Chương
6. Sống hạnh phúc
Giảng
tại Trung tâm Thanh thiếu niên III, Q. Gò Vấp, ngày 31-03- 2004
Quan
niệm hạnh phúc
Hạnh phúc thể hiện trên hai
phương diện: Phương diện tinh thần ám chỉ trạng thái thoải mái, vui vẻ, phấn
chấn vươn lên sống một cách có ý nghĩa; và phương diện vật chất mang tính chất
hỗ trợ cho đời sống hàng ngày. Mức độ khác nhau của đời sống được gọi là hạnh
phúc thể hiện qua năm tình huống sau:
Năm người đàn ông buồn thất thểu
tìm đến bác sỹ tâm lý mong được giúp làm thế nào để sống một cuộc sống hạnh
phúc và an vui. Bác sĩ hỏi người đàn ông thứ nhất: “Tại sao anh cần phải sống?”.
Anh thứ nhất trả lời: “Vì tôi sợ cái chết, tôi không muốn chết nên tôi
phải sống”.
Tương tự, bác sĩ hỏi bốn người
còn lại.
Anh thứ hai trả lời: “Tôi sống là bởi vì tôi muốn nhìn thấy ngày mai như
thế nào? Bản thân tôi ra sao? Con cháu của tôi lớn lên có thành đạt hay không
v.v…”
Anh thứ ba nói: “Gia đình tôi đông con, tôi cần có trách nhiệm. Tôi
sống để lo cho chúng”.
Anh thứ tư thưa: “Vì trong cuộc đời này có nhiều thứ rất hấp dẫn, rất
nhiều phương tiện hưởng thụ. Tôi muốn sống để hưởng niềm vui sướng đó”.
Đến lượt anh thứ năm. Anh không
trả lời nhưng hai hàng nước mắt chảy dài trên má.
Năm người tới phòng mạch với năm
lý do khác nhau. Người muốn sống vì trách nhiệm với những người thân, người
thương; người muốn sống vì nỗi sợ hãi cái chết đang đeo đuổi; người muốn sống
vì muốn hưởng thụ, giải trí; người muốn sống vì muốn nhìn thấy tương lai của
con cháu mình, thấy được những người thân của mình như thế nào; và người còn
lại bật khóc do cảm thấy đời mình quá khổ, không còn nhìn thấy hạnh phúc bất cứ
nơi đâu. Đối với loại người thứ năm này, cuộc đời gần như mất hết ý nghĩa, dù
họ có thể hiểu, thấy được hạnh phúc của người khác, nhưng vì nỗi buồn khống chế
cho nên họ không còn thu nhận và thấy được ý nghĩa trong cuộc đời.
Năm cách trả lời cho thấy hạnh
phúc không phải là cái gì đó cao xa, nhà cao cửa rộng, điều kiện vật chất đủ
đầy, hay hoàn thành những công việc vĩ đại, những công trình to lớn đóng góp
cho cuộc đời, mà hạnh phúc bắt nguồn từ chính niềm vui rất nho nhỏ. Chẳng hạn
trong tập thể, những người xa lạ đến từ các tỉnh thành, quận huyện tập trung về
sống quây quần bên nhau. Đầu tiên họ là những người bạn. Nhưng thời gian và
hoàn cảnh nối kết họ với nhau để trở thành anh em thân thiết. Người lớn bỗng
dưng cảm thấy thương người nhỏ hơn mình, họ chăm sóc lo lắng, an ủi, nâng đỡ
tinh thần cho nhau như người trong gia đình. Người nhỏ xem người lớn nhưng bậc
cha mẹ, ông bà, luôn bảo ban dạy dỗ những điều đạo đức và cũng là nơi để bày tỏ
tấm lòng hiếu kính. Niềm vui từ bản thân tỏa từ trường mang đến niềm vui cho
những người tiếp xúc và giao lưu. Đó cũng là cách để có được hạnh phúc. Hạnh
phúc còn có mặt trong những buổi sinh hoạt tập thể. Những trò chơi vui nhộn để
tất cả thành viên nam nữ đều có thể làm quen, học hỏi, tôn trọng lẫn nhau, rồi
thương yêu, chia sẻ.
