Chương
38-42
-oOo-
Chương 38
I. Chánh Văn
Ðức Phật hỏi
một vị Sa môn: "Sinh mạng của con người tồn tại bao
lâu?". Ðáp rằng: "Trong vài ngày". Phật nói:
"Ông chưa hiểu Ðạo". Ðức Phật lại hỏi một
vị Sa môn khác "Sinh mạng con người tồn tại bao lâu?".
Ðáp: "Khoảng một bữa ăn". Phật nói: "Ông chưa
hiểu Ðạo". Ðức Phật lại hỏi một vị Sa môn khác
nữa: "Sinh mạng con người tồn tại bao lâu?". Ðáp:
"Khoảng một hơi thở". Phật khen: "Hay lắm! Ông
là người hiểu Ðạo".
II. Ðại
Ý
Mạng sống con người
rất mong manh, chỉ trong một hơi thở, thở ra mà không thở vào
là qua đời khác.
III.
Giảng Nghĩa
Chương này Ðức Phật
trắc nghiệm trình độ tu tập và khả năng nhận thức về vô
thường. Những vị Sa môn đã trả lời khác nhau, bày tỏ
sự nhận thức sâu cạn của mình. Vị thứ nhất đã hiểu
cuộc đời là vô thường, mạng sống con người cũng vô thường,
nhưng ông nghĩ rằng thời gian vài ngày là nhanh rồi. Vị
thứ hai cho là một bữa ăn, tức khoảng nửa tiếng, tưởng
rằng như vậy là ngắn lắm rồi, nhưng Ðức Phật vẫn chưa
chấp nhận. Vị thứ ba đáp rằng chỉ trong hơi thở và được
Phật khen ngợi, vì 2 lý do:
1) Về mặt nguyên lý:
sự vô thường diễn ra trong từng giây phút (sát na vô thường).
2) Về mặt tu tập:
sự quán chiếu về vô thường của thân mạng là để
loại bỏ sự thấy sai lầm về thân (thân kiến), để
thấy rõ bản chất thực của thân là vô ngã, thì hành
giả phải thấy sự diễn biến liên tục của thân qua hình
ảnh cụ thể là hơi thở. Sinh mạng thay đổi qua từng hơi
thở. Nói một cách ấn tượng thì thở ra mà không thở vào
là chấm dứt, như người xưa nói: "Nhất tức bất
hồi thiên thu vĩnh biệt".
Thật ra, không phải khi
ta nhắm mắt xuôi tay mới gọi là chết, mà ta đã chết qua
từng sát na (thời gian rất ngắn), sinh mạng thay đổi rất
nhanh, chỉ có những người hiểu Ðạo biết quán chiếu mới
hiểu rõ.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Chương này Ðức
Phật trắc nghiệm trình độ tu tập của các vị Sa môn về
chủ đề cơ bản là sự vô thường của sinh mạng.
2) Sinh mạng con người
chuyển biến liên tục, sự tồn tại rất ngắn, chỉ trong
thoáng chốc. Ðó là sự thực. Thấy được lý thật này,
sự ảo ảnh về thân, chấp thủ bản ngã mới có thể rơi
rụng.
Chương 39
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Người tu học theo con đường của Phật thì phải tin
tưởng và thực hành những lời Phật dạy. Thí dụ ăn
mật, ở giữa hay chung quanh bát đều ngọt. Giáo pháp của
ta cũng vậy" (đều có vị ngọt giải thoát).
II. Ðại
Ý
Ðệ tử Phật thì phải
có niềm tin đối với Ðức Phật và Giáo Pháp
III.
Giảng Nghĩa
Chương này đề cập đến
niềm tin của người đệ tử đối với bậc Ðạo sư. Người
đệ tử muốn thành tựu kết quả tu tập phải có niềm tin
vào ông thầy, vào lời dạy của thầy; nếu không, tâm hoài
nghi sẽ cản trở, chướng ngại cho sự tu tập. Ðiều này
rất quan trọng cho lộ trình tu tập Thiền Ðịnh (Ðại hành
tâm). Yêu cầu của chương này là phải có niềm tin tuyệt đối,
đối với lời dạy của Phật, tất cả những lời dạy
của Ngài đều sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đều có hương
vị giải thoát.
