Phần Phụ Lục
Phụ lục 1: Năm
nhu yếu của đời sống
(Trích đoạn bài pháp
thoại ngày 02-09-1987)
Những ai khinh miệt và ghê tởm quỉ Sa tăng,
sẽ tìm thấy tên quỉ sứ nầy dưới hình thức của sự ích kỷ. Tình cảm
ích kỷ ma quái đó gài bẫy con người
vào đống rác khổ sở (dukkha),
cứ thúc dục mọi người phải quay cuồng mãi giữa
đống rác khổ sở ấy. Sự ích kỷ khiến cho xã
hội, đúng ra là, cả thế giới, phải
quay cuồng mãi chung quanh sự khổ sở. Trong tình trạng như thế, còn có gì
đáng được lưu giữ lại? Vì thế, thật là
khẩn thiết cho chúng ta phải tẩy sạch vết nhơ
đó ra khỏi các hành động và
thái độ của chúng ta.
Muôn pháp (dhamma) đều
rỗng không (sunnatà). Niết-bàn là cõi hư không tối
thượng. Trái tim, tinh hoa, của Phật giáo chỉ là việc chấm dứt sự ích kỷ.
Chẳng còn gì khác nữa cần phải làm thêm. Mặc dầu sự giải thích có dài dòng
và rắc rối, nhưng tóm gọn cô đọng lại chỉ là
sự "quét sạch ích kỷ" mà thôi. Ta học tập về Chánh Pháp (Dhamma)
cũng chỉ để thấu hiểu được điểm nầy. Ta thực
tập quán tưởng để thanh tịnh hoá tâm ý cũng là
để rửa sạch tất cả sự ích kỷ. Đặc biệt nhứt là
Giác niệm về Hơi thở (Anàpànasati), vốn là một hệ thống
được đề ra để tận trừ sự ích kỷ. Ta cần phải
nên lưu tâm thật cẩn thận về vấn đề
nầy và thực tập cho đến thành
công mỹ mãn. Mục đích của chúng ta đến Suan
Mokkh nầy là để nghiên cứu và
thực tập việc dứt trừ ích kỷ.
Giác niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
đưa đến sự thông hiểu tường tận về những gì có liên quan
đến các vấn đề sau đây:
- biết rõ sự ích kỷ;
- biết rõ nguồn gốc của sự ích kỷ;
- biết rõ sự chấm dứt được sự ích kỷ;
- biết rõ con đường phải theo để
chấm dứt sự ích kỷ.
Mục tiêu của Giác niệm về Hơi thở là biết rõ tấm thân nầy như
thế nào và cái tâm nầy như thế nào. Biết rõ thế nào là các cảm
thọ (vedanà), đã lừa gạt
chúng ta ra sao để trở nên ích kỷ. Và
biết rõ chơn lý của mọi sự vật, biết rằng chúng chẳng có một "tự thể" nào,
rằng chúng ta chớ nên xem sự vật nào như là có "tự ngã". Rồi thì, hãy
buông bỏ cái "tự ngã" đi, đó cũng như đang
triệt tiêu được ma lực bẩm sanh của sự
ích kỷ. Và kết quả là, chẳng còn lậu hoặc, chẳng còn phiền não và
mọi vấn đề khó khăn của chúng ta cũng chấm
dứt, và ta đã dập tắt
được sự Khổ sở (dukkha). Các
vấn dề khó khăn của chúng ta đã chấm
dứt một cách rõ ràng khi chúng ta đã
chắc chắn nhận thấy rõ sự chấm dứt đó. Đó là
cả hệ thống của Giác Niệm về Hơi thở được trình
bày ra đấy. Các bạn có thể tự mình
nhìn thấy nhu cầu cần biết đến và thực
tập Pháp đó, để tạo nên một "cuộc sống
mới", một cuộc sống vượt thoát khỏi ma lực của sự ích kỷ. Xin các bạn hãy
lưu tâm đặc biệt đến vấn đề đó.
Lối sống .
Để có thể thực tập Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
được kết quả mỹ mãn, một vài sự
điều chỉnh rất cần thiết về lối sống hằng ngày
của ta. Lối sống của bạn và sự thực tập Pháp Giác Niệm về Hơi thở có liên
hệ nhau thật chặt chẽ. Vì lẽ đó, ta cần phải
nên bàn luận thêm về lối sống đó, để
có thể hỗ trợ cho việc nghiên cứu Chánh Pháp (Dhamma) và sự
thực tập quán tưởng về tâm (bhàvanà citta). Xin phép
được bàn luận rõ thêm về
đề mục quan trọng nầy.
Đề mục nầy là Paccaya, các điều
kiện. Chữ Paccaya của tiếng Pali (và của tiếng Thái nữa)
có nghĩa tương đồng với chữ
condition trong Anh ngữ, mặc dầu nơi chữ Paccaya còn có vài ý
nghĩa tế nhị hơn đôi chút. Tuy vậy, danh từ
được dùng đây là vấn
đề phụ thuộc, chính ý nghĩa của nó mới thật
sự là quan trọng, chắc các bạn cũng tự mình nhận ra
được như thế. Các Paccaya,
điều kiện, là những sự việc thật
cần thiết cho đời sống; và do
đó mà đôi
khi chúng được gọi là những "nhu yếu hay
đòi hỏi khẩn thiết của
đời sống". Chúng là những yếu tố của
đời sống, trợ giúp cho sự hiện hữu của đời
sống. Các nhu yếu đó, các cơ sở của đời sống đó, cần phải được hiểu rõ
thật đúng đắn, nếu chúng ta muốn nghiên
cứu Chánh Pháp (Dhamma) và thực tập quán tưởng cho có kết quả tốt.
Vì thế, tôi xin các bạn hãy chú ý đến vấn đề
quan trọng nầy.
Nhiều người chỉ biết đến các điều kiện vật
chất, hay là tình trạng của tấm thân, nên họ cứ tin rằng chỉ có võn
vẹn bốn điều nhu yếu: thực phẩm, y phục, nhà
cửa, và thuốc men. Chỉ biết có bốn nhu yếu đó
mà thôi, theo tôi thiễn nghĩ, đó thật
là điên rồ. Ta còn phải biết
đến một nhu yếu thứ năm nữa, cái
paccaya, điều kiện hoặc tình
trạng của tâm trí. Bốn nhu yếu đầu
tiên chỉ thuộc về tấm thân vật chất mà thôi. Còn nhu yếu thứ năm
liên quan đặc biệt đến tình
trạng của tâm, chính là những gì làm cho tâm
được vui thích và khuyến khích tâm trí hãy hân hoan lên. Ta có thể
gọi đó là "sự tiêu khiển"
(entertainment) nhưng tôi chẳng được chắc cho
lắm rằng đó là một danh từ chính xác ở
đây.
Bạn biết ý nghĩa của mà tôi muốn nhấn mạnh
đến, một khi bạn cứu xét sự vô cùng cần thiết phải làm thế nào
để có được chút gì khiến cho tâm
được vui vẻ phấn khởi lên và thoả
thích trong một chiều hướng đứng đắn. Nếu
chẳng có được điều đó, thì có lẽ sẽ là một sự chết -- cái chết của
tâm hồn. Khi các nhu yếu về vật chất thiếu thốn, thì tấm thân thể chất nầy
phải chết. Và khi nhu yếu tâm linh mà khiếm khuyết
đi thì tâm hồn cũng sẽ chết lịm. Vậy
xin bạn hãy tìm hiểu cho rõ cả hai loại nhu yếu, vật chất và tinh thần,
bốn điều trước và một
điều sau. Tất cả có đủ năm nhu yếu. Ngay đây,
tôi đặt chú tâm vào nhu yếu thứ năm,
cái paccaya, điều kiện,
quan trọng vào bực nhứt, đủ để nuôi dưỡng và
bảo trì cho tâm trí. Chúng ta sẽ nghiên cứu thêm
đầy đủ chi tiết, một khi các bạn đã
biết rõ có bốn nhu yếu về vật chất và một nhu yếu về tinh thần.
Các nhu yếu về vật chất.
Xin hãy bắt đầu ngay chỗ cần phải khởi sự:
nhu yếu thứ nhứt là thực phẩm. Ta phải dùng thực phẩm
đúng thật là thực phẩm.
Đừng dùng các thực phẩm chỉ là "mồi".
Sự phân biệt chủ yếu giữa thực phẩm và "mồi" cần
được hiểu rõ cho tường tận. Ta dùng
thực phẩm là để nuôi sống cuộc đời mình.
Còn ta đi ăn các "mồi" là vì sự khoái
khẩu. Mồi thì khiến chúng ta trở nên ngu muội, nên ta cứ cắn mồi mãi một
cách điên rồ, tựa như loài cá
đớp mồi ở các lưỡi câu. Ta phải nên
dùng các loại thực phẩm nào thật sự bổ dưỡng cho cơ thể, và ta cũng nên
ăn uống cho có độ lượng. "Ăn mồi" có nghĩa là
ăn cho khoái miệng và vì thích ý. Các
mồi lại thường đắc tiền. Xin ngưng lại, đừng
đớp mồi nữa, và hãy dùng các thực phẩm lành mạnh và thich nghi.
Đừng dùng thực phẩm như những miếng
mồi, nhứt là trong thời gian các bạn có mặt tại khóa thiền nầy.
Nếu bạn chỉ biết ăn "mồi", và chỉ
ăn mồi mà thôi thì bạn sẽ
đói bụng suốt ngày, suốt
đêm. Rồi lại lẻn ra ngoài tìm mồi
để đớp. Ăn mồi sẽ làm hao mòn các khả
năng tinh thần của ta. Tâm trí bị khuất phục
trước mồi ngon và chẳng còn đủ khả
năng để nghiên cứu và thực tập về Chánh Pháp (Dhamma) (...)
Khi dùng thực phẩm, bạn nên ăn đúng thời và
có độ lượng. Như thế, thì sẽ giảm bớt
được sự phí phạm và sự nguy hại.
Điều kiện thứ hai là y phục. Xin bạn
ăn mặc sao cho đúng với ý nghĩa và mục
tiêu của y phục: (1) có sức khoẻ tốt, (2) che chở chống lại các bất tiện
nghi và khỏi bị khuấy rối, (3) tiện lợi và giản dị, (4) hợp với văn
hoá. Xin bạn hãy mặc các y phục tiện lợi, giản dị và là dấu hiệu
của văn hoá. Xin đừng ăn mặc các kiểu y phục
phá hoại nền văn hoá của mình hay của kẻ khác.
Điều đó chẳng thích nghi cho chính mình
mà cũng là một kẻ thù làm trở ngại cho sự an tĩnh tâm hồn. Xin bạn hãy lưu
tâm cứu xét đến vấn đề y phục,
paccaya, điều kiện, nhu yếu thứ
hai nầy nữa.
Điều kiện thứ ba là nhà cửa. Nhà cửa phải thích nghi, khiêm tốn
và chẳng nên quá đáng. Ngày nay, trong
dân gian người ta thích những ngôi nhà quá mức nhu cầu, tốn kém quá cao,
tạo thêm nhiều khó khăn rắc rối và
đưa đến lắm âu lo. Như thế, nhà cửa là
một nguồn gốc của sự ích kỷ. Khi thực tập về Chánh pháp, nơi cư trú thích
hợp nhứt là ở gần Thiên nhiên, gần đến mức mà
ta có thể gọi là "làm bạn với Thiên nhiên". Tôi lại phải nói rằng, ít khi
thấy người Tây phương sống ngoài trời, trên bãi cỏ, thân cận với Thiên
nhiên. Họ thích sống ở những nơi đẹp đẽ, cầu
kỳ và đắc tiền. Họ thấy cần phải ở
khách sạn, và dường như chẳng buồn biết chi
đến các trại tạm cư đón khách ở dọc đường.
Thân thiết với Thiên nhiên .
Xin bạn hãy thử hoà mình vào một chút gì mới mẻ, sống tại các nơi cư
trú gần với Thiên nhiên. Sống gần Thiên nhiên khiến cho việc hiểu biết và
thực tập Chánh Pháp được dễ dàng hơn.
Xin bạn hãy tập thích thú và hân hoan với lối sống bình dị, thô sơ bên
cạnh Thiên nhiên. Điều nầy sẽ mang lợi ích
đến cho bạn và yểm trợ bạn rất nhiều trong việc thực tập.
Phật tử chúng ta noi gương của Đức Phật về
vấn đề nầy. Đức Phật khi sanh ra, ở ngoài trời;
đắc giác ngộ ở ngoài trời; ngồi giảng
dạy trên bãi cỏ ở ngoài trời; sống ngoài trời; ngủ nghỉ ngoài trời và tịch
diệt (Parinibbàna, nhập Bát Niết-bàn) cũng ở ngoài trời.
Chúng ta thấy cuộc đời của Ngài rất
thân thiết với Thiên nhiên. Chúng ta lấy gương
đó làm tiêu chuẩn cho chúng ta, và
biết bằng lòng với lối sống đơn sơ, bình
dị đó. Tôi tin rằng các nhà lãnh tụ
những tôn giáo lớn trên thế giới đều thực
hiện một lối sống đơn sơ như thế, mặc dầu tôi chẳng thể nói chắc rằng họ đã
làm được suốt đời họ như Đức Phật đã
làm: sanh ra ở ngoài trời, giác ngộ, hoằng dương
đạo pháp, sống và tịch diệt cũng
đều ở ngoài trời cả.
Vậy nên ta cần có một lối sống thật thân thiết với Thiên nhiên, rất
tiện lợi cho Thiên nhiên để nói "thỏ thẻ" với
ta khá nhiều việc. Nếu ta biết lắng nghe một cách thông minh, ta sẽ nghe
được tiếng nói của Thiên nhiên rõ ràng hơn là khi ta ở mãi tận xa.
Tinh hoa lối sống của ta là sự thân thiết với Thiên nhiên vậy.
Trong ngôn ngữ Thái lan, các tĩnh từ "điều
độ" và "đầy đủ" có
thể còn mơ hồ, xin các bạn hãy hiểu đến các ý
niệm đó theo như tôi đã giải thích ở trên. Và chúng ta cũng nên
thận trọng với các tĩnh từ "phủ phê", "ngon lành": khi nói
đến một cuộc sống quá đầy đủ, lối
"sống phủ phê", ’khi bàn đến các vật thực
thật khoái khẩu, "thức ăn
ngon lành". Chúng ta đâu cần chi
đến lối sống phủ phê, hay thức ăn ngon
lành đến quá mức. Ta thích sống vừa
đủ, và ăn vừa ngon thôi, nghĩa là,
thật đứng đắn. Tất cả bốn loại nhu yếu vật
chất đều đặt trên nguyên tắc đầy đủ
và thích nghi. Đừng để bị lôi khéo
theo cái đẹp hào nháng, cái đẹp quá
mức mà thành ra xa hoa, chẳng được
thích đáng và nhã nhặn. Xin hãy hiểu rõ bốn
điều nhu yếu về vật chất một cách đứng đắn
như vậy.
