Chương
5. Bản chất hạnh phúc
Giảng
tại Trường hạ chùa Phổ Quang, tháng 05-2004
Hạnh
phúc chỉ là cảm xúc
Theo hóa học thì hạnh phúc là
phản ứng hóa chất tác động đến thần kinh dựa vào các giác quan tiếp xúc với đối
tượng trần cảnh của nó. Chẳng hạn mắt nhìn hình thái, màu sắc; tai nghe âm
thanh; mũi ngửi mùi; lưỡi nếm vị; thân với sự xúc chạm; ý với tất cả các ý
tưởng, hình dung được lưu giữ trong não, lúc đó ý thức nhận định những sự kiện
đã xảy ra hoặc sẽ xảy ra trong tương lai. Phản ứng hóa học này làm con người đi
theo hai khuynh hướng thuận và nghịch.
Điều phù hợp với sở thích sẽ dẫn
đến phản ứng thích thú, từ đó theo đuổi rồi chiếm hữu. Khi xuất hiện nhu cầu
chiếm hữu, thái độ bảo thủ cũng bắt đầu có mặt. Đức Phật khẳng định “đó là đầu mối của sự khổ đau”. Ngược
lại, điều không phù hợp với sở thích thì phản ứng tâm lý kéo theo là sự ruồng
bỏ, chán nản. Thậm chí, nếu điều không phù hợp sở thích đó được tái xuất hiện
lặp đi lặp lại, sẽ làm cho con người có thái độ tìm cách đối lập, triệt tiêu.
Như vậy, dòng chảy cảm xúc hay
hạnh phúc thực chất chỉ là những phản ứng hoá chất trên não trạng và ý thức của
người nhận định dựa trên hai khuynh hướng phản ứng trên. Một cơn mưa rào có thể
tạo các phản ứng đối lập. Nếu là người khá giả, di chuyển bằng ô tô thì mưa sẽ
đem lại sự thích thú, mát mẻ. Họ mong muốn càng nhiều cơn mưa càng tốt. Nhưng
với người buôn gánh bán bưng, họ phải hấp tấp lấy màn che, mặc áo mưa. Mưa đối
với họ là điều khó chịu, cảm giác buồn vì công ăn việc làm bị gián đoạn, thậm
chí những sở hụi có được có thể tan biến. Như vậy, cũng một sự kiện mưa nhưng
xuất hiện hai trạng thái hoàn toàn trái ngược. Đứng trước hoàn cảnh đó, người
buôn gánh bán bưng cần làm thế nào để có hạnh phúc?
Đây là cách thức tìm trạng thái
an vui trong những hoàn cảnh không như ý. Nếu làm được thì hạnh phúc thật sự sẽ
có mặt và người đó trở thành hành giả, hành giả trong buôn bán, hành giả trong
trú mưa, hành giả trong đi đường và trong bất kỳ sinh hoạt nào. Sự buồn rầu lo
lắng không làm cho cơn mưa tạnh được, vì đó là quy luật vật lý. Thay vì buồn
rầu, hãy suy nghĩ rằng đây là dịp để nghỉ ngơi. Suy nghĩ đó làm tan tạm thời
thái độ buồn rầu bực dọc. Đó là một trong những cách thức quan niệm tích cực
trước những hoàn cảnh không khả ý.
Nhận
dạng bản chất khổ đau
Nếu không hiểu khổ đau thì cảm
nhận về hạnh phúc sẽ không lớn. Người sống trong hoàn cảnh lận đận, gian lao
thử thách, chướng duyên, nghịch cảnh càng nhiều thì giá trị của hạnh phúc lúc
bấy giờ sẽ càng cao. Như vậy, nghịch cảnh là thước đo để giá trị hạnh phúc được
chuyển nở và phát triển một cách lâu dài. Cho nên tìm hiểu bản chất khổ đau
cũng là cách để có được hạnh phúc.
Một vị thiền sư nổi tiếng ở Nhật
Bản, ngài luôn được các vị thương gia đến thăm viếng và xin câu chúc phúc. Hôm
nọ, một viên ngoại, ức triệu lại thêm phong nhã, đến cúng dường và xin câu nào
đó, chỉ khoảng tám chữ, để treo trong nhà làm bảo vật trấn gia truyền xuống mấy
đời con cháu. Vị thiền sư này có tài viết thư pháp lão luyện, ông lấy giấy viết
liền một câu tám chữ. Khi đọc vào viên ngoại choáng váng, đó là “Cha chết, con chết, cháu chết, chắt chết”.
Khi viên ngoại hỏi, vị thiền sư bèn hỏi lại: “Nếu trong cuộc đời này cha ông chết trước ông, ông có buồn không?”.
Viên ngoại trả lời “Có”. Vị
thiền sư phân tích: “Nếu ông chết trước
cha ông thì cha ông sẽ buồn hơn gấp nhiều lần. Xưa nay trẻ khóc già, ít khi già
khóc trẻ. Cái chết của những đứa con luôn làm cha mẹ buồn đau gấp bội. Tương
tự, nếu cháu chết trước con hoặc chắt chết trước cháu thì không chỉ một thế hệ
mà cả ba thế hệ cùng khóc. Khổ đau cứ thế mà nhân lên. Do đó tôi cầu mong gia
đình ông sẽ diễn ra theo đúng trình tự ông chết trước rồi đến con, cháu, chắt.
Được như vậy thì còn gì phúc bằng”.
Như vậy, nhìn rõ bản chất quy
luật sinh tử là cách thức để tiếp cận hạnh phúc, mặc dù điều này có thể khó
được người đời chấp nhận.
Chuyện trong dân gian có hai vợ
chồng nọ chung sống với biểu hiện bên ngoài rất hạnh phúc. Người chồng đến lúc
già yếu bệnh nằm liệt giường, dù bà vợ khóc thương, lo lắng, chăm sóc nhưng
không thể giúp ông cải tử hoàn sinh. Cuối cùng ông qua đời. Suốt mấy mươi năm
chung sống ông bà đã chia sẻ, cảm thông, chung thủy và tôn kính nhau. Người
ngoài nhìn vào đôi khi cảm thấy ghen tỵ, và mơ ước có được hạnh phúc như họ.
Sau ngày chôn cất, bà vợ dọn dẹp nhà cửa, sắp xếp ngăn nắp đồ đạc của chồng, bà
chợt thấy một cuốn sổ tay dầy đặc những lời yêu thương. Bà cảm động khi nghĩ
rằng ông đã dành cho bà tình yêu trọn vẹn nhất. Nhưng đến cuối quyển sổ, bà
bàng hoàng khi đọc dòng chữ: “Em yêu, lẽ
ra anh phải gặp em thường xuyên hơn nhưng bà vợ già của anh đã quản lý quá
chặt, anh không thể đến với em như đã hẹn… Hãy tha lỗi cho anh về lần thất hứa
đó”. Người vợ nổi giận quăng hết đồ đạc, đập bàn thờ, đốt hết tất
cả những kỷ vật của người chồng.
Giả sử người vợ không có kiến
thức về cuốn sổ tay ấy thì niềm hạnh phúc khi nghĩ rằng chồng dành cho mình
tình yêu trọn vẹn sẽ theo bà đời đời kiếp kiếp. Thế nhưng, sự kiện phũ phàng đã
dập tắt tất cả. Câu chuyện cho thấy kiến thức về khổ đau chưa hẳn sẽ đem lại
hạnh phúc. Nhưng nhìn từ góc độ nhà Phật, bản chất của khổ đau và sự nhìn nhận
về nó giúp người đó khắc phục được khổ đau.
Nhà thơ Hàn Mặc Tử viết:
Người đi
một nửa hồn tôi mất,
Một nửa
hồn kia bỗng dại khờ.
Quan niệm về vũ trụ, nhân sinh,
cuộc đời Hàn Mặc Tử đó là tình yêu. Khái niệm “đi” không nhất thiết là qua đời, mà có thể là từ chối tình
yêu. Câu thơ phản ánh mối tình giữa nhà thơ và người Phật tử mà ông yêu say
đắm. Do khác biệt tôn giáo nên cuộc tình đó không thành. Như vậy, hạnh phúc
theo quan niệm của ông là tâm hồn, nếu tâm hồn được chia làm hai phần thì sự
vắng bóng người yêu làm cho một nửa bị mất đi, và nửa còn lại nếu có cũng trở nên
vô dụng.
Quan niệm về tình yêu, khi không
được đáp ứng sẽ mang lại khổ đau rất lớn. Tuy nhiên, đối với đạo Phật, nếu là
người không chung thủy thì sự ra đi của người kia dù muộn hay sớm, tình cờ hay
cố ý,… vẫn không thể làm mất hồn, ngược lại còn giúp tâm người còn lại được
sáng ra. Đức Phật nói “Bản chất của những
gì thuộc về hạnh phúc thế gian mang rất nhiều chất liệu của giác quan. Điều gì
thuộc về giác quan sẽ thuộc về điều kiện. Nếu hội đủ điều kiện thì giác quan sẽ
mang lại hạnh phúc, ngược lại hạnh phúc sẽ xa lìa”. Vì vậy tính lâu
dài của nó không bền. Hơn nữa, đức Phật khẳng định trong cuộc đời, mọi thứ đều
diễn ra theo quy luật: Phát sinh, trưởng thành, biến hoại, huỷ diệt với cấu
trúc: “Sinh, Trụ, Dị, Diệt”,
“Thành, Trụ, Hoại, Không”, “Sinh, Lão, Bệnh, Tử”, v.v… Đứng trước
hoàn cảnh đó, người hiểu đạo hay người con Phật thật sự sẽ không bao giờ nao
núng, không đặt nặng tình cảm như tối hậu của hạnh phúc trong cuộc đời. Nhờ
vậy, sự chấp mắc không nhiều, nơi nào vắng sự chấp mắc nơi đó sẽ có hạnh phúc.
Nói cách khác, trong bất kỳ tình huống nào, người con Phật đều tạo cách đánh
giá nhìn nhận vấn đề sao cho có lợi, tránh những đánh giá mang tính chất an ủi
vì an ủi, chỉ có tác dụng như thuốc an thần xoa dịu trong khoảnh khắc. Nhưng
sau đó, khi sự xoa dịu không còn tác dụng thì phản ứng phụ sẽ ảnh hưởng, chi
phối và khống chế như kinh điển Pàli nói “nó
thiêu đốt ta”. Vì vậy, hiểu được bản chất của khổ đau và những gì
dẫn đến khổ đau là cách thức để ta tiếp cận và hưởng được các giá trị thật sự
của hạnh phúc.
Vượt
qua đau để không bị khổ
Khổ đau có hai dạng: Khổ về thân
và khổ về tâm. Nói theo duy thức học là “Thân
khổ thọ và tâm khổ thọ”. Hai loại khổ này dù độc lập nhưng lại có
mối quan hệ hai chiều, loại này ảnh hưởng loại kia và ngược lại. Tác dụng hai
chiều của thân và tâm gần như khống chế tất cả những người sống trong tình
trạng mà kinh gọi là “phàm phu”.
Người vượt lên trên tình trạng phàm phu sẽ không bị tác động.
Dân gian thường sử dụng cụm từ “đau khổ”. Đau thuộc về thân, khổ thuộc
về tâm. Người ta quan niệm khi nỗi đau của thân vật lý xuất hiện thì lập tức
nỗi khổ của tâm cũng kéo theo. Nhưng đối với người con Phật, có những nỗi đau
chỉ là đau nhưng không khổ, và có những nỗi khổ nhưng không đau. Người con Phật
nên chấp nhận những cơn đau vật lý nhưng đừng bao giờ để cơn đau tâm lý khống
chế. Quan Công thời Tam Quốc đã thành công trong việc khống chế cơn đau vật lý,
không để nó ảnh hưởng tinh thần. Sử sách ghi rằng: Khi bị mũi tên bắn vào vai,
người thường có thể rơi vào tình trạng đau đớn đến mất ăn mất ngủ, ngã quỵ
không còn khả năng làm bất cứ việc gì. Nhưng với Quan Công, ông tập trung tinh
thần một cách cao độ vào những quân cờ, thế cờ, thậm chí thắng cả đối thủ tầm
cỡ của mình. Khi tâm chuyên chú vào bàn cờ thì ý thức của tâm về cơn đau vật lý
sẽ không xuất hiện. Duy thức học cho rằng: “Tâm
con người chỉ tiếp xúc với đối tượng trần cảnh trong một sát na và chỉ một đối
tượng duy nhất”. Nếu tâm thức đang chuyên chú vào một điều gì đó
thì nỗi đau vật lý sẽ không có mặt. Hiện hữu như không hiện hữu, có như không
có.
Các biểu hiện đau về thân thể
như chảy nước mắt, dù được mô tả bằng hình ảnh “giọt châu” long lanh màu sắc thì đó vẫn là sắc màu của khổ
đau đa dạng. Tuy nhiên, có những trường hợp giọt nước mắt không biểu hiện sự
khổ đau, mà là của hạnh phúc vô ngần.
Một cầu thủ vui mừng chảy nước
mắt khi sút được trái banh vào khung thành đối phương, những diễn viên, nghệ sỹ
bật khóc khi được xướng danh đoạt giải Oscar, Grammy hay giải thưởng danh dự
nào đó. Nước mắt là một phản ứng phức tạp mà dựa vào từng tình huống cụ thể,
người ta có thể xác quyết rằng nó biểu hiện của hạnh phúc hay khổ đau. Đó cũng
là một trong nhiều cách thức để nhận biết hay đánh giá các sự kiện trong cuộc
đời. Chỉ một sự kiện, nhưng dụng tâm theo cách này thì hạnh phúc còn, theo cách
kia thì đau khổ.