Ðiều đó không có nghĩa
là tin theo một cách mù quáng, vô điều kiện. Niềm tin đó
phải xuất phát từ sự thấy rõ, như trong kinh Kàlama. Ðức
Phật dạy: "Này các Kàlama, đừng để bị dẫn dắt
bởi những báo cáo, hay bởi truyền thống, hay bởi tin đồn.
Ðừng để dẫn dắt bởi thẩm quyền kinh điển hay bởi lý
luận suông, hay bởi suy lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài,
hay bởi vì thích thú trong những lý luận , hay bởi những điều
tuồng như có thể xảy ra, hay bởi ý nghĩa "Ðây là bậc
Ðạo sư của chúng ta". Nhưng này các Kàlama, khi nào các
ông tự biết mình biết chắc chắn rằng những việc ấy là
Thiện, là tốt, hãy chấp nhận theo chúng". (Tăng Chi, Kinh
Tứ Sát, Trung Bộ 1)
Người tu tập đôi khi
thiếu sự sáng suốt, dễ bị mê hoặc bởi uy tín của Ðức
Phật do người khác lợi dụng, sẽ đi vào con đường tà đạo
mà cứ nghĩ rằng mình đã đi đúng chánh pháp.
Niềm tin đối với bậc
Ðạo sư là cần thiết cho sự tu tập, nhưng phải được xét
nghiệm bằng trí tuệ để phân biệt ở đâu là Phật dạy,
ở đâu là trá ngụy, nhất là trong thời kỳ không có Phật
xuất hiện như thế giới hôm nay.
Giáo điển của Ðức
Phật xuất phát từ trí tuệ siêu việt của Ngài nên toàn
thiện viên mãn. Vì vậy, toàn bộ giáo lý đều có một mục
đích duy nhất như Pháp Hoa Kinh nói: "Khai thị chúng sinh
ngộ nhập Phật tri kiến". Chỗ khác, Ðức Phật dạy:
"Nước trong 4 biển tuy nhiều, nhưng chỉ một vị là vị
mặn. Giáo pháp của ta cũng vậy, chỉ có một vị là vị
giải thoát". Thí dụ bát mật ở giữa hay 2 bên đều
ngọt là vậy.
IV.Nhận
Xét Và Kết Luận :
Ðệ tử của Phật tu tập dưới
sự dẫn dắt của bậc Ðạo sư phải có niềm tin tuyệt đối
đối với giáo pháp, vì giáo pháp chỉ có một vị là vị
giải thoát.
Chương 40
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Sa môn hành đạo đừng như con trâu kéo vất vả; thân
tuy có tu tập mà tâm không tu tập. Nếu tâm có tu tập thì
không cần thân tu tập (hình thức bên ngoài).
II. Ðại
Ý
Tu tập chủ yếu là
nội tâm chớ không phải là hình thức bên ngoài.
III.
Giảng Nghĩa
Chương trước đề cập
đến niềm tin đối với bậc Ðạo sư, đối với giáo pháp
để mà tu tập. Chương này đề cập đến vấn đề tu tập
trong tâm chứ không phải hình thức bên ngoài. Con trâu làm
việc vất vả thân xác, trong tâm nó không có nội dung gì. Người
tu hành, bề ngoài tu tập vất vả, nhưng không có tiến bộ
nội tâm thì chẳng khác con trâu chỉ biết cày bừa.
Ðạo Phật chú trọng tu
tâm dưỡng tánh, lấy niềm vui Ðạo (hạnh phúc bên trong) làm
khích lệ cho con dường tu tập đoạn trừ phiền não.
Chương này cảnh giác
những người tu hành chỉ lo chỉnh đốn oai nghi hình thức mà
quên tu tập bên trong tâm thức, kết quả chẳng ích gì.
Khi trong tâm đã thanh
tịnh, đã giác ngộ thì chẳng cần phải tu tập gì nữa, như
câu nói truyền thống: "Những việc nên làm đã làm, không
còn tu học gì nữa". Ý nói là bậc vô học A La Hán.