Như vậy, hạnh phúc đòi hỏi chủ
yếu ở thái độ. Thái độ đó thuộc về tinh thần. Nó bắt nguồn từ cách chúng ta
nhìn, đánh giá vấn đề trong cuộc sống liên hệ đến quan điểm hay cá tính của bản
thân. Muốn có hạnh phúc, trước nhất phải tránh tình huống thứ năm của người
trong câu chuyện, đó là chỉ biết khóc, không còn hy vọng gì vào cuộc đời này nữa.
Thực tế, chúng ta thấy rằng cách
nhìn nhận vấn đề của anh thứ năm là không chính xác. Bất cứ ai, ít nhất cũng có
một mái ấm gia đình, có những người thân, những người thương yêu giúp đỡ, nhưng
vì đặt nặng nỗi khổ đau và nhân rộng nó lên nên anh không còn nhớ những gì mình
đang có, nghĩ rằng cuộc đời mình bất hạnh, không còn ý nghĩa để sống. Khi ai
đụng đến nỗi khổ thì anh bật lên tiếng khóc, và chỉ biết khóc mà thôi.
Rơi vào trạng thái thứ năm này,
chúng ta sẽ khó có thể nhìn thấy được hạnh phúc. Hãy tập sống một cuộc sống
hạnh phúc bằng cách trước nhất là thay đổi cách nhìn, kế đến là cách suy nghĩ.
Cách nhìn và cách suy nghĩ này phải đặt trên yếu tố lạc quan. Tương lai tươi
sáng đang ở phía trước. Quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy cây cỏ cũng có hạnh phúc của
nó. Nó trổ những bông hoa rực rỡ, dù phải hứng cái nắng chói chang của mùa hè,
hay bầm dập qua những ngày mưa gió. Hầu như các loại thảo mộc đều có niềm vui,
dù sống trong môi trường nhiệt độ không thuận lợi. Cây đứng sừng sững ngoài
trời, dầm mưa dãi nắng. Ấy thế mà nó vẫn trổ hoa, kết trái ngọt ngào.
Con người có nhận thức, hiểu
biết, có tình bạn, tình thân, nhưng hầu như không nghĩ đến những hạnh phúc đó.
Cho nên đừng ứng xử theo anh thứ năm, đừng để những giọt nước mắt chảy dài trên
má. Khi buồn, chúng ta có thể rơi vài giọt nước mắt mà mình không kiềm chế
được, nhưng sau đó phải hiểu rằng bên cạnh chúng ta còn rất nhiều người thân.
Thấy được điều đó, chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc. Hãy sống lạc quan, làm
việc và học tập chăm chỉ, nghỉ ngơi thư giãn thoải mái, ứng xử chân thành,… Tất
cả sẽ mang lại niềm vui. Mọi phương tiện vật chất không phải là hạnh phúc đích
thực. Nó chỉ mới là niềm vui khi hưởng thụ, còn hạnh phúc thực sự phải vượt lên
trên rất nhiều.
Thử liên tưởng đến câu trả lời
của người thứ nhất. Anh ta nói rằng vì đã sinh ra trên cuộc đời nên anh ta phải
sống, sự sống đó chính là hạnh phúc. Câu trả lời này có thể rất tích cực, nhưng
ngược lại có thể khó được nhiều người chấp nhận. Tại sao phần lớn con người
sinh ra đời nhưng họ lại không hạnh phúc? Bởi vì họ không có được những niềm
vui, những cách sinh hoạt tích cực. Do đó, bằng cách thay đổi suy nghĩ và cách
nhìn, chúng ta phải tạo niềm vui cho bản thân của chính mình.