Một số biểu hiện đau khổ khác
như nhíu mày, nhăn mặt, méo miệng, tay chân run rẩy, nói lắp bắp, đôi mắt thất
thần, người đờ đẫn,... tất cả những điều đó là ngôn ngữ để diễn tả nỗi đau, hay
biểu hiện các tầng lớp khổ đau khác nhau. Người cố gắng nén cơn đau, không biểu
hiện ra ngoài là những người luôn hướng nội, có đời sống nội tâm lớn. Ngược
lại, người có tính cách “ruột để ngoài da”,
tình cảm, cảm xúc nhìn vào là biết ngay. Nếu so sánh hai loại người này thì với
người có chiều sâu, nỗi đau của tâm sẽ rất nguy hiểm. Theo vật lý, hóa học,
cũng như y học, con người cần phản ứng. Phản ứng là cách thức làm cho quá trình
trao đổi chất, các phản ứng hoocmon được diễn ra một cách tốt đẹp. Phản ứng làm
cho người ta chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác. Do đó, phản ứng vật
lý hoá học trong cơ thể rất cần thiết để con người thích nghi với hoàn cảnh
xung quanh.
Tắc kè, kỳ nhông được các nhà
khoa học vạn vật khẳng định: “Đó là loài
vật có tiềm năng thích ứng với môi trường cao nhất trong tất cả các loài vật
trên thế giới”. Chẳng hạn khi bò trên tảng đá xám, da nó thể hiện
màu xám, hoặc nếu đang bò trên cành lá xanh thẫm thì màu xanh thẫm này sẽ được
hiển thị trên da. Chúng đổi màu sắc nhằm tránh những nguy khốn bị các loài động
vật khác phát hiện.
Con người cũng cần có những phản
ứng tương tự. Khi bị tát, đứa bé sẽ khóc ngay, đặc biệt những đứa trẻ nhà giàu.
Chẳng những chúng khóc mà còn nằm vạ để mọi người xúm lại vuốt ve, vỗ về. Như
vậy, một cái tát, khổ đau nhỏ được đáp lại bằng sự chăm sóc lớn. Trong trường
hợp này, dù là phản ứng bình thường không dụng ý của đứa trẻ nhưng vẫn tạo cơ
hội thu hút nhu cầu hạnh phúc. Vì thế, phản ứng vật lý là cần thiết.
Quan sát các bệnh nhân ở bệnh
viện, họ phản ứng co rút cơ bắp trước cơn đau bệnh tật. Nếu thiếu những phản
ứng này, sự phóng thích nỗi đau bị kìm nén sẽ chuyển ngược vào tâm làm tâm trở
nên khủng hoảng. Một tù nhân bị chặt cánh tay, phản ứng đầu tiên của anh ta khi
thấy con dao từ trên đưa xuống là nhắm mắt lại để quên nỗi đau đang tiếp cận
với chính mình. Kế đó, anh ta hét lên, co chân rút tay, giẫy giụa. Đó là những
phản ứng để phóng thích cơn đau ra bên ngoài.
Đôi khi nỗi đau chỉ có một nhưng
nỗi sợ hãi về cơn đau làm cho cơn đau tăng lên với cường độ mà đôi lúc người đó
không chịu nổi. Các nhà tâm lý học Mỹ đã làm cuộc thử nghiệm với một người tử
tội. Thay vì xử tử hình một cách nhanh chóng nhất, người ta thông báo với tử
tội rằng họ sẽ dùng kim châm chích vào các mạch máu để cho máu chảy. Tử tội sẽ
chết khi máu đã chảy hết. Người tù nhân tưởng tượng đến hình phạt mà mình sắp
phải chịu, anh ta lo lắng, sợ hãi, khủng hoảng. Đến khi tiến hành, để cường
điệu sự tưởng tượng, người ta bịt mắt tù nhân lại. Lúc đó các nhà tâm lý học
hoàn toàn không châm chích gì vào mạch máu của anh ta, họ lát một ít lớp da
thật mỏng để tạo cảm giác hơi đau rát, sau đó cho nước rỉ giọt qua vết xước da
đó, đồng thời họ đặt một xô hứng lấy những giọt nước rỉ xuống để tạo âm thanh
của máu chảy vào xô. Người tù nhân tưởng tượng máu mình đang chảy từng giọt
xuống xô, cảm giác đau tăng lên tỷ lệ thuận theo từng tích tắc của đồng hồ. Chỉ
sau ba mươi giây anh ta tắt thở.
Sau đó, người ta tiến hành một
thí nghiệm thứ hai, dùng máy giải phẫu mở bộ não và thấy rằng người tù nhân đó
không chết vì mất máu mà vì các dây thần kinh bộ não trung ương bị co rút lại
đến độ tắc nghẽn. Họ đi đến kết luận “nỗi
sợ hãi khổ đau làm cho khổ đau tăng lên gấp bội”. Nói theo đạo
Phật: “Bản chất của sự vật và sự kiện
không có thuộc tính”. Tùy theo tâm của con người trong từng cảnh
huống mà nó khác nhau, lớn hoặc nhỏ, phức tạp hoặc đơn giản. Chính vì thế mà
trong cuộc đời này có nhiều người dửng dưng trước cái chết. Chết không phải là
nỗi sợ hãi đối với họ dù cái chết diễn ra dưới bất kỳ một tình huống nào, họ
thản nhiên nên cơn đau không thể khống chế họ.
Khổ đau về tâm rất đa dạng, kinh
điển Pàli thường gọi nó bằng một chuỗi năm từ có nghĩa khác nhau trọn vẹn: “Sầu, bi, khổ, ưu, não”. Đó là những từ
diễn tả nỗi đau nội tâm theo cấp bậc tăng dần. Sầu phản ánh tâm lý buồn, đôi
khi là nỗi buồn bâng quơ: “Tôi buồn không
hiểu vì sao tôi buồn”. Mặc dù theo tâm lý học: Không có nỗi buồn
nào là vô cớ. Tất cả mọi thứ đều có nguyên nhân, và cấp độ của các nỗi buồn này
khác nhau. Khi hiểu được bản chất của tâm trong trạng thái khổ, con người sẽ
tìm được cách để khống chế nó. Trạng thái trầm cảm, lạnh nhạt với cuộc sống,
các nhu cầu, các mối quan hệ... khi tiếp xúc với nỗi mất mát quá lớn, tâm con
người gần như bị thu rút lại như con rùa rút vào mai. Cảm giác chán chường thất
vọng tràn đầy cả thân tâm theo như Nguyễn Du nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, nó có thể là kết quả
của phản ứng bị chối bỏ, bị phân biệt đối xử, không được tôn trọng, hay giá trị
của mình không được đánh giá một cách đúng mức. Tất cả đều để lại những “sầu, bi, khổ, ưu, não”.
Một vị vua bỏ ngai vàng lên núi
tu, vị thiền sư đã khuyên rằng: “Trên núi
không có Phật, hãy trở về cung vàng điện ngọc sẽ thấy rất nhiều Phật ở đó”.
Nếu nhìn đúng thì tất cả sự kiện đều là yếu tố giúp giác ngộ, thăng hoa, còn
nếu đánh giá sai sự kiện và nhìn không đúng thì dù cho hạnh phúc có ở bên cạnh
người ta vẫn xua đuổi nó.
Phóng
thích nỗi khổ
Nếu ai đó cố nén, không phóng
thích cơn đau ra ngoài thì hãy đề phòng phản ứng tâm lý nguy hiểm hơn, đó là
phản ứng hóa chất. Phản ứng hóa chất như chiếc bong bóng, khi sức căng phồng
quá giới hạn, nó sẽ vỡ tung. Cậu bé 16 tuổi Hoài Văn Hầu, Trần Quốc Toản, khi
đứng trước sự kiện giặc Nguyên Mông xâm chiếm nước Nam, Toản muốn khởi nghĩa nhưng
điều kiện chưa đủ để được tham dự hội nghị Bình Than nêu cao ý chí đầu quân
giết giặc. Sách sử mô tả, Toản bóp nát quả cam vua ban tặng đến độ không còn
giọt nào. Đó là cách phóng thích cơn đau ra ngoài, nhưng trong trường hợp này
sự phóng thích đã được nuôi dưỡng bởi lòng thù hận. Ta đau, ta ghét, ta thù mà
không để ai biết theo kiểu “giận đắng tâm
can, miệng mỉm cười” thì cấp độ tăng trưởng đổ dồn của tâm sẽ lớn
đến một mức độ nào đó rồi vỡ tung. Khi đó cả người thù hận và người bị thù đều
là nạn nhân, mà nạn nhân đầu tiên là người ôm mối thù hận ấy trong lòng. Đến
lúc nào nỗi đau còn có mặt thì tâm còn bị thiêu đốt, bị trấn áp, làm mất hết
cảm giác hạnh phúc thông thường lẽ ra cần phải có.
Một điều cần bàn thêm ở đây là
câu nói thường được dẫn chứng một cách thiếu sót và sai lệch: “Nói năng như chánh pháp, im lặng như chánh pháp”.
Câu này rất hay ở vế đầu tiên, nhưng vế thứ hai, nếu không đặt lại vấn đề thì
rất nguy hiểm. Im lặng thế nào là “im
lặng như chánh pháp”?!. Trong nguyên tác bản Pàli không có câu đó
mà chỉ có câu “im lặng như thiền định”.
Trường hợp cần phát ngôn, trình
bày, công bố thì người phát ngôn phải lấy “dũng”
làm đầu. Cái “dũng” đó phải
được nuôi lớn bằng thái độ vô ngã và tinh thần vô úy, nên lời nói lúc đó có
trọng lượng thật sự, “uy vũ bất năng
khuất”. Nhưng cũng có những trường hợp đức Phật khuyên: “Nếu lời nói không mang lại lợi ích thật sự cho mình
và người khác, thì hãy giả vờ như không biết. Lúc đó hãy chọn giải pháp ‘im
lặng như thiền định’ để hoá giải phản ứng thù hận và bực tức”.
Người Phật tử không nên chọn
giải pháp im lặng trong sân hận như Trần Quốc Toản, dù sự im lặng của Toản là
có lợi. Im lặng để hoá giải, nhìn vào bản chất của cuộc đời và tìm cách giải
quyết vấn đề từ ngay gốc rễ của nó. “Chiến
tranh là cách thức để bảo vệ hoà bình”, câu nói này nghe có vẻ khát
máu, nhưng vẫn đúng trong một số trường hợp.
Nếu đất nước đó là nước nhược
tiểu nằm giữa những nước hùng đại có tham vọng bành trướng bá quyền thì sự củng
cố và chuẩn bị chiến tranh trong trường hợp này làm cho quân địch không dám tấn
công trước theo kiểu “tiên hạ thủ vi
cường”. Nhưng trong nhiều trường hợp sự chuẩn bị vũ khí sẽ không
mang lại hạnh phúc thật sự.
Ấn Độ và Pakistan, từ một đất
nước chia cắt làm hai rồi trở thành kẻ thù lẫn nhau chỉ vì tranh giành một mảnh
đất gần như không có giá trị thương mại, tuyết rơi quanh năm, đôi lúc nhiệt độ
chỉ còn - 300C. Ấy thế mà người ta vẫn chiến tranh với những ngụy biện rằng đó
là “chủ nghĩa yêu nước”, “chủ nghĩa vì dân”,… Nhà Phật dạy “phải dùng thiền định để hóa giải nỗi đau của tâm”.
Bản chất của thiền định là buông
xả, tha thứ, vô ngã, bất vị lợi và thong dong tự tại. Chính vì những chất liệu
này, con người mới có thể tẩy rửa được những mối hận thù. Nuôi hận thù giống
như “nuôi ong tay áo”, nó sẽ
quay ngược lại cắn ta. Cho nên, người khôn, biết thương bản thân sẽ không bao
giờ làm những việc có hại cho chính bản thân mình.
Hạnh
phúc của thân tâm
Loại hình hạnh phúc được chia
làm bốn cấp độ khác nhau. Cơ năng của hạnh phúc thường được thể hiện theo hai
góc độ “Thân lạc thọ” và “Tâm lạc thọ”.
Thân lạc thọ là cảm xúc hạnh
phúc thuộc về vật lý của thân. Nó thuộc về dòng chảy của các hoá chất vận hành
trong cơ thể con người. Về phương diện triết học, “thân lạc thọ” thuộc về giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi và
thân. Hạnh phúc thuộc về thân thường được biểu hiện qua các hoạt động phục vụ
cho sinh hoạt theo chiều hướng có lợi và làm cho thân có cảm giác thoải mái. Ví
dụ khát được uống, đói được ăn,… Hạnh phúc về thân thường để lại phản ứng tham
đắm, hạnh phúc nhiều chừng nào thì tham đắm tỷ lệ thuận nhiều chừng đó. Nhiều
người đặt nặng chủ nghĩa hình thức, các giác quan, thay vì chỉ mang lại hạnh
phúc tạm thời, họ lại quan niệm đó là cứu cánh của hạnh phúc. Vì thế, nhận định
bản chất thật của hạnh phúc thuộc về thân lạc thọ là sai lầm.
Tâm lạc thọ là dòng chảy cảm xúc
mang lại niềm hân hoan, phấn chấn, thậm chí dẫn đến trạng thái đắm nhiễm. Chẳng
hạn khi được khen ngợi, tán thán, cung kính, hoặc sống trong môi trường giao du
với những người tốt, bạn tâm đầu ý hợp, thuận lợi tu tập, sự nghiệp, mang lại
cho con người cảm giác thoải mái về tâm.