IV. Kết
Luận
Người tu hành chú
trọng thanh lọc tâm thức, đoạn trừ phiền não, chứ không
chú trọng hình tướng tu tập bên ngoài. Tu tập bên trong mà
thành công rồi thì chẳng cần phải tu tập gì nữa.
Chương 41
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Người hành Ðạo giống như con trâu chở nặng đi
trong bùn sâu, mệt lắm mà không dám nhìn hai bên, ra khỏi bùn
lầy rồi mới có thể nghỉ ngơi. Người Sa môn phải luôn
quán chiếu tình dục còn hơn bùn lầy, một lòng nhớ Ðạo
mới có thể khỏi bị khổ vậy.
II. Ðại
Ý
Chướng ngại chủ yếu
của sự tu tập là tình dục, phải chánh niệm tĩnh giác thường
trực mới khỏi sa ngã.
III.
Giảng Nghĩa
Chương này đề cập đến
sự chướng ngại chủ yếu của một vị Sa môn trên lộ trình
tu tập là tình dục, khi mà cội nguồn của tình dục chưa đoạn
trừ, thì người tu hành phải luôn luôn chánh niệm tĩnh giác
để đoạn trừ, không được khinh thường chủ quan như đã
được nhấn mạnh ở các chương trước, chẳng khác nào con
trâu mang vật nặng trên lưng đi vào con đường bùn lầy,
phải nhất tâm cẩn thận vượt ra khỏi đường lầy rồi
mới nghỉ ngơi.
Ðối với tình dục nói
riêng, đối với phiền não tham, sân, si nói chung, đoạn trừ
chúng là như đặt gánh nặng xuống. Tùy theo căn trí của
mỗi người mà sự đoạn trừ tham dục kết quả chậm hay
nhanh. Trong kinh Tăng Chi, Ðức Phật đề cập đến 4 hạng người:
- Hạng đạo hành
khổ, thắng trí chậm.
- Hạng đạo hành khổ, thắng trí nhanh.
- Hạng đạo hành lạc, thắng trí chậm.
- Hạng đạo hành lạc, thắng trí nhanh.
Nghĩa là:
1- Người bản tính
tham dục cường thịnh, bị khổ bởi tính tham dục đó. Người
ấy khả năng yếu, ngũ căn tín, tấn, niệm, định, tuệ,
yếu nên khả năng yếu, chậm chạp trong quá trình đoạn
diệt các lậu hoặc.
2- Người bản tính
tham dục cường thịnh bị khổ bởi tính tham dục đó. Người
ấy năm căn tín, tấn, niệm, định, tuệ, dồi dào, khả năng
mạnh, nên nhanh chóng đoạn diệt các lậu hoặc.
3- Người bản tính
tham dục không cường thịnh, không bị khổ bởi tính tham
dục. Nhưng năm căn tín, tấn, niệm, định, tuệ yếu nên
khả năng yếu, chậm chạp trong quá trình đoạn diệt các
lậu hoặc.
4- Người bản tính
tham dục không cường thịnh, không bị khổ bởi tham dục.
Người ấy năm căn tín, tấn, niệm, định, tuệ mạnh, nên
có khả năng nhanh chóng đoạn diệt các lậu hoặc.
Tóm lại, sự đoạn
trừ tình dục, sân hận, ngu si, tùy thuộc vào khả năng tinh
thần (5 căn) của mỗi người chứ không tùy thuộc vào tình
dục mạnh hay yếu.
IV. Kết
Luận
1) Thí dụ con trâu chở
nặng đi trong bùn sâu, rất phù hợp với trường hợp người
tu hành chưa đoạn trừ ái dục.
2) Người tu hành luôn chánh
niệm tĩnh giác, làm chủ thân, khẩu, ý thường xuyên mới có
thể đoạn trừ tham dục.