Niềm
vui của cá
Hai nhà tư tưởng lỗi lạc Trung
Hoa, đồng thời cũng là đôi bạn thân thiết, Trang Tử và Huệ Tử. Một hôm, họ cùng
đến bên con sông có rất nhiều cá. Như chúng ta đã biết, thông thường dòng sông
càng sạch, nước sông càng trong vắt thì càng ít cá. Sông nhiều phù sa, nước
sông đục, nhiều hiểm hóc, khúc khuỷu mới là nơi đàn cá quy tụ và sinh sôi nảy
nở. Hai nhà tư tưởng đã mượn hình ảnh dòng sông liên hệ đến con người để cho
chúng ta một bài học đáng quý. Đó là: “Nếu
muốn có thật nhiều tình bạn chân thành, tình thân thuộc thì đừng xét nét quá
mức, đừng khắt khe để ý và chấp nhặt”. Với đôi mắt độ lượng, vị
tha, hãy nhìn tất cả những người xung quanh là người thân thuộc, bỏ qua cho
nhau những xung đột không đáng, lúc bấy giờ chúng ta sẽ tạo cơ hội cho tình
thâm càng trở nên lớn mạnh.
Hai nhà triết lý cho rằng, nếu
sống khắt khe, chúng ta sẽ không bao giờ có được những niềm vui giống như niềm
vui của cá. Dĩ nhiên sông to, sông sâu cũng có cá, nhưng không nhiều bằng những
con sông phù sa khúc khuỷu. Cuộc sống cũng vậy, muốn có nhiều niềm vui thì phải
sống làm sao để trong tinh thần có nhiều chất phù sa: Phù sa của tình thương
yêu, tôn trọng, thái độ tương trợ, giúp đỡ, tùy hỷ…. Mỗi yếu tố là chất phù sa
cho con sông mình được tươi tốt.
Hai nhà tư tưởng quan sát con
sông, thấy đàn cá bơi tung tăng, chúng vẫy đuôi rối rít, lượn tới lượn lui, sau
đó nhô đầu lên khỏi mặt nước đớp không khí.
Trang Tử nói: “Này Huệ Tử, tôi đang thấy được niềm vui của cá”.
Huệ Tử thắc mắc: “Tại sao huynh nói rằng con cá đang vui?”.
Trang Tử giải thích: “Hãy nhìn xem. Hai con cá bơi tung tăng cạnh nhau,
sau nó là một đàn cá. Một con nghiêng mình, cả đoàn nghiêng theo. Một con tiến
phía trước, cả đoàn cùng theo sau với cùng vận tốc. Cứ thế, nhịp điệu di chuyển
của chúng đều đều. Khi sôi nổi, lúc sâu lắng, nhẹ nhàng như nhịp điệu âm nhạc
làm trạng thái con người hưng phấn hơn”.
Tương tự, trong các sinh hoạt
tập thể của con người, mỗi người một động tác giống nhau, tạo ra vẻ đẹp chung
của đội hình, đồng thời cũng tạo ra niềm vui. Đó là niềm vui chung, niềm vui
lan tỏa, nhờ vậy con người được an lạc, hạnh phúc. Hoạt động nào được đông đảo
quần chúng hưởng ứng, thì hoạt động đó càng lớn mạnh. Sức mạnh tập thể luôn là
yếu tố dẫn đến thành công.
Lúc đó Huệ Tử mới hỏi: “Này Trang Tử, anh không phải là cá. Làm sao anh
biết được niềm vui của cá?”.
Câu hỏi đặt ra vấn đề cần suy
gẫm. Không phải là người đó, làm sao ta biết người đó vui hay buồn. Phương pháp
thông thường nhất là dựa vào cử chỉ. Chúng ta có thể dựa vào ánh mắt, nụ cười,
dáng đi, điệu bộ, cử chỉ để biết được phần nào tâm trạng của người khác. Trang
Tử cũng vậy, ông dựa vào những động tác mà biết cá đang vui. Chúng cũng vẫy
đuôi, ngoi lên hít thở không khí trong lành để đạt sức khỏe và tinh thần sảng
khoái.
Có hai loại không khí. Một loại
không khí là khí ôxy, thứ chúng ta thở ra hít vào, cần thiết cho buồng phổi,
thông qua mũi, đi vào thanh quản, và buồng phổi. Sự thở ra hít vào giúp máu lưu
thông, thay đổi trở nên tươi mới hơn. Bên cạnh đó, các nơ ron thần kinh được
tái tạo, tế bào được làm mới, sức khỏe được trưởng thành. Loại không khí thứ
hai là môi trường sinh hoạt. Mỗi môi trường tạo ra một loại không khí khác
nhau: Không khí ấm cúng, không khí yêu thương hay không khí khổ đau nặng trĩu.
