Chương
00-08
-oOo-
Chương
Ðầu
I. Chánh Văn
Sau khi Ðức Thế Tôn
thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Ly dục và thanh tịnh là
tối thắng, an trú trong Ðại thiền định mới hàng phục
được chúng ma."
Ở tại vườn Lộc
Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em
Kiều Trần Như đều chứng được đạo quả.
Mỗi khi có thầy Tỳ
kheo nào nêu lên những điều chưa rõ, cầu Phật chỉ giáo,
Ðức Thế Tôn giảng giải làm cho tất cả đều được khai
ngộ, chắp tay cung kính theo lời Phật dạy.
II. Ðại
Ý
Giới thiệu con đường tu
tập của Phật là Giới, định, tuệ và giải thoát.
III. Giảng
Nghĩa
1. Chú thích các từ
ngữ, thuật ngữ:
Thế Tôn:
Người được thế gian tôn kính, là một trong 10 danh hiệu
của Ðức Phật. Tiếng Phạn là Bhagavat, Trung Hoa phiên âm là
Bạt Già Phạm.
Thiền định:
Thiền, tiếng Phạn gọi là Dhyana, Trung Hoa dịch là Tư duy tu
hay Tịnh lự, có thể dịch là Quán chiếu; Ðịnh, tiếng Phạn
là Samadhi, nghĩa là tập trung tâm vào một đối tượng, không
bị phân tán và dao động; Thiền định nói chung là phương pháp
định tâm và tư duy bản chất của đối tượng. Trong Chánh Văn
gọi là Ðại thiền định là để phân biệt Thiền định
của Phật với Thiền định của ngoại đạo và các loại
Thiền định đương thời.
Tứ đế:
4 chân lý, là bài thuyết pháp đầu tiên tại vườn Lộc
Uyển, cũng là bài pháp nền tảng của Giáo lý Phật giáo.
Gồm có: Khổ Ðế là chân lý về sự khổ (Dukkha), nói lên
bản chất của đời sống là bất an, khốn đốn, vô thường,
giả tạm...;Tập Ðế (Samudya, samudaya) là chân lý về nguyên nhân
của sự khổ, chính là vô minh và lòng tham ái ; Diệt Ðế
(Nirodha) là sự chấm dứt khổ, hay là chấm dứt vô minh và
tham ái ; Ðạo Ðế (Marga, magga) là con đường đưa đến sự
chấm dứt khổ. Bát chánh đạo được coi là tiêu biểu cho Ðạo
Ðế.
2. Giải thích nội dung:
Như phần đại ý đã nói,
bài kinh này khái quát nội dung giáo lý Phật Ðà và tiến trình
tu tập gồm có Giới - Ðịnh - Tuệ và Giải Thoát. Qua kinh
nghiệm tu chứng, Ðức Phật thấy rõ ly dục là con đường
đưa đến sự thanh tịnh, và thiền định là con đường khắc
phục phiền não.
a) Giới:
Giới thường được hiểu là "Phòng phi chỉ ác" tức
là ngăn ngừa các điều xấu, đình chỉ các việc ác. Các điều
xấu, điều quấy đều xuất phát từ sự ham muốn bất
thiện. Như vậy, mục đích của Giới là ly dục, ly bất
thiện pháp. Nhờ từ bỏ tham dục và hành động bất thiện, tâm
lý mới ổn định, làm nền cho sự phát triển tâm linh để đạt
đến chỗ giải thoát. Sự náo động của tâm thức do sự đun
nóng của tâm tham dục. Ly dục là rút củi ra khỏi bếp đang
đun sôi nồi nước. Chỉ có ly dục mới làm cho tâm yên tĩnh,
nên Ðức Phật dạy: "Ly dục tịch tịnh thị tối vi
thắng"
b) Ðịnh:
Phần Ðịnh được tiêu biểu ở câu kinh: "Trú đại
thiền định hàng chư ma đạo" cũng là kinh nghiệm của chính
Ðức Phật. Trong quá trình tu tập, Ngài thấy rõ chỉ có tâm
an trú sâu sắc và hoàn mãn trong thiền định thì các phiền não
vô minh vi tế mới có thể được đoạn trừ; chính trong
Thiền định này trí tuệ mới sắc bén. Như đã nói, Thiền định
của Phật giáo luôn bao hàm trí tuệ, tuệ quán là Thiền định,
do đó mới hàng phục các loại ma. Sự khác biệt giữa thiền
định Phật giáo và thiền định ngoại đạo ở chỗ:
1. Thiền định Phật giáo
luôn quân bình chỉ và quán không rơi vào thuần túy định tâm
(chỉ), mà định tâm là điều kiện tốt cho sự quán chiếu
sâu vào lòng sự vật.
2. Vì vậy, Thiền định
Phật Giáo không dừng lại ở các trạng thái của định mà
luôn luôn vượt qua, không vướng vào các giai đoạn của tâm
định.
3. Thiền định Phật giáo
gắn bó với đời sống thực tiễn và nó có công dụng cải
hóa cá nhân và xã hội, Ðịnh với Tuệ là một.
Do vậy mà gọi là Ðại
Thiền Ðịnh có công năng hàng phục chúng ma.
c) Tuệ:
Tiêu biểu cho phần Tuệ là đoạn gần cuối của kinh: "Ở
nơi vườn Lộc Uyển chuyển pháp luân Tứ Ðế...". Tuệ,
theo Phật giáo là sự hiểu rõ bản chất của cuộc sống, được
diễn tả đầy đủ trong 4 chân lý. Ai thấy được 4 chân lý này
người ấy giải thoát. Tứ Diệu Ðế được coi là giáo lý căn
bản và bao trùm toàn bộ kinh tạng Phật giáo. Trong kinh Tượng
Tích Ðại Dụ Kinh (Trung bộ kinh), Xá Lợi Phất đã đưa ra
nhận xét sau: "Chư hiền giả, ví như tất cả dấu chân
của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì
dấu chân này là lớn nhất trong tất cả dấu chân. Cũng vậy,
chư hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong
Tứ Thánh Ðế". Ðức Phật thuyết giảng về Tứ Thánh Ðế
suốt cuộc đời hoằng hóa của Ngài. Cho đến nay, Tứ Thánh
Ðế vẫn là giáo lý căn bản, biểu tượng cho trí tuệ siêu
việt của một Thánh giả. Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ
kheo, ai thấy khổ người ấy cũng thấy nguyên nhân của khổ,
thấy khổ được đoạn diệt và thấy con đường đưa đến
khổ diệt".