Dĩ nhiên, hai phương diện thân
lạc thọ và tâm lạc thọ tác động với nhau theo hai chiều thuận nghịch. Có những
trường hợp lạc thọ của thân làm tâm trở nên hân hoan, hoặc lạc thọ của tâm tác
động đến thân và làm thân được khinh an. Hai trường hợp tác động này đều để lại
rất nhiều giá trị của hạnh phúc đối với người thế gian.
Sự khác nhau về quan niệm hạnh
phúc của thân và tâm, giữa người đời và người tu tập đạo giải thoát, khác nhau
ở chỗ: Tất cả các hoạt động của giác quan đều trở thành một điều gì đó rất vui
sướng đối với người đời, nhưng người tu tập quan niệm đó chỉ là những phản ứng
thông thường mà trong kinh điển Pàli thường gọi là “cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái biết, và cái xúc chạm”.
Khi quan niệm hình thái màu sắc chỉ là cái thấy thì phản ứng tâm lý sẽ không diễn
ra, hoặc diễn ra mà không có sự can thiệp của ý thức phân biệt rằng cái này là
hợp gu hay cái kia là không thích. Kinh điển Pàli dẫn một câu: Những người được
gọi là thánh nhân khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu trần cảnh, lạc thọ có khởi
lên đi nữa thì nó chỉ khởi lên theo phương diện phản ứng hoá chất hay sinh hoá
trong cơ thể. Nhận thức của các ngài không đắm nhiễm, không thích thú, không
đối kháng hay chống lại.
Khi xem trận đá bóng, một cầu
thủ sút vào khung thành đối phương, ủng hộ viên của đội bóng đó thì sẽ đứng dậy
vỗ tay hoan hô, biểu hiện sự vui mừng tột độ từ trong tâm tưởng. Trường hợp này
thể hiện sự tương tác rất rõ giữa tâm hoan hỷ và thân hoan hỷ. Nhưng đối với
người xuất gia hay hành giả, họ xem bóng đá để thưởng thức nét đẹp của tình đồng
đội, sự khôn ngoan, kỹ thuật dẫn banh, sút bóng…, tức là thưởng thức góc độ
nghệ thuật chứ không thưởng thức để bênh vực đội bóng này và không tán đồng đội
kia. Xem để thấy nó là một sự kiện đang diễn ra chứ không ủng hộ hoan hô hay
phản đối.
Tác
nhân của hạnh phúc
Mặc dù đạo Phật quan niệm về một
chủ thể hay một ngã thể như là tác giả của các sự kiện đang diễn ra, hoặc không
có chủ thể của dòng nhận thức và dòng chảy cảm xúc (vô ngã), nhưng như vậy
không có nghĩa là tác nhân của hạnh phúc không có mặt. Tác nhân đó là một chủ
thể không có ngã thể, một chủ thể được kết hợp bởi dòng chảy của cảm xúc, ý
niệm hoá, sự vận hành và nhận thức của tâm.
Sự khác biệt với quan niệm triết
học và các tôn giáo khác ở chỗ triết học phương Tây, phương Đông, trừ đạo Phật,
và các tôn giáo xưa nay cho rằng con người có một ngã thể, mọi sự vật cũng đều
có một thực thể phát sinh, nếu có. Đối với nhà Phật, cái ngã thể đó nếu có chỉ
là sự vận hành theo quy luật vô thường của thời gian, vô ngã về phương diện vật
lý và không gian. Cho nên, tác nhân hạnh phúc trong trường hợp này bao gồm: Thứ
nhất, hạnh phúc đạt được từ bản thân vô ngã của một cá thể nào đó; thứ hai,
hạnh phúc đạt được từ một tổng thể các cá thể vô ngã trong tinh thần đồng đội,
cộng đồng mà nhà Phật thường gọi là cơ năng của cộng nghiệp.
Quan niệm của Phật giáo Nam tông
không chấp nhận khái niệm cộng nghiệp, vì họ cho rằng tác ý, nhận thức đánh
giá, dụng ý, khởi tâm của con người là một hành động và cấu thành bản chất của
hành vi, tạo thành “học thuyết hành động”
trong đạo Phật. Do đó, tất cả những hành vi không thuộc về tác ý, có nghĩa là
vô tình, không dụng tâm, đều không phải là nghiệp. Đó là cách giải thích thông
thường dựa vào kinh điển Pàli, nhưng quan niệm như vậy không phản ánh đúng câu
đức Phật đã định nghĩa: “Này các tỳ kheo,
tác ý là nghiệp, khi có tác ý, hành động con người được thể hiện qua ba cơ năng
là thân, khẩu, ý”. Rõ ràng trong định nghĩa súc tích, ngắn gọn này,
đức Phật hoàn toàn không đề cập đến những gì không thuộc tác ý là không có hệ
quả của nghiệp. Đức Phật chỉ nói rằng chính tác ý và sự vận hành của ý thức, ý
niệm có bản chất là một hành động, khi hành động của ý thức có mặt thì hành
động của tay chân, lời nói, sự vận hành của thân sẽ tự động kéo theo. Hay nói
cách khác, trong định nghĩa này, đức Phật nói về mối quan hệ biện chứng giữa ý
thức và các hành vi trong cuộc đời. Ngài không hề nói tới hành vi không có ý
thức là không có quả báo. Vì thế, lý giải trong một số trường hợp của các học
giả Nam
tông có thể làm cho người khác hiểu sai và hiểu lệch lạc học thuyết hành vi
trong Phật giáo.
Một tài xế xe tải lái xe vào ban
đêm. Trạng thái mỏi mệt uể oải, cộng thêm cơn buồn ngủ khiến anh ta đụng vào
một ngôi nhà, các khách bộ hành và cán vào các xe đi trước. Không một tài xế
nào muốn gây tai nạn, nhưng trên thực tế điều này vẫn xảy ra bất cứ lúc nào khi
tài xế ngủ gật trong lúc chạy xe về đêm. Họ vẫn phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật, dù có những trường hợp xe máy chạy ẩu, xe đạp băng qua đường mà
không để ý nhìn, thế nhưng tài xế xe tải vẫn phải chịu trách nhiệm nhiều hơn
theo quy định của luật giao thông. Trong trường hợp này, hành vi cán người
không có ý thức vẫn tạo ra hệ quả nghiệp báo, nhưng có thể nhẹ hơn, nếu có ý
thức thì nghiệp báo sẽ nặng hơn.
Cho nên, có những trường hợp tác
nhân bắt nguồn từ nhận thức, quyết định của một cá thể mà hoàn toàn không có sự
tác động của bất cứ người nào. Cộng nghiệp, dĩ nhiên phải có, dù nghiệp được
cấu thành bởi các hành vi có ý thức. Có những hành vi ý thức trùng nhau, hoặc
giao thoa với nhau ở một tần số nào đó. Chẳng hạn trường hợp của những hooligan
bóng đá, khi đội bóng của họ bị loại khỏi vòng tứ kết có thể dẫn đến tình trạng
hooligan tự tử, vì thua cá độ, nhiều người bực tức đi tìm đội bóng đối phương
để trả thù... Như vậy, sự tức giận, các hình thức biểu tình chống đối, mặc dù
không ai bảo ai, nhưng nó đều có một tần số sân hận, không hoan hỷ với kết quả
bại trận của đội bóng mình ngưỡng mộ từ lâu. Và như vậy, các hoạt động ý chí
bất đồng đó giống nhau về bản chất nên tạo thành một hành vi được gọi là cộng
nghiệp.
Cho nên tác nhân hạnh phúc trong
trường hợp tập thể cùng hỗ tương, cùng làm việc, cùng tạo nên một hành vi sống
nào đó, hạnh phúc vẫn có thể được xem là cộng nghiệp. Ở một số quốc gia, người
dân vừa lọt lòng đã có những chế độ an sinh xã hội rất cao. Người thất nghiệp
không chết, hầu như không có hình ảnh của kẻ ăn xin ngoài đường, bởi vì tất cả
những người có công ăn việc làm đều phải đóng thuế cho nhà nước. Như vậy, hành
vi đóng thuế tập thể tạo thành cộng nghiệp là giúp đỡ người khác, duy trì an
sinh xã hội tốt đẹp. Mỗi tháng người thất nghiệp được nhận trợ cấp đủ để duy
trì một cuộc sống bình an. Ngoài ra, họ được các chế độ như mua thuốc, các sản
phẩm dược liệu với giá bằng phân nửa những người có công ăn việc làm. Nếu người
thất nghiệp là phụ nữ có hai con nhỏ, thì chế độ an sinh xã hội sẽ tăng lên gấp
ba lần. Cho nên người ta có thể phát biểu mà không sợ sai lầm rằng: “Lao động là vinh quang, nhưng lang thang thì không
chết đói”. Hệ thống đó tạo hoàn cảnh thích hợp cho những người
thiếu may mắn trong xã hội, không lâm vào cảnh khốn cùng để dẫn tới những hành
động vi phạm luật pháp. Do đó, những quan niệm về chế độ an sinh xã hội và tất
cả cùng sống theo chế độ đó sẽ tạo nên nghiệp tập thể và người sinh ra ở nước
đó sẽ hưởng những phước báu mà nước khác không bằng.
Nước Việt Nam có những cộng
nghiệp tạo thành bản chất văn hóa dân tộc, phong cách con người Việt Nam, dù
nhỏ bé nhưng kiên cường bất khuất, dũng cảm, không sợ giặc ngoại xâm. Mỗi thứ
có một giá trị riêng. Nhà Phật cho rằng người sống trong những nước nghèo có cơ
hội hưởng hạnh phúc về phương diện nhận thức, tâm lý cao hơn, bởi vì “hoa sen chỉ nở ở bùn dơ”. Người sống
trong hoàn cảnh thuận lợi đôi lúc không tận hưởng những cơ hội sẵn có, quan
niệm “đứng núi này trông núi nọ”,
làm người ta đánh mất nhiều cơ hội hưởng thụ hạnh phúc.
Vào thế kỷ thứ XI tại Trung Hoa,
có một cậu bé vốn rất thích leo núi. Ngày nọ, một ông lão cốt cách như bậc tiên
nhân đến và sờ vào đầu cậu bé rồi nói: “Sau
này nếu con muốn chinh phục các ngọn núi thì đừng bao giờ leo các ngọn núi
thấp, hãy leo những ngọn núi cao nhất”. Nói xong, ông ra về và ngày
hôm sau qua đời. Cậu bé nhớ câu nói ấy, đến khi mười tám tuổi cậu bắt đầu chinh
phục các ngọn núi ở Giang Bắc và Giang Nam, nơi có khoảng bảy mươi lăm
ngọn núi chọc trời. Cậu ta chọn ngọn núi cao nhất để leo, khi leo nửa chừng cậu
nhìn sang ngọn núi kế bên thì thấy ngọn núi kế bên cao hơn ngọn núi mình đang
leo. Đây thực ra chỉ là ảo giác về phương diện không gian. Khi ở dưới chân núi
này nhìn sang núi bên cạnh, dĩ nhiên ngọn núi ta đang đứng là cao nhất, nhưng
khi leo đến giữa chừng thì lại thấy núi kia cao hơn. Cậu ta bò xuống rồi lại
chạy qua núi đó leo lên. Cứ như vậy hết núi này đến núi kia. Bảy mươi lăm ngọn
núi cậu đều leo cả, và cuối cùng không leo đến đỉnh núi nào. Như vậy, “đứng núi này trông núi nọ” làm người ta
đánh mất rất nhiều cơ hội để tiếp nhận vinh hoa của hạnh phúc.
Người phương Tây rất thích nền
văn hóa tâm linh phương Đông, vì họ cho rằng hạnh phúc cộng đồng của họ và
phương diện vật chất không đủ sức đảm bảo được những nỗi đau về tâm, nỗi đau ly
dị, tham lam, sân hận, si mê hay nỗi đau về những gì muốn mà không đạt được.
Rất nhiều người du lịch tâm linh ở những nước nghèo khó như Ấn Độ, dĩ nhiên
không phải để tìm những giá trị thẩm mỹ của nhà cao cửa rộng, kiến trúc nguy
nga đồ sộ… mà để tìm những công trình lịch sử văn hóa liên hệ đến môi trường
tâm linh của tôn giáo. Ngược lại, người đang sống ở phương Đông với mức sống
thấp, giá trị tâm linh có sẵn, nhưng họ lại không màng mà đi tìm mảnh đất hứa ở
phương Tây để đáp ứng nhu cầu thiếu thốn về vật chất và phương tiện sinh hoạt.
Cả hai đều đang đứng ở tình trạng “đứng
núi này trông núi nọ” nên đánh mất cơ may hạnh phúc của chính mình.
Vì thế, hạnh phúc thực chất chỉ là dòng chảy của cảm xúc lệ thuộc rất nhiều vào
thái độ và cái gốc bản chất cuộc đời dành cho con người hơn là về những gì
người ta hiện có hay không có.
Thời
lượng hạnh phúc
Có những trường hợp hạnh phúc
chỉ tồn tại trong vài giây, vài tiếng, vài ngày, hoặc có những trường hợp hạnh
phúc kéo dài một năm, hai năm, ba năm hoặc vĩnh viễn. Thời lượng của hạnh phúc
có thể chia làm hai loại: Hạnh phúc tạm thời và hạnh phúc lâu dài.
