cởi mở chúng ra khỏi tâm.
Đây là bước thứ mười hai.
Hiểu thật thấu
đáo ý nghĩa của sự việc mà ta gọi là
ràng buộc (attachment, chấp thủ) là
điều thiết yếu. Có lẽ chúng ta còn chưa quen lắm với sự việc
đó. Nhưng nếu ta còn chưa hiểu sự ràng
buộc, thì làm thế nào ta có thể tìm cách chữa trị nó? Xin tất cả các bạn
hãy nghiên cứu nó với một sự quan tâm đặc
biệt. Mặc dầu đó là một hiện tượng tâm linh, nhưng tôi dùng chữ nầy
trong điạ hạt vừa vật chất lẫn tinh thần để
nói đến nó. Tôi dùng các tiếng như là: ràng buộc, nắm chặt
và bám níu. Tuy nhiên, nó vẫn là một hành vi thuộc
điạ hạt tâm linh. Tâm trí còn mê mờ và
hành động theo sự mê mờ
đó. Do đó, tâm trí ấy khởi lên các
hành vi mà tôi gọi là ràng buộc, hoặc bám chặt hay là bấu níu. Ta cần phải
nghiên cứu nó thật cẩn thận, vì đó là
điều có mặt ở đời sống của mọi dân chúng, ở
mọi người. Để mô tả gọn với vài tiếng, thì ràng buộc là nhìn một sự
vật gì như là "Ta" hoặc là "của Ta". Hãy nắm vững nghĩa chữ ràng buộc
đó và việc thực tập bước nầy sẽ
được suông sẻ.
Cách trực tiếp nhứt
để thực tập bước thứ mười hai
là cứu xét cho rõ các sự trừng phạt, nguy cơ,
độc hiểm, thống khổ, và đau đớn, mỗi
khi ta tự ràng buộc vào việc gì và coi
đó như là "Ta", hoặc là "của Ta". Hãy chiếu rọi thật kỹ vào các
trừng phạt độc hiểm đầy nguy cơ và
thống khổ mà toàn bộ sự bị ràng buộc sẽ mang
đến cho ta chẳng thể nào tránh khỏi
được. Mặt khác, nên nghiên cứu và nhận thức
được các lợi lạc, tốt đẹp và ưu
điểm của việc cởi mở. Khi ta chẳng bị ràng
buộc, ta có những lợi lạc gì? Niềm an lạc nào có sẵn ở
đó? Hãy quán sát kỹ lưỡng. Khi ta tự
ràng buộc mình vào một sự vật gì, thì hậu quả sẽ là loại thống khổ nào,
với cấp độ nào? Hãy xem xét cả hai mặt
của đồng tiền. Thấy cho rõ ra rằng
hình phạt của sự ràng buộc và giá trị của sự cởi mở luân phiên nhau liên
tục trong tâm trí. Xuyên qua loại quán tưởng
đó, tâm trí sẽ tự động được giải thoát. Tâm trí tự nhiên sẽ buông
bỏ các sự vật, và các sự vật cũng tự nhiên thôi bám chặt nữa, nhờ quán
chiếu rõ hai sự kiện đó. Tiếp tực quán chiếu
đến khi nào thấy rõ các hình phạt và sự thấp hèn của việc ràng
buộc. Tiếp tục quán chiếu cho đến khi nào
thấy rõ được các lợi lạc của sự cởi mở. Quán
chiếu cả hai vào mỗi lúc ta thở vào và thở ra.
Đấy là cách thực tập bước nầy.
Bốn loại ràng buộc (chấp thủ).
Đối tượng của sự ràng
buộc có rất nhiều. Hơn nữa, chúng rất tế nhị và thâm sâu. Chúng rất khó
cho ta nhìn thấy, nghe và hiểu thấu đến
chúng. Tuy nhiên, ta có thể xếp chúng vào bốn loại, hay là bốn thể
thức ràng buộc. Loại thứ nhứt là tất cả mọi sự vật vật chất
được dục vọng (kàma) trân quí.
Dầu đó là tài sản, vật dụng cần thiết,
bảo ngọc, nữ trang, vàng và bạc; hoặc những sự vật mà ta thấy, nghe, ngửi,
nếm, sờ mó đến và tưởng nghĩ
đến, tất cả những thứ đó đều làm căn
bản nguồn cội cho nhục cảm và dục vọng. Chúng là những
đối tượng của sự ràng buộc về nhục
cảm. Ba loại ràng buộc còn lại có các đối
tượng phi vật chất. Loại thứ nhì là những sai lầm về ý kiến, tin
tưởng, quan kiến và lý thuyết. Chúng là những
điều mà ta còn chưa hiểu nỗi, nhưng vì bị vô minh (avijjà)
che lấp nên ta chấp nhận chúng, bám níu vào chúng và có rất nhiều tà kiến.
Loại thứ ba là hình thức cổ truyền hành động
và thực hành mà chúng ta noi theo. Mỗi thứ nầy, kể cả về tôn giáo
hay thế tục, cũng là hình thức của sự mê tín. Chúng là những tục lệ mà ta
tự đồng hoá với chúng và bảo vệ chúng.
Sau cùng, và cũng là quan trọng hơn cả ba loại trước, là loại ràng buộc
vào các sự vật mà đồng hoá như là "Ta"
hoặc là "của Ta".
Tất cả bốn loại ràng buộc
đó bao gồm hết mọi sự vật mà ta bám
níu vào. Hãy quán sát chúng và thấy ra được
sự hiểm độc thấp hèn khi bám vào chúng. Thấy cho rõ giá trị của sự
cởi mở ra khỏi chúng. Liên tục quán tưởng mỗi loại với mỗi hơi thở vào và
mỗi hơi thở ra. Bằng cách ấy, chúng được cổi
ra bằng sự cởi mở tự động. Hãy phóng thích các
đối tượng ràng buộc ra. Hãy buông bõ,
hãy buông bỏ, hãy buông bỏ.
Khi chúng ta nhìn
đến đạo Cơ đốc (Christianity),
ta thấy đạo nầy cũng chia xẻ một mối lo về sự
chấp thủ (ràng buộc). Trên thực tế, biểu hiệu chánh của
đạo Cơ đốc là hình cây Thánh giá chữ
Thập (+ ) -- dạy rằng chữ "I" thẳng đứng
(trong Anh ngữ có nghĩa là "Ta") bị dấu ngang (-) cắt bỏ
đi. Điều nầy tượng trưng cho sự dẹp bỏ mọi ràng
buộc. Tất cả mọi tôn giáo đều có điểm tương
đồng nơi mục tiêu chánh: sự tận trừ mọi ràng buộc vào cái "Ta" và
"của Ta". Đây là
điểm cao tột, trác tuyệt nhứt của sự tu hành.
Nó xoá bỏ mọi vấn đề, đặc biệt là sự
ích kỷ là nguồn gốc gây ra các vấn đề khác.
Cắt đứt sự ích kỷ thì mọi vấn đề sẽ
chấm dứt. Xin hãy quan tâm đến việc
buông bỏ muôn vật. Buông bỏ bốn loại ràng buộc là
điều tốt nhứt mà ta có thể làm
được.
Một nhóm sự vật khác mà tâm cần
buông bỏ vì chúng đang khuấy rầy tâm lúc nầy,
là năm món che đậy, gọi là
ngũ cái (nivarana), năm thứ cản
trở tâm. Chúng là những thái độ khởi lên
trong tâm từ các thói quen và các khuynh hướng suy tư của ta. Năm
món che đậy, ngũ cái, đó là:
tham dục, sân hận, thụy miên (mê ngủ), trạo hối (xao
động) và nghi ngờ. Ta cần dẹp bỏ ngay
ngũ cái là năm món làm che mờ
tâm trí. Xa hơn nữa, có các lậu hoặc (kilesa, cấu nhiễm, phiền não).
Các tình cảm phiền não của sự tham lam (lobha), giận hờn (dosa),
và si mê (moha) cần phải được đuổi đi
khỏi. Các cảm thọ thương thích hay oán ghét, mọi khí sắc
thoả ý hay bất mãn, bất cứ cố chấp nào vào sự vật thuộc nhị nguyên thường
hiện diện trong tâm, cũng đều nên gạt
bỏ ra khỏi. Sau cùng, ta sẽ nhận thức được
rằng chẳng còn vấn đề nào lưu
lại để đưa tâm vào khổ sở (dukkha)
nữa. Còn có ràng buộc, là còn có khổ sở. Tâm
đã hoàn toàn vắng bóng mọi ràng buộc rồi, thì tâm sẽ chẳng còn thể
nghiệm sự khổ sở, vì còn đâu cơ sở nữa để cho
sự khổ sở khởi lên.
Mỗi khi tâm thấy có sự vật gì
đang đeo níu, nó liền cởi mở ra ngay. Bạn hãy
thực tập như thế vào mọi thời, khi bạn thở vào và thở ra, nơi bước thứ
mười hai nầy, là bước chót của bộ bốn thứ ba (3rd
tetrad) của Pháp Quán tưởng Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Tính chung lại, ta có bốn bước liên quan
đặc biệt đến tâm (citta):
thể nghiệm các tình trạng khác nhau của tâm, làm cho tâm hân hoan, làm cho
tâm định tĩnh, và giải thoát tâm.
Xuyên qua sự học hỏi và thực tập nầy, ta đã
thành công trong việc nghiên cứu hoàn toàn về tâm thức của chúng ta.
Xin phép
được chấm dứt buổi pháp thoại tại đây.
Bài 6
Tối thượng
Hôm nay chúng ta sẽ bàn luận về
bộ bốn thứ tư, (4th tetrad) tức là bốn bước cuối cùng. Bộ
bốn nầy đặc biệt nghiên cứu và học tập
về Pháp (Dhamma), tức là Chơn Lý. Các bạn còn nhớ, bộ bốn thứ
nhứt nghiên cứu về hơi thở và thân thể. Bộ bốn thứ hai nghiên
cứu về các cảm thọ là hậu quả của việc điều
hoà các thân hành, tức là hơi thở. Tại
đó, chúng ta chỉ nghiên cứu về các cảm thọ của tâm, còn chưa xét
đến chính cái tâm (citta).
