Phần Kinh văn
Kinh Nhập tức, Xuất tức niệm
(Ànàpànasati )
Như vầy
tôi nghe:
Một thời, Thế tôn ở Savatthi,
tại Đông Viên (Pubbarama),
giảng đường Lộc Mẫu (Migaramatupasade),
cùng với rất nhiều Thượng toạ có thời danh, có danh xưng... như Tôn giả
Sariputta (Xá lợi phất), Tôn giả Mahamoggallana (Đại
Mục kiền liên),Tôn giả Mahakaccayana (Đại
Ca chiên diên), Tôn giả Mahakotthita (Đại
Câu hy la), Tôn giả Maha kappina (Đại
Kiếp tân na), Tôn giả Mahacunda (Đại
Thuần đà), Tôn giả Anuruddha (A na luật), Tôn giả Revata
(Ly bà đa) và Tôn giả Ananda
(A nan), cùng với nhiều bậc Thượng toạ đệ
tử khác có thời danh, có danh xưng. Lúc bấy giờ, các Thượng toạ Tỳ kheo
khuyến giáo, giảng dạy các tân Tỳ kheo. Một số Thượng tạo Tỳ kheo khuyến
giáo, giảng dạy mười tân Tỳ kheo. Một số Thượng tọa Tỳ kheo khuyến giáo,
giảng dạy hai mươi tân Tỳ kheo. Một số Thượng toạ Tỳ kheo khuyến giáo,
giảng dạy ba mươi tân Tỳ kheo. Một số Thượng toạ Tỳ kheo khuyến giáo,
giảng dạy bốn mươi tân Tỳ kheo. Và các tân Tỳ kheo
được các Thượng toạ Tỳ kheo khuyến giáo,
giảng dạy ý thức rõ ràng những quả vị cao diệu, tiệm thứ, thù thắng
đã chứng
đạt. Lúc bấy giờ, Thế tôn vào ngày Bố tát, ngày rằm, vào
đêm trăng
tròn sau ngày Tự tứ, đang ngồi giữa
trời với chúng Tỳ kheo đoanh vây.
Thế tôn nhìn quanh chúng Tỳ
kheo đang yên lặng, hết sức yên lặng,
rồi bảo các Tỳ kheo:
- Ta
được thoả mãn, nầy các Tỳ kheo, với
đạo lộ nầy. Tâm ta được thoả mãn, nầy
các Tỳ kheo, với đạo lộ nầy. Do vậy, nầy các
Tỳ kheo, hãy tinh tấn hơn nữa, để
chứng đạt những gì chưa chứng đắc, để
chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Ta sẽ ở
đây, tại Savatthi cho đến tháng tư, lễ
Komudi.
Những Tỳ kheo
địa phương được nghe: "Thế tôn sẽ ở đây, tại
Savatthi, cho đến tháng tư, lễ Komudi." Các Tỳ kheo địa phương tụ họp tại
Savatthi để yết kiến Thế tôn. Và các Thượng toạ Tỳ kheo lại càng
khuyến giáo, giảng dạy các tân Tỳ kheo nhiều hơn nữa. Một số Thượng toạ Tỳ
kheo khuyến giáo, giảng dạy mười tân Tỳ kheo. Một số Thượng tọa Tỳ kheo
khuyến giáo, giảng dạy hai mươi tân Tỳ kheo. Một số Thượng tọa Tỳ kheo
khuyến giáo, giảng dạy ba mươi tân Tỳ kheo. Một số Thượng tọa Tỳ kheo
khuyến giáo, giảng dạy bốn mươi tân Tỳ kheo. Và những tân Tỳ kheo
được các Thượng tọa Tỳ kheo khuyến giáo,
giảng dạy ý thức rõ ràng những quả vị cao diệu, thù thắng
đã chứng
đạt. Lúc bấy giờ Thế tôn vào ngày Bố tát, ngày rằm, vào
đêm trăng
tròn, ngày lễ Komudi vào tháng tư, Thế tôn
đang ngồi ngoài trời, chung quanh có
chúng Tỳ kheo đoanh vây.
Rồi Thế tôn sau khi nhìn xung
quanh chúng Tỳ kheo đang yên lặng, hết
sức yên lặng, liền bảo các Tỳ kheo:
- Hội chúng nầy, nầy các Tỳ
kheo, không có lời thừa thải. Hội chúng nầy, nầy các Tỳ kheo, không có lời
dư thừa, đã
được an trú trong lõi cây thanh tịnh.