Cái không khí mà muôn loài cần
đến vì sự sống không chỉ là không khí để hít thở mà còn là môi trường sống.
Không khí ấm cúng trong sinh hoạt tập thể, cách sống thương yêu giúp đỡ lẫn
nhau, trở thành dưỡng khí cho hạnh phúc của cuộc đời. Cái dưỡng khí ấy không
chỉ có loài cá, mà loài người cũng cần nỗ lực ngoi lên để đạt được.
Tương tự, hãy học hạnh của cây
rừng. Rừng có tác dụng lọc và điều hòa không khí, có khả năng chống lũ lụt.
Rừng cung cấp gỗ quý, những sản phẩm chế tạo từ gỗ, hoa lá, cây trái,… nói
chung rất nhiều tác dụng cho con người. Trong chữ Hán, “rừng” được đọc là “lâm”, chữ “lâm” được viết mô tả hình thái cây rừng, hai cây ráp lại
với nhau tạo thành rừng. Để đời sống tránh được những thác lũ của khổ đau, hoặc
những xói mòn buồn bã của giọt nước mắt, con người cần phải sống liên kết với
nhau.
Mỗi cá nhân như cây trong rừng.
Tất cả cây phải sống làm sao để mức độ trưởng thành đồng đều với nhau. Và muốn
đồng đều thì phải xem nhau như người thân ruột thịt. Con người đôi lúc có thể
giành giựt lẫn nhau. Những lúc đó, hãy nhớ đến hạnh của cây rừng. Chúng ta
không dành đất sống mà hãy nhường nhau để đứng.
Mỗi người là một cây vươn mình
phát triển vững chãi trong cuộc đời, bất chấp phong ba bão táp. Bản thân đóng
góp gỗ quý cho cuộc đời. Tập hợp những cá thể riêng lẻ tạo nên khu rừng rậm
rạp, không những ngăn cản lũ lụt, xói mòn, sạt lở mà còn thanh lọc không khí, tạo
oxy.
Nghề
gác đêm
Tại Ấn Độ có một nghề gọi là “nghề gác đêm” dành cho phái nam từ 20
đến 60 tuổi. Người làm nghề gác đêm thường cầm cây đi tuần vào ban đêm. Qua
từng ngôi nhà, ông chống gậy xuống nền “cốc,
cốc, cốc,…” sao cho chủ nhà phải thức giấc mà nghe được tiếng gõ
cùng lời cảnh báo “Khuya rồi hãy ngủ đi,
hãy ngủ đi” hoặc “Cẩn thận
củi lửa, cẩn thận củi lửa”,…
Nếu đêm hôm đó, chủ nhà không
nghe những tiếng gõ như vậy, ông ta sẽ bị trừ tiền lương, vì làm việc không
nghiêm túc. Tiếng cảnh báo phải được chủ nhà nghe thấy để tạo cảm giác yên tâm
mình được an toàn. Đó là nghề canh giữ cho giấc ngủ người khác. Trung Quốc và
Việt Nam,
xưa cũng có nghề này. Người làm nghề này không mấy khi được để ý, tán thán.
Không ai dòm ngó đến họ. Công việc thầm lặng, tẻ nhạt và bạc bẽo, phải lang
thang khắp thôn xóm, qua hàng trăm ngôi nhà dưới điều kiện khí hậu khi thì oi
bức, lúc dầm mưa lạnh lẽo, ấy thế mà vẫn mang đến cho họ niềm vui, niềm vui
phục vụ.
Hãy thử hình dung vào giờ đêm ai
cũng cần phải ngủ. Nhưng người ta phải thuê một người chuyên đi canh chừng ban
đêm, vì sợ ăn trộm. Liệu mỗi lần nghe “cốc,
cốc, cốc”, “hãy ngủ đi”,
chúng ta có ngủ được không? Không. Nhưng tại sao người ta vẫn cần người làm
công việc đó? An toàn. Như vậy tính chất chủ yếu của công việc gác đêm là tạo
sự an toàn.