Hạnh phúc tạm thời thường bắt
nguồn từ những sở hữu, vai trò vị thế xã hội, chức tước, hay nhu cầu yếu phẩm
đáp ứng những điều con người mong mỏi. Tất cả mang lại giá trị hạnh phúc với
thời lượng có giới hạn. Chẳng hạn rượu và ma tuý mà những thanh niên chọn lựa
để tìm hạnh phúc, đánh tan nỗi lo lắng buồn phiền, mệt nhọc khi đứng trước hoàn
cảnh khó khăn, hoặc những bế tắc mà họ đã nỗ lực rất nhiều nhưng không tìm ra
được giải pháp. Đó là trải nghiệm về phương diện quên đau khổ trong cảm giác
kích thích tố nhất thời. Dĩ nhiên, hiệu ứng phụ của nó làm cho người say rượu
mất đi sự kiểm soát về thân.
Dân gian Trung Hoa có câu triết
lý rất ấn tượng: “Rút dao chém xuống
nước, nước càng chảy mạnh; nâng chén rượu tiêu sầu, càng sầu thêm”.
Nước là dòng chảy của các phân tử H O và là sự vận hành liên tục, nó không phải
là vật chất rắn của các nguyên tố vật lý thông thường như gỗ hay đất đá…, vì
thế, dao không thể chặt được nước. Tương tự, người mượn rượu giải sầu, tìm quên
cảm giác buồn bực, nhưng càng uống vào sầu càng tăng, vì sau khi hết tác dụng
của rượu, họ còn lại về phương diện cảm giác chỉ là cái miệng đắng ngắt, cộng với
tác hại cho gan, bao tử. Thân thể thì hôi bẩn, tinh thần bải oải, cảm giác chán
chường tăng dần đều theo mức rượu mà người đó đã tiêu thụ. Vì thế, phản ứng của
rượu chỉ tạo cảm giác hạnh phúc tạm thời.
Sử dụng ma tuý, người ta tìm
những cảm giác tự tin, hạnh phúc theo cảnh tiên bồng không thể tìm thấy ở hạ
giới. Theo phân tích, cảm giác khoái lạc của ma túy, còn lớn hơn cảm giác giao
hợp dục tính giữa vợ và chồng gấp trăm ngàn lần. Điều này rất nguy hiểm. Cho
nên, một người bị nghiện ma túy thì cơ hội để bỏ rất khó.
Câu chuyện có thật về con trai
của một quan chức lớn rơi vào cơn nghiện và đã bị đưa vào trung tâm cai nghiện.
Khi cha đến thăm và khuyên con hãy từ bỏ để làm lại cuộc đời, người con trả lời
rằng: “Con rất muốn điều này và con đã cố
gắng nhưng không thành công. Cha không tin thì cha hãy thử. Nếu cha bỏ được thì
con sẵn sàng từ bỏ theo cha. Đến lúc đó, nếu con bỏ không được, con sẽ chết
trước mặt cha”. Người cha nghe vậy liền chích vào tay một phần tư
ống thuốc. Sau đó người cha chẳng những không bỏ được mà còn đón con về nhà và
nhờ con mua thuốc. Cho nên, trên đường phố Sài Gòn thường nhan nhản những dòng
“Ma túy, đừng nên dại dột thử, dù chỉ một
lần”.
Cảm giác hạnh phúc thuộc về giác
quan mang tính chất tạm thời là những điều cần phải dè dặt. “Nghìn vàng mua lấy nụ cười như không”,
đó là quan niệm hưởng thụ hạnh phúc của nhiều người có tiền của mà quên đi
trách nhiệm gia đình, xã hội và những hậu quả mà họ chưa bao giờ nghĩ đến. Tốt
nhất không nên đặt nặng các giá trị của hạnh phúc mang tính chất tạm thời dựa
trên cơ năng giác quan, vì chúng không đem lại an lạc thật sự.
Hạnh phúc lâu dài hoàn toàn
không liên hệ đến giác quan. Nó chỉ xuất hiện đối với những hành giả thật sự,
những con người dấn thân vào con đường chuyển hoá tâm linh. Trong con đường
chuyển hóa tâm linh đó, người ta sẵn sàng đánh đổi tất cả những hạnh phúc thông
thường của cuộc đời để đạt những hạnh phúc cao hơn. Ai chưa từ bỏ thái độ hưởng
thụ thì chắc chắn hạnh phúc tâm linh lâu dài sẽ không bao giờ có mặt. Rất nhiều
người trong tôn giáo lao vào tìm kiếm con đường giác ngộ tâm linh đó, nhưng
không thành công bởi vì phương pháp không đúng đắn. Cho nên, ý muốn là một lẽ,
nhưng để đạt được hạnh phúc lâu dài là một chuyện hoàn toàn khác. Đức Phật dạy
“ta phải có một ý thức và một thái độ
kiên cường, đặt dấu hỏi thật lớn về bất cứ điều gì được nghe qua, được hiểu
biết. Đừng vội tin dù đó là kinh điển, truyền thống, tín ngưỡng, là lời dạy của
bậc thầy, những lý luận siêu hình phù hợp với lập trường bản thân hay được
nhiều người tán đồng a dua, được bảo vệ bởi quyền uy và sức mạnh. Cần phải có
thái độ đặt dấu hỏi về những điều đó”.
Hai
loại hạnh phúc
Hạnh phúc có hai loại, hạnh phúc
thế gian và hạnh phúc siêu thế. Hạnh phúc thế gian thuộc về các giác quan, làm
cho con người tăng trưởng lòng ích kỷ, nuôi lớn bản ngã và kéo dài sự chấp mắc
trói buộc trong vòng luẩn quẩn khổ đau. Ngược lại, hạnh phúc siêu thế là cảm
giác làm cho lòng vị kỷ chết đi, lòng vị tha được chuyển nở, sự dấn thân giúp
đỡ người khác và hành vi lợi ích cho đa số, cộng đồng, chư thiên và loài người
được mở rộng hơn. Dĩ nhiên hạnh phúc siêu thế không bao giờ nuôi lớn bản ngã mà
làm cho người đó có thái độ hỷ xả về những gì mình đóng góp cho cộng đồng và xã
hội.
Hai khái niệm hạnh phúc này tạo
ra hai khuynh hướng và từ đó tạo ra sự khác biệt giữa một người được gọi là
phàm phu chạy theo hạnh phúc thế gian, và một người là thánh nhân chạy theo
hạnh phúc siêu thế.
Ví dụ, đối với người nghiện cờ
bạc thì các hạnh phúc giác quan khác như mắt quan sát phim ảnh, cảnh đẹp du
lịch mọi nơi, hoặc nhìn ngắm hình thái màu sắc kiến trúc nghệ thuật,… gần như
không có gì lôi cuốn. Trước mắt anh ta, hạnh phúc duy nhất là được ngồi trên
sòng bài, ăn những đồng tiền “của thiên
trả địa”, không là thành quả của mồ hôi nước mắt. Cho nên dù có
được cũng không biết cách giữ.
Năm 2003 khi sang Úc, chúng tôi
được các Phật tử dẫn vào một tòa nhà nguy nga lộng lẫy như cung điện. Họ không
cho chúng tôi biết đó là nhà gì. Vào bên trong, các cánh cửa được làm bằng
vàng, đính những viên kim cương óng ánh, hồ nước phun lên với nhiều màu sắc rực
rỡ của đèn. Quang cảnh lóa mắt dễ làm cho phản ứng hưởng thụ của con người bắt
đầu được chuyển nở. Đó là sòng bạc nổi tiếng nhất nước Úc. Đi tham quan một
vòng, chúng tôi có dịp quan sát nhiều gương mặt phản ánh hạnh phúc lẫn khổ đau.
Người cười hân hoan, sung sướng; kẻ thì gục đầu xuống, chán nản, buồn bã. Một
bà già hơn tám mươi tuổi đánh bạc bằng thẻ tín dụng. Chúng tôi đứng thử nửa
tiếng kiên nhẫn xem bà chơi, càng chơi càng thua, đến khi hết tiền trong thẻ bà
mới ra về. Báo chí đăng đã từng có người Việt vào chơi đến độ bỏ quên con mình
trên xe hơi đang khát nước và rất đói. Cuối cùng, đứa bé đã chết. Thoả mãn hạnh
phúc đặt trên các ảo giác thông thường làm cho những trách nhiệm của người làm
cha, làm chồng, một công dân xã hội có thể bị bỏ quên. “Tứ đổ tường” là cách thức làm cho con
người, thay vì được hưởng hạnh phúc, lại giết chết hạnh phúc.
Đó là cách phân loại hạnh phúc.
Khi đi ngược lại hạnh phúc thuộc giác quan thì lòng vị kỷ sẽ không có mặt. Đức
Phật Thích Ca từ bỏ hạnh phúc dục tính, từ bỏ ngôi vị đông cung thái tử để tìm
hạnh phúc mang tính siêu thế, trả giá bằng những lận đận khổ đau trên suốt
chặng đường tu tập khổ hạnh. Cuối cùng Ngài tìm được sự giác ngộ thật sự, để
lại giá trị cho nhân loại xưa, nay và mãi về sau. Như vậy, hạnh phúc không phải
là một sản phẩm, một món hàng có thể được mua bằng tiền bạc. Hạnh phúc có thể
đạt được bằng thái độ, những hành vi cao cả vị tha hơn là những gì thuộc về
giác quan.
Hạnh phúc thế gian, mặc dù có
những trường hợp phát xuất từ ảo giác, nhưng ước mơ trên bản chất vẫn là cách
thức để giúp cho con người đạt được hạnh phúc. Vì thế, nguyên lý trước nhất là
nuôi lớn hạnh phúc bằng những ước mơ đẹp. Theo tâm lý học Phật giáo, ước mơ có
ba loại:
- Ước mơ lương thiện phản ánh về
cuộc đời tốt đẹp, thanh cao, những đóng góp cao cả…
- Ước mơ sống xa hoa, phung phí,
hưởng thụ, không phù hợp quy luật đạo đức và luật pháp của xã hội.
- Ước mơ trung tính, nhiều người
không muốn tìm hạnh phúc cũng không muốn khổ đau, họ giữ tâm chai lỳ thụ động
trước những biến cố. Gần giống như những người chứng đạo dửng dưng trước những
biến cố của cuộc đời, nhưng họ không dửng dưng mà chai lỳ thụ động.
Trong ba dạng ước mơ đó, chỉ có
dạng đầu tiên là ước mơ đẹp, góp phần tạo nên hạnh phúc thật sự trong cuộc đời.
Tào Tháo có lần bị đuổi đánh tả
tơi, ông phải dẫn đội kỵ binh trốn chạy. Đường đi đến nơi ẩn náu cách xa mấy
chục dặm. Tất cả binh sĩ đều mỏi mệt. Tào Tháo nhanh trí nghĩ ra một cách, ông
lợi dụng ánh nắng chang chang phản chiếu trên mặt đường tạo ảo giác dòng nước
đang gợn sóng từ xa, điều này kinh đại thừa gọi là “dương điện” và nói rằng nước đang nằm phía trước. Binh
lính tin lời và nỗ lực đi tiếp. Khi đến nơi, dĩ nhiên nước không có nhưng rất
may có nhiều rừng cây để đoàn kỵ binh nghỉ ngơi thoải mái, nhờ đó họ đã đi đến
điểm mà Tào Tháo muốn đến.
Có những ước mơ dù khoảng cách
của nó đối với hạnh phúc thật sự là khoảng cách không đến được, ví dụ như dòng
nước mà Tào Tháo và đoàn kỵ binh nhìn thấy là dòng nước ảo, không có thật,
nhưng nếu không nhờ dòng nước ảo này chắc rằng đoàn kỵ binh sẽ không còn cảm
hứng nào để đi tới phía trước, và đặc biệt là có thể bị đánh một cách tức tưởi
và chết đau khổ từ phía sau. Một ước mơ đẹp, ước mơ uống ngụm nước sau những
ngày mỏi mệt dưới trời nắng gắt làm cho đoàn quân có thêm sức lực đi đến phía
trước một cách thành công. Do đó, có những trường hợp ước mơ chỉ là ước mơ
không bao giờ thành hiện thực, vì không được nuôi lớn bởi những hành vi tạo
tác, hay nói cách khác, nó đơn thuần chỉ phản ánh sự cầu nguyện, lời ước muốn,
kết quả không bao giờ có mặt.
Kinh Pháp Hoa đưa ra
những hình ảnh phương tiện về chặng đường hạnh phúc mà con người đạt được trên
nền tảng những ước muốn đẹp. “Hóa thành
dụ”, “thành”
thuộc về vật lý, tượng trưng cho trạng thái Niết bàn trong nhà Phật, từ đó mà
có thuật ngữ “Niết bàn thành”.
Khái niệm “Niết bàn thành”
làm cho rất nhiều người không theo đạo Phật hiểu lầm Niết bàn như một cảnh giới
vật lý. Thực ra, nó là trạng thái tâm lý khi các dòng chảy của tham, sân, si,
mạn, nghi, ác kiến không còn nữa thì hạnh phúc tự động xuất hiện, giống như khi
ánh sáng thổi vào thì bóng tối tự động biến mất. Nơi nào có Niết bàn thì tất cả
dòng chảy của khổ đau tự động tan biến. Nhưng để đạt được Niết bàn, kinh điển
Đại Thừa mong mỏi là Niết bàn của Phật tính, khác hoàn toàn với Niết bàn của
các vị Bồ tát và A La Hán, nên các Tổ, chư Phật đã phương tiện đặt ra ba chặng
đường hạnh phúc khác nhau để người đi có cảm giác con đường với những ước muốn
đẹp dễ dàng thực hiện. Khi đã an thân hưởng hạnh phúc của quả vị A La Hán, đức
Phật mới nói rằng đây chỉ là giai đoạn một, chặng đường thứ hai còn nằm phía
trước và do đó phải có ước mơ đẹp về chặng đường thứ hai để tiếp tục có được
hạnh phúc của nó. Cứ như vậy, hạnh phúc dần dần xuất hiện, và hạnh phúc cuối
cùng cao nhất sẽ có mặt.