d) Giải thoát:
Phần cuối cùng của bài kinh trình bày việc đệ tử của Ðức
Phật đã theo Ngài và tất cả những ai quyết học hỏi tu
lập đều được khai ngộ. Ðiều này nói lên tính hiệu quả
của giáo lý, ai có tu có học và có nỗ lực đều đạt đến
mức độ cuối cùng là giải thoát. Ðó cũng là mục đích
của giáo lý Phật giáo, là niềm ước mơ của bao hành giả
Phật tử.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1- Phần mở đầu giới
thiệu cho bộ kinh. Phần này đã giới thiệu 3 ngôi Tam Bảo đầu
tiên của Giáo hội Phật giáo gồm có Ðức Phật, Giáo pháp
của Ngài là Tứ Ðế, đệ tử đầu tiên là 5 anh em Kiều
Trần Như. Lời mở đầu này ở trong bản cũ không có, bài này
được thêm vào sau.
2- Giới thiệu con đường
tu tập mà chính Ðức Phật đã kinh nghiệm, gồm có: Giới
tức là ly dục tịch tịnh, Ðịnh là trú Ðại Thiền định hàng
phục phiền não, Tuệ là pháp Tứ Ðế, Giải thoát là hiệu
quả của sự liễu ngộ pháp Tứ Ðế.
3- Từ những giới thiệu
trên cho ta thấy tiến trình tu tập truyền thống là Giới –
Ðịnh - Tuệ và mục đích cuối cùng là Giải Thoát được coi
là cốt lõi của bộ Kinh Tứ Thập Nhị Chương. Ðây là tiến
trình tu tập chung nhất cho các hệ tư tưởng Phật giáo.
Chương 1
I. Chánh Văn
Từ giã Cha Mẹ đi
xuất gia học Ðạo, thấu rõ nguồn tâm, hiểu vô vi pháp,
được gọi là bậc Sa môn. Thường giữ gìn 250 giới, sống
đời thanh tịnh, thực hành 4 chân đạo, thành tựu quả vị
A La Hán.
Vị chứng quả A La Hán
có thể phi hành, biến hóa, kéo dài mạng sống, ở đời động
cả đất trời. Thứ đến là quả Anahàm. Vị chứng Anahàm,
khi tuổi thọ hết, thần thức sẽ sinh lên cõi trời thứ 19
thì chứng quả A La Hán. Thứ đến là quả Tư Ðà Hàm, người
chứng quả Tư Ðà Hàm, một lần sinh lên cõi Trời, một
lần sinh xuống cõi Người thì chứng quả A La Hán. Kế đến
là quả Tu Ðà Hoàn, người chứng quả Tu Ðà Hoàn phải 7
lần sinh, 7 lần tử mới chứng quả A La Hán. Người chứng
quả A La Hán là người đã đoạn tận ái dục, như chân tay
bị chặt không thể sử dụng trở lại được.
II. Ðại
Ý
Chương này nói về tiêu
chuẩn và công hạnh của một vị Sa môn, nói về 4 Thánh quả
mà 1 vị Sa môn nỗ lực và khéo tu tập có thể đạt được.
III. Giảng
Nghĩa
1. Chú thích các từ
ngữ, thuật ngữ:
Xuất gia: ra khỏi nhà để
đi tu, có 3 ý nghĩa:
- Xuất thế tục gia
- Xuất phiền não gia
- Xuất tam giới gia
Trong kinh Tăng Chi có 3 hạng xuất gia:
- Thân xuất gia, tâm không
xuất gia
- Tâm xuất gia, thân không xuất gia
- Thân và tâm đều xuất gia
Sa môn:
(Samana; Sramana) Hán dịch là Cần giả: người nỗ lực tu tập,
Tức giả: người dứt phiền não, Bần giả: người nghèo, tu hành
là nghèo, ví dụ như xưng là bần đạo.... Sa môn là từ ngữ
chỉ cho tu sĩ ở Ấn Ðộ nói chung ; về sau chỉ cho tu sĩ
Phật giáo. Cư sĩ Thuần Ðà sau khi cúng buổi cơm cuối cùng đã
hỏi Ðức Phật có mấy loại Sa môn. Phật dạy có 4 loại Sa môn.
1) Thắng đạo Sa môn: Sa môn chứng A La Hán.
2) Thuyết đạo Sa môn: là hữu học Sa môn, hiểu rõ Giáo lý,
khéo thuyết giảng cho mọi người được lợi ích.
3) Hoạt đạo Sa môn (hay Mạng đạo Sa môn):chưa được
chứng quả nào, còn phàm phu, tuy nhiên vẫn sống đúng theo
giới luật, nỗ lực tu học.
4) Ô đạo Sa môn (hoặc Hoại đạo Sa môn): Sa môn không giữ
giới luật, không chánh tín, lười biếng, làm ô uế đạo.
Pháp vô vi:
pháp không tạo tác, không sinh diệt, không biến đổi, không có
điều kiện. Ở đây muốn nói đến Niết Bàn hay Diệt đế.
Chân đạo:
4 Thánh đạo (4 Diệu đế), cũng có thể là 4 niệm xứ.
2. Giải thích nội dung:
Chương 1 định nghĩa về
Sa môn, và nêu lên tiêu chuẩn của một vị Sa môn là biết
tự tâm và ngộ pháp vô vi còn nêu lên mục tiêu của người
xuất gia là chứng 4 Thánh quả, nêu lên những điều kiện để
chứng các Thánh quả, nhất là quả vị A La Hán. Ðiều kiện
đó là giữ giới (250 giới), để cho đời sống được thanh
tịnh và tu tập Tứ đế thì thành tựu quả vị A La Hán.