Nhu yếu tâm linh.
Giờ đây đến nhu yếu thứ năm, cái nhu yếu mà
ta cần bàn đến nhiều. Điều kiện, Paccaya,
thứ năm nầy là điều quan trọng
nhứt. Đó là điều đã ru êm ta,
tiêu khiển ta, làm ta bằng lòng, khiến ta hết ưu tư, bớt xao
động, giúp ta hết bị đói khát ... cho đến
chết. Vui đùa với tâm, khiến cho tâm thoả mãn và hân hoan,
đó là
điều chủ yếu, là điều hiện, hay nhu
yếu tinh thần. Ta có thể gọi đó bằng nhiều danh xưng khác nhau, như
tiêu khiển (entertainment) hay giải trí (amusement),
tôi chẳng biết chắc được danh từ Anh ngữ nào
cho đúng, nhưng việc ấy chẳng quan hệ mấy.
Điểm quan trọng là điều đó phải thật
thích hợp với tâm. Nó phải là thực phẩm cho tinh thần, nuôi dưỡng
tinh thần, chẳng khác chi bốn nhu yếu kia đã
bồi dưỡng cho cơ thể. (...)
Thông thường, với đa số các người thế tục,
cho đến mức mà tôi còn có thể nói đến
được, đều xem nhu yếu thứ năm nầy như là một vấn
đề về tình dục (sex). Xin hãy
tìm thấy cho rõ sự khác biệt. Tình dục là một loại sự việc có thể làm tiêu
khiển (entertain) tâm trí, nhưng giờ
đây chúng ta đang sẵn sàng lấy Pháp (Dhamma) làm thú tiêu
khiển tinh thần. Điều đó có nghĩa là
chúng đang dùng sự thích nghi
để thỏa mãn tinh thần chúng ta. Một
khi chúng ta ý thức được sự đứng đắn, và
thoả mãn với sự đứng đắn nầy, một khi chúng
ta cảm thấy thích hợp và bằng lòng, thì tâm trí
đã được đùa
vui và tiêu khiển rồi. Cái cảm giác đứng đắn
và bằng lòng đó, đâu có dính dáng gì
với tình dục.
Ngôi nhà phía sau lưng chúng ta đây được
mệnh danh là "Sân khấu của thú tiêu khiển tinh thần". Nó
được xây dựng lên
để làm thú tiêu khiển cho tâm trí. Nó
được trang hoàng với thật nhiều hình
ảnh để giảng dạy Chánh Pháp (Dhamma)
cũng như để giúp vui và giải trí.
Đấy là một hình thức của nhu yếu thứ năm.
Xin các bạn hãy tìm hiểu về loại paccaya, nhu yếu thứ năm
nầy, vốn có liên hệ nhứt với Chánh Pháp, chớ
đâu phải với tình dục. Xin bạn
đừng chạy theo số đông để phải quên
rằng tình dục bị chẹn giữa các khó khăn phức
tạp đến bất tận, và cứ đeo níu vào
tình dục như là một nhu yếu thứ năm.
Nói tóm lại, chúng tôi thỉnh cầu các bạn hãy
điều chỉnh lối sống lại, sao cho phù
hợp với sự nghiên cứu và thực tập quán tưởng về tâm (citta bhàvanà).
Rồi ra, các bạn sẽ thấy việc thực tập được
tiện lợi và thành công dễ dàng. Và các bạn sẽ khám phá ra
được "Lối Sống Mới" vượt qua khỏi ảnh hưởng
của các chủ nghĩa tích cực và tiêu cực. Về chi tiết xin hãy
đợi một thời gian sau, vì vấn
đề rất tế nhị, và vì Lối Sống Mới siêu
việt cả mọi vấn đề khó khăn và mọi
hình thức của sự Khổ sở (dukkha). Đó là
lối sống tự do, tự tại, giải thoát, và giải phóng, bởi vì chúng ta
đang thực tập Chánh Pháp với sự nâng đỡ và
yểm trợ của tất cả năm loại nhu yếu. Xin nhớ,
bạn hãy làm sao cho năm loại nhu yếu
nầy trở nên thật đứng đắn và
thích nghi.
Phụ lục 2: Thế nào là Giác Niệm về hơi thở?
(Trích đoạn bài Pháp
thoại ngày 05-04-1987)
Trước nhứt, xin biết cho rằng có rất nhiều hệ thống và phương pháp về
Vipassanà, Minh sát (sự quán tưởng để
nhận thức được vô thường, khổ sở và vô ngã) dưới các danh xưng khác
nhau. Tuy nhiên, trong tất cả loại đó, chúng
tôi chuộng nhứt một hệ thống gọi là Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Đây là một hệ thống
đào luyện tinh thần (quán tưởng)
được chính Đức Phật khuyến khích thực tập. Ngày
nay, có nhiều đạo sư nầy, thiền sư nọ, về
Minh sát, ở khắp mọi nơi; nào là hệ thống Miến
điện, hệ thống Tích lan, hệ thống Thái lan,
đủ cả. Chúng tôi chẳng được hiểu rõ hết tất cả các hệ thống
đó, mà chỉ lưu tâm
đến Giác Niệm về Hơi thở thôi. Ta có thể nói
Giác Niệm về Hơi thở là một hệ thống của Phật. Nó chẳng phải là một
hệ thống riêng biệt gì của Suan Mokkh; đúng
ra, Suan Mokkh đã đem hệ thống đó ra
thực tập rồi giảng dạy và truyền lại cho các người khác.
Vậy xin ân cần giới thiệu với các bạn hệ thống Giác Niệm về Hơi thở,
đang được xử dụng tại (thiền viện) Suan
Mokkh.
Ngay cả trong phương pháp thực tập được
gọi là Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) cũng có nhiều hình
thức giản lược khác nhau, ngắn gọn, dễ dàng và chẳng
đầy đủ. Có nhiều thứ khác nhau, nhưng chúng
tôi đã chọn một hình thức đầy đủ. Vì
thế, nó có thể xem như dài và lắm chi tiết, nhưng lại thích hợp với những
gì đầy đủ, như trường hợp hình thức
Mười sáu bước thực tập của Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Vài người lắc đầu cho đó là quá dài,
quá nhiều, hoặc quá rườm rà chi tiết, quá mức cần dùng của họ.
Điều đó cũng đúng, nó có thể có phần dư thừa
đối với vài người. Nhưng với những ai muốn nghiên cứu và tập luyện
cho hoàn toàn, thì nó cũng vừa vặn đủ thích
hợp với họ. Nếu muốn có được một kỹ thuật thật trọn vẹn, ta phải học cả
mười sáu bước. Đây là
một đòi hỏi của Thiên nhiên. Nếu lưu
tâm đến sự toàn vẹn, thì ta cần phải
bền chí để tập luyện và thực hành Giác
Niệm về Hơi thở trong hình thức đầy đủ của
nó. Và hình thức đầy đủ thì cần
phải theo đủ mười sáu bước.
Niệm xứ chính là Giác Niệm về Hơi thở.
(Satipatthanà là Anàpànasati).
Một vấn đề thông thường khác nữa là,
có vài người cứ bám níu và bị kẹt cứng một cách quá
đáng vào danh từ Satipatthàna (Niệm
xứ, bốn cơ sở (= xứ) của giác niệm, hay là bốn lãnh vực của sự tỉnh
thức). Vài kẻ lại còn đi xa hơn và cho
rằng Giác Niệm về Hơi thở chẳng dính dáng gì với bốn niệm xứ (= bốn
lãnh vực của giác niêm, hay của sự tỉnh thức). Vài người lại bác bỏ thẳng
thừng Giác Niệm về Hơi thở. Tại một vài nơi, người ta
đeo dính chặt vào danh từ
Satipatthàna, Niệm xứ, thật ra đó chỉ là
một bản liệt kê dài thậm thượt về các danh xưng, các pháp môn. Mặc dầu nơi
đó có rất nhiều pháp môn, nhưng chẳng hề có
nổi một đường hướng nào để thực tập, đã
được giải nghĩa rõ ra cả. Chữ
Satipatthàna, Niệm xứ, thường được hiểu
theo ý nghĩa như vậy đó. Thế rồi người ta tu chỉnh lại, sắp xếp lại vào
các cách thực tập như vầy, như kia, để gọi
các "hệ thống mới" đó là quán tưởng về Niệm xứ, là
Satipatthàna. Những kẻ tu tập theo các kỹ thuật
đó lại phủ nhận và khinh bỉ ngay cả
đường lối của Giác Niệm về Hơi thở, bảo rằng
đó chẳng phải là Niệm xứ, Satipatthàna. Thật ra, Giác Niệm
về Hơi thở (Ànàpànasati) chính là tinh túy của Niệm xứ, là
trái tim của Satipatthàna, là cốt lõi của cả bốn lãnh vực của Giác
Niệm, của sự tỉnh thức. Mười sáu bước của Pháp Giác Niệm về Hơi thở
là sự thực tập rõ ràng và trực diện, chớ chẳng phải là một bản liệt kê các
danh xưng hay các pháp môn như trong bản Kinh
Đại Niệm Xứ (Trường Bộ Kinh, Kinh số 22) (Mahàsatipatthanà
Sutta, Digha Nikaya, 22). Vì thế, chúng ta
đừng để mình rơi vào sự hiểu lầm rằng
Giác Niệm về Hơi thở (Ánàpànasati) chẳng phải là Niệm Xứ (Satipatthàna);
bằng không chúng ta sẽ mất hết cả hứng thú khi nghĩ rằng pháp
đó sai lầm. Bất hạnh thay sự hiểu lầm vẫn còn
phổ biến. Xin được phép nhấn mạnh lần nữa,
Giác Niệm về Hơi thở chính là tinh hoa của bốn lãnh vực của giác
niệm, tức là trái tim của Tứ Niệm xứ, dưới một thể dạng có thể
đem ra thực hành ngay
được.
Chúng tôi đã dành khá nhiều thời
giờ để cứu xét các danh từ
Satipatthàna, Niệm xứ và Ànàpànasati, Giác Niệm về Hơi thở,
cũng chỉ vì muốn phá bỏ các sự hiểu lầm có thể
đưa đến các thái độ quá hẹp hòi
đối với lối thực tập của người khác. Vậy xin
cứ hiểu cho rằng, dầu nói đến Niệm xứ (Satipatthàna) hay là
Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) thì cũng chỉ có bốn lãnh vực
quan trọng là: thân (kàya), cảm thọ (vedanà),
tâm (citta) và Pháp (Dhamma) mà thôi. Tuy
nhiên trong Kinh Đại Niệm Xứ (Mahàsatipatthàna
Sutta) chẳng thấy có lời giải thích về cách thực tập như thế nào bốn
lãnh vực đó. Kinh nầy chỉ đưa ra các danh
xưng về pháp môn và khai triển chúng ra thôi. Thí dụ như, vấn
đề thân (kàya) chỉ nói
rộng đến sự quán tưởng về niệm (sati
sampajannà) về các hoạt động thường ngày,
về các tư thế (oai nghi) và các điều khác,
nhiều đến mức khó nhớ cho hết được. Kinh chỉ liệt kê các nhóm sự
vật (dhamma) có liên quan đến bốn lãnh
vực đang được cứu xét.
Mặt khác, Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
đã chỉ thật rõ ràng làm thế nào
để thực tập bốn lãnh vực
đó theo một tiến trình tiệm tiến
để rồi chấm dứt vào sự giải thoát ra
khỏi mọi Khổ sở (dukkha). Mười sáu bước thực tập tác
động lên bốn lãnh vực, mỗi lãnh vực
làm phát triển lãnh vực trước và yểm trợ cho lãnh vực sau. Khi thực tập
đầy đủ mười sáu bước, thì tinh
hoa của Niệm Xứ (Satipatthàna) sẽ khởi lên một cách hoàn mãn. Tóm
lại, Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna Sutta) chỉ là một bản liệt kê
các danh xưng; còn Kinh Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati Sutta) có
chỉ dạy cách thức thực tập bốn lãnh vực của Niệm xứ, chẳng có chi là dư
thừa, hay thêm thắt nào cả. Kinh nầy chẳng hề nêu lên một vấn
đề mà chẳng có liên hệ
đến.
Thể dạng cô đọng .
Nếu vài người cảm thấy mười sáu bước thực tập quá nhiều, thì
cũng được đi. Có thể cô đọng mười
sáu bước đó lại thành hai
bước thôi:
1- Bước thứ nhứt -- huấn luyện tâm (citta) cho
đến mức thuần thục tập trung được vào
định lực một cách thích nghi.
2- Bước thứ hai -- với định lực
(samàdhi) đó, liền nhẹ nhàng
bước nhảy qua sự quán tưởng về vô thường (aniccam), khổ
sở (dukkham) và vô ngã (anattà) ngay.
Chỉ có hai bước đó, được thực tập
với mọi hơi thở vào và mọi hơi thở ra, nên cũng gọi là Giác Niệm về
Hơi thở nữa. Nếu bạn chẳng thích mười sáu bước thực tập hoặc nghĩ
rằng chúng quá lý thuyết, hoặc quá nhiều để
học tập, hoặc có lắm chi tiết, thì bạn cứ tập thử hai bước
vừa nói đó. Hãy giữ tâm (citta)
tập trung vào định lực bằng cách quán sát hơi
thở. Khi bạn cảm thấy định lực đã khá
đầy đủ rồi, thì hãy quan sát
đến các sự vật mà bạn
đã có kinh nghiệm và
đã biết rõ,
để bạn có thể nhận thức ra rằng chúng đều là
vô thường đến mức nào, bất
toại nguyện đến độ nào, và vô
ngã đến cấp nào, chẳng có linh hồn
như thế nào. Cũng chỉ có bấy nhiêu đó cũng là
đã đủ để
đạt đến kết quả -- tức là, từ bỏ hết, buông bỏ hết, chẳng còn bám
níu chút nào nữa hết! Và sau cùng, ghi nhận sự chấm dứt của lậu hoặc (kilesa,
phiền não) và sự tận diệt của chấp thủ (= bám níu), khi vô thường,
khổ sở và vô ngã (aniccam dukkham anattà)
đã được
trông thấy ra thật là rõ ràng rồi. Vậy, bạn cứ dùng
đến thể dạng cô đọng trong hai bước
nầy, nếu bạn có ý muốn làm như vậy.
Tuy nhiên, chúng tôi muốn bạn hiểu rõ về hệ thống thực tập
đầy đủ. Vì lẽ
đó chúng tôi nói đến mười sáu bước
thực tập. Một khi bạn đã hiểu rõ
tất cả mười sáu bước đó
thật đầy đủ, thì các bạn có thể tự
mình rút gọn chúng lại. Cứ việc giảm bớt đi,
cho đến khi nào bạn được thoả mãn
đầy đủ để thực tập Pháp đó một cách thật là
tự tín. Bạn có thể thực tập tóm lược thành hai, hay năm
bước, hoặc cách nào mà bạn thấy thích hợp với bạn.