Thực hiện ước mơ đẹp thì hạnh
phúc mới thật sự, dù những ước mơ đó chưa chín chắn, trọn vẹn, nhưng vẫn làm
cho con người có nghị lực kiên cường để vượt qua tất cả gian lao thử thách. Để
đạt được những ước mơ đó, nhà Phật dạy phải hỗ trợ chúng bằng những hành vi tạo
tác, cầu nguyện suông không mang lại kết quả nào. Câu chuyện Trung Hoa kể về
một anh bạch diện thư sinh tài giỏi. Trên đường lên kinh ứng thí, anh ta mỏi
mệt nên xin tá túc ở ngôi nhà bên vệ đường của một bà lão. Vừa đặt lưng xuống
giường, anh chàng ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, anh thấy mình đỗ trạng nguyên,
được vua cử dẫn đầu đoàn quân xung trận giết giặc. Chiến thắng trở về, anh được
vua khen thưởng và gả công chúa. Giấc mơ đẹp đang diễn ra thì bà lão gọi anh
dậy ăn cháo. Đây là những ảo giác hạnh phúc trong giấc mơ, điều này không nguy
hiểm. Thiền tông Trung Hoa nói “Những ước
mơ khi đang thức mới nguy hiểm, vì người ta ước mơ dựa vào mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân”. Nếu những ước muốn đó không thành sự thật thì sự dằn xé sẽ
rất lớn, trong khi ước mơ trong lúc ngủ chỉ đem lại cảm giác tiếc nuối. Vì thế,
người tu phải biết từ bỏ những mộng mị trong khi đang mở mắt.
Kinh điển Pàli thường đề cao vai
trò của chủ nghĩa hành động. Hành động là tác nhân đem lại hạnh phúc. Đức Phật
đưa ra hình ảnh: “Không thể nào lấy sữa
từ sừng của con bò cái, vì sừng không có chức năng tạo ra sữa”.
Trong cuộc đời, khi thức, nhiều người vẫn mơ có được sữa tươi từ sừng, nghĩa là
chỉ mơ mộng mà không làm, do đó không đạt được kết quả.
Như vậy, để có hạnh phúc thì
điều kiện cần là phải tìm tác nhân dẫn đến hạnh phúc. Còn mơ mà thiếu tác nhân
thì hạnh
phúc vĩnh viễn vẫy tay chào.
Trong vài thế kỷ đầu, khi kinh Pháp Hoa có mặt, chỉ có tất cả hai mươi sáu
phẩm. Phẩm Bồ tát Quan Thế Âm và phẩm Đà La Ni được đưa vào sau này. Nhưng rất
tiếc trong thực tế, Phật tử Trung Hoa, Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên
đều xem trọng phẩm này và biến nó thành nghi thức tụng niệm trong chùa, dẫn đến
quan niệm cho rằng đây là bài kinh mang lại hạnh phúc an lành, trong khi những
triết lý cao siêu lại ít được biết tới. Như phương pháp ngũ quán, phương pháp
quán ngũ âm, hoặc hạnh nguyện ứng thân vô bờ bến của Bồ tát Quan Thế Âm thì lại
không được nhấn mạnh, phân tích.
Phương thức tìm tác nhân dẫn đến
hạnh phúc, câu đáng tâm đắc là: “Ưng dĩ
Bà la môn thân đắc độ giả, tức hiện Bà la môn thân nhi vị thuyết pháp”.
Bà la môn giáo là ý thức hệ tôn giáo đối lập với đạo Phật. Nơi nào đạo Phật
phát triển thì ảnh hưởng của Bà la môn bị giảm. Do đó, Bà la môn xem đạo Phật
như một cái gai. Bồ tát Quan Thế Âm với hạnh nguyện độ thân tuyệt vời, mang
thân, hình ảnh, ý thức hệ của Bà la môn để giáo huấn quần chúng về Phật đạo,
mang lại hạnh phúc lâu dài.
Phật giáo Việt Nam có cơ hội
lớn, sống trong nghịch cảnh để làm bồ tát đạo. Nếu không có Đề Bà Đạt Đa thì
đức Phật đã không là đức Phật. Sự tương phản của Đề Bà Đạt Đa làm cho hình ảnh
của đức Phật ngày càng cao thượng. Khó khăn của hoàn cảnh làm cho người đạo
Phật đang hành đạo trong khó khăn trở nên nổi bật hơn.
Vượt lên trên phương diện chính
trị, hành giả Phật giáo vì hạnh phúc của chúng sanh mà tùy cơ, tùy duyên ứng
dụng “Ưng dĩ cộng sản thân, xã hội chủ
nghĩa thân di đắc độ giả, tức hiện cộng sản thân, xã hội chủ nghĩa thân nhi vị
thuyết pháp”, hoặc “Ưng dĩ
nhân quyền thân di đắc độ giả,…” đều được. Vấn đề cần lưu ý là “ưng dĩ” theo cách thức nào thì mới là
bảo vệ Phật pháp. Tùy duyên hoàn toàn không phải là ba phải, vì tùy duyên nhưng
không lấy học thuyết chủ nghĩa đó làm chân lý của mình. Đạo Phật có học thuyết
riêng, có chủ nghĩa riêng, có chân lý riêng, có cách thức phục vụ nhân sinh
riêng. Mục đích cuối cùng là hạnh phúc thật sư.
Tu tập biến những ước mơ đẹp trở
thành cơ năng để cảm thụ hạnh phúc là một điều nên làm. Tùy duyên nào cũng phải
được hướng dẫn bởi trí tuệ thì mới giữ được gốc, đạo Phật gọi là “tùy duyên bất biến”, để có bất biến
phải có trí tuệ. Bản chất ước mơ chỉ là công cụ kích thích, làm cho con người
phấn chấn, tạo được lý tưởng tốt, dấn thân một cách kiên định. Bằng không, thì
cả chỉ mãi mãi là những tòa lâu đài trên cát.
Phải nhìn vào những cứu cánh của
sự vật hơn là những đánh giá vào biểu hiện hời hợt của nó. Ý thức hệ Phật giáo
nào phục vụ cho dân tộc thật sự thì hãy dựa vào hệ quả mà nó mang lại. Dù nhân
danh cỡ nào đi nữa, nhưng không mang lại hạnh phúc cho con người, cho cuộc đời
thì tất cả những danh nghĩa đó chỉ vứt đi. Một lần Hòa thượng Thích Thanh Từ
sang Mỹ thuyết pháp, đã gặp biểu tình rất đông, cho rằng Hòa thượng là đại cộng
sản, các chùa cô lập không dám mời về, nên Hòa thượng phải giảng ở công viên.
Khi đó, một câu nói rất hay của Hòa thượng được đăng trên tạp chí: “Nếu mang một danh nghĩa và cho rằng nó phản ánh bản
chất của đạo Phật, ngoài danh nghĩa đó không còn là đạo Phật thì ta đang đi
trên con đường tà chứ không phải hoằng pháp lợi sinh”. Sau câu nói
đó, người ta càng chống đối Hòa thượng nhiều hơn nữa. Về Việt Nam, ngài đã ra
hàng loạt tác phẩm “Hoằng pháp trong bão
táp”.
Dù bị gán ghép vào việc này việc
nọ, nhưng là người con
Phật thì phải bản lĩnh, có tinh
thần xây dựng và tìm giải pháp thật sự cho con đường hạnh phúc. Đạo Phật không
chạy theo bất cứ chủ nghĩa nào. Đạo Phật tùy duyên vào từng hoàn cảnh xã hội để
làm trách nhiệm hoằng pháp mà đức Phật để lại gia tài tâm linh lớn cho chúng
ta. Là người con Phật, chúng ta có quyền ước mơ đẹp về điều đó.
Nói cách khác, quan niệm hạnh
phúc trong Phật giáo được đặt nền tảng trên đời sống đạo đức, dĩ nhiên vượt ra
khỏi những khuynh hướng hưởng thụ mà không đạt đến lợi ích an vui cho cộng
đồng. Hạnh phúc đặt trên nền tảng của lòng vị kỷ sẽ mang lại khổ đau cho đa số.
Đó là khuynh hướng không bao giờ được tán đồng và cần được loại trừ đối với
những người có tinh thần hướng đến con đường giác ngộ và giải thoát.
Ước
muốn hạnh phúc
Kinh định nghĩa “một trong những cơ sở dẫn đến khổ đau là ước muốn
mà không được toại nguyện”, có nghĩa là nguyện ước diễn ra theo
cách này mà thành tựu lại theo hướng hoàn toàn đối lập. Nỗi thất vọng do nỗ lực
dụng công theo đuổi một lập trường, sự nghiệp lại không được đền bù trả giá
đúng mức khiến con người trở nên khổ đau.
Khổ đau trước nhất là tiếc nuối
những gì đã bỏ ra mà không đạt được; khổ đau thứ hai là kết quả, cái mà con
người nghĩ rằng nó sẽ đáp ứng ở mức độ cuối cùng, nhưng mọi việc lại diễn ra
theo cách thức riêng của nó. Thế nhưng, vấn đề được đặt ra là khi ước muốn được
toại nguyện, con người có thật sự được hạnh phúc không?. Câu trả lời tùy thuộc
vào nội dung của từng ước muốn. Chẳng hạn sự thành tựu ước muốn trở thành tay
ăn trộm chuyên nghiệp, rõ ràng không mang lại hạnh phúc mà chỉ mang lại niềm
vui, niềm vui đó nuôi lớn bản ngã, còn hạnh phúc thì không có mặt thật sự. Rất
tiếc có nhiều người theo đuổi khuynh hướng tiêu cực này, hoặc đánh đồng hai
thành một, niềm vui là hạnh phúc. Có nhiều cách thức để truyền bá niềm vui, bao
gồm cả những tiến trình rất mạo hiểm.
Hai cha con hành nghề ăn trộm.
Người cha vô cùng lão luyện và người con cũng muốn không thua kém cha mình. Anh
yêu cầu cha truyền nghề một cách chính tông. Một hôm vào lúc giữa khuya, người
cha dẫn con lẻn vào một ngôi nhà giàu có. Sau đó cha bảo con hãy chui vào tủ
quần áo ngồi đợi cha. Người con vui mừng làm theo. Sau khi con chui vào tủ,
người cha hô lớn lên “trộm, trộm”
rồi bỏ chạy. Sáng hôm sau, con lững thững trở về sau một đêm đối phó với các
gia chủ và trốn chạy, thái độ anh hậm hực định thanh toán cha mình. Bấy giờ
người cha gật gù vỗ vào vai con và chúc mừng con đã thành nghề.
Câu chuyện một mặt phản ánh chủ
nghĩa kinh nghiệm, nhưng một mặt phản ánh ước muốn được thành tựu chưa chắc là
niềm hạnh phúc thuộc về đời sống của nội tâm. Có những bài học cần tính hiện
thực, đặt học trò vào một bối cảnh để tự tạo giải pháp cho riêng mình. Chủ
nghĩa kinh nghiệm rập khuôn bắt thế hệ sau phải bê các giải pháp của thế hệ
trước áp dụng cho các tình huống hoàn toàn khác nhau là điều mà các triết gia
duy lý rất phản ứng. Họ cho rằng bê khuôn kinh nghiệm của người trước áp đặt
cho những người sau là tạo khổ sở cho họ, đặt một giá trị chân lý bất di bất
dịch và bắt mọi người phải theo chân lý đó đôi lúc đánh mất những khả thể có
thể tiếp cận chân lý mà phải xóa bỏ những cái này mới làm chân lý hiển hiện
được.
Tuy nhiên phương diện cần nêu ở
đây là liệu ước muốn khi được thành tựu có mang lại niềm hạnh phúc hay không?.
Công thức “Ước muốn không thành tựu
=>Khổ đau” chỉ diễn ra một chiều, chiều còn lại “Ước muốn được thành tựu => Hạnh phúc”
chưa chắc là chân lý. Sự thành tựu ước muốn chưa hẳn là hạnh phúc, nếu thành
tựu ước muốn đó đặt trên nền tảng của đời sống vị kỷ mang lại khổ đau, đi ngược
lại quy luật của đạo đức, lương tâm và luật pháp.
Nỗi
buồn thành niềm vui
Khi sống trong môi trường hoàn
toàn trái biệt và đi ngược lại nguyện vọng của chính mình thì phải làm thế nào
để được an vui? Những nông dân chân lấm tay bùn, bằng rất nhiều nỗ lực, nhưng
cơm không đủ no, áo không đủ mặc. Mỗi bước chân đi trên đồng ruộng mang theo cả
gánh nặng về trách nhiệm gia đình, về cuộc sống. Khi vụ mùa bị thất thu, công
sức tiền bạc đổ dồn cho một năm trời nhưng cuối cùng không đủ để trả vốn. Lỗ
vốn và mất công, rõ ràng khổ đau tràn ngập. Trong những tình huống này, người
biết cách vẫn có thể tạo cho mình được niềm vui. Dĩ nhiên, niềm vui có thể bắt
nguồn từ sự tự an ủi nào đó, theo cách nói của người phàm, bằng không thì phải
biết cách nhìn, quán chiếu, để chuyển nỗi buồn thành niềm vui. Câu ca dao được
các em mục đồng hát nghêu ngao trên đồng ruộng: “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ”. Đó là
cách thức tìm kiếm giá trị hạnh phúc từ những phương tiện, những sự kiện đang
diễn ra liên hệ đến cuộc sống hằng ngày của nông dân như là một số phận.