Quả vị A La Hán được
coi là quả vị cao nhất theo kinh tạng nguyên thủy ; quả vị này
đoạn trừ được 10 kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ,
Nghi, Tham, Sân, Sắc ái, Vô sắc ái, Mạn, Trạo cử, Vô minh. Ðức
Phật đôi khi cũng được gọi là bậc A La Hán. A La Hán chữ
Phạn là Arahat có 3 nghĩa:
- Ứng cúng: xứng đáng
cho thế gian tôn kính và cúng dường.
- Sát tặc: giết hết giặc phiền não.
- Bất sinh: đã thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Sau quả vị A La Hán là
quả A Na Hàm, tiếng Phạn là Anagamin dịch là Bất lai, tức là
không có tái sinh ở dục giới nữa mà an trú ở cõi Trời
thứ 19 tức là Tịnh cư Thiên thuộc Sắc giới, tiếp tục tu hành
để chứng quả A La Hán. Từ quả vị A na hàm trở xuống gọi
là Thánh hữu học. A La Hán được gọi là Thánh Vô học. Ðạt
được quả vị A na Hàm phải đoạn trừ 5 thượng phần kiết
sử là Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi, Tham và Sân.
Sau quả Anahàm là quả Tư
đà hàm, tiếng Phạn gọi là Sakrdagamin, dịch là Nhất lai, nghĩa
là một lần sanh lên cõi Trời Dục giới, một lần xuống cõi
Người mới đắc quả A La Hán. Người chứng quả Tư đà hàm
phải đoạn trừ Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi và làm yếu
đi Tham và Sân.
Quả vị Thánh thấp nhất
là Tu đà hoàn, tiếng Phạn gọi là "Srotappanna,
Srotappanni" dịch là Nhập lưu hay Dự lưu (vào dòng Thánh
hay dự vào dòng Thánh) cũng gọi là Thất lai, 7 lần sinh 7 lần
tử mới chứng quả A La Hán. Người chứng quả Tu đà hoàn
phải đoạn trừ 3 kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ và
Nghi.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1) Chương này đưa ra định
nghĩa về Sa môn theo tiêu chuẩn khá cao là chứng Thánh vị
mới gọi là Sa môn.
2) Ðưa ra mục tiêu của
người xuất gia là các Thánh quả cần phải đạt được.
3) Trong 4 Thánh quả, quả
vị Tu đà hoàn được coi là giai đoạn "Kiến Ðạo",
quả Tư đà hàm, Anahàm coi là giai đoạn "Tu Ðạo",
chỉ quả A La Hán mới được coi là "Chứng Ðạo".
4) Chỉ có quả vị A La Hán, ái dục mới thực
sự được đoạn trừ như một người chặt dứt tay chân không
có thể sử dụng lại được nữa.
Chương 2
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Người xuất gia làm Sa môn thì phải từ bỏ ái dục,
biết được nguồn tâm, thấu triệt giáo pháp của Phật,
hiểu pháp vô vi. Bên trong không có cái để được, bên ngoài
không có chỗ để cầu. Tâm không chấp thủ nơi Ðạo, cũng
không hệ lụy bởi nghiệp, không có suy tưởng, không có
tạo tác, không có tu, không có chứng, chẳng cần trải qua các
Thánh vị mà tự thành cao tột, gọi đó là Ðạo".
II. Ðại
Ý
Phật dạy về tiêu chuẩn
của một vị Sa môn, về công hạnh tu tập để thấu suốt chân
lý và đạt đến chỗ tột cùng của Ðạo.
III. Giảng
Nghĩa
1. Giải thích các từ
ngữ, thuật ngữ:
Nguồn tâm:Tâm
sinh ra vạn pháp (nhất thiết duy tâm tạo) ; về mặt hiện tượng
mà nói, nguồn tâm là vọng tâm là vô minh ; về mặt bản thể
mà nói thì nguồn tâm là chân tâm, là Phật tánh, tánh thanh
tịnh vắng lặng thường trụ của tâm. Biết được nguồn tâm
ở đây, có thể là hiểu biết rõ và làm chủ tâm lý của mình.
Sở đắc, sở cầu:
Chấp thủ các tiến bộ tâm linh gọi là có chỗ được, ví
dụ chấp thủ vào các trạng thái thiền chứng như Sơ thiền,
Nhị thiền... có các đối tượng để mong cầu đạt đuợc
gọi là có chỗ để cầu (sở cầu), ví dụ mong ước tu hành
để được lên thiên đường ...
2. Giải thích nội dung:
Trong chương 1 đã nói đến
tiêu chuẩn của một vị Sa môn là biết được nguồn tâm và
ngộ pháp vô vi. Chương này cũng nói đến tiêu chuẩn ấy, nhưng
bổ sung thêm dứt bỏ ái dục và thấu triệt giáo lý của Ðức
Phật, để hoàn bị hơn về tiêu chuẩn của một vị Sa môn.
Về mặt công hạnh tu tập của một Sa môn, thì chương 1 cho
rằng giữ gìn 250 giới, sống đời thanh tịnh và thực hành 4
chân lý là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, hay 4 niệm xứ là Thân,
Thọ, Tâm, Pháp, để chứng đạt được quả vị cuối cùng
trong 4 Thánh quả là quả vị A La Hán. Nhưng qua chương này, công
hạnh tu tập của một Sa môn có khác là nội tâm không có sở
đắc, ngoại cảnh không có đối tượng để mong cầu... Qua đó,
ta thấy sắc thái của tư tưởng Bát Nhã và Thiền Học được
sử dụng, tức là mang màu sắc tư tưởng Ðại thừa, trong khi
đó chương 1 mang màu sắc tư tưởng Nguyên thủy. Với công
hạnh như vậy, sẽ đạt được chỗ cao tột của Ðạo, không
nói là quả vị A La Hán, ta có thể hiểu đó là quả vị
Phật Ðà. Như vậy, chương này cũng nói về tiêu chuẩn, công
hạnh và mục tiêu của một vị Sa môn, nhưng nói theo quan điểm
của Ðại thừa, bổ sung cho hoàn chỉnh theo 2 hệ tư tưởng
Phật học là Nguyên thủy và Ðại thừa.