Chúng ta đã nghiên cứu các tâm hành
cho đến khi học tập được tất cả những gì
về sự chuyển biến cùng các điều kiện ảnh
hưởng đến tâm. Nhờ đó, ta có thể kiểm soát được các tâm hành
(citta sankhàra), tức là những điều
kiện đã gây ảnh hưởng đến các tâm
trạng. Bộ bốn thứ ba nghiên cứu về tâm (citta), và
cách điều phục, kiểm soát nó. Chúng ta đã
nghiên cứu, học tập, phát triển, luyện tập và thực hành nhiều cách
để kiểm soát tâm. Giờ đây, tại bộ
bốn thứ tư nầy, một khi cái tâm đó đã
được huấn luyện thuần thục và
đã được hàng
phục rồi, chúng ta có thể dùng nó để nghiên
cứu về Pháp, Chánh Pháp (Dhamma), tức là Chơn Lý của Thiên nhiên.
Bạn hãy nhìn thấy rõ bốn bộ bốn đó đã
liên quan nhau mật thiết như thế nào: trước nhứt là thân hành (kàya
sankhàra), kế đó là tâm hành
(citta sankhàra), rồi đến chính
cái tâm (citta), và sau chót là Pháp (Dhamma),
những sự kiện chơn lý (sacca dhamma) về Thiên nhiên (Dhamma jàti).
Cách lập luận ở
đây cũng giản dị thôi. Một khi tâm đã
chịu ở dưới quyền lực của chúng ta rồi, và ở trong vòng kiểm soát của
chúng ta, thì ta có đủ khả năng xử dụng tâm
ấy để làm việc được. Do nhờ thực tập
bộ bốn thứ ba, do nhờ khả năng
tập trung tâm vào định lực, mà
tâm đã có
được khá nhiều sự linh hoạt, sẵn sàng hành
động (kammaniyo). Tâm trở nên
thích hợp và sẵn sàng để hoàn tất
nhiệm vụ của nó. Trong tiếng Pali, có một tĩnh từ chỉ rõ tình trạng
đó, là mudu có nghĩa là mềm
dịu, nhu nhuyến. Trước kia, tâm thô phù và cứng rắn, nay tâm trở nên nhu
nhuyến, và tế nhị. Tâm nay rất nhạy cảm và nhanh nhẹn, trong một tình
trạng sẵn sàng để được xử dụng. Vì lẽ
đó, ta dùng nó
để thi hành công tác nơi bộ bốn thứ
tư nầy, mà nhiệm vụ đầu tiên chính
là để quán tưởng về vô thường.
Đặc tánh vô thường của giác
niệm về hơi thở (Ànàpànasati) .
Nguyên tắc căn
bản được dùng trong toàn bộ sự thực tập nầy là xử dụng ngay những
sự vật đã sẵn có ở bên trong chúng ta,
để dùng làm
đối tượng khảo sát và thực tập. Ta
chẳng thích dùng đến các ngoại vật. Một khi
ta đã hiểu rõ bên trong rồi, thì ta có thể ngoại suy ra
đến bên ngoài. Xin
đừng bao giờ quên nguyên tắc quan
trọng nầy: ta cần nên cứu xét rõ sự vật đang
hiện hữu bên trong. Vậy thì, với bước thực tập nầy, về
quán tưởng vô thường (aniccànupassì), ta sẽ quay lại với
bước khởi đầu.
Trước nhứt, ta quán sát hơi
thở, chỉ hơi thở thôi, cho đến khi nào
ta thấy rõ ra được hơi thở ấy là vô
thường. Ta quan sát thấy hơi thở thay đổi và
trở nên dài: nó vô thường. Chiều dài cũng thay
đổi, trở nên dài hơn hoặc ngắn hơn.
Chiều ngắn cũng thế, cứ thay đổi luôn. Các tình
trạng và đặc tánh khác nhau của hơi thở đều
vô thường. Ảnh hưởng của hơi thở đến thân thể cũng vô thường. Kế đến, ta
quán sát cả hai thân -- thân thể chất và thân hơi -- cũng
đều vô thường. Rồi ta canh chừng để nhìn
thấy sự êm dịu của hơi thở, lại cũng vô thường, và
điều nầy rất ư là rõ rệt. Hơi thở biến
đổi từ sự thô phù chuyển sang sự êm
dịu, nhưng ngay cả sự êm dịu nầy cũng vô thường nữa. Nó liên tục cứ biến
đổi mãi sang thành các trạng thái
khác. Bạn hãy quán tưởng mỗi lần một bước, cho
đến khi nào mỗi giai
đoạn được nom thấy rõ ra là vô thường.
Cuối cùng, các cảm thọ Hỉ
(nỗi mừng) và Lạc (niềm vui) khởi lên. Hãy xem xét chúng cho
kỹ, lần lượt từng cái một. Hãy nhìn thấy ra vô thường trong mỗi khía cạnh
của các cảm thọ (vedanà) đó. Hãy
quán tưởng đặc tánh vô thường trong việc các
cảm thọ nầy đã gây ảnh hưởng đến tâm.
Sự lắng dịu của các cảm thọ Hỉ, Lạc nầy cũng vô thường.
Tiếp
đến, ta quán sát chính cái tâm,
nó cũng vô thường nốt. Tâm hân hoan, tươi mát là vô thường, khi nó thay
đổi thành tâm an lạc và sảng khoái.
Hãy quán tưởng sự vô thường của vẻ hân hoan và sảng khoái, cùng các tình
trạng và hương vị khác nhau của chúng. Định
tâm cũng vô thường, khi nó ngã sang tình trạng mất
định lực. Sự linh hoạt của định lực (samàdhi)
cũng gặp ngay sự vô thường phát khởi ở trong nó. Ngay cả tâm giải thoát
cũng vô thường, vì sự giải thoát cho tâm chỉ tạm thời.
Hãy nhận thức rõ rệt sự vô
thường ngay ở mỗi một bước, ngay ở mỗi một giao
điểm, giai đoạn và phương diện của sự
thực tập nầy. Hãy khiến cho sự vô thường của mỗi bước trở nên tuyệt
đối rõ ràng, rất mực hiển nhiên và
hoàn toàn chắc chắn. Đây là cách ta
nên quán tưởng như thế nào về sự vô thường của các hiện tượng tâm linh tạm
bợ được gọi chung dưới danh từ là
chư hành (sankhàra). Tại bước thứ mười ba tiếp theo
đây, chúng ta sẽ quán tưởng về sự vô thường
của các hành (sankhàra)
đó.
Cùng với vô thường, còn có các
đặc tánh khác nữa.
Giờ
đây, bạn hãy quán sát
để thấy rằng, trong việc nhận thức về vô
thường, còn có sự nhận thức nhiều đặc
tánh khác nữa. Khi sự vô thường (aniccam)
được thực sự nhìn thấy, thì
đặc tánh nầy cũng là
đặc tánh của sự khổ sở (dukkham)
nữa, tức là nó vừa xấu xí lại vừa làm ta chẳng chịu nổi. Ta lại còn thấy
cả đặc tánh vô ngã (anattà)
ở trong đó nữa, bởi vì các sự vật
đó cứ thay đổi luôn, vô thường, bất toại
nguyện, và vượt ngoài vòng kiểm soát của ta. Rồi ta lại sẽ thấy
chúng đều khiếm khuyết một tự ngã,
đó là sunnatà,
đặc tánh rỗng không. Ta sẽ thấy
chúng cứ là như thế, chỉ là như thế, giống là như thế vậy thôi. Sự vô
thường chỉ là như thế, chỉ giống như thế, và do
đó ta thấy được đặc tánh như thị
(tathatà) (= cứ như thế).
Xin bạn hãy thông hiểu rõ ràng
điều nầy: các chơn lý vừa kể trên
đều được nhận thức ra có liên hệ với
nhau thật chặt chẽ. Nhờ thấy được đặc tánh
vô thường, ta thấy được các đặc
tánh khác như bất toại nguyện, vô ngã, rỗng không, như thị,
đồng thời ta cũng thấy ra được đặc tánh
điều kiện hoá (idappaccayatà,
conditionality), tức là qui luật nhân quả. Mỗi
đặc tánh tiếp diễn theo ngay vào trong
đặc tánh kế sau. Một sự nhận thức đầy đủ về
vô thường cần phải bao gồm vào trong nó các
đặc tánh bất toại nguyện, vô ngã,
rỗng không, như thị, qui luật của sự điều
kiện hoá. Khi tất cả các đặc tánh
đó đồng thời được ta nom rõ thật đầy
đủ, thì đặc tánh vô thường
đã
được ta thấy ra một cách sâu xa nhứt. Đó là cách mà ta cần phải
nhận thức rõ ràng như thế nào về đặc tánh vô
thường của chư hành (sankhàra, các hành).
Chúng tôi
đã giải thích về chư hành (sankhàra)
và ta đã thực tập về
đề tài nầy rồi. (Xin xem lại hai tiểu
mục: Giải thoát tâm, và Bốn loại ràng buộc ở cuối bài pháp
số 5). Các loại nguyên nhân, điều kiện, và
các thành tố cần được "pha chế" vào
hợp thể, phải được biết rõ mới xử dụng
đúng mức danh từ "chư hành" (sankhàra).
Đặc tánh của các tác viên tạo
điều kiên gây thành ảnh hưởng (the
conditioners) là sự vô thường. Đặc tánh
của các sự vật bị điều kiện hoá (tức là gánh chịu ảnh hưởng của
điều kiện) (the conditioned)
cũng là vô thường. Đặc tánh của cái tác động,
hay là tiến trình của sự điều khiện
hoá (tức là tác động của các điều kiện
lên trên sự vật) (the conditioning) lại cũng là vô thường.