Ấn Độ là một nước nghèo khó, mặc
dù sự phát triển về khoa học, vũ khí, các công nghệ hiện đại Ấn Độ đang từng
bước theo kịp các nước phương Tây, nhưng đời sống của quản đại đa số quần chúng
là nghèo khó, nghèo rớt mồng tơi, màn trời chiếu đất. Báo chí đưa tin, hàng năm
sau mỗi mùa mưa, mùa nắng, có tối thiểu ba trăm người chết. Họ không có đủ
phương tiện để điều hoà khí hậu bất thường nóng và lạnh ở Ấn Độ. Nếu quan sát
cách thức con người Ấn Độ sống trong sự khổ sở đó, sẽ có nhiều điều cần học từ
họ.
Hiện tượng kẹt xe trên đường kéo
dài ba đến năm tiếng là rất phổ biến, nhưng trên gương mặt của tài xế và phụ
lái Ấn Độ không thể hiện sự buồn rầu, bực dọc, tức tối. Anh tài xế hát nghêu
ngao một đoạn nhạc thư giãn, lúc nào đi thì đi, lúc nào phải dừng thì ngồi chờ,
không hề than trách, cũng không đứng trên mui xe nhìn tới phía trước xem đoàn
xe này còn kẹt bao lâu nữa.
Đó là thái độ của người Ấn Độ,
họ luôn tìm những cách an vui trong hoàn cảnh khó khăn hằng ngày. Như vậy, hạnh
phúc liên quan rất nhiều đến cách nhìn vấn đề, cách giải quyết vấn đề hơn là
bản thân của vấn đề và sự kiện đang diễn ra, dù các sự kiện đó là nghịch cảnh,
khó khăn, gian truân, thử thách.
Một anh đạp xích lô Ấn Độ kiếm
sống bằng sức lao động tay chân, chở khách hàng to béo vẫn không làm cho họ cảm
thấy khổ đau. Mỗi người có một tiêu chí riêng, cá nhân anh đặt ra tiêu chí mỗi
ngày kiếm hai mươi rupi, khi kiếm đủ tiêu chí thì anh không chạy nữa mà ngả
lưng nằm trên xe xích lô thư giãn, ai gọi cũng lắc đầu không đi. Họ tìm mọi
cách để an vui mà không cần phải bon chen, giàu có thế này thế nọ. Người Ấn Độ
không quan niệm giàu có hoặc đầy đủ phương tiện là hạnh phúc. Vì vậy mà Ấn Độ
là môi trường sản sinh ra rất nhiều tôn giáo có chiều kích tâm linh hơn các tôn
giáo phương Tây.
Sự thỏa mãn một ước muốn chưa
hẳn đã mang lại hạnh phúc đích thực. Câu chuyện nhà thi hào, nhà văn Đức nổi
tiếng thế kỷ 18, Goethe, đem lòng thương Charlote Buphe, vợ của bạn ông. Mặc dù
vậy, sự si tình vẫn làm ông theo đuổi ước mơ được lấy Charlote làm vợ. Đã nhiều
lần ông tìm cách tiếp cận Charlote và tìm cách bày tỏ rằng: “Nếu không lấy được em anh sẽ tự tử để chứng minh
tình yêu chung thủy và duy nhất”. Điều đó đã làm cho Charlote vô
cùng hoảng sợ, bà đem điều đó chia sẻ với chồng mình.
Một hôm, chồng bà đến gặp Goethe
và nói một cách tế nhị rằng: “Tôi nghe người
ta nói Goethe đem lòng thương vợ tôi. Tôi nghĩ nếu Goethe thương vợ tôi thì
Goethe không còn là Goethe nữa”. Goethe đã rất nhanh trí trả lời: “Rất tiếc tôi không phải là Goethe như anh nói, nếu
là Goethe tôi sẽ cho anh chồng biết tay, có nghĩa là tôi sẽ tự tử thật”.
Nói như vậy, Goethe phủ định việc ông đem lòng yêu thương Charlote.
Thế nhưng ông vẫn hun đúc ngọn
lửa tình yêu cháy bỏng và cho ra đời tác phẩm mang tên “Nỗi đau của chàng Werther”. Tác phẩm
phản ánh chuyện tình của Werther và Lohtéa, tương tự chuyện tình của ông và
Charlote ngoài đời, nhưng cuối tác phẩm ông cho phép Werther tự tử chết, vì tấm
lòng chung thủy trong tình yêu một chiều mà người kia không biết, không bao giờ
đáp lại, và không thể nào đáp lại được.
Trong tác phẩm này, nhân vật
Werther được nhà văn Goethe mô tả đạt được hạnh phúc tối đa trong tình yêu ảo
mộng của mình. Cái chết chứng minh lòng thương yêu của ông là duy nhất, không
gì thay đổi, chuyển hóa được, và quan niệm của ông cho đó là hạnh phúc. Bao
nhiêu chàng trai trẻ đã chết theo Werther, vì tìm thấy sự đồng cảm trong tác
phẩm. Đó là sai lầm với khuynh hướng bắt chước mà không suy nghĩ tại sao lại
làm điều đó. Nhưng có một điều rất khôi hài là bản thân Goethe thì không chết,
thậm chí sống đến gần trăm tuổi, trong khi rất nhiều thanh niên trẻ sau khi đọc
tác phẩm đều bỏ mạng.
Các nhà văn khác đã thốt lên lời
phát biểu: “Chưa bao giờ có một nhân vật
nữ nào đẹp, quyến rũ, tuyệt vời như nhân vật Lohtéa, đã làm say mê biết bao con
tim của các chàng trai và dẫn đến cái chết của họ nhưng tác giả của nó thì sống
nhăn răng”. Ước muốn của Goethe là chết để chứng tỏ tình yêu duy
nhất dành cho Charlote. Ông không thỏa mãn được trong thực tế thì thỏa mãn qua
tác phẩm.
Đó là lý do tại sao kinh Phật
khẳng định “tác ý, tự do ý chí, biểu hiện
về đời sống nội tâm chính là một hành động, nếu đó là hành động tốt sẽ có phước
báu, nếu là hành động xấu thì mang lại hậu quả tương ứng trong cuộc đời”.
Theo nhân quả, Goethe đã tạo nghiệp xúi giục biết bao chàng trai trẻ hồn nhiên,
vô tư, nhưng thiếu sáng suốt lao vào cái chết thoả mãn tình yêu không được đáp
lại.
Như vậy, có thể khẳng định: “Hạnh phúc không nằm ở chỗ ước nguyện được hoàn tất
có thể mang lại niềm vui, mà hạnh phúc là điều gì đó vượt lên trên niềm vui
thông thường”.
Dù hạnh phúc của phàm tục, nó
liên hệ đến các giác quan khi các giác quan được thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ như
mắt quan sát các hình thái sắc tướng, tai nghe âm thanh thích hợp… đều có thể
tạo phản ứng hạnh phúc. Nói cách khác, hạnh phúc là sự hưởng thụ, khoái cảm của
các giác quan đối với các đối tượng mà chúng tiếp xúc. Nhưng sự thỏa mãn ước
muốn trong trường hợp này chưa phản ánh được bản chất của hạnh phúc đích thực.
Có những sự thoả mãn chỉ đem lại khổ đau cho con người. Do đó, người Phật tử
phải sáng suốt, dứt khoát, buông bỏ không tiếc nuối. Vì sự theo đuổi và đạt mục
tiêu không chân chính chẳng những đánh mất giá trị hạnh phúc thật sự mà còn
mang lại khổ đau cho người khác.
Chấp
nhận bản thân
Thái độ chấp nhận bản thân vừa
nghe qua tạo cảm giác sai lầm là chấp nhận bản ngã, nuôi dưỡng bản ngã, nuôi
dưỡng khuynh hướng, cá tính, sự khác biệt của mình so với người khác. Càng nuôi
dưỡng thì lòng tự đại, tự phụ, kiêu căng ỷ lại càng lớn và dĩ nhiên càng xa rời
bản chất của hạnh phúc. Hãnh diện về phương diện bề ngoài là niềm vui, không
phải là hạnh phúc.
Thái độ chấp nhận bản thân được
hiểu như cách thức sống vận dụng chất liệu của chánh niệm tỉnh thức trong từng
hành vi lời nói cử chỉ việc làm, và nhất là lý tưởng đang theo đuổi. Quá trình
theo đuổi đó có thể mang lại kết quả như ý hay hoàn toàn trái ngược. Sự chấp
nhận bản thân trong trường hợp này không ở chỗ thỏa mãn với những gì đạt được,
hoặc thỏa mãn theo cách an phận thủ thường còn được gọi tâm lý “tiêu nhược mạn”, là cách thức làm cho
con người đi ngược lại với sự tiến hoá, tiến triển, thành công.
Chấp nhận bản thân là tình huống
nỗ lực hết mình, nhưng kết quả lại diễn ra theo cách thức khác. Thông thường,
sự không thỏa mãn sẽ mang lại khổ đau cùng cực, nhưng với người tu và sống với
chất liệu Phật pháp sẽ có thể kiềm chế mình bằng cách quán chiếu lại những
nguyên nhân chủ quan và khách quan. Sự quán sát về các nguyên nhân giúp rút tỉa
bài học mang lại sự thành công ở lần thứ hai, thứ ba và các lần khác. Tóm lại,
dựa trên những nỗ lực hết mình, chấp nhận bản thân là cách thức tạm thời hài
lòng với những gì đã đạt. Đừng bao giờ so sánh với kết quả thành công cao hơn
của người khác, vì sự so sánh trong trường hợp này chỉ mang lại khổ đau.
Một trong những thái độ tâm lý
chấp nhận bản thân trên tinh thần Phật dạy là phải tâm niệm: “Mình sẽ thành công, người khác làm được thì mình
cũng làm được”. Có thể đặt ra hàng chục cách quan niệm tương tự về
tiềm năng của mình, của người khác. Chính thái độ này sẽ tạo sự tự tin, nhờ đó
mới đủ sức đối phó với các trắc trở trên con đường đang theo đuổi. Ai tâm niệm
hoài nghi thì dù người đó có khả năng nhưng khả năng đó bị chặn lại, không có
dịp để thi thố và thực hiện.
Đức Phật Thích Ca đã từng tuyên
thệ, dù khi đó không ai chứng kiến, ngoài cỏ cây hoa lá, trời mây non nước: “Nếu dưới cội bồ đề này, sự thành đạo, giác ngộ
không diễn ra thì dù thịt nát xương tan ta quyết không rời khỏi”.
Đó là một quyết tâm lớn đặt trên nền tảng tự tin mình có thể đạt được cái gì đó
mà hiện tại vẫn chưa hình dung. Cũng nhờ lòng quyết tâm to lớn mà kết quả của
sự giác ngộ đã đến với đức Phật theo cách như Ngài mong đợi.
Dĩ nhiên, trong tâm thức của đức
Phật lúc bấy giờ không thể không có trạng thái tâm lý này: “Ta là thái tử, thay vì kế ngôi vua trở thành bậc
chuyển luân thánh vương làm rạng danh dòng họ Sakya (Thích Ca) và toàn cõi nước
Ấn Độ, ta từ bỏ để đi tìm những giá trị hạnh phúc thuộc về tâm linh và tinh
thần, nếu những theo đuổi này không đạt được thì vĩnh viễn đời đời kiếp kiếp
thái tử Sakya dòng họ Thích Ca bị đàm tiếu là một người chẳng ra gì”.
Nhiều cách suy nghĩ tương tự có thể xuất hiện trong lòng đức Phật, một phần
phản ánh lòng tự trọng, một phần phản ánh khả năng đạt được điều gì đó cao hơn.
Tất cả hỗ trợ lẫn nhau để tạo chất liệu đặt mình trong một quỹ đạo chỉ có thành
công chứ không có thất bại. Chấp nhận bản thân là chấp nhận theo cách thức đó.
Trong cuộc đua maratong, nếu nêu
quyết tâm bám theo anh hạng ba ở những kỳ thi trước thì chắc chắn người đó sẽ
không bao giờ đạt được kết quả hạng nhì và hạng nhất, huống hồ là phá kỷ lục.
Tâm huyết của người tham dự cuộc đua này phải tin rằng mình có cơ hội phá kỷ
lục. Sau khi nỗ lực hết mình mà không phá được kỷ lục thì ít nhất cũng dành
được hạng nhất hoặc hạng nhì. Tiêu chí chấp nhận bản thân phải được đặt ở mức
độ cao cấp nhất và kết quả đó trừ hao những điều kiện, hoàn cảnh khác biệt, các
trở ngại thử thách còn lại kết quả vừa chừng. Chấp nhận bản thân không phải
chấp nhận thái độ hạ liệt, không thừa nhận mình có một tầm vóc, tiềm năng đạt
được những gì như các đức Phật, Bồ tát, Thánh Tăng, cao Tăng và những con người
vĩ đại, có nhiều giá trị đóng góp cho cuộc đời đã đạt được.
Tổ Quy Sơn từng dạy: “Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ”, nghĩa
là nếu người khác đã từng trở thành bậc trượng phu, đấng quân tử, những con
người pháp khí cho cuộc đời, đạo pháp thì tại sao bản thân ta không làm được
điều đó. Đó là tiêu chí chấp nhận bản thân, nhưng không tự biến mình trở thành
người cống cao ngã mạn. Đức Phật dạy “phương
pháp sống của bậc hiền giả là sống với những giây phút hiện tại, với sự hiện
hữu của chánh niệm và tỉnh thức, hơn là quay về quá khứ vàng son, những thành
công rực rỡ, những điều thuộc về truyền thống tốt đẹp của Phật giáo, ông bà tổ
tiên hay của chính bản thân mình”. Sống với những cái đẹp trong quá
khứ chỉ tạo cảm giác nuối tiếc. Chấp nhận bản thân trong trường hợp này là đóng
bít khả năng tiến tới thành công trong hiện tại và tương lai.