Kinh Bát Nhã nói rõ
"Thị chư pháp không tướng", tướng của các pháp là
vô tướng, vì vô tướng nên vô đắc vô cầu. Các pháp tồn
tại tương đối, được mất, có không, thiện ác... là những
khái niệm tương đối, thay đổi không ngừng, không có gì cố
định. Vì vậy, tinh thần vô chấp là phù hợp với thực tại
khách quan, là con đường vượt qua sự trói buộc của nhị
nguyên, các khái niệm về các cặp phạm trù đều là giả
tạo, là mê cung huyễn hoặc. Những lời dạy tiếp theo như không
ràng buộc nơi Ðạo, không kết nghiệp, không suy tưởng, không
tạo tác, không tu, không chứng... chỉ triển khai thêm tinh
thần vô tướng mà thôi ; trên tinh thần đó, các vị Tổ sư cũng
đã từng nói: "Ðoạn trừ phiền não trùng tăng bệnh, xu hướng
chân như tổng thị tà". Nghĩa là đoạn trừ phiền não
chỉ làm tăng thêm bệnh, theo hướng chân như vẫn là tà đạo.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1) Chương thứ 2 này cũng
đưa ra tiêu chuẩn của 1 Sa môn, bổ sung cho hoàn chỉnh tiêu
chuẩn Sa môn của chương 1. Ðiều bổ sung là dứt bỏ ái
dục, thấu triệt giáo pháp Phật Ðà. Chữ thâm lý ở trong
nguyên văn ám chỉ giáo pháp Ðại thừa.
2) Về công hạnh của 1
vị Sa môn, chương này lấy 3 pháp ấn của Ðại thừa làm căn
bản. Ðó là Không - Vô Tướng - Vô Tác (Vô Nguyện).
3) Quả vị hay là mục tiêu
của một vị Sa môn ở chương này hàm ý quả vị Phật Ðà,
chứ không phải là A La Hán như chương 1.
4) Qua nhận xét trên cho
thấy công hạnh và mục tiêu của một vị Sa môn theo quan điểm
Ðại thừa có khác với Nguyên thủy. Tuy nhiên, dù theo quan điểm
nào, thì vị Sa môn cũng phải dựa trên nền tảng chung là
Giới hạnh thanh tịnh, thấu rõ nội tâm, thông suốt ngoại
giới và mục tiêu là thoát ly sinh tử.
Chương 3
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Cạo bỏ râu tóc để trở thành một vị Sa môn, lãnh
thọ giáo pháp của Phật thì phải xả bỏ của cải thế
gian, mong cầu vừa đủ, giữa ngày ăn một bữa, dưới gốc
cây ở một đêm, cẩn thận không trở lại lần thứ hai. Ðiều
làm cho người ta ngu muội là ái và dục".
II. Ðại
Ý
Phật dạy về hình thức
và sự sinh hoạt của 1 Sa môn.
III. Giải
Thích Nội Dung
Những chương trước nói
về nội dung của 1 Sa môn. Chương này nói về hình thức và
sinh hoạt của 1 vị Sa môn. Về hình thức của 1 vị Sa môn là
phải cạo bỏ râu tóc, ngoài ra ăn mặc của vị Sa môn cũng khác
biệt thế gian. Mục đích của sự khác biệt này là để xả
bỏ trang phục đẹp đẽ ; và để phân biệt với người thế
gian như Cảnh sách có dạy: "Người xuất gia phải tâm hình
khác tục". Nếu không khác với người thế gian thì dễ hòa
lẫn với thế gian, sự hòa lẫn ấy sẽ sinh ra các phiền não
lậu hoặc, trở ngại cho con đường tu tập chánh đạo. Câu
"Thọ lãnh giáo pháp" ở đây hiểu là theo giới pháp,
như thọ Tỳ kheo giới để trở thành vị Tăng thực thụ. Xả
bỏ của cải để trở thành Sa môn, vì nghĩa của Sa môn là
Bần giả: người nghèo, biểu hiện sự buông xả đầu tiên
của người cầu giải thoát. Sự mong cầu vừa đủ nghĩa là
nhu cầu của 1 vị Sa môn đủ để sống mà tu hành. Trong kinh
Phật dạy 4 nhu cầu của 1 vị Sa môn là y phục, thực phẩm,
chỗ ngủ, thuốc men. Ðối với 4 nhu cầu này không cầu nhiều
và cầu tốt. Giữa ngày, ăn 1 bữa là ăn vào giờ Ngọ. Ăn như
vậy đủ để sống mà tu tập, ăn nhiều bữa và ăn ngon làm
cho người ta bị lệ thuộc vào món ăn, bị ràng buộc vào món
ăn thì khó mà giữ được khí tiết của một nhà tu hành. Dưới
gốc cây ngủ một đêm là không lệ thuộc vào nhà cửa, phòng
xá, chùa chiền ; lệ thuộc vào đâu cũng phương hại đến công
hạnh tu tập giải thoát, sự không lệ thuộc cao đến nỗi ở
gốc cây cũng không quá 1 đêm, e rằng sẽ lệ thuộc vào gốc
cây đó.
Cách thức sinh hoạt của
1 vị Sa môn như vậy là hết sức đạm bạc và cao thượng.
Mục đích của lối sống đơn giản ấy là để có điều
kiện hỗ trợ công phu đoạn trừ ái dục, thực hiện hạnh
nguyện của một vị xuất gia như chư Tổ đã dạy: "Hủy
hình thủ khí tiết, cát ái từ sở thân, xuất gia hoằng Phật
đạo, thệ độ nhất thiết nhân", nghĩa là:
Bỏ hình giữ khí
tiết,
Lìa ái, xa người thân,
Xuất gia truyền Phật Ðạo.