Chương 42
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Ta xem địa vị vương hầu như bụi qua kẽ hở, đem vàng
ngọc quý giá như ngói gạch, xem y phục tơ lụa như giẻ rách,
xem đại thiên thế giới như một hạt cải, xem cửa phương
tiện như các vật quý giá hóa hiện, xem pháp vô thượng
thừa như mộng thấy vàng bạc lụa là, xem Phật đạo như
hoa đốm trước mắt, xem thiền định như núi Tu Di, xem
Niết Bàn như ngày đêm đều thức, xem phải trái như sáu
con rồng múa, xem pháp bình đẳng như nhất chân địa, xem
sự thịnh suy như cây cỏ 4 mùa".
II. Ðại
Ý
Thái độ của bậc giác
ngộ là xả ly toàn bộ tham ái và chấp thủ đối với các
pháp.
III.
Giảng Nghĩa
1. Chú thích từ ngữ,
thuật ngữ:
Ðại thiên thế giới:
(còn gọi là tam thiên đại thiên thế giới) theo vũ trụ quan
Phật giáo thì 1000 thế giới bằng một tiểu thiên thế
giới,1000 tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế
giới, 1000 trung thiên thế giới thành một đại thiên thế
giới. Ở đây muốn nói đến cái lớn rộng so sánh với
vật nhỏ bé như hạt cải.
Ao A Nậu
(Anavatapta) dịch là Vô nhiệt não, ao này ở trên núi Hy Mã
Lạp Sơn, nguồn của con sông Hằng và các con sông khác ở
Ấn Ðộ. Theo truyền thuyết nước ao đó là nước thiêng có
8 công đức: lắng sạch, trong mát, ngọt ngon, nhẹ diệu,
nhuần trơn, an hòa, trừ đói khát và tội lỗi, bổ khoẻ
về thể xác và tinh thần.
Pháp vô thượng thừa:
pháp Ðại thừa, con đường dẫn đến Phật quả.
Phật đạo:
con đường thành tựu quả vị Phật.
Núi Tu Di:
còn gọi là núi diệu cao đó là hòn núi trung tâm của một
thế giới. Ðó là ngọn núi lớn nhất không có núi nào lớn
hơn, vì vậy dùng để thí dụ cho điều gì lớn lao, vững chãi.
Niết bàn:
(Nirvana) còn gọi là Nê Hoàn.
Nir:
ra khỏi, vana: rừng, tức là ra khỏi rừng phiền não.
Niết bàn còn có nhiều tên gọi khác như Diệt (diệt
phiền não), Diệt độ (dứt sinh tử), Tịch diệt
(lặng lẽ tịch tịnh), Bất sanh (không còn sanh tử), Vô
vi (không tạo tác nghiệp), an lạc, giải thoát ...
2. Giải thích nội
dung:
Chương 42 là chương
cuối cùng của Kinh Tứ Thập Nhị Chương, được coi là bản
tổng kết của bộ kinh, nghĩa là đúc kết nội dung tư tưởng
của toàn bộ kinh để rút ra một kết luận cốt lõi.
Chương này trình bày 13
đối tượng chấp thủ của mọi người dưới nhãn quan của
bậc giác ngộ viên mãn, cho thấy trí tuệ siêu việt vượt
thoát khỏi sự trói buộc tâm lý tham ái và chấp thủ, điều
này tiêu biểu cho sự giải thoát. Trong nguyên bản kinh xưa thì
chương này được trình bày 3 đối tượng mà thôi, còn bản
kinh này thì thêm vào khá nhiều gồm 13 điều, có điều hay và
những điều không cần thiết.
Ba đối tượng đầu là
đối tượng của lòng tham ái:
1) Xem địa vị vương
hầu như bụi qua kẽ hở: Bụi qua kẽ hở rất nhỏ
bé, dao động và vô thường. Ðịa vị công danh là đối tượng
ham muốn của số đông, vì thế mà sinh tranh chấp, phiền
muộn. Bậc giác ngộ vì đã thấy bản chất của vũ trụ nên
họ không còn tham đắm danh vị.
2) Xem sự quí giá
của vàng ngọc như gạch ngói: Vàng bạc là sinh
mệnh của con người như người ta vẫn nói: "Tiền tài
là huyết mạch". Vì vậy con người phải vất vả tìm
kiếm, có khi phải hy sinh thân mạng, danh dự, tình cảm ...
