Chương
14-25
-oOo-
Chương 14
I. Chánh Văn
Có 1 vị Sa môn hỏi
Phật: "Ðiều gì là thiện? Ðiều gì là lớn
nhất?". Ðức Phật dạy: "Thực hành Chánh đạo,
giữ sự chân thật là Thiện. Chí nguyện hợp với Ðạo là
lớn nhất".
II. Ðại
Ý
"Thiện"là sống
theo đạo lý giữ đúng sự chân thật, "lớn nhất" là
chí nguyện
III. Giảng
Nghĩa
Chương này cũng bắt đầu
bằng câu hỏi của 1 vị Sa môn về 2 vấn đề Thiện và Lớn
nhất. Ðức Phật dạy điều Thiện là thực hành chánh đạo,
giữ sự chân thật. Ðiều gọi là Lớn là tâm chí ngang tầm
với Ðạo.
Ðối với vấn đề thứ
nhất, những gì gọi là Thiện ; có 2 phần:
- Thực hành Chánh đạo: là
tu tập theo Chánh pháp, với người Phật tử tại gia phải
giữ gìn 5 giới, thực hành 10 điều thiện. Ðối với người
xuất gia tu tập Giới, Ðịnh, Tuệ, lấy Bát chánh Ðạo làm phương
tiện tiến tu.
- Giữ sự chân thật: Tâm
phải chân trực ngay thẳng, hành vi rõ ràng minh bạch, ngôn
ngữ không dối gạt. Gọi là giữ điều chân thật.
Như vậy gọi là Thiện.
Vấn đề thứ hai, điều
gì được gọi là Lớn nhất. Phật dạy Tâm chí phù hợp với
Ðạo là Lớn nhất. Ðạo là con đường. Ðạo là nguyên lý
của cuộc sống. Ðạo là bản thể tịch nhiên của vạn vật
vũ trụ. Ở đây muốn nói Ðạo là bản thể, là chân như.
Vậy Ðạo là vô lượng, vô biên. Ðạo là lớn nhất (theo cách
nói của phàm trần). Tâm chí phù hợp với đạo là nâng tâm
thức của mình lớn dần vượt ra ngoài hạn chế của tư tưởng,
ngôn ngữ, hành vi đối đãi, để tâm chí đạt đến chỗ vô
lượng, vô biên ngang tầm với Ðạo. Cái tâm chí phù hợp
với đạo ấy thường gọi là Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại
Từ Bi.
Như vậy gọi là Lớn
nhất.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1) Chương này vị Sa môn
hỏi 2 vấn đề: "Thiện và Lớn nhất". Ðức Phật
dạy 2 vấn đề: Thiện là thực hành Chánh Ðạo, giữ sự chân
thật. Lớn là tâm chí phù hợp với Ðạo.
2) Sự vĩ đại của tâm
chí chính là sự vĩ đại của Trí tuệ, như một Thiền sư nói:
"Trí tuệ vuợt tầm giới pháp, Từ bi thấm nhuận non sông".
Ðạo và Lớn nhất chỉ ở tâm chí của mỗi con người.
Chương 15
I. Chánh Văn
Có vị Sa môn hỏi Ðức
Phật: "Ðiều gì là mạnh nhất? Ðiều gì là sáng
nhất?" Ðức Phật dạy: "Nhẫn nhục là mạnh nhất vì
không chứa ác tâm nên tăng sự an ổn. Nhẫn nhục là không
ác, tất được mọi người tôn kính. Tâm ô nhiễm đã được
đoạn tận, không còn dấu vết gọi là sáng nhất, nghĩa là
tất cả sự vật trong 10 phương, từ vô thỉ thuở chưa có
trời đất cho đến ngày nay không vật gì là không thấy, không
vật gì là không biết, không vật gì là không nghe, đạt được
Nhất thiết trí, như vậy được gọi là sáng nhất".
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy về nhẫn
nhục là mạnh nhất và đoạn tận ô nhiễm của tâm là sáng
nhất.
III. Giảng
Nghĩa
1. Chú thích từ ngữ,
thuật ngữ:
Nhẫn nhục:
tiếng Phạn là Ksanti, là một đức tính quan trọng của người
Phật tử , tỏ rõ sức mạnh nội tâm, cũng là một trong 6 Bala
mật của Bồ Tát hạnh. Nhẫn có 3 loại:
- Sinh nhẫn (chúng sinh nhẫn) như
muỗi, kiến cắn không giận, không giết hại, không sân
hận với người sân hận, không chửi mắng người chửi
mắng mình, còn gọi là hữu tình nhẫn.
- Pháp nhẫn: nhẫn chịu sự áp
bức của thiên nhiên như nóng, lạnh, mưa nắng... còn gọi
là Phi tình nhẫn.
- Vô sinh pháp nhẫn: Nhẫn đạt đến
cao độ trở thành đức tính tự nhiên, ra vào nghịch cảnh
và thuận cảnh một cách tự tại.