Nguyện độ hết chúng nhân.
III. Nhận
Xét Và Kết Luận
Chương này Ðức Phật
dạy về hình thức của một vị Sa môn, sự sinh hoạt của
một vị Sa môn. Các chương 1 và2 nói về nội dung của một Sa
môn. Hình thức và sự sinh hoạt của một vị Sa môn có 6 điều:
1. Cạo bỏ râu tóc.
2. Lãnh thọ giới pháp.
3. Xả bỏ của cải.
4. Nhu cầu vừa đủ.
5. Ăn đúng ngọ.
6. Gốc cây ngủ 1 đêm.
Mục đích của lối sống
ấy là để hỗ trợ cho công phu tu tập đoạn trừ ái và
dục.
Chương 4
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Chúng sinh do 10 điều mà thành thiện, cũng do 10 điều mà
thành ác. Mười điều ấy là gì? Thân có 3, Miệng có 4, Ý có
3. Thân có 3 là: Giết hại, trộm cắp, dâm dục. Lưỡi có 4
là: Nói 2 lưỡi, nói độc ác, nói dối trá, nói hoa mỹ. Ý có
3 là: Tật đố, sân hận, ngu si. Mười điều ấy không phù
hợp với con đường của bậc Thánh, gọi là hành vi ác.
Nếu 10 điều ác này được đình chỉ thì gọi là 10 điều
thiện vậy".
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy về 10 điều
ác và 10 điều thiện.
III. Giảng
Nghĩa
1. Chú thích các từ
ngữ, thuật ngữ:
Chúng sinh: Tiếng
Phạn là Satta (Tát đóa, Bộc hô Thiện Na), dịch là hữu tình
(thường gọi là sinh vật). Mỗi một chúng sinh là một tập
hợp của 5 uẩn, đều trải qua nhiều lần sinh tử nên gọi là
chúng sinh (chúng đa sinh tử). Có 4 phương thức tái sinh: Thai
sinh, Noãn sinh, Hóa sinh, Thấp sinh. Theo chủng loại, chúng sinh
được phân biệt ra làm 6 loài: Trời, Người, Atula, Súc sinh,
Ngạ quỷ và Ðịa ngục. Trong bài này chúng sinh chỉ cho loài
người. Theo Ðạo Phật, tất cả chúng sinh dù thuộc loài nào
thấp hay cao đều có Phật tính.
Thiện:
tiếng Pali là Kusala, nghĩa là lành, tốt có đạo đức.
Ác:
tiếng Pali là Agha, tức là xấu, độc, dữ.
Ðịnh nghĩa truyền thống
thiện và ác trong Phật giáo như sau: Ðiều gì đem đến lợi
ích cho mình, cho người ở hiện tại và tương lai gọi là
Thiện. Ác thì ngược lại.
2. Giải thích nội dung:
Chương này nói về hành
vi Thiện Ác để phân biệt con đường nào đưa đến hạnh phúc,
con đường nào đưa đến khổ đau. Sự hiểu biết và phân
biệt Thiện Ác đối với Ðạo Phật được coi là có Trí
tuệ, có mắt sáng. Trong kinh Tăng Chi Phật dạy: có 3 hạng người:
1) Hạng mù cả 2 mắt:
là hạng người không có khả năng sinh sống về mặt vật
chất, và cũng không hiểu biết được pháp nào thiện, pháp nào
bất thiện.
2) Hạng người chột mắt:
là hạng người có khả năng sinh sống về mặt vật chất, nhưng
không có khả năng hiểu biết pháp nào thiện, pháp nàp bất
thiện.
3) Hạng người đủ hai mắt:
là hạng người đủ khả năng đem đến cho mình đời sống
vật chất sung túc và cũng hiểu biết rõ pháp nào thiện để
hành trì, pháp bất thiện để từ bỏ.
Thân có 3 điều bất
thiện là giết hại, trộm cướp và dâm loạn. Dâm loạn nghĩa
là tà dâm, và dâm dục quá độ, bừa bãi. Ðối với người
xuất gia thì chỉ sự dâm dục. Miệng có 4 điều bất thiện:
nói 2 lưỡi tức là nói lời kích động khiến hai bên đấu
tranh chém giết lẫn nhau. Tục ngữ Việt Nam nói: "Ðâm bị
thóc thọc bị gạo" là ý này. Nói hung ác hay độc ác là
nói những lời thô bạo ác độc như: "Ðánh cho mày bể
sọ", hoặc nguyền rủa: "Kiếp sau mày làm thân chó"...
bình thường hơn thì chửi thề... đều là ác khẩu. Nói dối
gạt: có nói không, không nói có để làm cho kẻ khác phải
bị tán gia bại sản, thân thuộc chia lìa... Nói lời hoa mỹ có
nghĩa là nói lời chải chuốt, hay ho nhưng nội dung không có gì,
mang tính phù phiếm đưa đến tác hại cho kẻ khác. Những
lời nịnh bợ cũng thuộc điều này. Kinh Tăng Chi, Phật dạy có
3 hạng người:
1) Hạng nói như phân:
là hạng nói ra điều nào đều có tác dụng đau khổ, phiền
muộn cho kẻ khác, luôn gây bất hòa, đi đến đâu gây rối
đến đó.
2) Hạng nói như hoa:
nói những lời chân thật không dối gạt.
3) Hạng nói như mật:
là những người trước khi nói luôn suy nghĩ. Ðiều này có đáng
nói hay không, có những sự thật nói ra chẳng lợi ích cho ai
thì vẫn không nói, là người luôn nói ôn hòa, êm dịu, dễ
nghe.