Đấy là
đường lối mà chúng tôi giải thích Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
tại đây. Chúng tôi sẽ giải thích nó một cách
trọn vẹn; rồi tùy ý bạn muốn rút ngắn lại như thế nào mà bạn thích.
Do đó, chúng ta sẽ nghiên cứu và
giải thích trọn vẹn Mười sáu bướcthực tập thật
đầy đủ, vì
đường lối nầy sẽ phát hiện được các bí ẩn của
Thiên nhiên qua một phương pháp có đủ
các đặc tánh khoa học. Đây là một khoa học mà
đối tượng là sự hiểu biết một cách tự
nhiên về các sự vật được gọi là
thân (kàya), cảm thọ (vedanà), tâm (citta)
và Pháp (Dhamma), theo một
đường lối tốt nhứt và đầy đủ nhứt, xuyên
qua viễn tượng và phương cách khảo sát của một khoa học thiên nhiên.
Đây là một phương pháp khoa học có thể
điều chỉnh được bốn việc. Trước nhứt hễ nghiên
cứu tất cả mười sáu bước rồi, bạn có thể lược bỏ bớt lại theo ý bạn
muốn. Hãy chọn bước nào mà bạn thấy cần. Chỉ thực tập hai, hoặc ba
bước, nếu bạn muốn. Và chỉ giữ kỹ lại hai, hoặc năm
bước tùy theo ý thích. Nhưng giờ dây, xin bạn cho phép tôi
được giải thích đầy đủ trọn vẹn
mười sáu bước thực tập.
Quán tưỏng về Thân (Kàya nupassanà).
Mười sáu bước thực tập được chia ra làm
bốn bộ bốn (four tetrads), tương ứng với bốn niệm xứ, tức là
bốn đối tượng căn bản của việc nghiên
cứu. Giờ đây, chúng ta sẽ bàn luận
đến bộ bốn về thân, tức
là sự quán tưởng về thân (kàya nupssanà). Trong bộ bốn
nầy, việc đầu tiên bạn phải nghiên
cứu và hiểu rõ, là hơi thở. Hiểu biết tất cả các loại hơi thở, các tánh
chất, đặc điểm và ảnh hưởng của chúng.
Hãy tìm biết mọi khía cạnh, mọi phương diện của một hơi thở
đứng đắn. Nói cho gọn lại là bạn phải
có được một pràna
đứng đắn. Pràna là một iếng
Phạn; tương đương với chữ Pàna
trong tiếng Pali. Thông thường, chữ ấy có nghĩa là "sự sống", hoặc là
"sanh lực", hoặc là "cái điều gì
đang bảo tồn và dưỡng dục sự sống".
Chúng ta cần phải có điều đó thật đứng đắn.
Chúng ta cần phải có pràna lành mạnh và
đứng đắn. Rồi thì
đời ta mới được an hoà. Vì lẽ
đó, cho nên ta phải nghiên cứu kỹ
lưỡng về đề mục hơi thở nầy.
Ở Ấn độ, mỗi trường phái du già
(yoga) -- và có đến cả chục trường
phái du già như thế -- đều có riêng
một lối huấn luyện liên quan đến
pràna, chẳng kể bất cứ trường phái nào. Các lối huấn luyện
đó được gọi là prànayàma, có
nghĩa là "sự kiểm soát về pràna", hoặc là "sự kiểm soát về hơi
thở". Có khả năng kiểm soát được hơi thở có
nghĩa là có khả năng kiểm soát được
đời sống. Khi pràna đi vào,
nó được gọi là àna; khi nó trở
ra, thì được gọi là apàna.
Hiệp hai chữ lại, ta có ànàpàna, tức là, pràna vào (nhập
tức= hơi thở vào) và pràna ra (xuất tức= hơi thở ra). Có
khả năng để kiểm soát pràna là
có khả năng kiểm soát được sự vật đi vào
để bảo tồn sự sống. Rồi thì ta mới có
được đời sống tươi mát và hân hoan,
sẵn sàng và thích ứng cho việc huấn luyện và thực tập. Sự huấn luyện
pràna như thế cũng được tìm thấy
trong nền Phật học. Bạn sẽ thấy rằng sự huấn luyện pràna (Prànayàma)
đã được
lấy ra làm đề mục thứ nhứt của Pháp
Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Điều đó chẳng có gì là chống
đối chút nào với các nguyên tắc của
chúng ta. Thật ra, Pháp Giác Niệm về Hơi thở vẫn
đứng vững trước bất cứ hệ thống trường phái
du già nào. Hơn thế nữa, Pháp Giác Niệm về Hơi thở còn cải tiến cả
các hệ thống trường phái đó. Với kỹ thuật
quán tưởng về thân (kàya nupassanà), chúng ta xử dụng
đến sự huấn luyện pràna (Prànayàma)
của tất cả các trường phái du già của Ấn độ,
cải tiến chúng, phát triển thêm cho hoàn hảo,
để trở thành một hình thức huấn luyện
về pràna (Prànayàma) thích ứng nhứt, và thực tiễn nhứt.
Đó chính là sự quán tưởng về thân
(Kàyanupassanà), đề mục thứ nhứt
của việc chúng ta đang nghiên cứu.
Nếu chúng ta chỉnh đốn cái thân
pràna (thân hơi, tức là hơi thở vào và ra) cho
được hoàn mỹ, khiến nó trở nên tốt
đẹp, lành mạnh và yên tĩnh, thì nó sẽ
làm cho tấm thân thể chất nầy cũng trở nên tốt
đẹp, lành mạnh và yên tĩnh. Cái
thân hơi đó có đủ khả năng tạo nên
mối an hoà to lớn và yên tĩnh cho cuộc đời
nầy. Đó là lý do tại sao ta cần phải nên hiểu rõ cả hai thân
(kàya): tấm thân bằng xương thịt và tấm thân hơi (hơi
thở). Thế rồi chúng ta sẽ khiến chúng trở nên tốt
đẹp cho đến khi nào thấy có
được sự hoàn mỹ, sự an hoà và sự an
tĩnh. Chữ "tốt đẹp" ở đây có nghĩa là
"thích nghi và phù hợp để được xử dụng trong
việc hoàn tất các công tác và nhiệm vụ."
Đề mục cuối cùng của bộ bốn thứ nhứt là sự an
định thân hành, tức là làm cho
vật bảo mạng của thân (tức là pràna, thân hơi)
được trở nên an hoà và yên tĩnh. Làm
được như thế, thì sự an tĩnh sẽ khởi
lên nơi tấm thân thể chất. Tâm (citta) cũng cảm
được sự an tĩnh đó và nó cũng trở nên
an tĩnh theo. Nhờ đó mà tâm mới
sẵn sàng hoàn tất được các nhiệm vụ của nó
sau nầy. Đề mục về thân, giản dị cũng chỉ có thế. Nếu bạn
chẳng muốn biết đến chừng ấy, thì cũng
tùy ý bạn, nhưng sự kiện thực tế đều đúng là
như vậy; bạn đâu mất đồng xu nhỏ nào
để hiểu đến chúng. Bạn càng hiểu rõ
chúng chừng nào thì sự thực tập càng mang lợi lạc nhiều
đến cho bạn chừng ấy. Rồi có thể là
bạn sẽ được hưởng thọ về cuộc đời nầy đến mức
tối đa. Vì lẽ đó mà ta phải bắt
đầu học tập về thân (kàya)
như là bộ bốn thứ nhứt của mười sáu bước thực tập.
Xin bạn hãy nghiên cứu kỹ lưỡng sự thật thiên nhiên sâu xa nầy: thân
hơi (pràna) là tác viên gây
điều kiện ảnh hưởng (conditioner)
đến tấm thân thể chất. Bạn phải biết rõ
có hai thân (kàya), hoặc là hai giai tầng của thân (Kàya).
Mọi người đều biết rõ giai tầng thứ
nhứt tức là tấm thân thể chất, và chẳng hiểu chi nhiều về giai tầng thứ
hai, tức là thân hơi (pràna). Vì thế, việc tìm hiểu
rõ về thân hơi là việc rất quan trọng, bởi vì nó
đưa tới việc có được một tác viên gây
ảnh hưởng tốt cho tấm thân vật chất. Ở Ấn độ,
việc huấn luyện pràna (prànayàma, sự huấn
luyện hơi thở) được xem như là một
đề mục cao nhứt và cần thiết nhứt
để nghiên cứu. Mặc dầu các lời giải
thích của các trường phái có khác nhau, và mỗi trường phái có lối cắt
nghĩa riêng, nhưng sau cùng, tất cả đều cô
đọng lại ở điểm nầy: điều chỉnh hơi thở (pràna) như
thế nào để cho nó gây ảnh hưởng tốt đến tấm
thân vật chất theo ý ta mong muốn. Bạn nên học tập và huấn luyện
hơi thở cho khéo để có thể dùng
được nó mà
điều kiện hoá tấm thân thể chất. Chúng ta đâu
thể nào trực tiếp điều chỉnh tấm thân
thể chất được, nhưng chúng ta vẫn có thể điều chỉnh nó một cách gián tiếp.
Ta học hỏi về thân hơi (pràna) và thực tập
cách điều chỉnh nó. Có đủ khả năng để điều
chỉnh thân hơi cũng tương đồng
với việc điều chỉnh tấm thân thể chất, như ý ta cần đến, tức là,
làm cho tấm thân xương thịt trở nên an hoà và yên tịnh.
Chúng ta gắng phát triển sự hiểu biết cho
đến khi nào chúng ta có đủ khả năng để
điều chỉnh được thân hơi (pràna). Rồi chúng ta dàn
xếp thế nào để có được một tấm thân thể chất
tốt đẹp, lành mạnh, sẵn sàng hỗ trợ cho tâm (citta)
đi vào
định lực. Như thế, cả hai thân và tâm
đều được chuẩn bị để thực hiện các nhiệm vụ
riêng của chúng. Đấy là tất cả
những gì bộ bốn thứ nhứt đang bàn
đến. Nó có đủ các đặc điểm, mục tiêu
và đường lối thực tập như thế đó. Xin bạn hãy
cứu xét đến nó cho cẩn thận. Có cần thiết làm
như vậy không? Có đáng công sức hay thời giờ
để nghiên cứu và thực tập như thế không? Nếu bạn thấy rõ
đó là
điều tốt nhứt mà ta có thể làm, rằng
đó đáng cho ta bỏ công ra để cố gắng, thì bạn nên dấn thân trọn vẹn
vào việc nghiên cứu và thực tập nầy cho đến
ngày thành công viên mãn. Đó là
cách làm cho có được điều tốt đẹp nhứt về sự
huấn luyện hơi thở -- prànayàma của Phật học -- xuyên qua sự
thực tập về quán tưởng minh sát (Vipassanà bhàvanà)(=sự
đào luyện về tỉnh thức, hay là sự trực
nhận).
Quán tưởng về các Cảm thọ (Vedanà nupassanà)
Giờ đây, chúng ta đến với sự quán tưởng
các cảm thọ (Vedanà nupassanà). Chúng ta cần phải nên biết
về qui chế các cảm thọ là có ma lực, xấu ác. Thật khó kiếm
được chữ để mô tả chúng cho đầy đủ. Cảm thọ
thì xấu ác, là bọn ma quái gây nên sự tổn hại, hết sức thấp hèn,
những tên đểu cáng đã gây ra các khủng
hoảng trong đời ta. Chúng ta làm nô lệ
cho các cảm thọ. Mọi người đều làm
việc cực nhọc chỉ vì để có được đồng tiền
cung phụng cho các lạc thọ (sukha vedanà, các cảm
giác thích thú) Các cảm thọ đó là chủ
nhân ông của chúng ta. Chúng là bọn ma quái xấu ác luôn luôn làm cho ta
lầm lộn, tạo những khó khăn cho ta, và
làm cho đời ta thêm rắc rối, vất vả.
Ta cần phải biết rõ các cảm tho (vedanà); vì thế, ta chọn
các cảm thọ làm đề tài học tập thứ hai
của Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Phải chăng các bạn đã rời Âu châu,
Mỹ châu, hay bất cứ nơi nào mà bạn cư trú, để
đến đây, ở Suan Mokkh nầy, hầu tìm ra một thứ lạc thọ (sukha
vedanà)? Có đúng vậy không? Ngay cả khi còn
ở Âu Mỹ, các bạn đã làm việc cũng chỉ
là để trưởng dưỡng các lạc thọ
(sukha vedanà). Nay, các bạn đến Suan
Mokkh nầy là để tìm những
điều kiện thuận tiện, hay những phương tiện nào
để có cho được lạc thọ. Chúng
ta là nô lệ cho các cảm thọ, nhứt là các lạc thọ, vào tất cả mọi thời. Giờ
đây là lúc nên tìm cách hiểu biết cho
thật rõ ràng về các cảm thọ để có thể kiểm
soát được chúng.
Trong một vài văn kinh của hệ Pali, chữ
vedanà, cảm thọ, được mô tả như
là những tâm hành (citta sanhkhàra), (the
conditioners of the mind, tức là, những yếu tố tạo nên
điều kiện gây ra ảnh hưởng đến Tâm). Tâm, ở
đây, là những gì khởi lên từ các tư tưởng, ham muốn và nhu yếu. Ta
đâu có thể nào chịu
đựng mãi ảnh hưởng của các cảm thọ,
chúng ta cần phải suy nghĩ lại, tại sao phải hành
động dưới quyền lực của cảm thọ, hay theo ý
nghĩa của các cảm thọ. Chúng ta còn chưa có
được tự do bên trong chúng ta, chúng
ta còn bị rơi vào quyền lực của các cảm thọ. Cảm thọ thúc
đẩy chúng ta phải hành
động. Chúng ép buộc tâm, điều kiện hoá tâm (=
gây ảnh hưởng đến tâm) phải suy nghĩ và hành
động theo đúng quyền lực của chúng.
Nếu chúng ta làm chủ được cái cảm thọ cao
cả nhứt, tuyệt đỉnh nhứt, thì rồi chúng ta cũng có thể làm chủ các
cảm thọ thấp hơn, thô thiển hơn, nhỏ bé hơn. Khi
đã kiểm soát
được việc khó khăn nhứt rồi, thì việc
kiểm soát các cảm thọ nhỏ, giản dị, ấu trĩ, cũng dễ dàng thôi. Vì lẽ
đó, ta nên cố gắng
đạt đến một giai tầng cao cấp nhứt trong các
cảm thọ, tức là, các cảm thọ khởi phát từ
định lực (samadhi). Rồi các bạn
hãy lấy các cảm thọ cao đó làm thành
một bài học, để có thể chinh phục được chúng.
Một khi ta đã chinh phục được các cảm
thọ cao đó rồi thì chúng ta cũng chiến thắng
được luôn tất cả các cảm thọ khác. Bạn có
muốn thấy cần tập thử một lần xem ra sao chăng? Bạn sẽ phải chịu đựng
những khó khăn nào sắp khởi lên? Bạn có nên
đầu tư thời giờ quí báu của bạn vào
việc thực tập nầy chăng? Xin bạn hãy
bình tâm nghĩ lại cho chín chắn.