Nhìn thấy ra được cả ba khía cạnh ấy thật rõ
ràng như thế đó mới gọi là nhận thức
được đặc tánh vô thường một cách sâu xa và
đầy đủ nhứt.
Nếu giản dị chỉ nhìn thấy riêng
một mình vô thường (aniccam) mà chẳng nom thấy rõ
được các đặc tánh khác đồng khởi với nó, thì
cũng chẳng có gì là lạ, là khác thường cả. Nhận thức
được vô thường (aniccam)
đầy đủ cần phải bao trùm cả các sự
nhận thức về khổ sở (dukkham), vô ngã (anattà),
rỗng không (sunnatà), như thị (tathatà), và
điều kiện hoá (idappaccayatà,
có nguyên nhân nguồn gốc là...). Nếu chỉ thấy riêng vô thường (aniccam),
trong một cái nhìn thiếu sót, chẳng hàm chứa khổ sở (dukkham),
và vô ngã (anattà) vào bên trong thì cái nhìn
đó chẳng sâu xa, chẳng đầy đủ, để có thể giải
quyết các vấn đề của chúng ta. Như thế, trong khung cảnh bài nầy,
chữ "nhận thức vô thường" phải thật sâu rộng
để trùm hết các sự nhận thức về khổ
sở (dukkham), vô ngã (anattà), rỗng không
(sunnatà), như thị (tathatà) và
điều kiện hoá (idappaccayatà)
nữa.
Có một câu chuyện có lẽ sẽ
đem đôi chút hứng thú đến các bạn. Trong Kinh
Tạng (Suttanta pitaka), hệ Pali,
Đức Phật có nhắc đến một vị đạo sư vào
thời đó, tên là Araka, có giảng dạy về
vô thường, cũng nhiều như Đức Phật đã
giảng; nhưng ông ta dừng lại chẳng đi xa hơn
và chẳng nói gì về khổ sở (dukkham) và vô ngã
(anattà). Điều thú vị là vào
thời Đức Phật, cũng có một nhà hiền
triết Hy lạp tên là Heraclitus. Đức Phật bảo
rằng Araka đã giảng dạy, tại một lãnh thổ xa xôi, về vô thường,
xem đó như là một dòng
đang trôi chảy. Có lẽ Đức Phật muốn nói đến
Heraclitus, mà điểm chánh yếu trong
lời giáo huấn của ông là panta rhei (tiếng Hy lạp, nghĩa là
"muôn sự vật đều trôi chảy" hoặc "tất cả là
dòng lưu chuyển"). Tuy nhiên, nhà hiền triết nầy chỉ giảng về vô thường và
chẳng nới mở rộng thêm cái nhìn sâu sắc để
bao trùm cả khổ sở dukkham), vô ngã (anattà),
không tánh (sunnatà), và như thị (tathatà).
Như thế, lời giáo huấn ấy còn chưa thành công. Nếu không, thì
đã có một vị Phật khác ra
đời ở đấy, vào thời buổi
đó rồi. Kiến thức về vô thường được lan rộng
ở khắp nơi cả trong và ngoài nước Ấn
độ. "Lãnh thổ xa xôi" nói trong Kinh tạng, có lẽ là
đã chỉ vào một nước quốc gia ngoại
bang nào đó, và tôi dựa vào
điều nầy để xem như Araka và
Heraclitus là một người.
Vậy, có nhiều triển vọng
để Araka, người được Đức Phật nói đến, chính
là Heraclitus. Bạn nào có lưu tâm đến
thì có thể tra cứu thêm trong lịch sử triết học Hy lạp. Dầu sao,
điểm cốt yếu là nếu chỉ nhìn riêng về
vô thường thôi thì chưa đủ. Ta cần phải thấy
rõ vô thường (aniccam)
đang rạng chiếu lên khổ sở (dukkham), vô ngã (anattà),
không tánh (sunnatà), và như thị (tathatà) --
cả một chuổi dài trọn vẹn của sự nhận thức. Võn vẹn mấy chữ
aniccànupassi, sự quán tưởng về vô thường, mà bao hàm hết
được sự nhận thức về bất toại nguyện, vô ngã,
rỗng không, như thị, và cả điều kiện hoá nữa.
Sự tan rả của ràng buộc.
Giờ
đây, xin hãy quán sát -- nghiên cứu
thật tường tận cho đến khi thấy rõ
được -- rằng sự nhận thức về vô
thường (aniccam) làm tan rả được
upàdàna, sự ràng buộc. Đây là
điểm chủ yếu. Nhận thức được vô
thường (aniccam) làm tan rả các ràng buộc, bởi vì
đó là sự nhận thức về các hình phạt,
khổ đau, và xấu ác của sự ràng buộc.
Upàdàna, (ràng buộc) tan rả từ từ cho
đến khi còn rất ít, rất ít, lưu lại.
Đấy là thành quả của nhận thức về vô thường. Thành quả
đó khiến ta càng ngày càng mệt mõi và
chán ngấy với những sự vật mà ta cứ tiếp tục ràng buộc mình vào, và cùng
với những sự vật mà ta còn bị trói buộc. Upàdàna (ràng buộc) bắt
đầu tan rả và
đó là kết quả của việc thật sự nhìn
thấy rõ ra được vô thường.
Giờ
đây ta đến bước thứ hai của
bộ bốn cuối cùng nầy, tức là bước thứ mười bốn trong toàn bộ
Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) liên quan
đến việc quán tưởng về sự phai nhạt (viràgànupassi,
quán tưởng về vô chấp thủ). Điều nầy đã
bắt đầu được quán sát rồi ở bước
thứ mười ba khi sự quán tưởng về vô thường
đã đưa
đến sự tan rả các ràng buộc (= các chấp thủ). Giờ
đây, ta đặt tiêu
điểm lên trên sự kiện tan rả (viràga)
để soi chiếu kỹ lưỡng. "Vi" có
nghĩa là "chẳng", là "vô" (chữ Hán Việt), là "chẳng có". "Ràga"
là tên khác của chữ ràng buộc, của chữ"chấp thủ"."Viràga" có
nghĩa là "chẳng có ràng buộc", là "vô chấp thủ". Nhìn vào
ràng buộc đang tan rả cũng tựa như xem các
đốm dơ trên tấm vải đang từ từ phai
nhạt dần. Các đốm dơ nhiều màu sắc đó
chầm chậm phai mờ, tái nhạt dần dưới ánh sáng mặt trời, cho đến khi tấm
vải trở nên trắng lại. Đây chỉ là
một thí dụ vật chất về Viràga (tức là sự vô chấp thủ, sự
chẳng có ràng buộc, hoặc là sự cởi mở).
Nó giúp ta hiểu rõ thêm về mặt
tinh thần của sự tàn lụn lần lần của mọi ràng buộc. Upàdàna, sự bám
níu, sự chấp thủ, tan rả dưới ánh quang minh của trí huệ soi chiếu vào
muôn sự vật đúng như thât sự chúng là
như thế -- vô thường, khổ sở, vô ngã, không tánh, và như thị --
aniccam, dukkham, anattà, sunnatà, tathatà. Ta biết rằng sự bám níu
(chấp thủ) sẽ bớt lần lần, khi tâm ta trở nên bình
đẳng đối với mọi hành (sankhàra),
tức là xem tất cả những vật mà ta luyến mến
đều như nhau, (chẳng cái nào trọng hơn cái nào). Nay chúng ta
đã dứt bỏ
được mọi thành kiến thiên vị, đối với
tất cả mọi sự vật, ta nhận thức được thế nào là sự phai nhạt, sự
tàn lụn của mọi bám níu ràng buộc. Hãy quán tưởng như thế với mỗi hơi thở
vào và mỗi hơi thở ra. Đấy là cách
thực tập bước thứ mười bốn.
Thành quả của sự phai mờ, tàn
lụn của trói buộc, là sự ổn cố của tâm bình
đẳng chẳng còn bám níu vào đâu nữa. Ta
có thể nhìn thấy một cách khá dễ dàng, thí dụ như
đối với các sự vật mà trước kia ta
đắm say cuồng dục vào, nay
đã bắt
đầu phai mờ dần. Ta hết còn lo sợ các sự vật mà trước kia khi chợt
thấy ta đã hãi hùng. Từ từ ta bớt lo
âu, càng ngày càng ít đi, cho đến khi sự sợ hãi
biến mất. Điều nầy cũng đúng với các tình
cảm khác như oán hận, khát vọng, ganh tị, lo âu, ưu sầu, luyến nhớ dĩ
vãng, và v.v. Mỗi tình cảm đó càng
ngày càng bớt bộc lộ ra, co rút nhỏ lại, cho
đến khi tâm tư có đủ khả năng để tự giữ yên lặng và bất
động. Có lẽ, bạn thấy rắc rối khi nghe câu:
tâm tư giữ yên lặng và bất động.
Câu đó chỉ có nghĩa là: chẳng bám chặt
vào, chẳng bấu níu, chẳng xem bất cứ cái gì như là "Ta" hay là "của Ta"
cả. Hãy quán tưởng vô thường như thế, cho đến
khi sự ràng buộc của các sự vật mà ta bám níu
đều tan rả hết, cho đến khi mà ta có
thể giữ được tâm tư yên lặng, bất
động và bình
đẳng.Đó là cách thực tập bước thứ
mười bốn nầy.
Sự dập tắt khổ sở (dukkha).
Giờ
đây, ta đến bước thứ mười lăm,
quán tưởng đoạn diệt (nirodhànupassì), nghiên cứu và
quán tưởng về sự đoạn diệt các ràng
buộc. Hãy quán sát sự chấm dứt của ràng buộc, sự vô chấp thủ, khi
thở vào và thở ra. Ta có thể quán sát sự đoạn
diệt qua nhiều cái nhìn khác nhau về: sự
đoạn diệt của sự ràng buộc vào cái
"Ta", sự đoạn diệt của lòng ích kỷ, sự
đoạn diệt của tham lam, sân hận, và si
mê, cùng sự đoạn diệt của mọi kinh nghiệm về
sự khổ sở (dukkha). Tất cả các sự
đoạn diệt nầy đều khởi lên cùng một
lúc với sự đoạn diệt của ràng buộc. Có
nhiều hình thức của sự đoạn diệt.