Chúng ta vẫn biết người làm nghề
gác đêm luôn nhắc nhở người khác coi chừng cháy, khuya rồi hãy ngủ đi… Thế
nhưng, mỗi lần nghe nhắc nhở, có mấy ai để ý đến công sức bảo vệ sự an toàn cho
mình, hầu như không ai để ý, thậm chí cũng chẳng ai hé cửa sổ nhìn ra và tán
thán một câu. Họ chỉ chờ hôm nào không nghe tiếng nhắc nhở sẽ liền quở trách
hoặc trừ lương. Ấy thế mà người gác đêm vẫn làm, bởi vì họ biết tìm ra được
niềm vui trong việc giúp dân. Ngoài giúp dân, nó còn là cách thức nhận thấy ý
nghĩa công việc làm của mình, thấy được ý nghĩa ngành nghề mình đang gắn bó.
Vậy nên, nếu ai cũng so đo, nghĩ
rằng phải làm nghề nào đó quan trọng hơn, nhiều tiền lương hơn và được nhiều
người tôn trọng thì còn ai làm những nghề thông thường đó. Mỗi ngành nghề đều
có giá trị như nhau. “Lao động là vinh
quang”. Cứ quan niệm mỗi nghề là một cơ hội để lao động. Mỗi loại
hình lao động là một cách thức mang lại cho mình niềm vui và hạnh phúc, đặc
biệt khi thấy được giá trị của nghề, giá trị của sự đóng góp.
Ấn Độ cách Việt Nam trên hai
ngàn cây số. Người Ấn Độ khỏe mạnh, với nước da ngăm đen. Ấy thế mà họ không
bao giờ mặc cảm với những người da trắng. Hạnh phúc là cái chúng ta có và thỏa
mãn với nó. Không chấp nhận hiện tại mà tìm kiếm những cái cao hơn thì sẽ rơi
vào khổ đau. Người Ấn Độ đa phần là những người sống rất hạnh phúc.
Mỗi hình thức lao động là dịp
vui chơi giải trí hoặc khi giúp đỡ người khác, nói cách khác là thực hiện điều
hay lẽ phải, việc công ích thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ có được những niềm vui,
có được rất nhiều hạnh phúc. Sống như vậy được xem là sống có ý nghĩa, sống
tích cực.
Cũng cùng công việc, nhưng có
người thực hiện với tâm trạng hân hoan, người khác lại thực hiện với tâm trạng
chán nản. Cho nên, muốn có niềm vui thì bản thân chúng ta cần thay đổi thái độ.
Đó là thái độ xung phong, không ganh tỵ, không so đo tính toán. Và muốn vậy,
phải xem tất cả những người xung quanh là anh em ruột thịt, thì chúng ta mới
khởi tâm thương yêu và giúp đỡ.
Cũng giống như người làm nghề
gác đêm, nếu họ không coi những ngôi nhà mà họ đi qua như người thân của mình
thì họ không thể gắn bó công việc một cách lâu dài, không thể phục vụ với niềm
an lạc thật sự được.
Cái
vỏ ốc
Có hai mẹ con ốc sên sống với
nhau. Ốc sên con có thân thể mềm hơn ốc sên mẹ. Vỏ của nó cũng không cứng nên
mỗi khi gió lớn hay mưa to, mỗi giọt mưa dội lên thân thể tạo cho nó nỗi đau.
Khi gió thổi mạnh, ốc sên con cũng bị rớt bởi chất keo tiết ra từ miệng không
đủ sức giúp nó bám chặt một cách an toàn ở bất cứ nơi đâu. Cho nên, ốc sên con
luôn cần sự chăm sóc của ốc sên mẹ.
Hôm nọ, ốc sên con nói với mẹ: “Mẹ ơi, con biết rằng cái vỏ ốc này rất cần thiết,
bởi vì nó giúp con tránh được mưa, đá giội lên mình. Nhưng tại sao chú sâu rọm
cũng mềm mà lại không có cái vỏ như mình? Con mang cái vỏ trên thân thể này cảm
thấy mệt nhọc, vì nó quá nặng và cứng. Đi đâu cũng phải vác trên lưng. Mẹ con
mình hãy bỏ cái vỏ này đi”.