Ý có 3: tật đố, sân
hận, ngu si. Theo Phật giáo tất cả những hành vi bất thiện
của thân và miệng đều bắt nguồn từ tâm ý. Bởi vì tâm
mới là chủ của hành vi. Kinh Pháp Cú Phật dạy: "Trong các
pháp, Tâm dẫn đầu, Tâm làm chủ, Tâm tạo tác tất cả. Nếu
đem Tâm ô nhiễm để nói năng hay hành động thì quả báo
khổ đi theo, như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe...".
Thường thì Ýù có 3,
dẫn đầu là Tham, nhưng trong chương này nói là Tật đố thay
cho tham. Tật đố là ganh ghét đố kỵ, nhất là đố kỵ sự
thành công của kẻ khác. Có lẽ muốn nhấn mạnh về mặt
biểu hiện vi tế của tham, để cho người tu hành cần tránh.
Người Sa môn đối với tham, thông thường có thể vượt qua,
nhưng đối với tật đố khó vượt qua hơn, tật đố gây sự
khó khăn cho đời sống tập thể hơn.
Lòng sân là mặt trái
của lòng tham. Lòng tham không thỏa mãn thì sinh sân tâm, bất mãn,
bực bội. Lòng tham có khuynh hướng ôm giữ, lòng sân có khuyng
hướng đẩy ra. Lòng sân mới là chủ nhân của đau khổ, tàn
phá và đổ vỡ. Cho nên Cổ đức dạy "Nhất niệm sân tâm
khởi, bách vạn chướng môn khai" (một niệm sân hận
khởi lên, trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra).
Tâm si là tâm mờ tối, không
nhận rõ bản chất của sự vật, do tâm lý mê mờ mà Tham và
Sân có mặt. Nếu tâm hồn được ổn định sáng suốt thì
những tâm lý tham lam, sân hận sẽ được chế ngự hay hóa
giải, Cổ đức có dạy: "Bất úy tham sân khởi, duy khủng
tự giác trì" (Không sợ lòng tham khởi lên, chỉ sợ sự sáng
suốt không có mặt). Si là tên khác của vô minh, mà vô minh là
cội nguồn của sinh tử luân hồi, của đau khổ.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận :
1) Trong 10 điều bất
thiện chia thành 3 nghiệp: Thân, Miệng và Ý, nhưng ý nghiệp là
quan trọng nhất.
2) Trong 3 điều của Ý, Si
là quan trọng nhất.
3) Chỉ cần chấm dứt 10
điều ác thì gọi là 10 điều thiện, chứ không phải là làm
10 điều thiện mới gọi là thiện.
Chương 5
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Người có lầm lỗi mà không tự sám hối để mau chấm
dứt tâm tạo tội ấy, thì tội lỗi càng chồng chất vào thân
như nước chảy về biển, dần dần trở nên sâu rộng. Nếu
người có tội mà tự nhận biết tội, bỏ ác làm lành thì
tội lỗi tự diệt, như bệnh được đổ mồ hôi dần dần
sẽ khỏi bệnh".
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy người có
tội phải sám hối thì tội mới tiêu diệt.
III. Giảng
Nghĩa
1. Chú thích từ ngữ,
thuật ngữ:
Sám hối:
Sám là âm của chữ Sanscrit là Ksamayati. Ksamayati dịch là hối
lỗi. Chữ Hối là chữ Hán, nghĩa là ăn năn về tội đã
phạm. Ghép 2 chữ Phạn và Hán thành chữ Sám hối. Trong Phật
học giáo khoa thư, Trung Hoa thường dịch là Sám ma (Ksama), nghĩa
là Hối quá (hối lỗi), thực ra Ksama là thứ lỗi, tha thứ.
2. Giải thích nội dung:
Ðã là người thì không
ai không có lỗi, điều quan trọng là người ấy có thấy được
cái lỗi của mình và ăn năn hối lỗi hay không. Phật dạy có
2 hạng người cao thượng ở đời là: 1- người không có tội
lỗi ; 2- người có tội mà biết hối lỗi. Có lỗi mà không
biết hối lỗi thì tội lỗi càng tăng trưởng, bởi vì khi không
biết hối lỗi thì mình yên chí mà tiếp tục lầm lỗi, còn
biết lỗi thì hành vi tội lỗi sẽ dừng lại.
Như đã nói ở chương 4,
ác nghiệp có 10 điều nhưng đều xuất phát từ ý nghiệp
tức là từ tâm thức. Nếu ý được chuyển hóa thì thân và
miệng sẽ chuyển theo. Tội đã do tâm tạo thì cũng do tâm mà
diệt. Ðây là điều quan trọng và đặc biệt của Phật giáo.
Tội lỗi là do con người tạo ra và cũng do con người diệt
trừ, không do đấng thần linh nào có thể xóa tội cho con người.
Sám hối trong Phật giáo là
điều tự giác tự nguyện và thay đổi tận gốc rễ, chứ không
phải sám hối là để xóa đi lỗi cũ, mà cứ tạo thêm tội
mới. Một người gây nên tội lỗi mà không sám hối về mặt
tâm lý sẽ bất an, dẫn đến bất an về sinh lý và hoàn
cảnh. Kinh Tăng Chi nói lên lộ trình của tâm thức của một
người gây tội mà không hối lỗi như sau:
1. Có một người nghèo
khổ.
2. Do nghèo khổ nên mắc nợ.
3. Mắc nợ không trả nổi nên tiền lời gia tăng.
4. Tiền lời gia tăng chưa trả nên chủ nợ hối thúc.
5. Bị hối thúc mà vẫn chưa trả nên chủ nợ phải theo sát
gót, sợ con nợ bỏ trốn.
6. Cuối cùng, không có khả năng chi trả nên bị bắt trói.
"Người nghèo
khổ" dụ cho người không biết Chánh pháp, Tà pháp điều
nào thiện, điều nào ác. "Mắc nợ" tượng trưng cho
người vì không biết tu thiện mà làm 10 điều ác. "Tiền
lời gia tăng" nghĩa là khi làm ác, tâm muốn che giấu để
đừng ai biết, tâm càng nặng nề thêm. "Bị thúc
hối" bị mọi người xung quanh chỉ trích, xã hội ruồng
bỏ. "Bị theo sát gót" nghĩa là chính nội tâm của mình
ngày đêm bất an, lương tâm cắn rứt. "Bị bắt trói"
nghĩa là bị hình phạt của xã hội hay bị hình phạt của địa
ngục.