Khi ta nói
đến sự diệt tận, ta nên nhớ rằng, sự
chấm dứt của khổ sở (dukkha) chính là sự thực tập về Pháp (Dhamma)
nầy. Ngay đây, ta quán sát các khía cạnh khác
nhau của sự Khổ sở (dukkha) để
thấy chúng được dập tắt như thế nào. Khía cạnh thứ nhứt là sự chấm
dứt của nỗi lo sợ, hãi hùng về sanh, già, bịnh và chết. Già
lão, bịnh tật và chết chóc chẳng còn làm tâm ta khiếp sợ nữa.
Đấy là một loại dập tắt
được khổ sở. Khía cạnh kế tiếp là sự
chấm dứt các triệu chứng hay là các tình trạng của khổ sở, như buồn bã,
trách cứ, than vãn, thất vọng, âu sầu, đau
đớn, bực tức và suy giảm tinh thần. Tất cả các triệu chứng
đó của Khổ sở được dập tắt. Khía cạnh thứ ba
có liên quan đến các niềm hi vọng, các
món nhu cầu, đến các sự vật thích thú hay chẳng hấp dẫn. Có kinh nghiệm về
các sự vật mà ta chẳng ưa, là khổ sở. Phải rời xa những sự vật mà
ta thương thích, cũng là khổ sở. Chẳng có
được các điều ta cần, lại là khổ sở nữa. Các khía cạnh
đó của Khổ sở cũng được dập tắt.
Sau rốt, ràng buộc vào năm
uẩn (panca khandha), đeo
níu vào một uẩn (khandha) nào rồi xem
đó như là "Ta" hay là "thuộc về Ta",
là khổ sở. Năm uẩn
đó là tấm thân thể chất, cảm thọ, tri
giác, tư tưởng và ý thức về các giác quan. Chúng là tổng số của mọi sự khổ
sở, gánh nặng của đời sống. Một sự nhận thức
đầy đủ về bước thực tập nầy phải bao gồm hết bốn phương diện
của sự dập tắt khổ sở. Dập tắt sự hãi hùng về sanh, lão, bịnh và tử. Dập
tắt các triệu chứng của khổ sở như đau đớn,
lo lắng, ưu sầu, và tuyệt vọng. Dập tắt mọi ước muốn, dục vọng về
các sự vật khả ái hay là đáng oán ghét. Sau cùng,
dập tắt việc xem bất cứ uẩn nào trong năm
uẩn là "Ta". Khi bốn phương diện
đó đã
được dập tắt xong, thì khổ sở cũng
được dập tắt theo. Điều mà chúng ta vẫn
đang khẩn thiết mong đợi nay đã
được thực hiện, ngay tại đây.
Như thế, ta nhận thức ra
được tánh cách rỗng rang, hay là sự
bất hiện hữu của ràng buộc qua sự dập tắt, sự biến mất và sự chấm dứt của
ràng buộc. Ta thể nghiệm được sự vắng bóng
của ràng buộc trong bất cứ khía cạnh nào
đã được nêu
lên bên trên đây, trong khi ta thở vào
và thở ra. Hay giản dị hơn nữa, ta uống, nếm và thưởng thức hương vị của
Niết-bàn (Nibbàna). Hai chữ
Đoạn diệt (Nirodha) và Niết-bàn (Nibbàna)
đồng nghĩa với nhau. Ta có thể dùng
chữ nầy thay thế cho chữ kia. Như thế, quán tưởng sự dập tắt mọi ràng buộc
tức là quán tưởng Niết-bàn vậy.
Quẳng bỏ trả lại tất cả.
Ngay
đây, ta đến bước thứ tư của
bộ bốn thứ tư, tức là bước thứ mười sáu của Pháp Giác niệm về
Hơi thở (Ànàpànasati). Bước nầy
được gọi là sự quán tưởng quẳng ngược trả lại,
Patinissaggànupassi. Chữ Patinissagga cũng hơi ngộ nghĩnh! Nó
có nghĩa là quẳng ngược về phía sau, hay là hoàn trả lại. Khi ta tiến tới
bước nầy, ta quán tưởng việc ta quẳng ngược trả lại phía sau, việc
ta hoàn trả lại tất cả những gì đã có
một thời ràng buộc ta. Đây là bước
chót.
Có một ẩn dụ giản dị dùng
để giải thích bước thứ mười sáu
nầy. Xuyên qua cả cuộc đời của chúng ta,
chúng ta đều là bọn trộm cả. Chúng ta
đánh cắp các sự vật vốn hiện hữu một cách tự nhiên -- ở trong Thiên
nhiên và thuộc về Thiên nhiên -- đó là
chư hành (sankhàra). Chúng ta cướp giựt chúng và lấy chúng
làm cái "Ta" và làm tài sản của chúng ta. Chúng ta chẳng là gì khác hơn là
các tên trộm. Do lẽ đó mà chúng ta
đang bị trừng phạt vì Khổ sở. Chúng ta
chịu đau đớn, thống khổ, do vì chúng
ta đã
đánh cắp và tham luyến đến mức để bị ràng
buộc. Một khi chúng ta đã quán sát
để thấy rõ các sự vật
đúng như thật sự chúng đang là như
thế, qua các bước liên tiếp của bộ bốn nầy, thì chúng ta
liền buông bỏ chúng được hết. Chúng ta thôi
chẳng còn là phường trộm cắp nữa. Chúng ta hoàn trả lại tất cả cho
người chủ của thuở ban đầu -- Thiên
nhiên. Muôn sự vật đều thuộc về Thiên
nhiên. Ta đừng bao giờ đòi hỏi lấy
chúng để làm "Ta" hay là "của Ta"nữa!
Mục đích của đời chúng ta đã
được ẩn dụ nầy làm sáng tỏ thêm.
Đặt gánh nặng cuộc đời xuống.
Nếu các bạn thích, thì còn có
một ẩn dụ thứ hai nữa. Trong thời gian qua, chúng ta
đã điên
khùng đi lượm những vật nặng như các hòn
đá cuội nầy. Rồi chúng ta mang chúng theo kè
kè bất cứ nơi nào chúng ta đi đến. Vì
lẽ đó nên chúng ta phải chịu khổ sở
luôn luôn. Đã bao năm
trôi qua rồi như thế đó? Giờ đây, chúng ta mới nhận thấy thật là
chúng ta đã quá dại khờ tạo nên các
vấn đề khó khăn cho chính chúng ta. Chúng ta
nhận thức được sự đè nén nặng nề của chúng lên chúng ta, va nay chỉ
cần vứt bỏ chúng đi hết. Thoát khỏi các gánh
nặng đó, chúng ta trở nên nhe nhàng. Tất cả các vấn
đề khó khăn đó đều biến mất. Trước kia, đời
sống xem như một gánh nặng. Trọn đời ta cảm thấy như gánh nặng, cũng vì
sự ngu khờ của chúng ta. Chúng ta đã
đeo dính các hành (sankhàra)
tự nhiên đó, mang chúng đi khắp chốn làm
cho chúng ta phải oằn lưng lại một cách kinh khủng. Giờ
đây, chúng ta quẳng chúng đi. Đấy là
một ẩn dụ khác nữa để mô tả bước
cuối cùng của Pháp Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Sự thực tập bước cuối cùng
nầy là để huấn luyện chúng ta quẳng đi
gánh nặng của cuộc đời. Hãy quẳng đi
cho hết chẳng còn gánh nặng nào sót lại. Trước kia, ta sống dưới áp
lực nặng nề của chúng. Sức nặng của chúng đè
nén chúng ta. Ta gọi cuộc sống như thế là
đang sống ở bên dưới thế giới, hay là
đang đắm chìm sâu trong thế giới. Một khi chúng ta
đã quẳng
đi các gánh nặng đang nhận chìm chúng ta xuống,
đang giam giữ chúng ta ở bên dưới thế
giới, thì chúng ta mới trồi lên được. Và
chúng ta vượt khỏi lên trên thế giới, Chúng ta trở thành Chúa tể của thế
giới. Đây mới thật là ý nghĩa của tự
do, giải thoát và an lạc.
Bạn cần phải cẩn thận nhớ kỹ ý
nghĩa của hai tình trạng đó. Sống ở bên
dưới thế gian là cuộc sống trong vòng thế tục (lokiya). Còn
sống vượt lên trên thế gian là cuộc sống siêu thế (lokuttara).
Tất cả mọi vấn đề khó khăn liên quan
đến hai ý nghĩa đó sẽ được giải quyết trong
khi thực tập bước thứ mười sáu nầy. Xin
được nói thêm cho thật rõ, mỗi khi
chúng ta điên rồ, chúng ta
đi thâu lượm các vật nặng và
đeo chúng lên
để thành gánh nặng cho cuộc
đời. Một khi chúng ta hiểu rằng chúng ta đang
bị hành hạ, thì chúng ta liền quẳng bỏ chúng hết. Giờ
đây, chúng ta chẳng còn mang gánh nặng
nào. Sống ở bên dưới thế gian và sống vượt lên khỏi thế gian, cả hai có ý
nghĩa hoàn toàn khác nhau. Bất cứ ai muốn
được tự do, giải thoát, thoải mái, sống vượt lên bên trên thế gian,
cần phải nên nỗ lực hết sức mình để thực tập
vấn đề nầy, càng nhiều càng tốt, và bắt
đầu ngay bây giờ đây.
Sự giải thoát tối thượng.