Ốc sên mẹ mới trả lời: “Con à, mặc dù cái vỏ này rất nặng, cứng, cồng kềnh,
khó chịu nhưng thiếu nó thì những cơn mưa lớn, đặc biệt mưa đá,…, con sẽ đau
nhức gấp nhiều
lần, thậm chí có thể chết. Cho
nên con hãy giữ nó. Đừng bắt chước chú sâu rọm. Dòng họ sâu rọm thân thể nhẹ,
có nhiều chân nên bò rất nhanh. Ngoài ra, họ có khả năng bám ngửa người xuống
mà không bị rớt. Chỉ cần bám vào một chiếc lá, một thân cây và nằm cuộn tròn,
họ có thể tránh được mưa hay những tình huống nguy hiểm”.
Ốc sên con chưa hài lòng: “Tại sao con giun sống dưới đất, thân hình nó cũng
mỏng, mềm nhũn như mình, nhưng lại sống được?”.
Ốc sên mẹ lại nói “Con ơi, đừng tị nạnh. Giun có hang nằm dưới lòng
đất. Mỗi khi bị con vật lớn hơn tấn công thì nó chui xuống hang và được an
toàn. Chúng ta có vỏ ốc, hãy vui vẻ xem nó như căn nhà của mình, là nơi ấm để
mình nương náu. Nó có thể thay thế cho cái hang dưới lòng đất của chú giun hay
lá cây, thân cây phủ trùm che chở cho chú sâu rọm khỏi mưa nắng”.
Như vậy, ốc sên mẹ đã kết luận
hai điều. Thứ nhất, con sâu rọm nhờ khả năng bám chắc, nhờ cây lá che chắn nên
nó sống an toàn mà không cần cái vỏ. Thứ hai, con giun, con trùng nhờ lòng đất
che chở nên nó cũng được an lành mà không cần vỏ. Còn loài ốc không có hai may
mắn này thì phải sống bằng cái vỏ. Chúng ta có thể liên hệ nó như một căn nhà.
Căn nhà có thể thay thế cái hang dưới lòng đất, thay thế cho thân cây phủ trùm
với những chiếc lá giúp tránh mưa, tránh nắng.
Ốc sên mẹ ý thức được rằng “Dù không được bầu trời, lá cây che chắn như sâu rọm
hay được đất bao bọc như con giun thì loài ốc vẫn may mắn còn có lớp vỏ cứng
bảo vệ. Chúng ta có quyền tự hào về điều đó, và hơn hết là khả năng tồn tại lâu
dài”.
Cuộc sống cũng vậy, chúng ta tự
lực, tự vươn lên gầy dựng cho bản thân một ngôi nhà kiên cố để không bao giờ
phải sợ hãi hiểm nguy, sống an vui hạnh phúc. Vỏ ốc được hiểu theo nghĩa vật
chất như vậy. Nghĩa thứ hai thuộc về tinh thần. Con người sống dưới mái che của
tình thương yêu, đùm bọc, san sẻ lẫn nhau thì cuộc sống trở nên êm đềm an lạc,
cảm giác sợ hãi bị đe dọa, sẽ mất dần để thay vào đó là niềm tin vươn đến hạnh
phúc.
Kinh nghiệm để có được hạnh phúc
là chúng ta phải nương tựa vào một cái gì đó. Như loài sâu rọm nương tựa vào
thân cây, chiếc lá; con giun đất nương tựa vào hang sâu; còn ốc sên phải nương
tựa vào cái vỏ. Con người muốn có hạnh phúc lâu dài thì cần biết nương tựa,
nương tựa vào cha mẹ, bạn bè, người thân, hoặc nương tựa vào bản thân, nếu hoàn
cảnh không cho chúng ta có được sự nương tựa như ý muốn.
Lời
cha dạy
Một gia đình nọ, người mẹ vì
bệnh đã qua đời. Người cha một mình “gà
trống nuôi con”. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, người cha phải lao động
vất vả nuôi con khôn lớn. Đến năm cô con gái tròn mười sáu tuổi, người cha lâm
bệnh không còn khả năng làm việc nữa. Khó khăn chồng chất khó khăn, không còn
cách nào khác, cô con gái hiếu thảo phải bỏ học để đi xa tìm việc làm thuê.