Có thể bạn thấy thật là "ngộ nghĩnh" khi bạn phải cố gắng chinh phục
cho được các cảm thọ cao quí đó, rồi thay vì
hưởng thọ, thưởng thức, thích thú nếm lấy hương vị của chúng, thì bạn lại
phải kiểm soát chúng, giết chúng, và tận diệt chúng
đi. Có lẽ vài bạn thấy như thế là buồn
cười! Có người lại tưởng đó chỉ một câu
chuyện khôi hài, cố tìm cho được một
cảm thọ thật cao quí rồi chỉ để kiểm soát được nó và
để giết tiêu nó luôn
đi! Xin các bạn hãy thận trọng suy
nghĩ lại cho kỹ và cho chín chắn về điểm nầy.
Bù lại việc giết chết một cảm thọ thật cao quí
đó, chúng ta sẽ thủ đắc được một cái gì
còn cao cả hơn, hoàn mỹ hơn, hơn cả cái cảm thọ cao quí trước
đó. Chúng ta sẽ được một thứ cảm thọ đặc
biệt, ở một giai tầng cao xa hơn, cho đến nổi ta chẳng thể gọi đó là
một cảm thọ nữa, mà là một chút gì tựa như Niết-bàn (Nibbàna),
hay là sự giải thoát. Vậy bạn chớ nên xem
đó là một trò
đùa, hay một câu chuyện khôi hài, cái
công tác mà ta đã bỏ công ra
đi tìm kiếm và
để rồi lại giết chết hết đi các cảm thọ cao
quí đó.
Quán tưởng về Tâm (Citta nupassanà)
Bộ bốn thứ ba là sự quán tưởng về tâm (citta nupassanà). Mục
tiêu của bộ bốn nầy là tìm hiểu thật rõ các loại tâm và biết
được chúng ra như thế nào. Rồi chúng
ta sẽ huấn luyện tâm sao cho nó biết đi theo
con đường đứng đắn mà đáng lẽ lúc nào
nó cũng phải theo như thế. Ta thanh lọc tâm, gom tâm ý tập trung lại và
thúc đẩy tâm hoạt động. Ta khiến tâm trở nên
một loại tâm thích ứng và sẵn sàng để hoàn
tất các nhiệm vụ cao cả của nó. Tâm phải được
đặt trong tình trạng luôn luôn sẵn sàng
để thi hành các bổn phận còn lại của
nó, nhứt là việc tiêu trừ sự khổ sở (dukkha). Trong bộ bốn
nầy, chúng ta nghiên cứu về tâm cho đến lúc nào
ta có thể đặt nó dưới quyền kiểm soát của ta.
Rồi chúng ta sẽ xử dụng tâm ấy để thi hành nhiệm vụ kế tiếp còn cần
phải hoàn tất, cho đến khi chúng ta đạt tới
được một mức cao nhứt về bổn phận.
Quán tưởng về Pháp (Dhamma nupassanà)
Bộ bốn thứ tư là sự quán tưởng về Pháp (Dhamma nupassanà),
liên quan đến sự thông hiểu thấu suốt về tất
mọi sư vật mà chúng còn đang bị lệ
thuộc vào. Ý nghĩa của việc nầy rất quan trọng. Hiện giờ, chúng ta
cứ bám níu vào sự nầy, vật nọ, khiến chúng ta trở nên nô lệ của các sự vật
đó. Do đó, chúng ta cần phải tìm biết
sự thật về các sự vật để có thể chấm dứt tình
trạng lệ thuộc của chúng ta vào chúng. Đó là
ý nghĩa của việc quán tưởng các Pháp (Dhamma nupassanà). Hãy tìm
biết cho rõ ràng Sự thật về các sự vật mà chúng ta còn
đang bám níu vào. Phải biết rõ Sự thật
đó cho đến khi nào tâm biết buông bỏ
mọi bám níu (= cố chấp, chấp thủ), cho đến
khi mọi sự bám níu còn vướng lại đều
tan rả hết.
Trên đây là những
điều mà ta cần thông hiểu về sự quán
tưởng về Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati vipassanà), với mục
tiêu là loại bỏ tất cả mọi vấn đề khó khăn,
chỉ để cho mình khỏi bị thành một tên nô lệ cho bất cứ sự vật gì
trên cõi thế gian nầy nữa, và để cho mình
có thể sống một cuộc đời thanh lương và
an hoà đến mức tuyệt đỉnh. Ngay trong cõi
đời nầy, đã có sự thanh lương, và
đó là hoa quả của việc thực tập. Pháp
nầy chính là chiếc xe đưa ta đến sự thanh
lương của cuộc đời, một đời sống tươi mát; đấy chính là sự minh
sát (Vipassanà) được thực tập theo
đúng với các nguyên tắc của Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Phụ lục 3: Quán tưởng về Định lực trong Phật
giáo
(Trích đoạn bài
pháp thoại ngày 1987 05 05)
Có rất nhiều hình thức, thể dạng và hệ thống về sự Quán tưởng về
Định lực. (Samàdhi bhàvanà).
Hôm nay, tôi muốn bàn luận về sự quán tưởng về
Định lực (Samàdhi bhàvanà)
được Đức Phật giới thiệu và khuyến
khích. Đề tài nầy
được kết tập trong Tam Tạng Kinh điển, hệ
Pali (Tipitaka), dưới cả hai hình thức giản lược và chi tiết
về lời giải thích. Chúng tôi gọi đó là
sự Quán tưởng Định lực của Đức Phật.
Sự quán tưởng nầy chẳng phải là hệ thống của Miến
điện, hay của Trung Hoa, hoặc của Tích lan mà
ngày nay chúng ta thường quí chuộng. Nó cũng chẳng phải là hệ thống nào
của một vị Hoà thượng nầy, thiền sự nọ, đạo
sư kia mà lắm người thường bị dính chặt vào. Lại cũng chẳng phải là
hệ thống của Suan Mokkh hay của bất cứ tu viện nào. Nó chẳng hề giống với
bất cứ hình thức pháp môn mới mẻ nào của ngày nay. Trái lại,
đó là
đường lối chơn chánh mà Đức Phật đã
giảng dạy và khuyến khích tu tập theo. Ngài tuyên bố hình thức quán
tưởng về Định lực nầy chính là
đường lối mà Ngài
đã theo
để đạt đến sự Giác Ngộ Hoàn Toàn. Chúng tôi sẽ
đặc biệt nói riêng về hệ thống của sự
quán tưởng về Định lực
đó.
Đây là hệ thống quán tưởng về Định
lực được biết đến dưới danh xưng Ànàpànasati bhàvanà, hay
vắn tắt và giản dị hơn, là Ànàpànasati, Giác Niệm về Hơi thở. Tất
cả có cả thảy là mười sáu bước thực tập, hay là mười sáu
đề mục được đem ra thực tập. Dường như có vài
người chẳng thích và than phiền rằng có quá nhiều bước, quá nhiều
đề mục cho họ học tập. Về điểm nầy, tôi thấy
cần phải nhấn mạnh rằng, Đức Phật chẳng bao giờ giảng dạy những gì
nhiều hơn sự cần thiết, hoặc những gì còn chưa
đầy đủ. Tức là, mười sáu bước
của Giác Niệm về Hơi thở chẳng hề quá nhiều hoặc quá ít cả. Nếu bạn có
đủ kiên nhẫn
để thực tập cả mười sáu bước, bạn sẽ có được
một hệ thống trọn vẹn. Nếu bạn chẳng đủ sức để thực tập như thế, thì
vẫn còn có một thể dạng tóm lược cũng khá thích hợp cho những người còn
... lười.
Thể dạng rút gọn cho người thường.
(...) Chúng tôi xin chỉ lấy những gì vừa
đủ cho người thường, mà chúng tôi gọi
đó là "phương pháp được rút gọn". Cốt
lõi của phương pháp nầy là tâm tập trung vào
định lực một cách thích hợp, vừa đủ, mà
người thường có thể làm được, và rồi
dùng cái tâm tập trung đó để quán sát
vô thường khổ sở vô ngã -- ba đặc
tướng của muôn pháp (aniccam dukkham anattà) -- cho
đến khi nào nhận thức
được rõ ràng tánh không (sunnatà)
và như thị (tathatà). Với sự thực tập nầy, thường
nhơn cũng thâu nhận được như thường các lợi
lạc của định lực. Họ sẽ thâu hoạch
được kết quả đầy đủ về sự tận diệt Khổ sở (dukkha),
nhưng sẽ chẳng có các đức tánh đặc biệt cộng
thêm vào đó. Dầu sao thì các
đức tánh đặc biệt đó cũng chẳng cần thiết.
Vậy thì, bạn cứ tập trung tâm ý đi vào
định lực đủ để tiến lên việc quán sát
vô thường, khổ sở và vô ngã. Như thế, chỉ cần thực tập bộ bốn
thứ nhứt của Pháp Giác niệm về Hơi thở
đầy đủ, rồi thì thực tập tiếp đến
bộ bốn thứ tư, cũng đầy đủ nữa.
Và chỉ có thế mà thôi! "Đầy đủ" thì
chẳng phải là nhiều quá, mà cũng chẳng được
trọn vẹn đâu, nhưng cũng đã đủ tốt lắm
rồi. Đấy là thể dạng rút gọn dành cho thường nhơn.
Giờ đây, chúng ta xét đến việc thực tập
bộ bốn thứ nhứt. Hãy thở sao cho hơi thở thật tế nhị và
khiến cho toàn thân thể trở nên tế nhị, tức là, thanh lương và yên tĩnh.
Chỉ cần bấy nhiêu thôi đã
đủ cho tâm vừa đủ khéo léo để đi vào
quán tưởng minh sát (Vipassanà). Và rồi tâm
đạt đến giai tầng có thể quán tưởng về
vô thường, khổ sở và vô ngã (aniccam dukkham anattà); cả ba
đặc tướng nầy thường thể hiện qua mọi bộ
phận, cơ quan, thành phần trong cơ thể.
Đặc tướng vô thường, bất toại nguyện và
vô ngã của mọi cơ quan, bộ phận trong thân thể chúng ta -- vừa thể chất
lẫn tinh thần -- được quán sát cho đến khi nào
nhận thức ra được đặc tướng như thị
(tathatà). Khi đặc tướng
như thị đã
được nom thấy thật rõ, thì chúng ta
hết còn bị rơi dưới quyền lực của nhị nguyên (dualism) nữa. Như thế
cũng đã
đủ rồi. Đủ được chừng ấy cũng khiến ta vượt lên, càng ngày càng cao
hơn, để đi sâu vào các Pháp cho
đến khi nhận thức được điểm tuyệt cao. Đấy là
phương pháp giản lược cho thường nhơn; những ai còn sống trong gia
đình, cũng có
đủ khả năng để thực tập được chừng ấy.
Thể dạng hệ thống
đầy đủ của Đức Phật
Giờ đây chúng tôi xin nói đến hệ thống mà
chính Đức Phật đã thực tập và giải
thích. Đây là hệ thống
đầy đủ, hoàn toàn, khác với thể dạng
rút gọn; tức là hình thức có đầy đủ cả bốn
bộ bốn của Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati).
Xin bạn hãy kiên nhẫn để nghe. Bạn có thể có
đủ khả năng để hiểu được đôi chút và như thế cũng
đủ để đem lại lợi lạc cho bạn. Nếu chẳng may
bạn còn nghĩ rằng nó quá dài, hay dư thừa, thì chắc là bạn còn chưa
thực sự hiểu rõ được chi cả.
Chúng ta thở, và thở nhiều hơi thở khác nhau
để quán sát tìm hiểu mỗi loại hơi thở
thực sự đang tiếp diễn ra. Chúng ta cũng hiểu
rằng hơi thở hỗ trợ và phục dịch cho tấm thân vật chất.
Điều nầy đã
được biết rõ như thế, tự ngàn xưa,
ngay cả trước khi Phật giáo xuất hiện trên thế gian. Có thật nhiều phương
pháp huấn luyện hơi thở (prànayàma)
được thực tập trước thời Đức Phật. Khi Đức Phật thị hiện ra đời, Ngài
lấy sự huấn luyện hơi thở, prànayàma,
đem cải tiến lại để trở thành hệ thống quán tưởng Giác Niệm về Hơi
thở. Chúng ta điều chỉnh cuộc sống và
thân thể qua hơi thở. Do đó mà có bốn
bườc thực tập: (1) ý thức được hơi thở
dài, (2) ý thức được hơi thở ngắn, (3)
ý thức được hơi thở đã điều hoà
thân thể như thế nào, và (4) quán tưởng theo
đường lối nào mà hơi thở trở nên êm dịu,
để khiến cho thân thể được an tịnh. Đó là
bốn bước thực tập. Đâu có nhiều chi
lắm, phải không? Tại sao lại chẳng thử tập xem? Bạn hãy quán sát
cho thật tình và nghiên cứu cho chân xác theo một
đường lối khoa học. Rồi thì mọi việc
sẽ chẳng có khó khăn chi nữa cả.
Sự kiểm soát hơi thở (prànayàma) còn có nhiều lợi
điểm khác chẳng dính dáng với tôn giáo hay
Chánh Pháp (Dhamma). (...) Bạn có thể làm cho
đời bạn dài thêm ra hơn mức bình
thường, nhờ sự kiểm soát hơi thở. Hay là bạn có thể làm cho bạn chết, ngay
cả vào hôm nay nữa. Bạn có thể chết được ngay
vào bất cứ hơi thở nào bạn muốn, qua sự kiểm soát hơi thở. Bạn có
thể có được hơi thở tốt đẹp và lành
mạnh cùng với một thân thể tốt đẹp và
lành mạnh, qua sự kiểm soát hơi thở. Bạn có thể chơi thể thao, lái xe, làm
việc ở văn phòng, hay bất cứ việc gì
bạn muốn, nếu bạn có thể điều chỉnh hơi thở
của bạn, tức là pràna, theo
đúng đường lối phù hợp với các mục tiêu của bạn.
Chúng tôi muốn các bạn biết rõ rằng Giác Niệm Hơi thở còn có
đủ các lợi điểm bên lề
đó, ngoài phạm vi giáo lý và tôn giáo
ra.
Nhiệm vụ tối cao của chúng ta.