IV. Nhận Xét
và Kết Luận
1) Người có tội lỗi mà
tự biết tội để sám hối, đó là hạng người tốt.
2) Tội do ý nghiệp sanh,
chuyển ý nghiệp thì tội diệt.
3) Oscar Widle: "Sự khác
nhau giữa ông Thánh và kẻ phạm tội là mỗi ông Thánh có
một quá khứ, mỗi kẻ phạm tội có một tương lai".
Ðiều quan trọng là biết
Sám hối thì tâm thức sẽ thăng tiến, đạo nghiệp sẽ thành
tựu.
Chương 6
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy
rằng: "Người ác nghe nói ai làm điều thiện thì đến
để phá hoại. Khi gặp người như vậy, các ông phải tự
chủ, đừng có tức giận trách móc. Bởi vì, kẻ mang điều
ác đến thì họ sẽ lãnh thọ điều ác đó".
II. Ðại
Ý
Phật dạy đừng giận trách
những người phá hoại thiện pháp của mình.
III. Giảng
Nghĩa
Giữa điều thiện và ác,
giữa người thiện và người ác có một khoảng cách rất xa
như sự chết với cái sống, như đau khổ với hạnh phúc, như
chiến tranh với hòa bình. Trong kinh Tăng Chi Phật dạy:
"Xa thật là xa giữa
trời và đất,
Bờ biển bên này và bờ biển bên kia,
Chỗ mặt trời mọc và mặt trời lặn,
Xa hơn hết là pháp của người thiện và pháp của người
bất thiện".
Người ác thường muốn
phá người thiện vì nhiều lý do. Lý do về tâm lý là người
ác không chịu được người khác nghịch ý của mình, nhất là
nghịch 180o. Mặt khác, họ dù là ác vẫn bị mặc
cảm tội lỗi, sự hiện diện của các thiện làm cho tâm lý
của họ bị dao động hơn. Về lý do xã hội, người thiện càng
nhiều thì người ác càng bị lộ diện, và người thiện càng
rõ thì người ác càng bị lên án. Muốn cho điều ác được
coi là bình thường thì những người xung quanh phải ác.
Vì những lý do đó, nên
người ác luôn tấn công người thiện. Người làm điều
thiện sẽ được mọi người thương yêu, kính mến; bên cạnh
những người đồng cảm với mình, có khá nhiều người đang
rình rập, chờ sơ hở của mình mà tấn công. Nếu người
thiện buồn phiền giận trách thì thiện pháp tổn giảm, nếu
trả đũa thì mình trở thành người như họ. Theo luật nhân
quả, ai gieo gió thì gặt bão; người ác phá mình họ sẽ tự
hại bản thân họ.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1) Người ác luôn phá
hoại thiện pháp của người hiền.
2) Người hiền thật sự
là người không phẫn nộ khi bị người ác phá hoại, không ghét
người ác.
3) Người làm ác sẽ bị
quả báo ác.
Chương 7
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Có người nghe ta giữ đạo, thực hành tâm đại nhân
từ, nên đến mắng ta; ta im lặng không phản ứng. Người
kia mắng xong, ta liền hỏi: "Ông đem lễ vật biếu người
khác, người kia không nhận thì lễ vật ấy trở về với ông
không?". Ðáp: "Về chứ". Ta bảo: "Nay ông
mắng ta, ta không nhận thì tự ông rước họa vào thân,
giống như vang theo tiếng, bóng theo hình, rốt cuộc không
thể tránh khỏi. Vậy, hãy cẩn thận, đừng làm điều ác".
II. Ðại
Ý
Phật dạy: "Không nên
phản ứng khi gặp người mắng chửi".
III. Giảng
Nghĩa
1. Giải thích từ ngữ,
thuật ngữ:
Ðại nhân từ:
lòng thương rộng lớn, một từ khác của chữ Từ Bi, hay Ðại
Từ Bi. Chỉ cho lòng thương của bậc Giác ngộ đối với chúng
sinh.
2. Giải thích nội dung:
Ðức Phật dạy đệ tử
không nên mắng lại kẻ mắng mình. Và Ngài minh họa ý đó
bằng trường hợp cụ thể của mình. Lời dạy của Ngài ở
đoạn cuối là cảnh cáo những kẻ làm ác, thường ưa mắng
chửi người khác sẽ gặt lấy tai họa.
Kinh Tương Ưng I (trang 352)
mục Phỉ báng, có câu chuyện tương tự chương này: Ðức
Phật đang ở tại rừng Tre, thành Vương Xá. Bà la môn Akkosaka
Bhàradvàja rất bực tức khi thấy một số vị Bà la môn trong
dòng họ mình đã từ bỏ gia đình để theo Ðức Phật.Ông ta
phẫn nộ đến gặp Ðức Phật và phỉ báng, mắng nhiếc Ngài
thậm tệ. Ðức Phật vẫn bình thản rồi hỏi ông ta rằng
nếu có khách đến nhà ông, ông có tiếp đãi cơm nước không?
Ðáp: Có. Nếu họ không nhận thì món ăn về ai? Ðáp: Về
lại chúng tôi. Cũng vậy, này Bà la môn, nếu ông phỉ báng chúng
tôi, mắng nhiếc chúng tôi, gây lộn với chúng tôi nhưng chúng
tôi không thâu nhận sự mắng nhiếc từ ông. Vậy này, Bà la môn
sự việc ấy về lại ông. Này Bà la môn, nếu ai phỉ báng
lại khi bị phỉ báng, mắng nhiếc lại khi bị mắng nhiếc, gây
lộn lại khi bị gây lộn, như vậy, người ấy đã hưởng
thọ, đã san sẻ với ông, còn chúng tôi không cùng san sẻ, hưởng
thọ sự việc ấy với ông thì sự việc ấy về lại ông.