Kinh điển Pàli kể câu chuyện về
chú Sadi bảy tuổi có thái độ chấp nhận bản thân khá cương quyết. Lần đầu tiên
được ngài Xá Lợi Phất dẫn đi khất thực, chú quan sát người làm đê dẫn nước vào
ruộng. Chú thắc mắc với sư phụ không hiểu người ta làm đê dẫn nước để làm gì.
Ngài Xá Lợi Phất giải thích: “Để nước vào
đồng ruộng giúp mùa màng được bội thu”. Lúc đó, chú Sadi khởi lên
tâm niệm rằng: “Nếu người ta biết cách
dẫn nước vào đồng ruộng tạo sức sống cho cây cỏ, hoa màu, thì tại sao con người
không biết cách dẫn tâm mình vào biển giác ngộ và giải thoát”, đặt
tâm vào trong lòng đại đương là cách thức tạo cửa ngõ đưa mình ra biển cả của
đạo pháp và chánh pháp, và quan trọng là đi thế nào để sóng lặng gió yên, đạt
được an vui hạnh phúc như mong đợi. Sau đó hai thầy trò tiếp tục đi. Cảnh tượng
thứ hai họ gặp là một người đang cưa, đục đẽo để làm bánh xe bò. Chú Sadi cũng
thắc mắc không hiểu họ làm vậy nhằm mục đích gì. Ngài Xá Lợi Phất trả lời “họ tạo bánh xe và chiếc xe này máng vào cổ con bò
để con bò chuyên chở hàng hoá mà không làm mất sức khỏe của người chủ, hiệu quả
của công việc tăng cao, tiết kiệm thời gian, hàng hoá đựơc chở nhiều hơn so với
sức lao động của con người”. Lúc bấy giờ chú Sadi lại khởi lên một
tâm niệm khác: “Nếu người ta biết cách
vận dụng sức chuyên chở của con bò thông qua sự hỗ trợ của bánh xe để đạt đươc
sự chuyên chở hàng hoá thì tại sao họ không biết biến tâm mình thành bánh xe
của chánh pháp chuyển xoay để làm cho mình được an vui và mang hạnh phúc đến
cho nhiều người hơn”.
Chú Sadi trong câu chuyện vừa
nêu đã liên tưởng rất khéo thuận từng cảnh. Sự liên tưởng như cách thức liên
tưởng của các nhà làm phim, viết truyện khoa học viễn tưởng vẽ nên những cảnh
tượng, đôi khi cảnh tượng đó phải đến hai ba thế kỷ sau mới có thực, thậm chí
không bao giờ có thực. Thế nhưng người ta vẫn đặt ra những khả thể như vậy để
bám vào mà vươn lên. Chú Sadi, mặc dù hoàn toàn không được đào tạo về ngành
tương lai học hay viễn tưởng học, nhưng chú ta có được những hạt giống của sự
chấp nhận bản thân rằng mình có được những tiềm năng đặc biệt.
Câu chuyện hoàn toàn có thật,
không hư cấu cũng không cường điệu. Theo học thuyết hạt giống trong duy thức
học, tất cả con người mang theo mình những hạt giống từ đời này sang đời khác,
tức là từ lúc mới lọt lòng, tất cả những hạt giống này theo đuổi con người như
bóng với hình. Những hạt giống về tiềm năng làm cho con người khác biệt và tạo
thành bẩm chất, cá tính, đặc điểm, thành công của từng con người trong cuộc
đời. Đó là lý do tại sao có những thần đồng mới sinh ra đã thành công về rất
nhiều phương diện đặc biệt mà những người khác dù học hai mươi năm, ba mươi năm
cũng không thể nào bằng. Bởi vì bộ não của thần đồng đó chứa quá nhiều dữ liệu
về sự thông thái trong một lĩnh vực mà người đó đã đeo đuổi từ nhiều kiếp
trước. Chấp nhận bản thân là cách thức thừa nhận rằng mình có sẵn những hạt
giống đó, vấn đề ở chỗ làm thế nào để cho các hạt giống tiềm năng này có dịp
phát triển trở thành hiện thực.
Giáo dục trong đạo Phật chẳng
qua để kích thích con người tin vào những tiềm năng đó, chấp nhận tiềm năng
mình có được không thua bất cứ ai. Giáo dục không phải là sự nhồi sọ, bắt học
trò thuộc từng câu từng chữ bài giảng theo cách thức nền giáo dục Việt Nam hiện tại.
Theo nhà Phật, học không phải biến bản thân thành một thư viện chứa những dữ
liệu của kiến thức, mà học để tìm cách phát huy, bồi bổ kiến thức, xây dựng
kiến thức mới. Học để sáng tạo, học để tạo tinh hoa mới mẻ mà thầy mình chưa
có.
Truyền thống ba đời chư Phật
chấp nhận bản thân nên các ngài có được sự tự tin rất lớn, trở thành những vị
Phật với nhiều danh hiệu khác hoàn toàn danh hiệu thầy mình trong quá khứ. Đức
Phật Thích Ca là đệ tử của Phật Nhiên Đăng nhưng không trở thành Phật Nhiên
Đăng thứ hai, thứ ba. Vị Phật sau đó một kiếp là Phật Di Lặc chứ không thành
Phật Thích Ca thứ hai, bản sao của Ngài. Cứ như vậy mà có vô lượng vô số đức
Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là những cách chấp nhận bản thân,
chấp nhận với tất cả tiềm năng cao cấp nhất mà con người đều có. Cho nên, đừng
bao giờ
nghĩ rằng mình không có khả năng
thuyết giảng, viết sách, huấn dụng người khác rồi từ đó không màng đến các công
việc hoằng pháp lợi sinh với tư cách người tu. Sự không tin tưởng vào tiềm năng
sẵn có là sự tự đánh lừa, làm cho bản thân không thể đạt được những khả năng
vốn có thể đạt được.
Chấp
nhận người khác
Chấp nhận người khác không phải
để nịnh bợ hầu mong được quan tâm, giúp đỡ trở lại, mà là tin tưởng, vì thấy
rằng họ đã phát huy hết tiềm năng. Sự chấp nhận người khác là một việc vô cùng
khó.
Chấp nhận bản thân dễ hơn, vì sự
chấp nhận bản thân nào cũng dựa trên bản ngã mà đôi lúc cũng cần phải dựa trên
bản ngã để trở nên cao thượng, rồi sau đó diệt bản ngã đó đi. Người không tự
tin thì khó thành công, nhưng người tự tin lại thường có bản ngã rất lớn, có cá
tính mạnh, những tố chất gần như không giống ai, như vậy rất dễ thành công
trong cuộc đời. Người không tự tin thường có phong cách bắt chước, cuốn theo
chiều gió, gió thổi mây bay, cuộc đời thế nào thì nương theo thế ấy, không dám
đặt ra khuynh hướng đi khác hơn để tạo những chất liệu rất riêng cho bản thân
mình theo cách chấp nhận những tiềm năng vốn có. Chấp nhận người khác không
phải là xu nịnh hay a dua theo thành công của họ, mà chấp nhận họ với tư cách
là một con người có đủ tất cả những gì mà họ có thể làm được. Thái độ này giúp
tâm xa lìa đố kỵ, ganh ghét, nhỏ mọn, tầm thường.
Đưa mình lên bàn cân với người
khác là thái độ không chấp nhận được trong đạo Phật. Đức Phật chưa bao giờ
khẳng định rằng chỉ có một đức Phật duy nhất trong lịch sử mà có vô số Phật,
tam thiên, vạn thiên Phật, ngoài ra còn vô lượng vô số Phật, nhiều như số cát
sông Hằng, không thể nào đếm được. Đó là cách thức chấp nhận người khác. Nếu
đức Phật không có thái độ chấp nhận người khác, Ngài đã nói trên cuộc đời chỉ
có duy nhất một đức Phật, và tất cả những người trong quá khứ, hiện tại, tương
lai cũng chỉ trở thành đệ tử của đức Phật mà thôi. Điều này đã xuất hiện trong
các tôn giáo hữu thần, và thậm chí vô thần, nhưng không hề có trong đạo Phật.
Các tôn giáo khác chỉ thừa nhận một đấng Chúa, xuất hiện dưới nhiều danh hiệu:
Allah, Brahma,… hay bất cứ danh hiệu Thượng đế, Chúa trời, đấng sáng tạo, đấng
tạo hoá, là nguyên nhân khởi thủy, nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ. Có nhiều
cách thức, nhiều danh xưng khác nhau nhưng tất cả đều biểu tỏ thái độ không bao
giờ chấp nhận người khác có được vai trò, khả năng, thành công như mình đang
có. Tu học theo các tôn giáo hữu thần trong trường hợp này con người sẽ trở
thành một con người, không hơn được nữa.
Đức Phật dạy “Chất liệu giác ngộ của Ngài và mọi người đều ngang
nhau”. Đến nay nhiều người vẫn không chấp nhận chân lý của lời
tuyên bố đó. Đó là lý do trong kinh Pháp Hoa, năm trăm vị tỳ kheo A La Hán đã
đứng dậy bỏ đi khi đức Phật tuyên bố “tất
cả chúng ta đều có khả năng thành Phật”.
Chấp nhận người khác là hoan hỷ
với những thành công về phương diện danh dự, nỗ lực, sự nghiệp, và tất cả tấm
lòng yêu mến, kính trọng đối với người đó. Đặt mình và người lên bàn cân trong
tình huống không đội trời chung chỉ làm cho mình trở nên ti tiện. Những vị vua
Ai Cập là những người có thái độ đó. Các vị vua đã đổ dồn tất cả tiền bạc, ngọc
ngà châu báu sau những cuộc chinh chiến, thu được từ những nước thuộc địa, để
xây kim tự tháp hùng vỹ để chứng minh uy quyền của mình trong lịch sử Ai Cập và
nhân loại. Có hàng trăm, hàng ngàn người đã đổ mạng trong quá trình xây dựng.
Sau khi kim tự tháp hoàn thành, những nhà kiến trúc sư vĩ đại của công trình
cũng bị giết chết, bởi vì nếu để họ sống họ có thể tạo ra những kim tự tháp
tương tự hoặc tốt hơn. Đó là thái độ không chấp nhận người khác bằng mình. Các
vị vua thường muốn mình là biểu tượng của chân lý, do đó, những ai muốn bằng
vua là mang tội khinh quân và bị xử trảm.
Vì vậy, hạnh tùy hỷ là thái độ
rất quan trọng, mặc dù tùy hỷ không hưởng được phần chia sẻ gì. Tùy hỷ trước
thành quả của người khác, của thế hệ sau là việc nên làm. Thế hệ sau nắm bắt
kinh nghiệm của những người đi trước, tổng hợp tinh hoa kinh nghiệm đó để tạo
cho mình chất liệu mà người trước chưa bằng được. Sóng sau đẩy sóng trước, cứ
như vậy mà tiếp nối nhau không dừng. Tiềm năng nếu có cơ hội phát triển nó sẽ
được trưởng thành, đó là điều đáng trân trọng.
Chấp
nhận hoàn cảnh
Đặt mình trong hoàn cảnh khó
khăn là cách thức để tâm được trưởng thành. Trong khổ đau, nếu không trưởng
thành thì trong hạnh phúc thật sẽ chẳng biết được giá trị của nó. Vì thế, đo
giá trị của cuộc đời bằng những lận đận, ai lận đận nhiều sẽ trưởng thành hơn.
Người sống thuận lợi do cha mẹ mình mang lại, ông bà tổ tiên làm sẵn, hoặc do
thầy tổ nâng đỡ thì sự thành công đó cũng như toà lâu đài trên cát không chân,
nó có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Chấp nhận hoàn cảnh, phấn đấu, khắc phục, thì
sự thành công mới có thể tồn tại lâu dài.
Than phiền là căn bệnh vô cùng
nguy hiểm. Sự than phiền làm cho con người dù dấn thân làm việc vẫn không được
thoải mái. Hãy tâm niệm đây là dịp để làm phước, công quả, như vậy phước báu và
trí tuệ được phát triển một cách song hành. Với tâm niệm đó, con người sẽ cảm
thấy hạnh phúc nhiều hơn.
Trong một ngôi chùa, người đệ tử
nào bị thầy đì nhiều nhất thì lại có khả năng thành công hơn, nếu người đệ tử
đó biết tùy hỷ, chấp nhận hoàn cảnh với tâm tỉnh thức. Ai sống trong hoàn cảnh
thuận lợi, thì khả năng thất bại cao hơn, do không được rèn sức chịu đựng.
Hai chú tiểu được phân công quét
chùa, một chú quét ở Tây lan, một chú quét ở Đông lan. Ngày nọ, một chú bị ốm,
chú còn lại phải quét cả hai bên. Có hai cách ứng xử trong tình huống này. Nếu
là người lười biếng, so đo, chú tiểu còn lại chỉ làm riêng phần mình, hoặc sẽ
rất ấm ức khi buộc phải làm cả phần việc của người khác. Như vậy, dù làm hai
phần theo sự bắt buộc, chú đó cũng không có công đức nào cho phần làm thứ hai,
thậm chí có thể đánh mất cả phần làm thứ nhất, vì việc làm không hoan hỷ, không
bằng thái độ đóng góp nên phước giảm. Nếu là người có đạo tâm lớn, chú ta sẽ
mừng, vì có cơ hội đóng góp nhiều hơn.