Ngày chia tay cha tại sân ga, cô
đã khóc sướt mướt khi nghe cha dặn dò chuẩn bị một cuộc sống tự lập, không có
cha bên cạnh nâng đỡ, vỗ về, phải vững niềm tin vào cuộc sống, biết tự đứng dậy
đối mặt với gian nan thử thách và sống trải rộng tình thương như tình thương mà
cha mẹ đã dành cho cô trong suốt cuộc đời. Tất cả những lời khuyên của cha dành
cho cô con gái không ngoài mục đích duy nhất là mong muốn cô trưởng thành.
Dấu hiệu của sự trưởng thành
không nhất thiết liên hệ đến tuổi tác, chẳng hạn mười tám hay hai mươi tuổi trở
lên, mà liên hệ đến cách thức sống, lý tưởng sống của mỗi người. Khi chúng ta
sống có lập trường, có lý tưởng cao đẹp, có giá trị đóng góp là chúng ta đã
trưởng thành.
Giới thanh thiếu niên thường
quan niệm sai lầm rằng trưởng thành thể hiện qua hình ảnh của rượu chè, thuốc
lá, trai gái… Đó không phải trưởng thành mà là những thói hư. Chính những thói
hư đó sau này sẽ quay lại tạo phản, gây khổ đau ghê gớm cho chủ nhân của nó.
Phải tập làm sao nuôi cho mình một đức tính trưởng thành.
Người cha nói tiếp: “Con sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Mỗi lần con ngã quỵ
thì đừng bao giờ nhờ tới cây gậy của người khác để chống, mà hãy tự mình đứng
lên”.
Lời dạy này rất ấn tượng. Chúng
ta chỉ nên đỡ người khác đứng lên, nhưng phải hết sức thận trọng trong việc nhờ
vả sự nâng đỡ từ người khác, vì trong sự nâng đỡ ấy có thể có yếu tố lợi dụng.
Không nên khóc và cũng đừng tỏ ra mình đang bị đau. Phải tập thái độ bình tĩnh,
tự chống tay đứng dậy.
Tự đứng dậy bằng đôi bàn tay và
đôi chân của mình, bằng chính sức lực, trí khôn ngoan để tự vươn lên trong cuộc
sống. Đừng lệ thuộc vào người mà đôi lúc chúng ta chưa hề quen biết, không biết
người đó tốt hay xấu, thật sự thương cảm chúng ta hay ẩn chứa mục đích lợi dụng
sau đó. Cho nên trong cuộc sống, phải thật sự thận trọng.
Cuối cùng, người cha không quên
dặn con: “Hãy viết thư thường xuyên để
cha yên tâm rằng con vẫn được bình yên”.
Thời gian đầu, cô con gái liên
tục gửi thư thăm hỏi cha và kể lể về cuộc sống, công việc và học tập mà cô đang
theo
đuổi, cũng gặp nhiều khó khăn
nhưng cô vẫn cố gắng vượt qua. Năm tháng trôi qua, những lá thư thưa dần đến
khi cô không còn thói quen viết thư cho cha nữa.
Một ngày nọ, cô trở về quê thăm
cha, người cha không hề trách móc con mình. Ông bảo con vào nhà và ngồi lên
ghế. Sau đó ông đặt ba cái nồi nhỏ đựng ít nước lên ba cái bếp lửa, rồi yêu cầu
con: “Con hãy cho củ cà rốt vào nồi thứ
nhất, quả trứng vào nồi thứ hai, và thìa bột cà phê vào nồi thứ ba để nấu”.
Cô gái làm theo lời cha dù cô
chưa hiểu ý cha muốn nói điều gì. Cô cố kiên nhẫn cùng cha ngồi đợi trong ba
mươi phút. Đến khi không chịu nổi vì đói, cô hỏi cha: “Cha ơi, cha hãy ngừng lại cho con ăn đi. Đừng nấu
thêm nữa”.