Chúng Tỳ kheo như thế nầy, nầy các Tỳ kheo, hội chúng như thế nầy, nầy các
Tỳ kheo, là một hội chúng đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chấp tay, là
phước điền vô thượng ở đời. Chúng Tỳ kheo như
thế nầy, nầy các Tỳ kheo, là một hội chúng bố thí ít,
được (phước báo) nhiều, bố thí nhiều, càng
được (phước báo) nhiều hơn nữa. Chúng Tỳ kheo
như thế nầy, nầy các Tỳ kheo, hội chúng như thế nầy, nầy các Tỳ kheo, là
một hội chúng khó thấy ở đời. Chúng Tỳ kheo
như thế nầy, nầy các Tỳ kheo, là một hội chúng xứng
đáng đi nhiều do tuần (yojana)
với một bao lương thực trên vai để đến yết
kiến. Chúng Tỳ kheo nầy là như vậy, nầy các Tỳ kheo. Nầy các Tỳ
kheo, trong chúng Tỳ kheo nầy, có những Tỳ kheo là những A la hán, các lậu
hoặc đã
đoạn trừ, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm
đã làm, gánh nặng
đã đặt
xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kiết
sử đã được đoạn tận, được giải thoát
nhờ chánh trí. Nầy các Tỳ kheo, có những bậc Tỳ kheo như vậy trong chúng
Tỳ kheo nầy. Nầy các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ kheo nầy, có những Tỳ kheo đã
đoạn trừ năm phần hạ kiết sử, được hoá sanh,
từ ở đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại
đời nầy nữa. Các bậc Tỳ kheo như vậy, nầy các
Tỳ kheo, có mặt trong chúng Tỳ kheo nầy. Nầy các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ
kheo nầy, có những Tỳ kheo đã đoạn trừ
ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, là bậc Nhất lai,
sau khi sanh vào đời nầy một lần nữa, sẽ đoạn
tận khổ đau. Các bậc Tỳ kheo như vậy, nầy các Tỳ kheo, có mặt trong chúng
Tỳ kheo nầy. Nầy các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ kheo nầy có những Tỳ kheo dã
đoạn trừ ba kiết sử, là bậc Dự lưu,
không còn đoạ vào ác
đạo, chắc chắn sẽ được giác ngộ. Các bậc Tỳ
kheo như vậy, nầy các Tỳ kheo, có mặt trong chúng Tỳ kheo nầy. Nầy các Tỳ
kheo, trong chúng Tỳ kheo nầy, có những Tỳ kheo là những vị sống
chuyên tâm, chú tâm, tu tập bốn niệm xứ. Các bậc Tỳ kheo như vậy, nầy các
Tỳ kheo, có mặt trong chúng tỳ kheo nầy. Nầy các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ
kheo nầy, có những Tỳ kheo là những vị sống chuyên tâm, chú tâm, tu tập
bốn chánh cần. Các bậc Tỳ kheo như vậy, nầy các Tỳ kheo, có mặt trong hội
chúng nầy. Nầy các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ kheo nầy, có những Tỳ kheo sống
chuyên tâm, chú tâm tu tập bốn như ý túc. Các bậc Tỳ kheo như vậy, nầy các
Tỳ kheo, có mặt trong chúng Tỳ kheo nầy. Nầy các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ
kheo nầy, có những Tỳ kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập năm
căn. Các bậc tỳ kheo như vậy, nầy các Tỳ kheo, có mặt trong chúng Tỳ kheo
nầy. Nầy các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ kheo nầy, có những Tỳ kheo, sống chuyên
tâm, chú tâm tu tập năm lực. Các bậc Tỳ kheo
như vậy, nầy các Tỳ kheo, có mặt trong chúng Tỳ kheo nầy. Nầy các Tỳ kheo,
có những Tỳ kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập bảy giác chi. Các
bậc Tỳ kheo như vậy, nầy các Tỳ kheo, có mặt trong chúng Tỳ kheo nầy. Nầy
các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ kheo nầy có những Tỳ kheo, sống chuyên tâm,
chú tâm tu tập Thánh đạo tám ngành.
Các bậc Tỳ kheo như vậy, nầy các Tỳ kheo, có mặt trong chúng Tỳ kheo nầy.