Tìm kiếm được rồi lo giữ gìn để đừng mất mát. Bậc
giác ngộ xem những thứ quý giá ấy chẳng khác nào ngói
gạch, không có gì đáng kể.
3) Xem y phục tơ
lụa như giẻ rách: Ham chuộng trang sức, làm đẹp cơ
thể, thỏa mãn tự ngã là điều quan trọng của nhiều người.
Vì vậy, y phục tơ lụa được quan tâm coi trọng. Ðối
với bậc giác ngộ thì sự quý giá của y phục bằng lụa
là không tác động đến tâm tư, xem nó với giẻ rách không
khác.
Ba điều này được
coi là nhóm thứ nhất, là đối tượng tham ái của chúng
sinh.
4) Xem đại thiên
thế giới như hạt cải: Ðại thiên thế giới là nói
đến cái rộng lớn bao la của vũ trụ vạn hữu, đối
với hạt cải là vật nhỏ, quá nhỏ. Khái niệm phân biệt
và chấp trước vào cái lớn, cái nhỏ không phù hợp với
chân lý duyên sinh – Người giác ngộ thấy sự vật bình
đẳng – Ðiều này có một thiền sư đã nói:
"Càn khôn tận
thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung"
(Trời đất rút lại
bằng đầu sợi lông; mặt trời, mặt trăng có thể nằm
lọt trong một hột cải - thiền sư Huyền Giác trong chứng
Ðạo Ca).
5) Xem nước ao A
Nậu như dầu thoa chân: Hình ảnh đối nghịch khác là
ao A nậu và dầu thoa chân, một bên là nước Thánh linh thiêng
trong sạch, một bên là dầu thoa chân phòng rắn rít của người
Ấn Ðộ xưa. Giữa cái sạch, cái dơ người đời phân
biệt rất rõ. Nhưng dưới nhãn quan của bậc giác ngộ thì
chúng là một, "Bất tăng bất giảm, bất cấu bất
tịnh" của kinh Bát nhã.
Hai đối tượng 4 và 5
thuộc nhóm thứ hai, là đối tượng chấp thủ của người
tu hành còn thấp, hoặc là kiến chấp của hàng trí thức
học giả.
6) Xem cửa phương
tiện như các vật quý được hóa hiện: Phương
tiện là cách xử trí khôn khéo để dẫn dắt chúng sinh vào
con đường Ðạo hay nói cách khác sử dụng những phương
thức khác nhau, tùy theo điều kiện thực tế đạt được
mục đích – vì vậy phương tiện là biện pháp tạm thời
không thật cũng như các vật quý giá, tuy quý nhưng là đồ
hóa hiện không thật.
7) Xem pháp vô thượng
thừa như mộng thấy vàng lụa: Vô thượng thừa là
cỗ xe lớn hơn bất cứ loại xe nào, cũng gọi là Ðại
thừa, tức xe lớn đưa chúng sinh đến Phật quả, cao siêu
hơn cửa phương tiện ngụ ý là của thanh văn, duyên giác.
Ðây là lộ trình của Bồ Tát thừa, mặc dù nó quý thật
nhưng chỉ trong cơn mộng không thật.
8) Xem Phật đạo
như hoa đốm trước mắt: Phật đạo hay là Phật
quả là mục tiêu của Ðại thừa Bồ Tát, tu tập đạt đến
Phật quả là hoàn tất mục đích của mình. Tuy nhiên đã là
con đường hay quả vị thì vẫn không thật, chỉ là giả
lập, giả thuyết. Do có sự đối đãi mà gọi là Phật đạo,
ma đạo. Giống như hoa đốm trước mắt là do bệnh mắt mà
có, nếu hết bệnh thì còn gọi hoa đốm là gì nữa?
9) Xem thiền định
như núi Tu Di: Núi Tu Di cao lớn và vững chãi, thiền
định là tâm thức tập trung cao độ, ổn định và vững
chãi. Mục đích của thiền định là trí tuệ đoạn trừ
lậu hoặc chứ không phải mục đích an ổn vững chãi. Vì
vậy đối với thiền định, bậc giác ngộ chỉ xem núi Tu
Di không quan trọng gì mấy, chỉ được cái vững chãi mà
thôi. Chấp thủ vào đó thì không ích gì.