Bộ bốn chót bàn về Pháp (Dhamma), tức là Thiên nhiên và Chơn
Lý về Thiên nhiên. Khi tâm (citta)
đã chịu ở dưới sự kiểm soát rồi và có
được định lực (samadhi)
cần thiết, ta dùng tâm ấy để thực hiện
cái nhiệm vụ tối cao. Khi nói "tối cao", chúng tôi muốn nói đến nhiệm vụ
phải biết rõ, phải nhận thức rõ, Chơn Lý. Xuyên qua sự minh sát
(Vipassanà) bằng cách quán sát thật kỹ lưỡng với một
định tâm chúng ta sẽ nom thấy
rõ Chơn Lý của muôn sự vật. Chúng ta nhận thức
được mọi sự vật đều vô thường. Bất cứ việc gì
mà ta đang thể nghiệm đây cũng là vô
thường. Ngay cả những sự vật mà ta còn chưa ý thức
đến cũng vô thường nữa, nghĩa là, luôn
biến chuyển và thay đổi. Chỉ có một ngoại lệ
duy nhứt là Niết-bàn (Nibbàna), một thực thể chẳng hề
thay đổi. Như thế, chúng ta biết được sự
vô thường (aniccam) của muôn sự vật. Hơn thế nữa, sự
kiện về vô thường còn đè ép
chúng ta, và khiến cho chúng ta phải thể nghiệm sự Khổ sở (Dukkha).
Tình trạng khổ sở đó khó cho mọi người phải
chịu đựng mãi; chẳng có tự ngã nào, linh hồn nào chống cự lại
được. Đó là vô ngã (anattà).
Và như thế đó chúng ta nhận thức được
vô thường, khổ sở, vô ngã (aniccam dukkham anattà). Gọi
chung chúng lại, ta nói đó là tánh
không (sunnatà), tức là sự rỗng không của cái tự ngã. Kế
đó, nhận thức đến sự như thị (tathatà),
"như thế", "chỉ là như vậy đó’. Đó là
bước thứ nhứt của bộ bốn thứ tư. Nó
được gọi làquán tưởng về vô thường
(anicca nupassanà) Chỉ riêng một danh từ kép
đó cũng đủ bao trùm hết cả các sự nhận
thức về vô thường, khổ sở, vô ngã, tánh không, như thị! (aniccam
dukkham anattà sunnatà tathatà). Tất cả các
điều đó đều được gom chung lại vào một
bước, bởi vì tất cả đều là kết
quả trực tiếp của việc nhận thấy ra được sự
vô thường.
Tiếp tục thực tập, ta thấy rằng: "Ồ! một khi nhận thức
được vô thường (aniccam)
rồi thì sự bám níu (= chấp thủ) bắt đầu phai
nhạt dần, rồi từ từ tan rả từng miếng, từng miếng ra". Điều đó được gọi là
Viràga, sự vô chấp thủ, sự buông bỏ chẳng bám níu nữa. Nhận
thức được sự tan rả của việc bám níu khiến ta
thốt lên: Ồ! tiêu tán hết rồi! Sự bám chặt
đã "rã bèn" hết rồi!
Đó là sự
đoạn diệt (nirodhà): sự tuyệt diệt
đến tận gốc rễ của mọi lậu hoặc, phiền não
và khổ sở. Nếu sự khổ sở (dukkha) đã
thật sự chấm dứt, chúng ta liền biết rõ: "Ý a! Nay mọi việc
đều chấm dứt hết, mọi việc đều ngừng lại hết.
Nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn tất! Chẳng còn gì phải làm thêm nữa".
Chẳng còn sự khổ sở nào hay vấn đề khó
khăn nào sót lại nữa, còn cần phải dập tắt nữa cả.
Đấy được gọi là sự quẳng bỏ lại ra
phía sau (patinissagga), sự khước từ, sự từ bỏ tất cả. Chẳng
còn gì sót lại hết cả. Đấy là bộ
bốn cuối cùng, sự quán tưởng về Pháp (Dhamma nupassanà) có liên
quan đến Chơn Lý của muôn sự vật.
Chẳng có gì dư thừa cả.
Sau cùng, bạn có thể tự mình nhận thấy lấy, xem có việc gì là dư thừa
hay không. Chúng ta bắt đầu nghiên cứu
về sự Khổ sở (dukkha), và nguyên nhân
đã khiến sự Khổ sở khởi lên. Kế đó,
chúng ta nghiên cứu về những cơ sở nào
đã khiến cho sự Khổ sở nẩy nở thêm lên:
đó là thân (Kàya) và các
cảm thọ (Vedanà). Chúng ta tiếp tục nghiên cứu sự thể nghiệm
khổ sở, hoặc thể nghiệm sự vắng bóng của nỗi Khổ sở; nói cách khác, chúng
ta đã nghiên cứu tâm (citta),
cái tâm thể nghiệm sự Khổ sở và sự Chẳng khổ. Và sau chót, chúng ta nghiên
cứu Pháp (Dhamma), tức là Chơn Lý của muôn sự vật,
để khiến cho tâm biết, hiểu
biết, biết thật rõ ràng, cho đến khi nào
tâm ấy biết rằng chẳng còn gì bám níu (= chấp thủ) vào
đâu nữa cả. Biết buông bỏ tất cả!
Thật có rất nhiều việc cần phải làm. Để hoàn
tất nhiệm vụ đó, sự thực tập của chúng ta cần
phải thật đầy đủ. Vì lẽ đó mà
ta cần phải có đủ mười sáu bước
thực tập. Nhưng như tôi đã giải
thích với các bạn khi trình bày Pháp nầy, cũng chẳng có chút nào là quá
mức hay dự thừa cả. Thật ra, có rất nhiều đề
mục cần phải nghiên cứu để thấu hiểu
tường tận, nhưng chỉ nên biết rằng đó
chỉ có võn vẹn là mười sáu bước thực tập mà thôi, có chi là
quá nhiều đâu. Vài người nói, như thế
đó cũng đã nhiều rồi, và họ còn chưa
muốn nghiên cứu và thực tập đến. Nếu họ cứ
nghĩ Pháp nầy chẳng giúp đỡ gì cho họ, thì thôi vậy, cứ
để cho họ tự tìm lấy những gì thích
hợp với họ. Những ai chẳng muốn nghiên cứu và thực tập hình thức
đầy đủ của mưới sáu bước thực tập
nầy, thì họ vẫn còn có thể tập theo các thể dạng tóm lược
đã được bàn
đến ở phía trước. Đấy cũng khá đủ để có thể
thâu hoạch được các lợi lạc của Phật học xuyên qua kỹ thuật quán
tưởng về Định lực (samàdhi
bhàvanà).
Phụ lục 4: Phần Đúc kết của Tỳ kheo Santikaro
(Trích đoạn Phần Đúc Kết
của Tỳ kheo Santikaro,
người đã thông dịch từ tiếng Thái sang Anh ngữ.)
Hôm nay, tôi xin cố gắng ôn lại và thêm vào vài
điểm của Pháp sư Phật Lệ (Ajahn
Buddhadàsa) mà tôi nghĩ có lẽ các đạo hữu
người Tây phương có thể gặp khó khăn hay dễ lầm lẫn. Đây chỉ là
đôi điều gợi ý hay là vài mẹo vặt có
thể dùng để thiết lập sự thực tập Giác Niệm
về Hơi thở (Ànapànasati). Phần còn lại có liên quan
đến Chánh Kiến (Sammà ditthi).
Thái độ của chúng ta có đứng đắn, thì
việc thực tập Giác Niệm mới trở nên đứng đắn
để đưa đến sự dập tắt các Khổ sở (dukkha) qua sự chấm dứt
các chấp thủ (= các sự bám níu). Mặc dầu tôi chẳng phải là một thiền sư,
nhưng các chi tiết nầy cũng có thể giúp ích
được các bạn một cách thực tiễn.
Tiến triển tự nhiên và thực tập cố ý.
Tôi xin bắt đầu với một sự phân biệt
thường bị bỏ quên. Khi chúng ta nói Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati),
chúng ta cũng nói đến sự tiến triển tự nhiên
của tâm trí, của đời sống con người. Sự tiến
triển tự nhiên đó chẳng phải là
cùng một việc với sự thực tập quán tưởng, mặc dầu cả hai cùng khởi lên với
nhau và hỗ trợ cho nhau. Mười sáu bước của Giác Niệm về Hơi thở
được đặt trên căn
bản quán sát mười sáu đề mục (bao gồm cả hơi thở, nhưng chẳng giới hạn vào
hơi thở) trong khi chúng ta có ý thức về hơi thở vào và hơi thở ra. Trong
việc chúng ta nghiên cứu về đời sống, chúng
ta đặt tiêu điểm lên mười sáu
đề mục linh động đó. Cùng một lúc,
mười sáu đề mục đó khởi lên, một cách
tự nhiên, từ sự huấn luyện về tâm (citta bhàvanà). Tâm trí phải noi
theo một con đường tiến triển nào
đó, từ điểm tâm trí đang hiện diện để đi đến
điểm được gọi là "giác ngộ". Với tất cả chúng sanh, con
đường tiến triển đó giống nhau, một sự tiến
triển tự nhiên vừa là bổn phận vừa là
đặc quyền của tất cả chúng ta. Giác Niệm về Hơi thở chẳng phải là
sự tiến triển đó, đúng ra Giác Niệm về Hơi
thở là sự khảo sát và sự trưởng dưỡng của sự tiến triển tự nhiên
đó. Khi sự tiến triển đó khởi lên, và
nó đã bắt
đầu rồi, chúng ta dùng Giác Niệm về Hơi thở
để học tập và tìm hiểu về nó. Xuyên
qua sự thông hiểu đó (về sự tiến triển tự nhiên)
chúng ta có thể dùng Giác Niêm về Hơi thở để
hỗ trợ, trưởng dưỡng, và thúc đẩy sự
tiến triển đó tiến lên theo. Như thế, sự thực tập và các tiến bộ
thu hoạch đều liên hệ hỗ tương nhau,
và chẳng thể tách rời nhau ra, mặc dầu chúng chẳng phải là
đồng nhứt với nhau.
Người ta thường lầm lẫn hai điều vừa nói
đó. Ta thường nghe thốt lên: "Ồ! Tôi
đang ngất ngây, tôi đang có hỉ (pìti), tôi
đang được bằng lòng, thì tôi phải
đang ở bước thứ năm."
Sự lầm lẫn đó có thể xảy ra ở mọi
bước thực tập khác và vài người lại nghĩ rằng họ
đã có thể thi hành hết cả trong một
buổi ngồi tập ngắn ngủi. Cái cảm giác bằng lòng
đó, cũng như các đối tượng khác, sẽ khởi lên,
đến rồi đi, vào mọi thời, như là một
yếu tố của tiến trình tự nhiên đang tiếp
diễn. Tuy nhiên, trong bước thứ năm,
chúng ta mới bắt đầu làm
việc với hỉ (pìti) thật là vào
đúng lúc, vì sau khi thực tập xong đầy
đủ cả bốn bước (của bộ bốn thứ nhứt) thì hỉ
mới khởi hiện lên rõ ràng và vững vàng. Ngay cả khi thực tập bước thứ
nhứt, cảm giác bằng lòng cũng đã
khởi lên cùng với niềm vui (lạc, sukha). Thế thì
đâu có gì mà phải thích rộn lên như
thế. Chúng ta cũng lại có thể có ý thức về sự vô thường, ngay cả
trong bước thứ nhứt, nhưng đó còn
chưa phải là đã
đến với bước thứ mười ba, trừ
phi lúc ấy ta đang cố ý quán tưởng về sự
vô thường. (Trong trường hợp vô thường, nếu
đó là một chiếu kiến (insight)
nom thấy thật rõ ràng với Trí huệ, chớ chẳng phải chỉ là sự tự nhũ
thầm tưởng tượng ra như thế, thì cũng đáng
cho ta tiến lên ngay. Tuy nhiên, với mười hai bước
đầu tiên, tốt nhứt là nên tập từng
bước một, từ bước, mỗi bước một lần). Vào mỗi một lúc nào
đó, chúng ta có ý định chỉ thực tập một bước
đặc biệt nào đó, hoặc một đề mục đặc
biệt nào đó mà thôi. Còn các
đề mục khác được tạm thời gát cả qua một bên.
Nếu tâm trí có đi "ngao du", thì chỉ
nên ghi nhận việc đó, dứt bỏ nó đi, và
trở lại với đề mục hiện đang cứu xét cùng
với nhịp hơi thở vào và ra.
Có một sự khác biệt giữa những gì khởi lên tự nhiên và những gì chúng
ta đang thực tập một cách riêng biệt.
Để tóm lại, về phương diện tự nhiên
thì có đủ mười sáu bước, mười
sáu đề mục được khởi lên một cách tự
nhiên khi nào đầy đủ các điều kiện hiện có.
Về phương dện thực tiễn, chúng ta thực tập một cách có hệ thống về mười
sáu sự việc, từng đề mục một, mỗi cái một lần. Xin các bạn hãy hiểu
rõ điều nầy. Nó sẽ giúp các bạn biết chắc
được điều gì bạn đang cần phải làm
và thực tập cho có hiệu quả.
Còn một phương diện khác của sự tiến triển tự nhiên nữa,
đó là tâm trí tiến triển từ tình trạng
thô thiển sang một tình trạng tế nhị hơn về vui mừng. Khi chúng ta mới bắt
đầu quán tưởng, chúng ta hay lưu tâm đến một
tình trạng vui mừng còn thô thiển, thông thường là về nhục cảm và
tình dục. Qua sự quán tưởng, chúng ta gặp
được các giai tầng tinh tế hơn về vui mừng. Và với sự quán tưởng về
tâm (citta bhàvànà) càng tiến triển, chúng ta khám phá ra còn nhiều
giai tầng tế nhị hơn nữa về sự an lạc. Một khi chúng ta
đã học
được giai tầng càng ngày càng cao hơn về an lạc, thì cũng khá dễ
dàng để buông bỏ các tình trạng vui
mừng còn thô thiển đi. Như thế, trong việc
thực tập nầy, có sự tiến triển tự nhiên của tâm trí biết buông bỏ
các tình trạng thô thiển về vui mừng khi đã
khám phá ra niềm vui tốt đẹp hơn. Rồi đó tâm
sẽ bám vào niềm vui đẹp đó cho đến khi
nào nó thấy ra được một niềm vui khác
còn cao quí hơn nữa. Nó có thể buông bỏ những gì nay xem như là một
niềm vui còn thấp kém để hưởng thọ lấy một
niềm vui cao quí hơn. Điều nầy cứ thỉnh thoảng xảy ra cho đến khi chúng ta
hiểu được rằng niềm vui tối thượng chính là chẳng bám vào, hay
đắm say với, bất cứ hình thức vui mừng
nào cả.
Xin mỗi lần chỉ một bước thôi, và xin khởi sự ngay tại chỗ phải bắt
đầu.
Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) cần phải
được thực tập mỗi lần chỉ một bước thôi.