Nầy các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ kheo nầy, có những Tỳ kheo, sống chuyên
tâm, chú tâm tu tập từ (tâm). Các bậc Tỳ kheo như vậy, nầy các Tỳ kheo, có
mặt trong chúng Tỳ kheo nầy. Nầy các Tỳ kheo, trong chúng tỳ kheo nầy, có
những Tỳ kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập bi (tâm). Các bậc Tỳ kheo
như vậy, nầy các Tỳ kheo, có mặt trong chúng Tỳ kheo nầy. Nầy các Tỳ kheo,
trong chúng Tỳ kheo nầy, có những Tỳ kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập
hỷ (tâm). Các bậc Tỳ kheo như vậy, nầy các Tỳ kheo, có mặt trong chúng tỳ
kheo nầy. Nầy các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ kheo nầy, có những Tỳ kheo, sống
chuyên tâm, chú tâm tu tập xả (tâm). Các bậc Tỳ kheo như vậy, nầy các Tỳ
kheo, có mặt trong chúng Tỳ kheo nầy. Nầy các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ kheo
nầy, có những Tỳ kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập bất tịnh. Các bậc
Tỳ kheo như vậy, nầy các Tỳ kheo, có mặt trong chúng Tỳ kheo nầy. Nầy các
Tỳ kheo, trong chúng tỳ kheo nầy, có những tỳ kheo, sống chuyên tâm, chú
tâm tu tập vô thưởng tưởng. Các bậc Tỳ kheo như vậy, nầy các Tỳ kheo, có
mặt trong chúng Tỳ kheo nầy. Nầy các Tỳ kheo, trong chúng Tỳ kheo nầy, có
những Tỳ kheo, sống chuyên tâm, chú tâm tu tập nhập tức, xuất tức niệm.
Nhập tức, xuất tức niệm, được tu tập, làm
cho sung mãn, khiến cho bốn niệm xứ được viên
mãn. Bốn niệm xứ được tu tập, làm cho
sung mãn, khiến cho bảy giác chi được sung mãn.
Bảy giác chi được tu tập, làm cho sung
mãn, khiến cho minh giải thoát (vijjavimutti)
được sung mãn.
Và nầy các Tỳ kheo, như thế nào
là tu tập nhập tức, xuất tức niệm? Như thế nào làm cho sung mãn? Như thế
nào là quả lớn, công đức lớn? Ở đây, nầy các
Tỳ kheo, Tỳ kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà
trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm, vị
ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy biết: "Tôi thở vô
dài." Hay thở ra dài, vị ấy biết: "Tôi thở ra dài." Hay thở vô ngắn, vị ấy
biết: "Tôi thở vô ngắn."Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn."
"Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác
lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân
hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy
tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải
thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi
sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly
tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán
đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. ‘Quán từ bỏ, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. Nhập tức, xuất tức niệm, nầy các Tỳ kheo, tu tập như vậy,
làm cho sung mãn như vậy, được quả
lớn, được công đức lớn.
Và như thế nào, nầy các Tỳ
kheo, là nhập tức, xuất tức niệm được tu tập?
Như thế nào, làm cho sung mãn, khiến bốn niệm xứ
được viên mãn? Khi nào, nầy các Tỳ
kheo, Tỳ kheo thở vô dài, vị ấy biết: "Tôi thở vô dài". Hay khi thở ra
dài, vị ấy biết: "Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở
vô ngắn." Hay khi thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn." "Cảm giác cả
toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh
thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thân trên thân,
nầy các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm dể chế
ngự tham ưu ở đời. Nầy các Tỳ kheo, đối với
các thân, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy, nầy các
Tỳ kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, vị Tỳ kheo trú, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời. Khi nào, nầy các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo nghĩ: "Cảm giác hỷ thọ,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm
hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thọ trên các thọ, nầy
các Tỳ kheo, Tỳ kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời. Nầy các Tỳ kheo,
đối với các cảm thọ, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do
vậy, nầy các Tỳ kheo, trong khi tùy quán thọ trên các cảm thọ, Tỳ kheo
trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế
ngự tham ưu ở đời. Khi nào, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo nghĩ: "Cảm
giác tâm, tôi sẽ thở vô". Vị ấy tập. "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy
tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi
sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi
sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán tâm trên tâm, nầy các Tỳ
kheo, Tỳ kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
để chế ngự tham ưu ở đời. Nầy các Trỳ kheo,
sự tu tập nhập tức xuất tức niệm không thể đến với kẻ thất niệm, không có
tỉnh giác. Do vậy, nầy các Tỳ kheo, trong khi tùy quán tâm trên
tâm, Tỳ kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm,
để chế ngự tham ưu ở đời. Khi nào, nầy
các Tỳ kheo, Tỳ kheo nghĩ: "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, ... quán
đoạn diệt, ... quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị
ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán
pháp trên các pháp, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Vị ấy
đoạn trừ tham ưu, sau khi thấy với trí huệ, khéo nhìn (sự vật) với
niệm xả ly. Do vậy, nầy các Tỳ kheo, trong khi tùy quán pháp trên các
pháp, Tỳ kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời. Nhập tức, xuất tức
niệm, nầy các Tỳ kheo, được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn
như vậy, khiến cho bốn niệm xứ được viên
mãn.