10) Xem Niết bàn
như ngày đêm đều thức: Niết bàn là tịch diệt, là
chấm dứt phiền não, là mục tiêu của định tuệ. Ngày đêm
đều thức có nghĩa là sự tỉnh thức thường trực. Ðối
với bậc giác ngộ, Niết bàn không có gì là cao siêu
huyền bí hoặc cảnh giới siêu nhiên nào đó mà chỉ là
sự tỉnh thức thường trực.
Từ đối tượng thứ
6 cho đến đối tượng thứ 10 thuộc nhóm 3, là các đối tượng
(Pháp xuất thế) chấp thủ của Nhị thừa, xuất thế.
Tất cả chỉ là giả danh, giả lập không nên thủ trước.
11) Xem sự phải
trái như sáu con rồng múa: Phải trái là những đối
cực của cuộc sống, người ta khổ vì thấy có phải có
trái, ta phải người trái ... thực ra phải và trái là
những khái niệm hết sức tương đối. Phải người này chưa
hẳn là phải kẻ khác. Phải lúc này chưa hẳn là phải
trong tương lai. Chẳng khác nào 6 con rồng múa một lượt nhưng
không biết đâu là đầu là đuôi của con này hay của con
kia. Do thấy vậy mà tự tại giải thoát.
12) Xem pháp bình
đẳng như nhất chân địa: Nhất chân địa là từ
chỉ cho địa vị chứng được thật tướng của vạn pháp.
Pháp bình đẳng chính là nhất chân địa.
Ðiều 12 này nói vào
đây là thừa, không cần thiết, lập lại các phần pháp
xuất thế, hơn nữa đặt nó vào đây trở nên lạc lõng và
vô nghĩa.
13) Xem sự thịnh
suy như cây cỏ 4 mùa: Cuộc đời hết thịnh tới
suy, hết suy tới thịnh, chẳng khác nào cỏ cây vào mùa Xuân
thì đâm chồi nảy lộc, mùa Hạ xanh tốt, mùa Thu vàng úa,
mùa Ðông tàn rụng. Ðó là qui luật tự nhiên muôn đời. Vì
vậy, thái độ của bậc giác ngộ là thản nhiên trước
sự đổi thay, thịnh suy của cuộc đời – Vạn Hạnh
thiền sư cũng nói:
"Thân như bóng
chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu lại khô
Ngẫm cảnh thịnh suy đừng sợ hãi
Thịnh suy như sương đầu ngọn cỏ"
Bỏ qua một bên điều
12 là xem pháp bình đẳng như là nhất chân địa, vì lạc điệu
và không hay. Còn lại điều 11 và điều 13 thuộc về nhóm 4,
là đối tượng chấp thủ thường tình của con người,
phải trái, thịnh suy. Người giác ngộ nhìn sâu vào lòng
cuộc sống, thấy rõ bản chất vô thường bất định của
mọi sự nên đối nhân xử thế một cách nhẹ nhàng thanh
thản. Ðó là thái độ xả ly toàn diện.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1. Trong 13 đối tượng dưới
nhãn quan của bậc giác ngộ có thể chia làm bốn nhóm: một
là điều 1, 2, 3 đối tượng của ái dục, tham ái. Hai là điều
4, 5 đối tượng của tư duy phân biệt, chấp thủ quan điểm,
khái niệm. Ba là điều 6, 7, 8, 9, 10 đối tượng chấp thủ
của các bậc Thánh nhị thừa. Bốn là điều 11, 13 (bỏ điều
12) đối tượng chấp thủ của con người nói chung về cuộc
đời, về quan niệm sống.
2. Qua 13 đối tượng dưới
nhãn quan của bậc giác ngộ, ta thấy thái độ xả ly toàn
diện. Xả ly tham ái và chấp thủ. Ðây là con đường độc
nhất vô nhị của Phật giáo và cũng là phần cốt lõi của
sự tu tập trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương.
-[Hết]-
-ooOoo-