Chương này triển khai
rộng hơn ý của chương 6, người ác luôn luôn muốn hại người
hiền. Thái độ của người hiền là không nên phản ứng
lại.
Thông thường, người ta
khi bị chửi mắng thì nổi nóng mắng lại, đó là điều dễ
hiểu và thông cảm. Nhưng đối với người Phật tử tu tập
thì phải làm chủ tâm lý của mình, đừng phản ứng theo thói
thường. Sự khác nhau giữa người tu tập Thánh đạo với người
thường là ở chỗ đó.
Người ta mắng mình, khiêu
khích mình là mong cho mình bị đau khổ, phiền muộn thì người
mắng mình đã thành công, nếu mình không mắng lại, không
tức tối thì họ thất bại. Kinh Tăng Chi nói về 7 pháp mà
kẻ thù của ta ưa thích.
1. Kẻ thù của ta mong
cho ta trở thành xấu xí, nếu ta nóng giận nhan sắc của chúng
ta sẽ xấu xí.
2. Kẻ thù của ta mong
cho ta ngủ một cách khổ sở, nếu ta giận hờn thì giấc
ngủ của ta khổ sở không yên
3. Kẻ thù của ta mong ta
không đạt được lợi ích gì, nếu ta nóng giận thì ta
chẳng đạt được lợi ích gì cả.
4. Kẻ thù ta mong ta không
có tài sản, nghèo hèn, nếu ta nóng giận sẽ khó có tài
sản hay sẽ đánh mất tài sản trở nên nghèo hèn.
5. Kẻ thù ta mong ta không
có danh tiếng, nếu ta nóng giận thì ta chẳng có danh thơm
tiếng tốt gì.
6. Kẻ thù ta mong ta cô
độc, không có bạn bè, nếu ta nóng giận thì ta sẽ cô độc
không có bạn bè.
7. Kẻ thù ta mong ta
chết trong đau khổ và đọa vào địa ngục. Nếu ta thường
nóng giận thì ta sẽ chết trong đau khổ và rơi vào địa
ngục.
Người tu hành phải làm
chủ tâm lý của mình, không phản ứng theo tự nhiên là đánh
lại người đánh mình, chửi lại người chửi mình như những
người bình thường khác.
Hơn nữa, người nào thường
chửi mắng kẻ khác, họ tự đào hố chôn mình, ta không cần
mắng chửi lại làm gì
IV. Nhận Xét
và Kết Luận
1) Chương này tương tự
với bài kinh "Phỉ báng" trong kinh Tương Ưng bộ I
(trang 352, Ðại Tạng Kinh Việt Nam).
2) Chương này minh họa thêm
cho chương 6 về người ác thường muốn hại người hiền. Thái
độ của người hiền là không nên phản ứng theo thói thường
khi bị người khác mắng chửi, phải làm chủ tâm thức của mình.
Sự mắng chửi chỉ đem đến tai hại, chứ không đem đến
một ích lợi nào.
3) Người thường nóng
giận mắng chửi kẻ khác sẽ gặt lấy hậu quả xấu.
Chương 8
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Kẻ ác hại người hiền giống như ngước mặt lên
trời mà nhổ nước miếng, nhổ không tới trời, nước
miếng rơi xuống mặt mình. Ngược gió tung bụi, bụi chẳng
đến người khác, trở lại dơ thân mình, người hiền không
thể hại được mà còn bị họa đến bản thân".
II. Ðại
Ý
Kẻ ác muốn hại người
hiền nhưng không thể hại được, mà còn nguy hiểm cho chính mình.
III. Giảng
Nghĩa
Chương này một lần nữa
nói lên sự đối chọi của người ác đối với người
thiện. Nhưng đã thiện thì không có gì phải sợ, tâm lý và hành
vi của mình trong sạch thì chẳng ai hại nổi. Bởi lẽ, chánh
bao giờ cũng thắng tà. Sự chánh trực sẽ đem đến sức
mạnh để chiến thắng cái tà vạy. Người tu hành thường
bị ma phá hoại, nhưng trong lòng mình không có ma, thì chẳng có
ma nào phá được.
Mặt khác, theo luật nhân
quả, gieo nhân thì gặt quả. Hại người bất thiện có thể
quả báo đến chậm; nhưng hại người hiền, quả báo đến
nhanh hơn, bởi vì sự tai hại rộng lớn hơn, thậm chí quả báo
đến ngay lập tức, như trong kinh văn đã thí dụ ngước lên
trời phun nước miếng, nước miếng sẽ rơi xuống mặt mình,
ngược gió tung bụi, bụi không đến người kia mà trở lại dính
vào thân. Trong sách có kể câu chuyện: "Có một người
thợ săn dắt bầy chó vào rừng săn bắn, gặp một vị Tỳ
kheo. Sau khi săn, chẳng có con thú nào, thợ săn cho là xui vì
gặp vị tu sĩ, nên người thợ săn xua chó cắn vị Tỳ kheo.
Vị Tỳ kheo hoảng sợ trèo lên cây tránh bầy chó. Người
thợ săn chưa hả tức, lấy cung tên nhắm vị Tỳ kheo mà bắn
trúng vào bàn chân của vị Tỳ kheo. Vì hoảng sợ và đau, nên
vị này đánh rơi tấm y xuống, chụp lên đầu người thợ săn.
Bầy chó dữ thấy một người đang lúng túng trong tấm y vàng,
tưởng là vị Tỳ kheo té xuống, liền tập trung cắn xé chủ
mình cho đến chết
IV. Nhận Xét
và Kết Luận
1) Kẻ ác không thể hại
được người hiền.
2) Người hiền không nên
sợ kẻ ác, không trách mắng kẻ ác, mà còn thương họ phải
chịu hậu quả do chính họ gây ra.
-oOo-