Và bốn niệm xứ, nầy các Tỳ
kheo, tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho bảy giác
chi được viên mãn? Nầy các Tỳ kheo,
trong khi tùy quán thân trên thân, Tỳ kheo trú, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh
niệm để chế ngự tham ưu ở đời, trong khi ấy,
niệm không hôn mê của vị ấy được an
trú. Trong khi niệm không hôn mê của vị ấy cũng
được an trú, nầy các Tỳ kheo, trong khi ấy
niệm giác chi được bắt đầu khởi lên với Tỳ kheo, trong khi ấy, Tỳ
kheo tu tập niệm giác chi. Trong khi ấy, niệm giác chi
được Tỳ kheo tu tập đi đến viên mãn.
Nầy các Tỳ kheo, trong khi trú với chánh niệm như vậy, Tỳ kheo với trí huệ
suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy. Nầy các Tỳ kheo trong khi trú với chánh
niệm như vậy, Tỳ kheo với trí huệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, trong
khi ấy trạch pháp giác chi được bắt đầu khởi
lên với Tỳ kheo. Trong khi ấy, Tỳ kheo tu tập trạch pháp giác chi.
Trong khi ấy, trạch pháp giác chi được Tỳ
kheo tu tập đi đến viên mãn. Nầy các Tỳ kheo, trong khi Tỳ kheo với
trí huệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, sự tinh tấn không thụ
động bắt đầu khởi lên với vị Tỳ kheo.
Nầy các Tỳ kheo, trong khi Tỳ kheo với trí huệ suy tư, tư duy, thẩm sát
pháp ấy, trong khi ấy sự tinh tấn không thụ
động bắt đầu khởi lên với Tỳ kheo ấy. Trong khi ấy tinh tấn giác
chi được bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo.
Trong khi ấy, Tỳ kheo tu tập tinh tấn giác chi, Trong khi ấy, tinh tấn
giác chi được Tỳ kheo tu tập đi đến viên
mãn. Hỷ không liên hệ đến vật chất được khởi
lên nơi vị tinh tấn tinh cần. Nầy các Tỳ kheo, trong khi hỷ không
liên hệ đến vật chất khởi lên nơi Tỳ
kheo tinh tấn tinh cần, trong khi ấy, hỷ giác chi bắt
đầu khởi lên nơi Tỳ kheo. Trong khi
ấy, hỷ giác chi được vị Tỳ kheo tu tập. Trong
khi ấy, hỷ giác chi được Tỳ kheo tu tập đi đến viên mãn. Thân của
vị ấy được tâm hoan hỷ trở thành khinh
an, tâm cũng được khinh an. Nầy các Tỳ kheo,
trong khi Tỳ kheo với ý hoan hỷ được thân khinh an, trong khi ấy, khinh an
giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo. Trong khi ấy, khinh an giác
chi được Tỳ kheo tu tập. Trong khi ấy, khinh
an giác chi được Tỳ kheo làm cho đi
đến sung mãn. Một vị có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy
được định tĩnh. Nầy các Tỳ kheo, trong khi Tỳ
kheo có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh, trong khi ấy định
giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo. Trong khi ấy
định giác chi được Tỳ kheo tu tập. Trong khi
ấy, định giác chi được Tỳ kheo làm cho
đi đến sung mãn. Vị ấy với tâm định
tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly. Nầy các Tỳ kheo,
trong khi Tỳ kheo với tâm định tĩnh như vậy,
khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly, trong khi ấy xả giác chi bắt
đầu khởi lên nơi Tỳ kheo. Trong khi
ấy, xả giác chi được Tỳ kheo tu tập. Trong
khi ấy, xả giác chi được Tỳ kheo làm cho
đi đến sung mãn.