Nếu bạn thích danh từ "giải
phóng" (emancipation), thì bạn hãy ý thức rằng
đây chính là con
đường giải phóng. Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
khi được thực tập thành công ở bước
cuối cùng nầy mang lại sự giải phóng. "Giải phóng" là một danh từ thời
thượng ngày nay, người ta thích dùng đến
luôn. Khi chúng ta được giải phóng khỏi mọi trói buộc, thì hoặc
chúng ta buông bỏ mọi gánh nặng, hoặc chúng ta vượt thoát
được các gánh nặng ấy. Dầu sao thì
"buông bỏ" hay "vượt thoát" ý nghĩa cũng tựa như nhau. Khi có buông bỏ thì
kết quả là có sự giải phóng, hay nếu bạn muốn, thì nói là có sự cứu rỗi,
cứu độ, giải thoát, v.v. Dầu danh từ nào
được dùng
đi nữa, thì cũng đều có nghĩa là
chúng ta đang bắt gặp được một sự việc tốt
nhứt, hoàn hảo nhứt mà nhơn loại có thể có
được. Chúng ta đã không lãng phí cuộc
đời của chúng ta, chúng ta đã chẳng bỏ
trôi qua cơ hội khám phá ra Chánh Pháp (Dhamma), là
điều tối hảo mà nhơn loại cần phải
đạt đến. Đấy là phần chung cuộc của
câu chuyện.
Xin phép
được chấm dứt buổi pháp thoại ở đây.
Bài 7
Các lợi lạc cao nhứt
Hôm nay, chúng ta sẽ tóm tắt
lại những chỗ sưu tầm của Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
được các bài pháp thoại nầy bàn
đến. Chúng ta sẽ tóm lược lại mười
sáu bước, theo đặc tánh chủ yếu của
chúng, giá trị các lợi lạc cùng các phương tiện
để thực hiện được các lợi lạc đó. Xin các bạn
vui lòng nghe cho cẩn thận. Rồi các bạn sẽ có
đủ khả năng để hưởng dụng các lợi lạc đó đến
mức tối đa.
Xin
đừng quên rằng chúng ta
đang bàn về Thiên nhiên, về bốn khía
cạnh của Thiên nhiên và qui luật của Thiên nhiên biểu lộ trong bốn khía
cạnh đó: thân (kàya),
cảm thọ (vedanà), tâm (citta) và Pháp (Dhamma).
Thiên nhiên thanh tịnh và giản dị! Vậy, xin bạn hãy hiểu cho rõ danh từ
Dhamma jàti nầy. Nó vừa là qui luật của Thiên nhiên, vừa tuân
phục theo qui luật đó; Thiên nhiên và
qui luật của nó, chẳng thể nào tách rời nhau ra. Là sanh vật, chúng ta có
nhiệm vụ phải thấu hiểu và xử dụng Thiên nhiên như thế nào
để đem lại lợi ích tối đa cho chúng ta. Mặc
dầu chúng ta chẳng thể kiểm soát Thiên nhiên
được, nhưng chúng ta có thể lợi dụng Thiên
nhiên để đem phần lợi về cho mình, khi
chúng ta biết hành động một cách đứng đán
chiếu theo qui luật của Thiên nhiên. Chúng ta biết
đến bốn "thiên nhiên"
đó cũng chỉ vì sự lợi lạc cho
đời sống của chúng ta, dầu cho đời sống ấy có
kéo dài đến bao lâu đi chăng nữa.
Thân (kàya): làm mát dịu
các tình cảm .
Đề tài thứ nhứt
để thực tập Giác niệm về Hơi thở là
kàya, thân hay là các thân. Chúng ta đều
hiểu rõ tầm quan trọng của thân
đối với đời sống, nên chẳng cần giải
nghĩa thêm dài dòng. Tấm thân làm cơ sở cho tâm trí. Ta cần
có một thân (kàya) sẵn sàng đủ
sức để tự bảo vệ và tự bảo trì lấy nó và một tâm trí hướng theo sự
lợi lạc của đời sống. Hơn nữa, ta cần hiểu
biết cách kiểm soát thân dựa theo các nhu cầu của ta, qua sự
điều chỉnh hơi thở. Nhờ làm
được như thế, ta có thể thay đổi được khí sắc
và tình cảm. Thí dụ như, khi ta tức giận, ta có thể buông bỏ nổi
giận hờn bằng cách thở dài hơi. Do hơi thở dài mà cơn giận biến mất. Khi
ta đang lo âu và chẳng thể nào suy
nghĩ cho thẳng thắn được, ta thở dài
hơi, càng lúc càng dài, để đuổi sự lo âu ra
khỏi. Hoặc ta muốn đổi chiều một tư tưởng nầy sang một chiều hướng tư
tưởng khác, ta có thể làm được như thế
bằng cách thở thật dài hơi để quét
sạch cái tư tưởng hay cái tình cảm chẳng
đáng mong muốn đó và thay thế chúng
bằng một chút gì bình thường và có trật tự hơn. Thế là ta có
đủ khả năng để suy nghĩ đến những điều đáng
lẽ ra phải được nghĩ đến. Vậy thì, tấm thân (Kàya)
đâu chỉ có xương với thịt mà thôi, còn
có nhiều hơn thế, thân đó ảnh hưởng cả đến
tâm trí nữa.
Riêng chỉ một mình hơi thở cũng
đủ làm cho ta phải tìm hiểu cho thật
rõ ràng, dầu chỉ là hơi thở suông thôi. Ta sẽ có
được sức khoẻ tốt, nếu ta biết thở một cách
thật thích nghi. Như thế, thân và những sự vật liên hợp với
thân -- như hơi thở, tình cảm, và sức khoẻ --
đều được xem như một đề tài hết sức quan trọng. Tôi hi vọng tất cả
các bạn sẽ thu lượm được thật đầy đủ các lợi
điểm về giai đoạn nầy của Giác Niệm về Hơ i thở (Ànàpànasati).
Cảm thọ (vedanà): chặn
đứng sự quay cuồng.
Các cảm giác là
đề tài thứ nhì. Nếu bạn chẳng ý thức
đến các tình cảm thì bạn sẽ nghĩ là
chúng chẳng quan hệ gì cả. Thật ra, chúng rất ư là quan trọng
đối với nhơn loại, vì chúng có thể làm
loài người quay cuồng theo ý chúng. Hơn thế nữa, chúng còn làm cả thế giới
quay cuồng theo. Dầu là cảm giác nào mà ta
đang mong muốn -- và mọi người đều đầy
cả khát vọng -- ta vẫn bị thúc đẩy để đi đến những hành
động tương ứng với chúng. MọI người đều chạy
đuổi theo các cảm giác thích thú và lánh xa các cảm giác khó chịu.
Đấy là lý do tại sao các tình cảm cứ
khiến cho toàn thể thế giới nầy quay cuồng mãi. Tình cảm con người là
nguyên nhân tạo nên các sự phát minh mới lạ, tân kỳ và những sáng tạo mà
nhơn loại đã sản xuất. Nghệ thuật, văn
hoá, và kỹ thuật được khám phá và
tạo dựng nên cũng bởi các tình cảm, có đầy
quyền lực mãnh liệt để ép buộc ta phải
đi theo chúng. Cảm thọ (Vedanà) gây ra ước muốn. Nhu
cầu được phát sanh cũng từ các cảm thọ và
chạy theo các cảm thọ. Rồi ta hành động theo
tiếng gọi của các ước muốn. Vì thế mà nhiều sự việc
đã xảy ra. Ngay cả việc ta chạy theo
tiền bạc cũng là để đáp lại lời yêu
cầu của tình cảm, cho dầu tình cảm đó bắt
nguồn từ nhục cảm hay tình dục, hoặc giản dị hơn, từ cái cảm giác
tầm thường là mong được thoải mái.
Xin bạn hãy ráng tìm hiểu các
sự việc ấy đang ngự trị nhơn loại.
Cảm thọ (Vedanà) có quyền lực và ảnh hưởng mãnh liệt phi thường
đến chúng ta. Nếu ta chẳng thể kiểm soát được
các tình cảm, ta sẽ thăng trầm lên
xuống theo nhịp thị hiếu bất thườg của chúng, tức là sự khổ sở (dukkha).
Và rồi ta sẽ nhắm mắt cứ hành động theo các
cảm thọ (vedanà), hiện còn bị giam giữ trong sự vô minh (avijjà)
và vì thế, mà chẳng được đứng đắn. Điều ấy
cũng giống như đối với loài súc sanh. Cả thú vật nữa, cũng chịu sự
thúc dục và hướng dẫn của các tình cảm; mọi hoạt
động cuả chúng cũng chỉ là lùng kiếm
và theo đuổi các cảm thọ mong muốn. Con người
cũng thế, lùng kiếm và chạy đuổi theo
các cảm thọ mà họ mong cầu.
Ngay cả việc các bạn
đến khoá thiền tập ở Suan Mokkh nầy, các bạn
hi vọng tìm thấy chút gì có thể tạo nên cái cảm thọ làm bạn vui
thích. Phải chăng các bạn đến đây để tìm
thấy các cãm giác thích thú, như sự yên tĩnh và an hoà của tu viện, hoặc
niềm vui về các giây phút trầm tư mặc tưởng, hoặc bạn
đã cố gắng tìm cách lánh xa khỏi cảnh
xáo trộn, tranh chấp, ưu tư và đau khổ trên
thế giới? Các cảm thọ đó đưa đến mọi hoạt
động và tầm cầu; chúng thúc dục mọi cố gắng, nỗ lực. Thật vậy,
chúng chính là các chủ nhơn ông, các nhà độc
tài, đối với đời sống của chúng ta,
đến một mức độ hết sức là sâu rộng. Khi ta kiểm soát
được chúng, ta chẳng để chúng gây tác hại đến
ta. Khi ta chẳng đủ khả năng để kiểm soát chúng, ta trở nên nô lệ
của chúng. Còn tình trạng nào bi thảm hơn nữa, khi phải làm nô lệ cho các
cảm thọ!
Có hai loại cảm thọ (Vedanà):
cảm thọ điền rồ bị ảnh hưởng của vô minh (avijjà)
và cảm thọ sáng suốt được trí huệ minh triết
(vijjà) chiếu soi đến.