Lúc này, người cha, mới lấy thìa
múc củ cà rốt ra ngoài, lấy quả trứng đặt trên đĩa, và rót cà phê vào tách. Sau
đó, ông nói với cô con gái: “Con hãy ăn
củ cà rốt này xem có ngon không?”.
Củ cà rốt nấu trong ba mươi phút
không còn vị ngọt nữa, vị ngọt đã được hòa vào nước nên chỉ còn lại xác củ nhạt
nhẽo, vô vị. Nhưng vì thương cha nên cô gái giả vờ ăn ngon lành và khen cà rốt
rất ngọt. Biết con mình nói dối, người cha cau mày: “Con đã nói dối cha, con phải chịu hình phạt để từ
nay đừng nói dối cha như thế nữa”. Nói rồi, người cha cầm quả trứng
va vào trán cô con gái. Quả trứng không vỡ nhưng trán cô gái bị đau. Bấy giờ
người cha mới nói: “Đó không phải là điều
cha muốn dạy con, điều mà cha muốn dạy con sâu sắc hơn là bây giờ con hãy cầm
quả trứng gà này ném xuống đất”.
Chúng ta đã biết, quả trứng luộc
trong ba mươi phút sẽ trở nên rất cứng, không dễ vỡ như quả trứng sống chưa
đun. Trải qua thời gian đun nấu, vỏ trứng trở nên chai cứng như hòn đá cuội.
Cũng vậy, người cha nói với con
gái: “Ai trong cuộc đời cũng gặp phải rất
nhiều sóng gió. Vật lộn với khó khăn sóng gió của cuộc đời, đôi lúc làm tâm con
người chai đá, nhận thức đóng băng, không còn niềm khao khát để sống. Trạng
thái chán nản, thất vọng làm con người có thái độ ứng xử như hòn đá cuội, đôi
lúc làm tổn thương cho người khác, như cách thức quả trứng làm cho trán con đau
nhức”.
Cuối cùng, người cha yêu cầu: “Hãy uống tách cà phê”. Nhấm hương vị
ngon đậm đà từ tách cà phê, cô gái khẽ mỉm cười hài lòng. Khi đó người cha nói
tiếp: “Con thấy đó, cùng nhiệt độ 100oC,
nấu trong 30 phút liên tục thì củ cà rốt trở nên mềm nhũn vô vị, trứng gà trở
thành hòn đá cuội, nhưng cà phê lại trở nên ngon đậm đà”.
Câu chuyện muốn nói, chúng ta
đừng bao giờ tủi phận trước hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh. Cần nỗ lực tự tìm lấy
niềm vui, có nghĩa là phải cố gắng trở thành cái tách cà phê, đừng trở thành
hòn đá cuội của quả trứng gà, cũng đừng nhạt nhẽo vô vị như củ cà rốt ninh nhừ.
Cuộc sống bấy giờ mới ý nghĩa, giá trị theo đó cũng tăng lên. Biến mình trở
thành hòn đá cuội trơ trơ trước những khó khăn thử thách của cuộc đời, nếu
không khéo bản thân mình sẽ khổ đau trong những chặng đường đời kế tiếp.
Câu chuyện này dạy chúng ta một
bài học rất sâu sắc. Đó là trong mọi tình huống khó khăn, trong các thử thách,
trong những cái không thuận lợi, tất cả chúng ta phải tình nguyện trở thành ly
cà phê, dĩ nhiên không phải là ly cà phê đắng mà là một ly cà phê đậm đà, có
hương sắc, có giá trị, uống vào rất ngon lành.
Hãy sống có giá trị như tách cà
phê đậm đà hương vị, càng nấu càng ngon, rèn giũa bản thân theo thời gian và
bằng thử thách, con người chúng ta tích lũy nhiều kinh nghiệm, vốn sống càng
được bồi đắp và người đó trở nên vững chãi, thâm thúy, làm chủ cuộc đời mình.
Năm câu chuyện liên hệ đến cái
gọi là sống thế nào để có được hạnh phúc. Mong rằng tất cả chúng ta sống làm
sao thương yêu những người bạn của mình, những người xung quanh như anh chị em
ruột thịt.