Nầy các Tỳ kheo, trong khi quán
thọ trên các cảm thọ ... (như trên) ... quán tâm trên tâm ... (như trên)
... quán pháp trên các pháp, Tỳ kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời,
trong khi ấy niệm của vị ấy được an trú, không hôn mê. Nầy các Tỳ
kheo, trong khi niệm của Tỳ kheo được an trú,
không có hôn mê, niệm giác chi trong khi ấy
được bắt đầu khởi lên noi Tỳ kheo.
Niệm giác chi trong khi ấy được Tỳ kheo tu
tập. Niệm giác chi trong khi ấy, được Tỳ kheo làm cho
đi đến sung mãn. Vị ấy an trú vơí
chánh niệm như vậy, suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy với trí huệ. Nầy các
Tỳ kheo, trong khi an trú với chánh niệm như vậy, vị ấy suy tư, tư duy,
thẩm sát pháp ấy với trí huệ. Trạch pháp giác chi trong khi ấy
được bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo.
Trạch pháp giác chi trong khi ấy được Tỳ kheo
tu tập. Trạch pháp giác chi trong khi ấy đi đến sung mãn, tinh tấn
không thụ động bắt đầu khởi lên nơi vị
ấy. Nầy các Tỳ kheo, trong khi Tỳ kheo suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy
với trí huệ, và tinh tấn không thụ động bắt
đầu khởi lên nơi vị Tỳ kheo. Tinh tấn giác chi
được Tỳ kheo tu tập. Tinh tấn giác chi được
Tỳ kheo làm cho đi đến sung mãn.
Đối với vị ấy tinh cần tinh tấn, hỷ không liên
hệ đến vật chất khởi lên. Nầy các Tỳ
kheo, trong khi Tỳ kheo tinh cần tinh tấn và hỷ không liên hệ
đến vật chất khởi lên nơi Tỳ kheo. Hỷ
giác chi trong khi ấy được Tỳ kheo tu tập. Hỷ
giác chi trong khi ấy được Tỳ kheo làm cho
đi đến sung mãn. Thân của vị ấy
được tâm hoan hỷ trở thành thân khinh
an, tâm cũng được khinh an. Nầy các Tỳ kheo,
trong khi Tỳ kheo với ý hoan hỷ được thân khinh an, được tâm cũng khinh
an, trong khi ấy khinh an giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo.
Trong khi ấy, khinh an giác chi bắt đầu khởi
lên nơi Tỳ kheo. Trong khi ấy, khinh an giác chi
được Tỳ kheo tu tập, Trong khi ấy khinh an
giác chi được Tỳ kheo làm cho đi đến
sung mãn. Một vị có tâm khinh an, an lạc, tâm vị ấy
được định tĩnh. Nầy các Tỳ kheo, trong khi vị
ấy có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy cũng được định tĩnh, trong khi ấy
định giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ kheo. Trong khi ấy,
định giác chi được Tỳ kheo tu tập. Trong khi
ấy, định giác chi được Tỳ kheo làm cho
đi đến sung mãn. Vị ấy với tâm định
tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly. Nầy các Tỳ kheo,
trong khi Tỳ kheo với tâm định tĩnh như vậy,
khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly, trong khi ấy xả giác chi
được Tỳ kheo tu tập. Trong khi ấy xả giác chi
được Tỳ kheo làm cho đi đến sung mãn.
Nầy các Tỳ kheo, bốn niệm xứ
được tu tập như vậy, được làm cho sung
mãn như vậy, khiến cho bảy giác chi được sung
mãn.
Và nầy các Tỳ kheo, bảy giác
chi tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho minh giải
thoát được viên mãn. Ở
đây, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo tu tập niệm
giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên
hệ đến ly tham, liên hệ
đến diệt, hướng đến xả ly; tu tập trạch pháp
giác chi... (như trên)... tu tập tinh tấn giác chi... (như trên)...
tu tập hỷ giác chi... (như trên)... tu tập khinh an giác chi ... (như
trên)... tu tập định giác chi,,, (như trên)...
tu tập xả giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên
hệ đén ly tham, liên hệ
đến diệt, hướng đến xả ly. Nầy các Tỳ kheo,
bảy giác chi được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy,
khiến cho minh giải thoát được viên
mãn.
Thế tôn thuyết giảng như vậy.
Các Tỳ kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế tôn dạy.
Kinh Nhập tức Xuất tức Niệm, số 118, Trung Bộ Kinh
(Đại Tạng Việt Nam, Trung
Bộ Kinh, Tập III, 249 264)