Nếu ta tỏ ra điên rồ vào lúc xúc (phassa, sự tiếp xúc
giữa giác quan với đối tượng) xảy ra thì
ta sẽ có cảm thọ điên rồ. Nếu ta tỏ ra
khôn lanh và hiểu biết vào lúc xúc (phassa) xảy ra thì ta sẽ
có được cảm thọ đứng đắn, chơn chánh. Cảm thọ
điền rồ đưa đến dục vọng còn si mê, mà ta gọi là khát ái (tanha).
Cảm thọ đứng đắn đưa đến sự ham muốn đứng
đắn, đúng như những ham muốn chơn chánh mà ta cần phải nên ham
muốn. Ta phải nên cẩn thận giữ gìn cho các cảm thọ
được luôn luôn đứng đắn. Cảm thọ điên
rồ đưa đến khát ái, rồi khát ái lại lôi kéo
ta chạy theo một khát ái điên rồ khác, hoặc theo một ước muốn khá
thông minh hơn. Khát ái có thể biến một ước muốn chơn chánh trở thành ngu
xuẩn. Khát ái điền rồ lôi cuốn ta quay cuồng
vòng vòng, vòng vòng, mãi chẳng biết bao nhiêu lần, thế mà ta vẫn
ráng sức chịu đựng với nó. Đôi khi, ta lại
muốn lên đến tận cung trăng! Cho đến
khi nào khát ái còn lưu lại đó thì
chẳng bao giờ chấm dứt mọi việc đến và
đi, các phát minh, các chế biến, các khát
vọng cho một cuộc đời xa hoa phù phiếm
đến bất tận. Lẽ tất nhiên, việc kiểm soát các cảm thọ
đưa đến các lợi lạc thật vĩ đại. Bạn chớ để
cho chúng làm khuấy động lên
các ước muốn và nhu cầu điên rồ. Trong
chiều hướng đó, bạn nên quan tâm
đến các cảm thọ.
Tâm (citta): làm việc
đứng đắn.
Giờ
đây, ta đến với tâm (citta).
Bạn đã biết rõ và ý thức
đầy đủ về tầm quan trọng của tâm. Nếu chưa,
thì cuộc nghiên cứu của chúng ta tại
đây cũng chỉ được cho bạn thấy tầm quan trọng ấy của tâm. Mặt khác, cũng
như đối với thân (kàya), và cảm thọ (vedanà),
nếu tâm chẳng được đứng đắn, thì các
vấn đề khó khăn sẽ đặt ra ngay và sự
khổ sở (dukkha) sẽ xảy đến.
Ở mức tối thiểu, có ba việc ta
cần phải thông hiểu về tâm. Tùy theo chức năng
mà tâm thi hành, ta gọi tâm đó dưới ba
tên khác nhau. Khi nó suy nghĩ, ta gọi
đó là citta (tâm). Khi nó hay biết, ý thức về việc gì, cảm
giác hay thể nghiệm và biết rõ đến điều gì,
ta gọi là mano (cảm biết). Chức năng
căn bản ý thức tại ngưỡng cửa các giác quan để thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ và
hiểu biết được gọi là vinnàna
(ý thức). Ta đặt tiêu
điểm lên chức năng
của tâm khi nó thi hành nhiệm vụ của nó
để đặt tên cho nó: khi nó suy nghĩ, ta
gọi là citta, tâm; khi nó hay biết, ta gọi
đó là mano, cảm biết; và khi nó
ý thức được các cảm giác ở các giác quan, ta
gọi đó là vinnàna, ý thức.
Khi tâm hoạt
động đứng đắn, thì có nhiều kết quả
tốt đẹp, và cần phải kiểm soát tâm
để cho nó hoạt động thật đứng đắn. Nếu ta
chẳng kiểm soát được tâm thì nó trở nên chẳng
đứng đắn. Khi nó thiếu đứng đắn thì
muôn việc đều hư hỏng cả, chẳng còn gì
sót lại trên thế gian nầy. Ta có thể nói thế gian nầy sở dĩ có
được là vì chúng ta
đã có tâm. Nếu ta chẳng có tâm, thì có
lẽ chẳng còn có thế gian nào nữa cả. Nếu ta tiếp tục kiểm soát
được tâm mãi và an trú nó trong chỗ
đứng đắn, ta sẽ thâu nhận được các hoa quả
của sự yên tĩnh, vắng lặng, và hoà bình. Thông hiểu
đầy đủ về tâm để có thể giữ mãi tâm
trong vòng kiẻm soát, đó là loại kiến
thức tuyệt hảo mà loài người cần phải biết khám phá ra
để hưởng lấy. Bạn phải nên lưu tâm
đặc biệt về vấn đề nầy.
Pháp (dhamma): hai sự
kiện căn bản.
Sau cùng, ta
đến với Pháp (Dhamma), hay là,
đến với Chơn Lý. Trong mọi sự vật, kể cả
những sự vật là chính chúng ta nữa, và những sự vật mà chúng ta có
liên hệ đến, đều có những Chơn Lý mà
ta cần phải hiểu thấu. Nếu ta chẳng hiểu đến
Chơn lý đó, hay đã hiểu một cách sai lầm, thì việc xử thế của chúng
ta sẽ chẳng được đứng đắn với các sự vật đó,
với đời sống của chúng ta. Điều nầy sẽ tạo nên nhiều vấn
đề khó khăn và sẽ
đưa tới sự Khổ sở (dukkha).
Toàn bộ rộng rãi các kiến thức đó có thể tóm
lược lại thành ra hai đề mục chánh: sự
vật kép, phức tạp gọi là chư hành (sankhàra) và các
sự vật đối ngược lại, tức là các sự
vật đơn thuần, chẳng phức tạp. Có lẽ các bạn
đã học qua hai đề mục nầy trong khoa
Siêu hình học rồi, dưới danh xưng là hiện tượng (phenomene)
và bản thể (noumene). Bản thể
đối ngược với hiện tượng trên nguyên tắc, nhưng cả hai lập thành
một cặp đôi. Nếu sự vật nào là một
hiện tượng, thì nó phải là thể kép, phức tạp và biểu lộ ra sự thật về vô
thường (aniccam). Nếu một sự việc là bản thể thì nó thuộc vào thể
đơn thuần, và chẳng hề vô thường; trái
lại, nó lại thường hằng (niccam). Vì lẽ
đó, ta nghiên cứu và học tập về vô
thường nơi muôn sư vật, cho đến khi nào
ta thông suốt được lẽ vô thường thật thuần
thục. Và rồi ta chẳng hề gắn bó, ràng buộc vào bất cứ sự việc gì.
Khi tâm trí chẳng còn bám níu vào bất cứ đâu
nữa thì nó sẽ nhận thức ra được cái lẽ
thường hằng (niccam) đã
vượt qua khỏi sự vô thường, tức là đến được
với cái bản thể -- Niết-bàn (Nibbàna). Như thế, ta
hiểu được cả hai sự thực thực tế -- điều
hữu vi, bị điều kiện hoá và
điều vô vi, chẳng bị
điều kiện hoá -- và
đó là một sự quan trọng vào bực nhứt.
Đó là nguyên tắc tối quan trọng. Sự
thực tập về Pháp trong bộ bốn cuối cùng của Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
sẽ dẫn ta đến hai sự kiện căn bản đó.
Trên
đây là cốt tủy của việc chúng ta
nghiên cứu vể bốn lãnh vực ấy, và các kiến thức cùng lợi lạc mà sự nghiên
cứu đó mang đến. Đấy là tinh hoa của
Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Bốn Pháp
đồng hành.
Còn có bốn lợi ích trong việc
thực tập Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) nữa. Ta còn
được bốn điều mà tôi muốn gọi
đó là "bốn kẻ
đồng hành của Pháp". Tôi
đã tự tiện
đặt ra danh từ "đồng hành" nầy
để có thể giải thích, một cách dễ dàng
hơn. Bốn Pháp "đồng hành"
đó là sati, pannà, sampajannà
và samàdhi: giác niệm, bát nhã, phân biện và
định lực. Các bạn còn nhớ ở bài
pháp thoại đầu tiên, tôi có nói, trong
khi chúng ta sống trong cõi thế gian nầy, thì bốn kẻ
đồng hành
đó đã giúp ta chiến thắng được mọi sự
đe dọa. Với bốn kẻ đồng hành đó ta có
thể gạt bỏ được sự Khổ sở (dukkha). Dầu
đang ở trong tu viện hay ra sống ở bên
ngoài, chúng ta phải xử dụng đến bốn kẻ đồng
hành ấy để mà sống. Trước hết,
ta có giác niệm (sati, ý thức hiểu biết). Khi một
đối tượng tiếp xúc vơi giác quan,
giác niệm (sati) có đó và
mang bát nhã (panna, trí huệ) tới cho sự thể nghiệm. Một khi
bát nhã (panna) đã
đến, nó liền chuyển biến thành sự
phân biện (sampajannà, trí huệ
đang tác động, nghĩa là, phân biệt ra
được rõ ràng) tức là sự ứng dụng của trí huệ vào một tình trạng
đặc biệt hiện có. Rồi, sức mạnh của định
lực (samàdhi, tình trạng tập trung tâm ý) gia tăng
lên để trợ giúp cho sự phân
biện (sampajannà). Với sự phối hợp cộng tác của bốn Pháp
đồng hành
đó, ta có đủ khả năng để chinh phục bất cứ đối tượng nào
đến tiếp xúc với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và
tâm. Bốn Pháp đồng hành
đó là bốn kẻ thân tùy vô
địch đang hộ vệ chúng ta. Chúng canh chừng và
bảo hộ chúng ta tựa như một đấng Thượng đế.
Nếu ta biết thực tập Giác Niệm về Hơi thở, ta sẽ thủ đắc được bốn Pháp
đồng hành đó.
Thực tập các chơn lý căn
bản.
Lợi ích kế tiếp là ta có
đủ khả năng để thực tập phù hợp với
nguyên lý paticca samuppàda, lý duyên sanh, hay là, sự sanh khởi bị
điều kiện hoá. Lý thuyết về lý
duyên sanh hết sức phức tạp và dài dòng.