Chúng ta chỉ thêm rối trí hay lơ đãng
hơn, khi cố làm hai hay ba việc cùng một lúc. Chúng ta phải nên thoả mãn
với bước chúng ta đang thực tập và
quyết tâm thực tập nó cho thật đúng, dầu nó
kéo dài trong bao lâu đi nữa. Chúng ta
chẳng nên nhảy lòng vòng từ bước nầy sang bước nọ,
chỉ vì chúng ta thiếu sự yên tâm, hoặc chán nản, hoặc
đang có đầy ham muốn. Đừng để ý nghe theo khi
mình đang nghĩ: "Hôm nay, ta sẽ tập cả
mười sáu bước.", hoặc là "Mình hãy tập bộ bốn thứ nhứt
tuần nầy, tuần sau đến bộ bốn
thứ hai, rồi tuần sau nữa...", hoặc là "Mình hãy thử bắt
đầu tại bước thứ mười sáu, rồi
tập ngược lên." Cũng đừng giở sách ra đọc
lướt qua rồi chọn một bước nào mình thích nhứt
để thực tập. Chúng ta phải tập từng bước một,
bởi vì Pháp Giác Niệm Hơi thở đã
căn cứ vào sự tiến triển tự nhiên vừa
được mô tả ở trước.
Muốn thu hoạch được lợi lạc nhiều nhứt về
sự tiến triển tự nhiên đó, tốt nhứt là
chúng ta phải thực tập theo đúng theo Pháp
Giác Niệm về Hơi thở đã được Đức Phật
chỉ dạy.
Luôn luôn phải bắt đầu tại chỗ bắt đầu.
Mỗi buổi thực tập bắt đầu với sự thiết lập giác niệm (sati)
lên trên hơi thở và rồi liền thực tập ngay bước thứ nhứt. Sau khi
bạn đã thuần thục với bước một
rồi, sau khi bạn đã biết bước
ấy rất đầy đủ rồi và thực hành bước
ấy dễ dàng rồi, thì bạn mới sang bước thứ hai. Hãy thực tập
bước thứ hai cho đến khi nào bạn
trở nên thiện xảo với bước đó, và
đã học xong tất cả những gì bạn phải
biết về bước đó. Rồi bạn mới qua
bước thứ ba. Đừng để mình
phải rơi vào sự lầm lộn chút ít ở bước một, rồi lại chút ít ở
bước hai, rồi lại vài chỗ ở đây, vài
chỗ ở đó. Ta thường hay nóng lòng với
điểm ta đang đứng, và muốn sang ngay
đến chỗ nào khác. Biết tự kềm chế
chẳng nghe theo sự nóng lòng đó, sẽ đem lại
cho ta nhiều điều tốt. Vậy, bạn hãy thực tập từng bước một,
mỗi bước một lần, và nên đeo dính bước ấy cho
đến khi nào bạn trở nên thật thiện xảo với bước
đó mới thôi.
Mỗi buổi thực tập là một buổi hoàn toàn mới. Mỗi buổi ngồi hoặc
đi, hoặc buổi thực tập về gì khác nữa,
cũng là một buổi hoàn toàn mới. (Và thật ra, mỗi hơi thở cũng
đều là mới cả). Bởi thế cho nên, mỗi
buổi thực tập phải bắt đầu ngay tại
bước thứ nhứt. Ngay cả khi bạn vừa thực tập ở bước thứ ba,
hoặc bước thứ tư, vào ngày hôm qua, hay trước bữa
ăn sáng, (...) bạn cũng phải bắt đầu buổi hôm
nay ở bước thứ nhứt (...) Nếu bạn
đã thành công rồi với bước một,
giờ đây bạn cũng phải ôn nó lại, ngay tại lúc
khởi sự tập lại ở mỗi buổi, ôn lại cho đến khi nào mà sự hiểu biết
về bước một hiện ra tại đây và
ngay bây giờ, chớ chẳng phải chỉ là một sự hồi tưởng suông nhớ lại nó. Mỗi
bước phải được ôn lại như thế đó, để lấy làm
chắc là mình đã thiện xảo với nó ngay
bây giờ. Tùy vào các điều kiện hiện có --
phần lớn là điều kiện nội tại -- mỗi
buổi thực tập chẳng đi xa hơn mỗi một bước, và ở vài buổi
khác cũng chỉ đến mức đã tiến bộ chung
vừa qua.(...) Chẳng có chút mong cầu nào cả, ta cứ thực tập từng bước một,
nhận thấy rõ những gì đang xảy ra và
cố học hỏi cho được những gì ta có thể
học được.
Mọi sự việc chỉ giản dị là như thế thôi. MỗI bước tùy thuộc vào
các bước trước. Điều kiện thành
công của bước thứ năm là sự
hoàn tất từ bước thứ nhứt cho đến
bước thứ tư. Ta chỉ sẵn sàng bước sang bước thứ mười
khi nào ta đã xuyên suốt
được từ bước thứ nhứt
đến bưóc thứ chín, một cách
thành công. Một khi ta đã chịu chấp
nhận sự vật như chúng đang là như thế,
thì ta mớí ngưng lại việc mong cầu chúng phải như thế nầy hoặc phải như
thế kia. Nhờ biết chấp nhận mỗi bước theo tánh tự nhiên của nó mà
ta mới thực tập được đứng đắn, thông minh,
chẳng nôn nóng, chẳng chán ngấy, và chẳng bực bội.
Con đường trung đạo
về sự vô chấp thủ (= chẳng bám níu)
Ta cần phải luôn luôn ghi nhớ rằng đây là
sự thực tập và đào luyện tâm trí
để dứt bỏ sự chấp thủ, tức là sự bám
níu chặt chẽ. Đức Phật chỉ chỉ dạy con đường
Trung Đạo, và Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) cũng chỉ là
con đường Trung Đạo đó. Nó đâu phải là
sự thực tập ráo riết, nhưng cũng chẳng phải là chẳng cần một nỗ lực nào.
Nó cần được thi hành một cách quân
bình. Nó phải là sự thực tập về vô chấp thủ (= về sự chẳng còn bám
níu nữa), đâu phải là sự vứt bỏ hết
trơn trọi, mà cũng đâu phải là sự
đeo chặt một cách ích kỷ. Bạn phải thận trọng
khi ngồi xuống tập với ý nghĩ như vầy: "Tôi đang ngồi đây, tôi đang canh
chừng đây, tôi đang thở đây, tôi đang quán tưởng đây, tôi là như
thế nầy, cái đó chính là của tôi, hơi
thở của tôi, thân tôi, tâm tôi, cảm thọ của tôi, Tôi, của tôi, tôi, ...".
Xin hãy học kỹ cách gạt bỏ các cảm giác bám níu
đó và các ý tưởng về Tôi, về của tôi,
ra khỏi ngay đi. Hãy học kỹ cách giữ
yên cho thật quân bình với luồng hơi thở có ý thức (sati, giác
niệm).
Ta chẳng đeo chặt vào kỹ thuật ta
đang xử dụng, hoặc vào lý thuyết của
nó. Ta chẳng dùng nó để thu thập các việc
hiểu biết thế tục nhỏ nhặt về hơi thở, về chúng ta, hoặc về bất cứ sự việc
gì. Ta chẳng lạm dụng nó để mong được
chứng đắc. Đúng hơn, ta kính cẩn dùng nó
để phát triển các sự khéo léo chúng ta cần
có, để học hỏi về các sự vật mà ta cần phải biết rõ. Và
điều cần thiết duy nhứt chính là
để buông bỏ sự bám níu và dập tắt sự
khổ sở (dukkha).
Con đường Trung Đạo còn là một sự
thực tập về sự chơn chánh, đứng đắn, để được
trở nên toàn thiện trong lối sống của chúng ta. Trong khi thực tập
Giác Niệm về Hơi thở, ta đang sống một lối
sống chơn chánh. Ta chẳng gây tổn hại cho bất cứ sanh vật nào, cũng
chẳng làm hại mình, hại người. Sự thực tập nầy chẳng hề lạm dụng
đến ai cả. Khi ta đã an lập trong phép
thực tập nầy, ta trở nên quen thuộc với một lối sống
đứng đắn, quân bình, và chẳng bám níu.
Ta chẳng kẹt dính vào cực đoan nầy hay cực
đoan kia, hoặc lọt vào bất cứ cạm bẫy nào của nhị nguyên (dualism).
Mặc dầu Trí huệ có thể chỉ được phát triển
trong sự thực tập về quán tưởng (bhàvanà) một cách
chánh thức, nhưng ta cũng có thể đi tới Trí
huệ đó, và trau dồi nó qua sự quán tưởng còn chưa chánh thức, về
đời sống hàng ngày.
Đối với đa số chúng ta, sự bám níu (= chấp thủ) là một thói quen
rất lâu đời. Nếu chúng ta biết buông rơi nó
được ngay ... như thế nầy!, thì rồi chúng ta sẽ thành Phật ngay ...
như thế nầy! Nhưng phần đông chúng ta lại
phải cố công làm sao để buông bỏ hết
mọi bám níu của chúng ta và cái thói quen hay bám níu
đó nữa. Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
chính là đường lối để biết buông bỏ. Ta bắt
đầu bằng việc buông bỏ các bám níu thô thiển: bám níu vào thân thể,
vào sự đau đớn, khổ sở, bám níu vào sự
xao động và nôn nóng, vào sự chán ngấy
và lười biếng, bám níu vào những sự khuấy rối bên ngoài và cả những sự
phiền hà nhỏ nhặt nữa. Rồi ta lại thấy ta
đang bám níu vào những sự việc tế nhị hơn, như các lạc thọ chẳng
hạn. Một khi ta đã buông rơi
được chúng, ta lại bám níu vào cái gì
cao quí hơn, trong suốt hơn, chiếu sáng hơn, tức là vào tình trạng tỉnh
thức. Ta hãy buông bỏ chúng hết đi, ta sẽ bắt
đầu thấy được ánh sáng của thực tế và rồi lại cũng bám níu vào các
chiếu kiến (insights) đó nữa. Sau cùng,
ta mới học được sự buông bỏ tất cả. Bằng cách
đó, Giác Niệm về Hơi thở là một đường
lối có hệ thống đàng hoàng để ta buông
bỏ từ từ các hình thái tế nhị của sự bám níu mãi cho
đến khi nào chẳng còn một sự bám níu
(= chấp thủ) nào nữa cả.
Kiên nhẫn và tiến bộ.
Sau rốt, xin bạn cho tôi được nhắc đến
điều nầy: sự kiên nhẫn (khanti, nhẫn nhục) là một khí
cụ tinh thần hết sức cần thiết. Đức Phật có
nói trong Kinh Pháp Cú:
Khanti paramam tapo titikkhà
(Nhẫn nhục là khổ hạnh cao quí nhứt -- Kệ số 184).
Sự nhẫn nhục là sự đốt cháy tuyệt kỷ của
mọi phiền não. Đa số chúng ta thường
có thói quen tự phán xét và tự đo
lường mình theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau. Vài người có tánh cạnh
tranh, và so sánh mình với kẻ khác. Vài người lại tự thẩm lượng mình chiếu
theo các lý tưởng khác nhau của mình. Lắm người khi học hỏi về mười sáu
bước thực tập của Giác Niệm về Hơi thở tự
đánh giá mình dựa theo các bước
đó. Ta lại điền rồ nghĩ rằng: "Tôi nay là
một người đã khá tốt khi học xong
bước thứ tư, hơn là khi chỉ mới thực tập có bước một." Ta luôn
muốn mình tốt hơn và thực tập bước thứ tư, rồi thứ năm,
rồi thứ sáu. Cách suy nghĩ như thế
đó chẳng làm cho ai khá hơn chút nào
đâu.
Đừng đo lường sự tiến bộ bằng cách dựa theo mười sáu bước
đó. Hãy
đo lường sự tiến bộ theo sự phát triển các đức tánh tinh thần, như
giác niệm (sati), năng lực,
kiến thức, tự tín, an tĩnh, thân thiện, từ bi, quân bình, và v.v.
... Hãy đo lường với sự giảm bớt bám níu và
sự biến mất của tham lam, sân hận và si mê. Các thành quả
đó của sự thực tập đứng đắn sẽ hiện ra rõ
rệt, ngay cả khi thực tập bước một. Ngay cả khi chúng ta kiên trì
với bước một nhỏ nhặt và cũ kỹ nầy, cho
đến trọn khoảng đời còn lại của chúng
ta, nếu chúng ta thực tập bước ấy cho thật
đúng đắn, những đặc tánh kia sẽ tăng trưởng dần lên và sự bám níu
(= cố chấp) sẽ giảm thiểu. Rồi cũng sẽ có sự giảm thiểu từ từ của Khổ sở (dukkha)
và đó mới chính là
điều ta đáng lưu tâm.
Đi tới được bước thứ mười sáu chẳng phải là hết sức quan
trọng đâu. Thật ra, bước thứ nhứt
cũng đã tạm
đủ rồi. Thực tế về Niết-bàn (Nibbàna)
là chẳng bị điều kiện hoá và chẳng kẹt
vướng vào thời gian. Cho nên bạn chẳng thể biết
được lúc nào nó sẽ thực hiện. Cũng có
thể là ngay trong bước thứ nhứt. Bạn chớ nôn nóng muốn gấp vào
bước thứ hai, hoặc bước thứ ba, hay bước thứ mười. Bước thứ
nhứt có thể là đủ rồi, nếu bạn thực tập
nó được thật chín chắn. Hãy thực tập với sự kiên nhẫn, với sự quân
bình, với sự rõ ràng, với Trí huệ. Hãy thực tập mà chẳng
đeo níu và bám chặt. Chỉ cần là cứ
việc thực tập, vậy thôi!
Ta nhận ra khi ta có được sự kiên
nhẫn và có sức chịu đựng được trong việc thực
tập Giác Niệm về Hơi thở (Ànapànasati), thì sự kiên nhẫn và
sức chịu đựng là một yếu tố của
đời ta và hơn thế nữa. Cả hai
đức tánh đó giúp ta có được một cuộc đời
trong sạch, sáng tỏ và yên tịnh. Vậy xin bạn hãy kiên nhẫn, thật là
kiên nhẫn. Hãy cố học ngồi chẳng động đậy. Hãy
học cắm sâu vào bước thứ nhứt mãi cho
đến khi nào thực tập bước đó
thật đầy đủ. Rồi đến bước thứ hai. Tập mỗi bước cho
chín chắn và đừng nôn nóng. Với sự kiên
nhẫn, tâm sẽ phát triển và nó đi tới một điểm
nào đó. Hễ còn thiếu bền chí mà
lại ham muốn đi tới nữa, thì bạn
đã ít
được những gì quan trọng mà còn phải thể nghiệm thêm nhiều khổ sở (dukkha)
nữa là khác.
Có vài tư tưởng về thái độ, còn gọi
là có Chánh Kiến, mà tôi có thể cung hiến cho các bạn: khám phá sự tiến
triển tự nhiên, nghiên cứu nó một cách có hệ thống, bao giờ cũng bắt
đầu với một cách mới mẻ, bước mỗi lần một
bước, kiên nhẫn, gạt qua một bên các mong cầu, ham muốn, và
đòi hỏi, giữ vững sự quân bình,
học cách nhận diện ra, và buông bỏ ngay liền sự bám níu (= chấp thủ)
đang lén lén bò vào trong sự thực tập.