Chùa Giác Ngộ gần chùa Ấn Quang
và Việt Nam Quốc Tự. Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự tụng kinh vào sáu giờ tối, Giác
Ngộ tụng kinh vào bảy giờ. Nhờ cách sắp thời gian như vậy mà nhiều Phật tử được
tụng kinh hai lần ở hai ngôi chùa khác nhau. Có khoảng hai chục Phật tử tụng
hai lần kinh, mặc dù bài kinh Phẩm Phổ Môn Quan Thế Âm hoặc Kinh A Di Đà họ đã thuộc nằm lòng. Tại sao
họ lại có niềm đam mê trong lời kinh tiếng kệ đó? Vì đó là cách chấp nhận hoàn
cảnh, tận dụng hoàn cảnh như một chất liệu mang lại hạnh phúc trong hiện tại.
Kinh A Di Đà dạy ta ngoài
việc nghe Phật nói pháp, nghe Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, những vị đại Bồ
tát khác, những bậc bất thối chuyển giảng, mà ta còn cần phải nghe tiếng gió
thổi, suối reo, chim hót và quan niệm nó như là thời pháp. Quán tất cả âm thanh
nghe được hàng ngày là thời pháp, đó là cách tận dụng hoàn cảnh, biến nó thành
chất liệu đem lại sự bình an hạnh phúc. Hãy cố gắng quán tưởng để những điều
không như ý thành những gì tâm đắc. Việc này rất khó nhưng chịu khó sẽ làm
được.
Sống
thong dong và buông xả
Đời sống người xuất gia là đi
trên con đường lấy sự viễn ly làm mục đích. Viễn ly vợ con, nếu đã lập gia
đình; viễn ly tình ái, nếu là người đồng ấu xuất gia; viễn ly gia tài sự
nghiệp, nếu là người tư bản; và viễn ly tất cả chức tước, địa vị danh vọng
trong cuộc đời. Đức Phật dạy: “Hãy viễn
ly tất cả những thứ đó, và khi thái độ viễn ly xuất hiện thì trạng thái thong
dong tự tại bắt đầu có mặt”. Thế nhưng, cũng cần thận trọng trong
phân biệt, vì viễn ly thực sự thường bắt nguồn từ trạng thái sống của tâm,
không phải sự xa lìa vật chất của những con người sống đầy đủ phương tiện nhưng
tâm đang viễn ly. Những con người trên lưng chỉ một chiếc y, không có tài sản,
nhưng nếu tâm chưa buông được thì đời sống đó vẫn là một sự trói buộc.
Chuyện ngụ ngôn Ấn Độ đã kể về
câu chuyện một nhà vua và một đạo sĩ. Đạo sĩ là người lỗi lạc về đời sống tâm
linh. Ảnh hưởng của ông làm các vị vua, quan thần phải đến chiêm bái và tìm
kiếm con đường giải quyết bế tắc mà họ đang gặp phải. Theo phong tục Ấn Độ, vua
đến gặp các vị đạo sư phải quỳ lạy, đi bộ chân trần để bày tỏ lòng chí thành
chí kính. Nhà vua cho tất cả quan lính dừng lại ở cánh rừng cách đó vài trăm
mét cùng với tất cả tài sản vừa nhận được từ những nước cống nạp. Ông đến học
hỏi đạo lý vị đạo sĩ với hai bàn tay không. Nhưng không may, trong lúc hai
người đàm đạo thì hỏa hoạn diễn ra ngay cánh rừng. Lúc bấy giờ vị đạo sĩ đưa
mắt dõi nhìn cánh rừng đang phát cháy, nơi có một bộ áo của đạo sĩ phơi ở đó.
Ông lo sợ, nếu cháy thì không còn gì để mặc. Trong khi đó, nhà vua vẫn an
nhiên, dù các vật báu bị thiêu cháy trong cơn hỏa hoạn. Vua vẫn điềm nhiên bất
động, lắng tâm nghe từng lời thuyết pháp của vị đạo sĩ.
Như vậy, ai là người tự tại? Nhà
sư vô sản hay vị vua đầy tài sản mà không vướng mắc là người tự tại? Câu chuyện
vừa ngụ ngôn vừa châm biếm, phản ánh giá trị giải thoát an vui không nằm ở những
gì con người có hay không có, mà nằm ở cách thức con người ứng xử với cái có và
không có như thế nào. Nếu nói “có nhiều”
thì không ai bằng vua, ông có cả giang sơn, đất nước, và đôi khi có quá nhiều
nên người ta không vướng bận những cái cỏn con. Thái độ có quá nhiều theo kinh
Dịch gọi là “cùng tất biến”,
“thịnh tất suy, suy tất thịnh”.
Có quá nhiều sẽ sinh cảm giác nhàm chán, kẻ có ít thì lại mang lòng nuối tiếc,
chấp trước, bảo vệ giữ gìn nó như báu vật. Vàng bạc quý là vì nó hiếm. Giá trị
của sự vật là một cái gì rất tương đối, lệ thuộc vào quan niệm, cách nhìn, bối
cảnh văn hóa và bối cảnh chính trị ở từng nơi trong từng thời điểm khác nhau.
Nhàm chán đời sống vật chất
trước nhất là sự viễn ly, buông bỏ, nhưng việc buông bỏ này liệu có đảm bảo
được trạng thái an lạc, tự tại lâu dài hay không là một vấn đề hoàn toàn khác.
Người đã ăn quá nhiều sơn hào hải vị đến mức chán ngán, không bao giờ thích ăn
những món sơn hào hải vị ấy nữa. Sự viễn ly đó hoàn toàn không đủ đảm bảo họ là
người không tham trước. Họ cũng tham trước, sự tham trước đó được đổi sang món
khác, và sự tham trước mới này còn đê mê, tham đắm hơn rất nhiều.
Vì thế, thái độ từ bỏ về tâm rất
quan trọng. Người xuất gia phải buông bỏ về tâm bằng tất cả nhận thức sáng suốt
thì cuộc đời cống hiến cho tu hành mới thật sự không uổng phí. Đối với Phật tử
tại gia, họ đã bỏ khả năng làm giàu, đến chùa tụng kinh niệm Phật, bái sám kinh
hành thiền quán, nghe giảng, làm lành, bố thí, cúng dường… Tất cả việc đó nếu
muốn làm được thì phải bỏ hết các tham muốn về đời sống giàu có, phú quý, vinh
hoa. Cấp Cô Độc đã để lại tấm gương rất quý về bố thí cúng dường đến độ toàn bộ
tài sản của ông trở nên khánh kiệt. Cái đáng học ở ông là thái độ không bao giờ
hối hận hay mất niềm tin vào chánh pháp. Nếu cúng dường Tam bảo với mục đích
được Phật gia hộ sống an vui, hạnh phúc, hanh thông, khi không đạt được những
ước nguyện thì mất niềm tin, cho rằng Phật không gia hộ, hoặc nghĩ rằng có lẽ
ông thầy này tu không giỏi nên nhờ cầu nguyện không có kết quả. Tất cả quan niệm
đó đều sai lầm. Bởi vì có những hạt giống đòi hỏi đến vài chục năm mới kết
trái, có những loại cây chỉ ba tháng là trổ quả, thậm chí có loại sáng gieo
chiều gặt. Đó là chưa kể đến sự tác động đa chiều của những gì diễn ra trong
quá khứ, phối hợp với hiện tại mà thành. Cấp Cô Độc hiểu đạo lý rất sâu, làm từ
thiện giúp đỡ người khác với tấm lòng Bồ tát để tìm trạng thái thong dong trong
cuộc đời. Như vậy, thông qua các việc từ thiện, dù đang buông xả tài sản, bố
thí, cúng dường, nếu tâm viễn ly thật sự thì dù khánh tận tài sản, người đó vẫn
vui, có chăng nuối tiếc thì sự nuối tiếc trong trường hợp này là mình không còn
tài sản để làm nhiều hơn. Đó là thái độ của bậc trí. Kết quả của thái độ bậc
trí thong dong tự tại, Cấp Cô Độc được đền đáp bằng bài kinh của ngài Xá Lợi
Phất giảng về vô ngã, dòng cảm thọ, ý niệm hóa, trong sự vận hành của tâm thức,
trước khi ông nhắm mắt ra đi trong sự an lành ở tuổi xế chiều. Đó là một trong
những tấm gương cho thấy tinh thần, thái độ thong dong, tâm buông xả để giúp
cho bản thân được an vui, hạnh phúc.
Thong dong tự tại khác với “mặt dày mày dạn” hay “điếc không sợ súng”. Thong dong là thái
độ của người không vướng bận, không câu thúc, không bị trở ngại, bị tác động
bởi lời khen tiếng chê, không bị ảnh hưởng bởi môi trường hoàn cảnh thuận lợi
hay không thuận lợi, có thì họ làm theo cách thức có, không thì làm theo cách
thức không, trong cái có cái không này họ vẫn giữ được tâm an vui tự tại. Còn
người mặt dày mày dạn là người có bản ngã đã được nhân lên quá lớn, đến độ
không còn biết sợ là gì. Dạng này rất nguy hiểm vì họ sẽ không bao giờ cải
thiện mà hãnh diện tự hào về những gì mình đã làm. Nhân vật Chí Phèo trong tác
phẩm của Vũ Trọng Phụng là ví dụ điển hình của loại người mặt dày mài dạn.
Thong dong, dù ở trong không
gian nhỏ hẹp, giới hạn bởi bốn bức tường nhưng lòng vẫn bao la, trí vẫn sáng,
vẫn có được an vui, còn gọi là “tự tại”.
Một quan niệm phương Tây rất
giống tinh thần nhà Phật, trừng trị tù nhân chỉ làm cho người đó “mặt dày mày dạn”, trở nên chai đá, căm
phẫn cuộc đời hơn, mặc dù cũng có những trường hợp sẽ chấm dứt được tình trạng
tương tự trong tương lai. Khi ở tù, tù nhân phương Tây vẫn được ăn uống đầy đủ,
có các phương tiện giải trí, sách báo, tivi, được nghỉ ngơi thoải mái. Bởi vì
họ rất coi trọng việc chuyển hoá giúp con người tẩy rửa được gốc rễ của khổ
đau, của những cái bất toàn, thiếu an ninh, lận đận, khủng bố trong cuộc đời.
Tóm lại, hạnh phúc liên hệ đến
nhận thức sáng suốt của con người với thái độ sống nhận chân những gì nên và
không nên làm. Nếu nó là một dòng chảy, thì dòng chảy này mang lại khinh an của
thân tâm, kéo dài không chỉ ở hiện tại mà còn tương lai. Dĩ nhiên, nó phải được
đặt trên nền tảng của vị tha, vô ngã. Hạnh phúc chỉ đủ sức tồn tại khi các uẩn
phá chấp không còn tác dụng trên các giác quan. Con người cảm thấy lâng lâng,
cái lâng lâng vượt lên trên cảm giác lâng lâng của những loại thuốc kích thích.
Đó là lý do tại sao nhiều người, dù rất là nghèo, đạm bạc, thô sơ nhưng vẫn nở
nụ cười, có những đóng góp tích cực, các hạnh nguyện to lớn để dấn bước trong
cuộc đời. Nếu người xuất gia không nhận ra được những điều đó, thì cuộc đời tu
đôi lúc trở nên uổng phí.
Giam cả đời trai tráng trong nhà
chùa, mà bản thân không được lợi ích, thì người khác không bao giờ có được chất
liệu giải thoát hay ảnh hưởng tốt từ mình. Cho nên, người xuất gia phải nêu một
quyết tâm lớn là trở thành pháp khí với hạnh nguyện cao cả, kiếp này không làm
được thì kiếp sau sinh ra làm tiếp. Như vậy, mỗi giây phút ở chùa, khi còn
duyên ở chùa, người xuất gia sẽ được an vui. Tất cả các nghi thức tụng niệm,
hành trì, bái sám, tu tập, làm Phật sự, chấp tác lao vụ, mỗi cử chỉ, động tác,
đều mang lại niềm an vui, bằng không đó chỉ là trạng thái đọa đày, tự tạo dựng
nhà tù, địa ngục nơi mình đang ở, trong những việc mình đang làm, ngay tâm thức
mình đang suy nghĩ.
Tu có hai khuynh hướng, một là
hạnh phúc cho bản thân và người khác; hai là khổ đau cho bản thân và người
khác. Người sáng suốt luôn chọn khuynh hướng đầu. Những người tu hiểu đạo lý vô
ngã, áp dụng tinh thần vô sở úy để làm đạo, làm việc tốt, nhưng nếu không khéo
sẽ lệch sang hướng xấu. Khi bị loạn vì tu không đúng hướng thì hành động xấu
cũng vô chừng. Người ta cũng không thể đo lường chất liệu xấu đó theo kiểu tội
tánh vốn không, chỉ quán tưởng lạc đề một chút cũng có thể gây ra nhiều tội
lỗi, vì học thuyết này chủ yếu dành cho những người đang ngã, đã ngã có cơ hội
để đứng dậy làm lại cuộc đời, không phải để bảo vệ bưng bít cho những người
không chịu làm việc tốt. Do đó, tu có lợi ích rất lớn, nhưng tu sai cũng nguy
hiểm rất nhiều. Hạnh phúc đạt được từ việc tu hành, dĩ nhiên hơn rất nhiều so
với hạnh phúc thế gian. Chọn con đường tốt hơn, một phương trời cao rộng, một ý
thức, lý tưởng cao đẹp, đó chính là tất cả cuộc sống, cũng là lý do tại sao
chúng ta cần chọn đời tu, và tại sao nhiều người tại gia chọn đạo Phật như là
một lý tưởng.