Đối với vài bạn còn chưa quen với lý thuyết nầy, tôi xin nói vắn
tắt, lý duyên sanh giải thích nguyên nhân làm nguồn gốc phát sanh ra khổ
sở (dukkha). Một chuỗi dài các nguyên nhân, cái sau tùy thuộc vào
cái trước, đưa đến sự đau khổ. Đức Phật đã
giảng dạy đề tài nầy dưới nhiều hình
thức khác nhau, bởi vì nó quá tế nhị và thâm sâu vô cùng, khó cho ta hiểu
thấu được. Xin các bạn hãy nghiên cứu
lý thuyết nầy. Nhưng đến khi chúng ta bước vào
việc thực tập ứng dụng nó, thì lại thấy lý duyên sanh rất giản dị, giản dị
đến mức tuyệt diệu. Nó cô đọng lại ở chỗ nầy:
có giác niệm (sati, sự tỉnh thức) vào
đúng lúc xảy ra sự tiếp xúc, xúc
(phassa), giữa đối tượng và
giác quan, và giản dị có thế mà thôi. Xúc (phassa) là nơi
gặp gỡ giữa ba việc: (1) giác quan, (2) trước một
đối tượng ở bên ngoài và (3) ý thức (vinnàna)
tương ứng khởi lên ở bên trong nội tâm. Giản dị có
được giác niệm (sati)
vào đúng lúc xúc (phassa)
xảy ra thì có thể giải quyết thoả đáng và
trọn vẹn tất cả mọi vần đề của lý
duyên sanh (paticca samuppàda).
Điều đó có nghĩa là, trước khi sự sanh khởi bị
điều kiện hoá phát triển lên
được, hãy có ngay giác niệm tại
đó, tại chỗ xúc (phassa).
Đừng để cho xúc trở thành mê
muội. Đừng để cho một xúc ngu
muội kéo theo một cảm giác ngu muội và một cảm giác ngu muội lại
đưa đến sự khát ái (tanha)
cũng ngu muội nốt. Tất cả đều ngưng lại tại
chỗ đó. Đấy chính là một lợi lạc khác của sự thực tập Giác niệm về
Hơi thở (Ànàpànasati). Sự thực tập nầy khiến cho giác niệm (sati)
trở nên dồi dào, nhanh nhẹn và thiện xảo đủ
để làm tròn nhiệm vụ vào đúng lúc
xúc diễn ra, hầu chận
đứng lại được dòng nguyên nhân trong lý duyên sanh (paticca
samuppàda) ngay vào lúc đó và ở
tại chỗ đó. Đây quả thật là một lợi
ích vĩ đại vào bực nhứt của Giác Niệm
về Hơi thở (Ànàpànasati).
Còn một lợi ích nữa của sự thực
tập Giác niệm về Hơi thở là chúng ta thực hành
được theo đúng nguyên tắc nêu trong
Bốn Chơn Lý Nhiệm mầu (Ariya sacca) một cách
đễ dàng và trọn vẹn. Các bạn
đều nghe nói đến và hiểu rõ thế nào là
Tứ Diệu Đế. Tinh hoa của qui
luật đó là sự Khổ sở (dukkha)
phát sanh ra từ sự khát ái (yanha) ngu muội. Nếu ở
đâu có sự khát ái (tanha)
thì ở đấy có sự khổ sở (dukkha).
Khi ta có thể xử dụng giác niệm (sati)
để chận đứng sự khát ái (tanha)
và bẻ nó gãy đi, thì chẳng còn khổ
sở (dukkha) nào nữa. Xuyên qua sự ngăn
ngừa nhằm chặn đứng sự thể nghiệm của các giác quan một cách si mê
nơi xúc (phassa), thì một cảm thọ (vedanà) ngu muội
chẳng thể nào khởi lên và khát vọng (tanha) cũng chưa bị khuấy
động để nổi dậy được. Đây là cách tốt
nhứt và hữu ích nhứt để thực tập về bốn Chơn
Lý Nhiệm mầu. Chận đứng được sự khát ái (tanha) bằng
tốc lực và mãnh lực của giác niệm (sati)
được phát triển thêm nhờ vào sự luỵện
tập đầy đủ Pháp Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
qua tất cả bốn bộ bốn các bước thực tập.
Trái tim của Tam Bảo.
Một lợi ích xa hơn nữa của Pháp
Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) là Pháp nầy
đưa ta đến gần được với ngôi Tam
Bảo (Ti ratana, Tam qui y, ba nơi nương tựa trong Phật giáo).
Đó là bởi vì tinh hoa, hay cốt lõi,
của Phật bảo, Pháp bảo, và Tăng bảo
(Đức Phật, Chánh Pháp và Tăng
già) nằm trong tình trạng: thanh tịnh, trong suốt và an tịch.
Tình trạng của Tâm (citta)
đã trờ nên thanh tịnh, trong suốt và an tịch,
đó chính là tinh hoa của Phật Bảo,
Pháp Bảo và Tăng Bảo. Xin bạn hãy thận
trọng với ba tĩnh từ nầy: thanh tịnh, trong suốt và an tịch.
Đức Phật đâu phải chỉ là một tấm thân
hình hài vật chất; mà phải là một tình trạng tâm linh có
được tâm trí đạt đến mức thanh
tịnh, trong suốt và an tịch. Đấy mới là
Đức Phật chân thật. Khi ta nhìn thấy
được Pháp, thì ta
đã thấy
được Phật. Trái tim Chánh Pháp cũng là thanh tịnh, trong suốt và
an tịch. Còn đối với Tăng già (Sangha),
là những người, xuyên qua sự thực tập viên mãn,
đã thể hiện
được tâm thanh tịnh, trong suốt và
an tịch. Cả ba tĩnh từ đều rất là
quan trọng. Người đầu tiên
đã thực hiện hoàn toàn tâm thanh
tịnh, trong suốt và an tịch như thế, được
gọi là "Đức Phật"(Buddha),
Chơn Lý được thể hiện ra đó, được gọl là
"Chánh Pháp"(Dhamma) và những kẻ đã
nương tựa theo đó mà tu tập thành
công, được gọi là "Tăng
già"(Sangha). Khi ta thực tập Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
ta làm cho tâm ta trở nên thanh tịnh, trong suốt và an tịch, như
đã được
trình bày chi tiết qua các bài pháp thoại nầy. Các
đức tánh đó là hoa quả của sự vô
chấp thủ (viràga, chẳng bám níu, chẳng ràng buộc), sự
đoạn diệt (nirodha) và
sự từ bỏ (patinissagga) (từ bước thứ mười bốn
đến bước thứ mười sáu). Qua các
bước đó, có sự thanh tịnh,
trong suốt và an tịch đến với tâm và
do đó mà Ngôi Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp
Bảo và Tăng Bảo dễ dàng thể hiện
đến nơi tâm trí chúng ta. Đấy lại là
một lợi ích khác, chẳng gì vượt hơn nổi, của Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
Nhìn vào toàn bộ Phật giáo.
Giờ
đây, lợi lạc tiếp theo là khi thực tập
Giác Niệm về Hơi thở, ta đang thực hiện được
một nguyên tắc căn bản nhứt trong Phật
học, đó là ba môn học vô lậu Giới
Định Huệ (Sìla Samàdhi Pannà). Cả ba yếu tố nầy
đều có mặt đầy đủ trong việc thực tập Pháp
Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati). Cái quyết tâm chẳng gì
lay chuyển nổi để thực tập, đó chính là
Giới (Sìla). Khi tâm trí được
đặt lên trên các hành động đứng đắn,
đó cũng là Giới. Trong chủ ý quyết
định cần thiết cho sự thực tập mỗi
bước của Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati),
đã có một sự trì giới tự
động, tự nhiên, chẳng cần chúng ta
phải minh thị biểu lộ ra bằng một hành động
đặc biệt nào. Rồi kế đó là
định lực (samàdhi) cũng
hiện diện đến nữa. Bởi vì
đã có chủ ý quyết
định thực tập như thế, nên ta sẽ thực
tập mãi cho đến khi đắc được định lực khởi lên.
Rồi thì Bát nhã (Pannà) phát triển theo,
đặc biệt là ở bộ bốn thứ tư,
đó vốn là trí huệ Bát nhã hoàn toàn
nhứt. Nhờ thực tập đứng đắn Pháp Giác Niệm về
Hơi thở (Ànàpànasati) mà nguyên tắc căn
bản nhứt của Phật giáo được thành tựu,
đưa đến sự viên mãn tròn đầy của
Giới Định Huệ.
Đấy là lợi lạc vĩ
đại của việc tu luyện theo toàn bộ
giáo lý của Phật học.
Khi nói tóm lược lại, thì ta
nói Giới Định Huệ (Sìla
Samàdhi Pannà). Nhưng khi nói cho đầy đủ
chi tiết, thì ta nói đến bảy yếu tố
của Thất Giác Chi (Bojjhanga).
Đức Phật có tuyên bố rằng, khi thực
tập đầy đủ mười sáu bước của
Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati), ta thực hiện
được bốn lãnh vực của giác niệm
(satipatthàna). Qua sự thực hiện toàn mỹ bốn lãnh vực của giác
niệm: thân, cảm thọ, tâm và Pháp, tức là nội dung của bốn bộ bốn
(tetrads) trong Pháp Giác niệm về Hơi thở, thì bảy yếu tố của sự Giác
ngộ (Bojjhanga, Thất giác chi) cũng
được hoàn mãn. Và rồi sự Giác ngộ hoàn toàn cũng
được bảo đảm. Thất giác chi (Bojjhanga)
chính là bảy yếu tố đưa đến sự giác ngộ của
bực A la hán (Arahant), bực nhơn giả
đã giải thoát khỏi mọi khổ sở (dukkha).