Hãy chấp nhận rằng Niết-bàn (Nibbàna) là lý do của sự thực
tập Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) và nên hân hoan
đã có
được một cơ hội rất vĩ đại như thế nầy.
Mở đầu: an lập giác
niệm (sati)
Bất cứ việc thực tập nào về quán tưởng tâm (citta bhàvàna) cũng
phải mở đầu bằng giác niệm (sati)
nắm lấy hơi thở và an lập lên trên hơi thở;
đó là đối tượng thứ nhứt của chúng ta.
Có nhiều cách để có sự tỉnh giác về hơi thở. Ta có thể sắp xếp để vừa
giác niệm vừa hơi thở, để chúng
cùng lần lần trở nên từ thô thiển đến
tế nhị, đúng theo một đường lối có liên quan
đến bốn bước
đầu. Tôi xin mô tả một
đường lối khá giản dị có thể thành
công được với nhiều người, nhưng bạn chẳng
cần phải nhắm mắt tuân theo; vì lúc nào bạn cũng nên tự tìm lấy
những gì thích hợp riêng cho mình.
(1) Một khi đã ngồi yên xuống
một cách thoải mái, thư giãn và chẳng động
đây, hãy cảm thấy hơi thở đã
bắt đầu dễ nhận ra trong tấm thân yên
tịnh và bất động nầy. Chú ý đến hơi thở một
cách vững chắc mà dịu dàng. Giữ sự canh chừng lên hơi thở mãi và
làm quen thân thiết với cả hai việc: canh chừng và hơi thở.
(2) Ghi nhận ba giai đoạn của mỗi hơi
thở: lúc đầu, khúc giữa và đoạn cuối.
Đối với hơi thở vào, ba giai đoạn đó
liên hệ đến mũi, giữa ngực và
dưới bụng. Đối với hơi thở ra, thì
ngược lại, từ dưới bụng rồi trở lên mũi để
chấm dứt. Canh chừng và đợi tại mũi
cho đến khi cảm được hơi thở vào đang
đi qua đó. Rồi nhẹ nhàng nhảy sang chú ý
đến giữa ngực và chờ ở
đó cho đến khi nhận thấy được hơi thở tại
đấy. Rồi lại nhẹ nhàng nhảy sang bụng và canh chừng xem lúc nào hơi
thở được cảm thấy ở đó. Tiếp tục canh chừng
theo hơi thở vào cho đến lúc nó chấm
dứt và chờ cho hơi thở ra khởi lên. Một khi hơi thở ra
đã được
cảm nhận thấy, thì liền chú ý trở ngược lên ngực, rồi
đến mũi. Quan sát tại mũi xem hơi thở ra chấm
dứt iại đấy và chờ một hơi thở mới vào, và rồi chú ý theo
đến ngực, và cứ tiếp tục như thế. Với
giác niệm (sati), ghi nhận hơi thở tại mỗi
điểm mà nó
đi ngang vào và ra khỏi, vào và ra.
Hãy cẩn thận quan sát một cách kiên nhẫn ở mỗi
điểm cho đến khi hơi thở (cử động của hơi thở
hoặc của các bộ phận cơ thể có nhiệm vụ trong việc hô hấp) đã
được cảm nhận thấy ra rõ ràng. Chỉ vào
lúc đó, tâm trí mới nhẹ nhàng nhảy
sang qua điểm kế tiếp. Việc nhảy nhẹ nhàng
từ điểm nầy sang điểm kia cũng là một
cách dễ dàng để an lập giác niệm
(sati) trên hơi thở. Đó là
một cách khá tốt để bắt đầu khởi sự tập. Tuy
nhiên lối đó cũng hơi thô thiển và
xao động, sau một lúc thực tập. Nhưng một khi
ta đã trở nên thiện xảo về việc theo dõi rồi, chúng ta sẽ cảm thấy
cần có một lối nào tế nhị hơn, an tĩnh hơn để
có được giác niệm về hơi thở.
(3) Kế đến, ta nối liền ba điểm lại thành
một luồng hay là một dòng trôi chảy, như gần giống với chính luồng hơi thở
vậy. Ta gọi đó là "theo dõi, rượt
theo, săn đuổi theo, lén rình theo".
Trong khi thở một cách tự nhiên, chẳng có một sự cố gắng, thúc dục nào hay
cố vận dụng nào đến hơi thở, thì
giác niệm (sati) theo dõi hơi thở vào và ra, giữa chót mũi và
rún. Bạn hãy theo dõi hơi thở mà chẳng nên hướng dẫn nó. Truy lùng theo
các cảm giác nối tiếp liên tục xảy ra trong thân thể -- cần phải cảm nhận
và thể nghiệm các cảm giác đó -- khi hơi thở
đi vào và ra khỏi.
(4) Một khi sự theo dõi đã trở
nên dễ dàng và liên tục chẳng ngừng nghỉ, thì ta sẽ thấy sự theo dõi ấy
chẳng còn cần thiết, lại bận rộn và hay làm gián
đoạn nữa. Lúc bấy giờ, ta đã sẵn sàng
để "canh gát"("guarding"), tức
là, có được một cách êm ả hơn
để thực tập giắc niệm (sati)
về hơi thở. Lúc nầy, tại bên trong mũi, có một
điểm liền nổi bật lên.
Điểm đó chính là nơi mà hơi thở chạm
vào, mỗi khi ta cảm thấy nó đi ngang qua, lúc
vào và lúc ra. Mặc dầu có vài người bảo rằng có
đến hai điểm như thế, mỗi bên lỗ mũi
có một điểm, nhưng bạn chớ nên làm cho
sự việc trở nên rắc rối thêm, cứ giản dị mà ghi nhận cái
điểm đó nó bao trùm cả hai bên lỗ mũi.
Đây là
điểm để "canh gát"(đó cũng như cái trạm gát vậy). Ta lựa điểm ở mũi vì
điểm ở đó chính xác, tế nhị và rõ rệt.
Tại nơi khác, như ở ngực hay ở bụng, các cử
động choán rộng chỗ và thô phù, chẳng phù hợp với mục
đích của ta. Để có thể làm êm dịu
được hơi thở, ta nên chọn một
điểm nhỏ, dễ chú tâm đến và thật tế
nhị. Với giác niệm (sati), ta an trú tâm (citta)
vào trên điểm đó. Hãy
để cho tâm tự gom lại quanh
điểm đó. Làm
được như thế, bằng cách đồng thời khiến cho
hơi thở êm dịu lại và khiến mình trở nên nhạy cảm hơn
đối với các cảm giác, ngay tại điểm canh gát.
Tiếp tục làm êm dịu thân hành (body conditioner, tức
là hơi thở, ở đây) cho đến khi nào
định lực (samàdhi) thực
sự khởi lên và phát triển đầy đủ.
Chúng ta có thể luôn iuôn bắt đầu với kỹ
thuật thứ nhứt. Kỹ thuật thứ hai và thứ ba thích ứng hơn với
bước một và bước hai. Với bước ba, tốt nhứt là nên "theo
dõi", mặc dầu "canh gát" cũng có thể dùng
được. Bước thứ tư phải nên bắt
đầu bằng "theo dõi" và rồi sẽ được sự
"canh gát" thay thế cho.
Nếu buổi ban đầu hơi thở của ta ngắn và
cạn, với cử động ở ngực thôi chớ chưa thấy ở
bụng, thì cứ giản dị theo dõi hơi thở dài
được đến chừng nào hay chừng nấy. Sau
khi giác niệm (sati)đã
an lập, thì chúng ta trở nên thư giãn và hơi thở cũng trở nên sâu xa hơn.
Chẳng bao lâu ta sẽ cảm thấy các cử động ở
bụng. Nếu thấy được hơi thở đi ngang qua nhiều điểm cùng một lúc,
thì xin bạn đừng dùng sự kiện
đó như một cơ hội khiến cho sự việc thêm
rắc rối. Xin cứ giữ cho được giản dị: chỉ đơn
thuần là một dòng trôi chảy từ chót mũi
đến rún, và từ rún trở ra mũi, cũng
đủ cho mục tiêu của chúng ta rồi.
Đừng cố tìm kiếm gì thêm
để tạo ra một thể dạng hơi thở phức tạp. Đừng
cố canh chừng một lần nhiều cử động riêng biệt. Nếu ta giản dị quan
sát hơi thở, thì hơi thở cũng thành giản dị. Nếu ta cứ nghĩ tới nghĩ lui
về các hơi thở, thì dễ cho ta bị rối trí, lầm lẫn lắm.
Đây là một dịp tốt để nhấn mạnh
rằng, giác niệm (sati) chẳng phải là "suy nghị" về sự
việc gì. Giác niệm là sự chú ý có ý thức, sự ý thức, sự canh chừng,
sự quan sát, sự thẩm sát. Nó chẳng cần chi
đến các ý niệm, nhãn hiệu, từ ngữ và hình ảnh
để tự mô tả. Các sự vật vừa kể chỉ tổ làm
cản trở cho việc trực nghiệm hơi thở ra và vào. Ta có thể ví việc "theo
dõi" hơi thở như là đi tản bộ dọc theo bờ
sông. Nước trôi êm đềm và ta
nhìn dòng nước chảy. Ta cần gì nói với mình: "Sông! Sông!", "Trôi! Trôi!",
"Chảy! Chảy", v.v. và v.v. ... để ngắm dòng
sông trôi lững lờ! Và nếu ta chẳng thận trọng thì hãy coi chừng!, sắp thôi
nhìn nước chảy trên sông đấy, và
đi lạc vào rừng các danh từ, các tư
tưởng khác khởi lên trong tâm. Ta còn chưa chán ngấy chúng hay sao mà lại
vẫn cố mang vác chúng đến để chúng xen vào
Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati) của chúng ta nữa vậy?
Vài mánh lới để
giúp cho giác niệm.
Nếu cảm thấy quá khó và lâu, trong nỗ lực giữ tâm mãi trên hơi thở khi
theo dõi, thì đây có một vài mánh lới
ta có thể dùng đến. Mánh lới thứ nhứt là
cứ hướng nhìn vào chót mũi, như Pháp sư Phật Lệ (Ajahn Buddhadàsa)
đã chỉ dạy trong các bài pháp thoại
của Người. Hãy nhìn vào chót mũi theo một cách thật là thư giãn và dịu
dàng. Đừng cố nhắm mắt lại, vì
đó cũng chỉ khiến tạo thêm sự căng
thẳng. Làm như vậy chẳng đưa đến
giác niệm (sati) mà chỉ khiến cho thêm ... nhức
đầu. Trong buổi ban đầu, có thể bạn chỉ đủ
khả năng nhìn lên phía trước chót mũi, hay hơi xa, quá khỏi mũi,
nhưng đến khi thân thể và gương mặt
bạn đã
được thư giãn, thì bạn cũng có nhìn thấy
được chót mũi. Ngay cả khi mắt tự động nhắm
lại, con mắt trí bạn vẫn còn chú vào mục tiêu chót mũi.
Mánh khoé thứ hai là cứ thở lớn tiếng. Hãy thở
đủ lớn tiếng để tai nghe được hơi thở. Hai
tai, cũng như đôi mắt, có thể trợ giúp cho giác niệm (sati).
Điều nầy lại có ích lợi đặc biệt trong những
phút đầu của mỗi buổi thực tập, và nhứt là vào những lúc bị khấy
rối, lơ đãng. Khi nào sự theo dõi
đã trôi chảy dễ dàng rồi thì ta buông
bỏ hơi thở to tiếng để thở lại như bình
thường, tự nhiên. (Hơi thở ồn cũng dễ làm mình khó chịu). Dầu sao, bạn
cũng nên thử tập xem vài hơi thở ồn ồn vào lúc mở
đầu, hoặc khi nào bạn cảm thấy khó mà
an lập được giác niệm (sati).
Mẹo khéo thứ ba là đếm hơi thở (=
sổ tức). Ta hãy chiêu tập nào mắt, nào tai, và nào trí năng,
phụ giúp vào sự theo dõi hơi thở. Hãy
đếm từng hơi thở vào khi nó vừa khởi lên,
đếm một số cho mỗi hơi thở. Nếu tâm đi "ngao
du", đếm trở lại "một". Nếu đếm đến được tới "mười" mà tâm còn chưa
đi lang thang thì cũng vẫn trở lại với
"một". Mục đích của ta ở đây giản dị chỉ cần
đếm mỗi hơi thở là đủ. Phương pháp
sổ tức (= đếm hơi thở) của Pháp
sư Phật Lệ (Ajahn Buddhadàsa) còn
được dùng vào nhiều mục tiêu khác nữa.
Lại một lần nữa, một khi giác niệm (sati)
đã được
an lập khá vững vàng rồi thì phép đếm
hơi thở hết còn cần thiết cho ta nữa và nên buông bỏ nó
đi. Với sự luyện tập. Giác niệm
(sati) sẽ trở nên tế nhị, linh hoạt và tự nhiên hơn.
Hơi thở dài và hơi thở ngắn
Sau khi giác niệm (sati) đã
được an lập (nhờ kỹ thuật thứ hai hoặc thứ
ba), ta bắt đầu lưu tâm đến hơi thở dài và hơi thở ngắn. Tâm tuy
vẫn hơi lang thang chút ít, nhưng cũng còn ở chung với hơi thở vừa
đủ cho ta học hỏi thêm về
đặc tánh của hơi thở ra như thế nào.
Đặc tánh đầu tiên và cũng dễ nhận thấy
là sự ghi nhận được chiều dài hơi thở
-- chiều dài ở đây, là tính theo vừa
lâu hay mau (theo thời gian của hơi thở) và vừa rộng hay hẹp (theo phạm vi
của cử động khi thở). Đối với mục tiêu
của chúng ta, một lằn ranh phân chia chính xác giữa hơi dài và hơi ngắn
cũng chẳng quan trọng mấy. Bạn chỉ cần quen rành với hơi thở của mình,
biết rõ hơi thở dài và hơi thở ngắn của bạn ra làm sao, tương
đối với nhau. Đâu cần gì phải so sánh
hơi thở của bạn với hơi thở của người khác.
Thông thường, bạn thấy hơi thở ở bụng dài hơn hơi thở ở ngực, nếu hơi
thở ở bụng được để tự nhiên.
Đây là
điều mà chúng ta cần quan sát, chớ chẳng phải là
điều mà chúng ta mong tìm kiếm
để có cho được. Chúng ta chẳng nên thở
theo một cách nầy hay một cách khác, và chúng ta cũng chẳng nên dùng Pháp
Giác niệm về Hơi thở để tập luyện một lối thở
nầy hay một lối thở nọ. Vậy bạn đừng nên cố thử tập ép hơi thở bụng
cho dài ra; kết quả sẽ chẳng thư giãn, khoan khoái
đâu. Cứ để cho hơi thở tự nhiên
đến và
đi, hễ nó dài, thì ta sẽ thấy hơi thở dài, như vậy mới
được thư giãn và lành mạnh hơn.