Phải mất đến cả giờ để đi sâu vào các
chi tiết nầy. Giờ đây, tôi chỉ còn
thời giờ để nói lên danh xưng của các
yếu tố đó với các bạn mà thôi:
sati, dhammavicaya, viriya, piti, passaddhi, samàdhi và upekkha
(Giác niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỉ, khinh an,
định và xả). Bảy yếu tố
đó được đầy đủ một khi Giác niệm về Hơi thở
được hoàn tất. Một khi bảy yếu tố đã
đầy đủ, thì sự Giác ngộ hoàn toàn
đã được
bảo đảm rồi. Mặc dầu ta chẳng đủ thời giờ để giải thích thêm nữa,
nhưng xin các bạn hiểu cho rằng bảy yếu tố của sự giác ngộ (Bojjhanga)
là điều chắc chắn đạt được một khi đã
thực tập hoàn mãn Pháp Giác Niệm về Hơi thở. Lời tuyên bố của
Đức Phật được ghi rõ ràng trong Kinh
Tạng, các bạn có thể tự mình kiểm chứng lại xem.
Niết-bàn tại
đây và
ngay bây giờ.
Giờ
đây, ta đến với một lợi ích tích cực thâu
lượm được qua sự thực tập Pháp Giác Niệm về Hơi thở. Đó là
Niết-bàn ngay trong đời nầy, chẳng
cần đợi chi đến chết. Tôi muốn nói,
Niết-bàn tại đây và ngay bây giờ,
tức là thứ Niết-bàn mà ta chẳng cần phải chết rồi mới
được, một thứ Niết-bàn chẳng
ăn nhằm chi đến cái chết cả.
Niết-bàn (Nibbàna) có nghĩa là "thanh lương", là mát lạnh. Chữ
Pali "Nibbuto" cũng có nghĩa là thanh lương. Nếu
đó là sự thanh lương, mát mẻ tạm thời,
chẳng kéo dài, và chẳng được hoàn hảo,
thì ta gọi đó là Nibbuto. Tuy
nhiên hương vị của nó cũng vẫn giống y với một Niết-bàn (Nibbàna)
hoàn hảo. Nibbuto cũng như là một mẩu hàng hoá mà người thương gia
đem ra để giới thiệu món hàng mà ta sẽ
thực sự mua. Cả hai phải giống nhau. Và đây
chúng tôi có một mẩu Niết-bàn (Nibbàna)
để mời các bạn nếm thử trong chốc lát. Tôi
gọi đó Niết-bàn tạm thời, hay là sàmàyika nibbàna.
Sự thanh lương có thể là
Niết-bàn (Nibbàna) đang hiện khởi
do "yếu tố đó".Trong tiếng Pali, chữ "yếu tố đó" có nghĩa là một
cái gì ngẫu nhiên ("coincidental"). Thí dụ như, khi có giác niệm (Sati)
trong hơi thở, thì tâm (citta) trở nên thanh lương. Giác
niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) chính là "yếu tố
đó", là tác viên, là nguyên nhân,
đã gây ảnh hưởng
đến sự thanh lương đó ở tại đây. Đó là
Niết-bàn tạm thời, tadanga nibbàna, một thứ Niết-bàn ngẫu nhiên.
Sự thanh lương khởi lên vì khi chẳng còn có phiền não nữa, thì tâm
(citta) trở nên thanh lương. Khi chẳng có lửa, thì phải có sự mát
nguội. Ở đây Giác niệm về hơi thở (Ànàpànasati)
đã dập tắt các thứ lửa, tức là các
loại phiền não. Mặc dầu đó chỉ là tạm
thời, lửa tắt và có sự mát lạnh trong một lúc.
Đó là Niết-bàn trong một lúc,
do nhờ ở "yếu tố đó", ở cái dụng cụ đó, tức là
Giác Niệm về Hơi thở. Mặc dầu trong chốc lát, còn chưa
được hoàn hảo và vĩnh cửu, nhưng hương
vị của Niết-bàn đó cũng được thưởng
thức như là một mẩu của vị nếm thử. Giác Niệm về Hơi thở giúp chúng
ta thưởng thức được Niết-bàn chút
chút, mỗi lần một ít, lúc nầy qua lúc khác, trong suốt cuộc
đời mình hiện nay. Và chẳng có gì mà
cần phải chết đi cả. Rồi thì sự thanh
lương lại kéo dài ra thêm nữa, nới rộng ra thêm nữa, và càng lập lại càng
nhiều lần hơn nữa, mãi cho đến khi đạt tới
Niết-bàn hoàn hảo. Đây là
một sự lợi lạc mà tôi xem như thật là thích thú nhứt và tích cực nhứt.
Mong các bạn có thể làm được như thế!
Xin bạn hãy chắc rằng mình
đã hiểu rõ chữ Niết-bàn (Nibbàna)
cho thật đúng. Nó có nghĩa là thanh
lương, mát lạnh, chớ chẳng có dính dấp gì với cái chết. Nếu có liên hệ với
cái chết, như trong thường hợp sự qua đời của
một bực A la hán (Arahant), thì lại là chữ khác,
Parinibbàna, Bát Niết-bàn. Riêng chữ Nibbàna, Niết-bàn, chẳng
có tiếp đầu ngữ Pari, thì chỉ
có nghĩa giản dị là thanh lương, sự vắng bóng của lửa nóng. Bạn hãy tưởng
tượng như tất cả muôn sự đều trôi chảy
êm thắm đối với bạn, sức khoẻ dồi dào,
kinh tế ổn dịnh và an toàn, gia đình
hạnh phước, bạn bè thân thương, và chòm xóm láng diềng khả ái. Thế thì,
cuộc đời đó của bạn thật là thanh
lương, theo ý nghĩa của chữ Niết-bàn (Nibbàna). Có thể cuộc
đời đó còn chưa
được hoàn hảo, chưa phải là
Niết-bàn hoàn toàn, bởi vì nó còn chờ đợi
có thêm một tâm hồn thanh lương nữa để
hoàn hảo, nhưng dầu sao thì cũng đã
là thanh lương rồi vậy.
Chữ Niết-bàn (Nibbàna)
mang ý nghĩa thanh lương. Nó có thể được dùng
đến để chỉ các sự vật vật chất. Một hòn
than cháy nóng bỏng đang nguội dần, được gọi
là đang "vào Niết-bàn".
Khi một tô súp nóng, dần dần nguội bớt đi, ta
có thể nói, tô súp đó đã Niết-bàn vừa
đủ để ăn được rồi. Chữ Niết-bàn
(Nibbàna) còn có thể dùng trong trường hợp các dã thú hung ác và
nguy hiểm bị bắt trong rừng đem về nuôi
dưỡng, huấn luyện cho thuần tánh để trở thành các thú vật nhà. Các
dã thú đó cũng được gọi là
đã Niết-bàn. Trong các văn
kinh Pali, cũng chữ Niết-bàn nầy
đã được dùng
cho cả các sự vật vật chất, thú vật và con người. Nếu có cái chi
đang thanh lương, mát mẻ, chẳng chút nóng
bức, thì đó là Niết-bàn
theo một nghĩa nầy hay một nghĩa nọ. Chúng ta sẽ nhận
được một lợi lạc thật là thoả thích
nhứt về Niết-bàn -- thanh lương nơi thân thể, thanh lương nơi tâm
thần, thanh lương về mọi mặt -- qua sự thực tập Pháp Gíac niệm về Hơi thở
(Ànàpànasati).
Nói tóm lại, ta có
được cuộc sống thanh lương ngay tại đây và
vào lúc nầy, tức là Niết-bàn, theo các nghĩa vừa
được giải thích ở trên. Trong tiếng
Pali, tiếng Nibbuto có nghĩa là " một người trở nên thanh lương",
hoặc là "một người đã có
được Niết-bàn" (Nibbàna). Tình
trạng đó là Niết-bàn, Nibbàna.
Còn con người đang trong tình trạng
đó là Nibbuto.
Hơi thở cuối cùng.
Còn nhiều lợi lạc khác nữa của
Pháp Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati), nhưng kể ra hết
đây thì mất cả giờ, khiến cho tôi là
người nói, và các bạn là người nghe, rất khó cho chúng ta theo dõi hết
được. Tuy nhiên, xin
được phép đề cập đến một đề tài chót:
ta sẽ biết rõ được hơi thở cuối cùng
của đời ta; tức là ta sẽ biết
được vào hơi thở nào thì ta sẽ chết.
Điều nầy chẳng có nghĩa là chúng ta có
thể chọn được lúc nào ta sẽ lià
đời. Đó chỉ có nghĩa là qua sự thực
tập thật là thuần thục của chúng ta về Pháp Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati),
chúng ta đã trở nên thiện xảo với hơi
thở. Chúng ta sẽ tức khắc biết ngay liền là ta sẽ chết hay không vào cái
hơi thở đang thở nầy. Rồi chúng ta có thể tiên
đoán được hơi thở cuối cùng của
đời ta. Đây là một lợi lạc rất
đặc biệt là biết
được hơi thở cuối cùng của
đời mình.
Đức Phật có tuyên bố
rằng, chính Ngài đã
đắc được Chánh đẳng Chánh giác (anuttara
sammàsambodhi) qua sự thực tập Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Vì thế, tôi rất hoan hỉ để ân cần giới thiệu
với các bạn ở đây và ở khắp nơi, để
muôn người đều biết rõ đến Pháp nầy mà
thực tập. Đức Phật đã thành Phật nhờ
thực tập Pháp Giác Niệm về Hơi thở nầy. Như thế, Ngài
đã hiến tặng Pháp ấy cho chúng ta như
là một hệ thống tốt nhứt để thực tập. Ngài
chỉ dạy cho chúng ta biết xử dụng sự thực tập nầy vì sự an lạc của chúng
ta, vì sự an lạc cho các kẻ khác, và vì sự an lạc của tầt cả mọi người.
Chẳng còn cách nào khác hay hơn là thực tập Pháp Giác Niệm về Hơi thở.
Mong các bạn hãy cẩn thận lưu tâm đến nó.
Cuộc thảo luận của chúng ta về
sự quán tưởng Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati bhàvanà) kể
như đến đây đã khá
đầy đủ. Xin được phép chấm dứt tại đây bài
pháp thoại chót.