Nếu hơi thở của bạn dài ra, dài thật dài, bạn sẽ khám phá ra
được một điểm lý thú. Bạn có thể nghĩ là
lạ đời, khi bạn nghe Pháp sư Phật Lệ (Ajahn
Buddhadàsa) nói rằng, ngực nở ra và bụng co lại với một hơi thở thât
dài. Theo lẽ thường thì ta thấy bụng nở ra với một hơi thở vào, và nó co
lại với hơi thở ra. Dường như việc quan sát
đó mâu thuẫn với nhau, phải vậy không? Cái nào
đúng? Trước tiên, chúng ta quan sát sự
thở bình thường. Khi ta hít vào, hoành cách mạc xệ xuống
để đẩy bụng phình lên. Khi ta thở ra,
bụng lại xẹp xuống. Đấy là lối thở
bụng trước khi hơi thở trở nên dài, thật dài hơn ra.
Đó là cử
động giản dị và tự nhiên của bụng phình lên với hơi thở vào và xẹp
xuống với thở ra. Vài người xem đó thì
ngắn, vài kẻ khác lại cảm thấy nó tương đối dài.
Giờ đây, có một giới hạn cho bụng chỉ phình
lên tới một cở nào đó. Khi ta thư giãn
và thở sâu hơn thì giới hạn đó có thể đạt
đến. Tuy nhiên, tại thời điểm đó thì
ngực đưọc có thêm chỗ
để nở rộng ra cho hơi vào thêm. Nếu
bấy giờ ta cứ tiếp tục hít hơi thở vào, thì ngực sẽ nới rộng và phình lên.
Và cử động nầy kéo lằn bụng lại xẹp xuống. Đó
là điều mà ý nghĩa của lời
giảng của Pháp sư Phật Lệ muốn nói đến. Một
hơi thở vào thật dài cũng khởi lên giống như một hơi thở vào bình
thường và bụng phình lên, còn ngực xem như chẳng chuyển
động tí nào. Sau khi sức giãn của bụng
đã đến
giới hạn rồi, thì ngực lại phình lên và bụng lại xẹp xuống. Khi nào
hơi thở thật là dài, thì chính bạn cũng khám phá và thấy ra
đúng như thế. Còn
đối với các hơi thở ra thật là dài,
thì các cử động trái ngược kể ở trên
cũng xảy ra một cách chung chung. Vậy thì hơi thở thật dài cũng là một hơi
thở bình thường cộng thêm chút ít. Nhiều người trong chung ta ít khi thể
nghiệm được hơi thở thật dài, mãi cho
đến khi nào thân thể trở nên hoàn toàn
thư giãn qua Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati). Và về sau
nữa, hơi thở thật dài sẽ xảy đến thường
thường hơn, ngay cả ngoài các buổi ngồi thực tập chánh thức.
Ngay cả khi giác niệm (sati) còn chưa
được an lập vững chắc, chúng ta vẫn có thể
học hỏi được về hơi thở dài, hơi thở ngắn. Tuy nhiên, bước một
và bước hai thực sự bắt đầu khi
giác niệm (sati) theo dõi hơi thở
đã hết ngập ngừng. Tiếng
động, tư tưởng và các hiện tượng khác
có thể đôi khi xen vào, nhưng tâm
chẳng để tâm vướng mắc vào. Chúng ta
có thể dừng lại với hơi thở, quán sát hơi thở và học tập về hơi thở một
cách hoan hỉ. Nếu chúng ta nôn nóng để vượt
qua được bước một và muốn tiến tới những
điều "hứng thú" hơn, chúng ta cũng nên
soát cái ý tưởng đó lại xem, bằng cách tự
hỏi: "Thân thể nầy có đủ thư giãn để
ngồi thêm như thế nầy, trong một giờ hay lâu hơn, thoải mái và
chẳng muốn tiến tới bước khác nữa chăng?"
Khi hơi thở thực sự dài (và sâu), ta có thể ngồi thoải mái trong
một thời gian lâu. Nếu ta đang xao động cứ
thay đổi thế ngồi mỗi mười hay mười lăm phút, tưởng tốt nhứt là cứ
vui lòng ở lại với bước một. Hãy học cách ngồi yên bất
động, và thở cho dài, chậm, dịu dàng
và êm ái. Rồi thì ta có thể ngồi dễ dàng trong một thời gian dài.
Đây là vấn
đề kỷ luật tự giác -- chớ không phải là
vấn đề hành xác! Bạn hãy nên tập luyện
một cách thông minh, và quân bình.
Bước thứ ba: đối
tượng mới
Trong hai bước, bước một và bước hai, hơi thở là
đối tượng duy nhứt được chúng ta chú ý đến.
Bắt đầu bước thứ ba, chúng ta sẽ xét
đến các đối tượng mới, trong trường hợp nầy,
xét về "toàn thân", ảnh hưởng của các hơi thở
đến các phần còn lại của thân. Xin hãy
ghi nhận rằng, đó chẳng phải là chính
hơi thở, mặc dầu hơi thở và ảnh hưởng của nó
được liên kết nhau rất chặt chẽ. Vào lúc nầy, sự ý thức về hơi thở
vào và ra được lui về hậu trường, nơi đó các
hợi thở vẫn còn luôn luôn rõ rệt. Trong khi tâm
đặt tiêu chuẩn lên một
đối tượng mới, chúng vẫn ý thức rằng chúng ta
đang thở vào và thở ra. Điều nầy vẫn
đúng cho số bước còn lại trong tổng số mười sáu
bước.
Nghiên cứu ảnh hưởng của hơi thở đối với
toàn thân có liên quan đến nhiều việc
khác hơn là chiều dài của mỗi hơi thở. Xét theo chiều dài của hơi
thở đã là một cách giản tiện
để bắt đầu việc nghiên cứu. Giờ
đây, chúng ta lại cần lưu tâm đến tốc lực
(mau và chậm) và phẩm chất (thô thiển và tế nhị). Phẩm chất là quan
trọng nhứt vì chính phẩm chất của hơi thở đã
ảnh hưởng rộng lớn đến sự êm dịu của
tấm thân. Trong bước nầy, chúng ta sẽ khám phá ra loại hơi thở nào
sẽ đem lại êm dịu nhiều nhứt cho tấm
thân nầy.
* * *
Tôi vừa trình bày cùng các bạn cách làm thế nào
để khởi sự việc thực tập Giác Niệm về Hơi thở
một cách cho đúng đắn. Tôi hi vọng các bạn dùng
được các chi tiết mà tôi
đã cống hiến
để cho việc tập luyện quán tưởng được phát
triển. Trước khi chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay, tôi muốn xin các bạn
cho phép tôi nói thêm một nhận xét chót.
Đời sống là quán tưởng.
Còn nhiều việc khác trong sự quán tưởng về tâm (citta bhàvanà)
hơn là chỉ ngồi suông. Những buổi tập chánh thức, ngồi hoặc
đi, cũng rất là quan trọng, và cũng ít
người thấy mình chẳng cần đến; nhưng hơn tất
cả mọi việc khác, chúng tôi lại chú trọng nhứt tới đời sống hằng ngày
-- một cuộc đời thoát khỏi mọi sự khổ sở (dukkha).
Đời sống còn nhiều hoạt
động khác, đâu chỉ có ngồi yên bất
động mà thôi, và Pháp Giác Niệm về Hơi
thở (Ànàpànasati) còn có thể giúp chúng ta trong những
điạ hạt khác nữa. Trước
nhứt, các sự khéo léo và các kiến thức
được phát triển qua sự thực tập chánh thức, có thể được mở rộng thêm
và đem ra dùng vào các hoạt
động hằng ngày của chúng ta. Thứ
hai, chúng ta có thể vẫn có sự tỉnh giác về hơi thở, và ngay cả
đặt định tâm vào
đó trong khi thi hành các nhiệm vụ
khác của mình. Nếu điều nầy được phát triển
một cách thích nghi, thì hơi thở sẽ
điều hoà được tấm thân ở vào
một tình trạng thật đứng đắn và
đưa tâm đi sâu vào sự thanh tịnh, ổn
cố, an tịch, sáng tỏ, dõng mãnh và linh hoạt. Thứ ba, tâm có thể
đến với hơi thở và chiếu trụ lên
đó mỗi khi một tình trạng tinh thần có
hại khởi lên. Khi làm như thế, thì chẳng nên coi hơi thở như là một lối
thoát. Tuy nhiên, cách đó lại thường là
một phương tiện hết sức khéo léo để vượt qua
được những tư tưởng bất thiện, những tình cảm và khí sắc chẳng
đẹp. Đấy mới chỉ có ba cách thôi mà
tôi muốn đưa Pháp Giác Niệm về Hơi thở vào
trong trọn cuộc đời.
Ngay cả lý thuyết của Pháp Giác Niệm về Hơi thở (Ànàpànasati)
cũng có thể được đem ra dùng trong sự
quán tưởng về đời sống hằng ngày. Một
khi chúng ta đã có
đủ thời giờ để nghiên cứu và thông
hiểu rõ ràng mười sáu bước (tưởng cũng còn cần
đọc thêm nhiều tài liệu bổ túc khác)
chúng ta có cần gì giới hạn sự ứng dụng các bước nầy chỉ riêng vào
trong hơi thở. Như Pháp sư Phật Lệ (Ajahn Buddhadàsa) có nói trong
Phụ lục số 2, rằng Pháp Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna) còn thiếu sót một
phương pháp rõ rệt để thực tập. Mặt khác,
chúng ta làm phát triển bốn lãnh vực của sự tỉnh thức vào mọi dịp
thuận tiện. Rồi các bạn sẽ thấy mười sáu bước cống hiến một cơ cấu
tổng quát cho sự thực tập về Pháp Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna). Chúng
ta phải quán tưởng mười sáu đề mục đó mỗi khi
gặp được dịp, vào lúc nào mà chúng sanh khởi lên. Mặc dầu các diễn
biến trong cơ thể (bodily processes) còn chưa mở ra hết trước sự giải tích
(treatment) có hệ thống và đầy đủ của chúng
ta với phương tiện hơi thở, nhưng chúng ta vẫn có thể dùng mười
sáu bước thực tập để nhận diện ra được
những sự việc nào đáng cho ta chú ý
đến nhứt.
Từ mười sáu bước thực tập cho
đến bất cứ việc nào
Chúng ta có thể dùng bất cứ một hoạt động
nào của cơ thể để làm cơ sở căn
bản cho giác niệm (sati). Hoạt
động đó càng cần thiết và chủ yếu cho
đời sống, (như trường hợp của hơi thở chẳng
hạn), thì lại càng tốt. Trước nhứt, tìm hiểu về hoạt
động đó dưới mọi khía cạnh của nó.
Thứ hai, tìm thấy ra hoạt động đó có ảnh
hưởng nào đối với cơ thể.
Thứ ba, tìm biết được đường lối đúng đắn
để thi hành hoạt động đó sao cho có
hiệu quả tối hảo đến thân thể và giúp cho tâm
đạt đến một trình
độ và một chủng loại về
định lực thích nghi. Điều nầy tương hợp với
bộ bốn thứ nhứt về thân (kàya). Kế
đến, cứu xét đến các cảm thọ liên hợp
với hoạt động đó, nhứt là các lạc thọ
khởi lên khi hoạt động đó được thực hiện tốt
đẹp và thành công. Nghiên cứu ảnh hưởng các cảm thọ
đó gây ra cho tâm, rồi tìm cách làm
lắng dịu ảnh hưởng đó. Điều nầy bao gồm
bộ bốn thứ hai về cảm thọ (Vedanà). Bộ bốn
thứ ba về tâm (citta) bắt
đầu bằng sự thể nghiệm các loại tâm trạng khởi lên trong khi hoạt
động đó được thi hành. Rồi chúng ta
tập luyện để khiến cho tâm được hân hoan, tập
trung vào định lực, và
được giải thoát, trong khi thi hành
hoạt động đó. Sau cùng, nơi bộ bốn
thứ tư là bộ bốn quan trọng nhứt, về Pháp (Dhamma),
ta quán tưởng về mọi phương diện của hành
động đó -- về thân, về cảm thọ, và về tâm -- như là vô thường,
khổ sở và vô ngã (aniccam dukkham anattà). Quán tưởng sự tàn
phai và tận diệt của sự bám níu (= chấp thủ). Quán tưởng sự quẳng bỏ ra
phía sau tất cả những gì có dính líu với hoạt
động đó.
Pháp Giác niệm về Hơi thở (Anàpànasati) giải thích cách xử dụng
mọi hoạt động của ta vào việc thực tập
Pháp Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna). Mội khi gặp dịp tốt, nên thực tập
Pháp Giác niệm về Hơi thở một cách trực tiếp. Bằng không, thì thực tập
Pháp ấy một cách gián tiếp xuyên qua một cách thực tập song hành. Những
kiến thức mà chúng ta thâu lượm được qua sự
thực tập song hành tâm quán (citta bhàvanà) sẽ hỗ trợ
và bổ túc cho sự thực tập Giác Niệm về Hơi thở của chúng ta, và ngược lại.
Khi chúng ta đã biết thẩm lượng giá
trị các khả năng tiềm tàng của mười
sáu bước thực tập, thì luôn luôn có những cơ hội
để phát triển tâm ngay cả trong
những điều kiện thật là khó khăn.
Mưới sáu bước thực tập -- đặc
biệt là bộ bốn thứ nhứt và bộ bốn thứ tư -- là lý
thuyết đầy đủ trong việc loại trừ khổ sở (dukkha)
ra khỏi cuộc đời. Tôi nguyện
cầu cho các bạn biết xử dụng chúng thật đứng
đắn.
Tôi hi vọng các bạn có thể xử dụng các chi tiết vừa
được giới thiệu. Tôi đã cố gắng hết
sức để trình bầy chúng
được rõ ràng. Xin các bạn nghiên cứu
chúng một cách cẩn thận; cần đọc qua hơn một
lần. Hãy suy gẫm đầy đủ về chúng. Và,
quan trọng nhứt là hãy thử tập ngay đi. Qua
sự thực tập, sự hiểu biết của bạn về các lời chỉ dẫn sẽ phát triển thêm.
Bạn sẽ cần đến vài sự
điều chỉnh, nhưng phần lớn các sự điều chỉnh
đó sẽ tìm thấy ngay trong sự hiểu biết và ứng dụng của bạn, hơn là
trong lời chỉ dẫn của Pháp sư Phật Lệ (Ajahn Buddhadàsa). Hãy thử
tập theo các lời khuyên của Người. Và đừng
pha trộn các lời khuyên đó với những gì
bạn được nghe đến ở các thiền sư khác vơi các
hệ thống khác của họ. Với sự kiên nhẫn, quyết tâm và trí huệ, hãy
đi sâu vào sự thực tập và khiến nó dẫn
đến tri kiến về sự vô chấp thủ (= chẳng bám
níu nữa), về sự tận diệt khổ sở (dukkha), về sự an hoà tối
thượng cùng sự giải thoát của Niết-bàn (Nibbàna).