Nhất thiết trí:
còn gọi là nhất thiết chủng trí, là trí tuệ hiểu biết
tất cả, không có gì là không biết. Thành ngữ này chỉ cho trí
tuệ của Ðức Phật và bậc Thánh A La Hán.
2. Giải thích nội dung
Nhẫn nhục là nhịn được
những điều khó nhịn, mà tâm được an ổn. Nikàya sử dụng
từ kham nhẫn, cả 2 ý nghĩa đều giống nhau. Nhẫn được điều
khó khăn là biểu hiện sức mạnh của nội tâm. Chỉ có
những người có trình độ tu tập cao, có sự kiềm chế lớn
mới nhẫn nổi, nên gọi nhẫn nhục là sức mạnh. Nhẫn nhục
không phải là hèn nhát như có người tưởng. Người ta mắng
mình mình mắng lại, người ta hại mình mình hại lại, đó là
phản ứng của động vật. Ðạo Phật muốn đem đến cho con
người sự hạnh phúc cao thượng, muốn con người văn minh, văn
hóa hơn các loài động vật khác nên khuyến khích tu hành
nhẫn nhục, là cách tu tập tự chủ, làm chủ tâm lý và hành
vi của mình, không phản ứng tự nhiên như các loài động
vật khác. Ðức Phật dạy trong kinh Pháp Cú: "Tự chiến
thắng mình là chiến công oanh liệt nhất". Kinh Tăng Chi nói
có 8 loại sức mạnh:
1- Sức mạnh của trẻ
thơ là tiếng khóc.
2- Sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ.
3- Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí.
4- Sức mạnh của vua chúa là quyền uy.
5- Sức mạnh của kẻ ngu si là áp đảo.
6- Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa.
7- Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát.
8- Sức mạnh của Sa môn là nhẫn nhục.
Vì vậy, người Sa môn không
dựa vào tiền tài, quyền thế hay tri thức mà chính là sự
nhẫn nhục.
Như trong phần giải thích
thuật ngữ, nhẫn nhục có 3 loại: Sinh nhẫn, Pháp nhẫn, và Vô
sinh pháp nhẫn, kinh Tăng Chi cũng đưa ra 3 loại kham nhẫn tương
tự.
1- Kham nhẫn đối với nóng,
lạnh, đói, khát, sự đau nhói mãnh liệt về thân, sự xúc
chạm ruồi, muỗi, các loại bò sát.
2- Kham nhẫn không chửi
mắng lại kẻ chửi mắng, không sân hận lại kẻ sân hận,
không hãm hại lại kẻ hãm hại...
3- Kham nhẫn khi mắt
thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân
cảm xúc, ý biết pháp... không nắm giữ tướng chung, không
nắm giữ tướng riêng, không bị sắc lôi cuốn và chấp
thủ vào sắc...
"Nhẫn nhục là không
ác, nên được mọi người tôn kính", điều này trong kinh
Tăng Chi nói thêm người không nhẫn nhục có năm điều nguy
hại:
1- Quần chúng không ái
mộ, không ưa thích.
2- Có nhiều người hận thù.
3- Nhiều người tránh né không muốn gặp.
4- Lúc sắp chết tâm bị mê loạn
5- Sau khi chết rơi vào chốn mê khổ.
Vấn đề thứ hai, sự sáng
nhất trên cõi đời này, về mặt vật lý mặt trời được
coi là vật sáng nhất, nhưng đối với con người thì Ðạo
Phật cho rằng, Tâm giác ngộ là sáng nhất, điều này đã nói
ở những chương trước rằng những dục vọng, mong cầu không
còn thì tâm được tĩnh lặng có thể biết được đời trước
của mình và của kẻ khác, có thể đạt được quả vị
Phật Ðà, tâm ô nhiễm chính là tham dục và lòng mong cầu truy
tìm quá khứ, khát vọng tương lai. Khi tâm đã lặng như mặt nước
hồ thu thì vạn vật sẽ hiện rõ như bóng trong gương, nên nói
rằng từ xưa tới nay, không vật gì không thấy, không vật gì
không biết, chứng được nhất thiết trí gọi là sáng nhất
vậy.
III. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Chương này giống hai chương
trên , là do thắc mắc của một vị Sa môn mà Ðức Phật
giảng dạy. Hai chương trước, chương nào cũng nêu lên hai
vấn đề, chương này cũng có hai vấn đề. Như vậy hình
thức 3 chương liên tiếp giống nhau.
2) Chương này nêu 2 vấn
đề: điều mạnh nhất và sự sáng nhất, nhưng vấn đề
nhẫn nhục quan trọng hơn, vì đó là sức mạnh của một vị
Sa môn hay một đệ tử của Phật
3) Nhẫn nhục theo quan điểm
Nguyên thủy hay Ðại thừa giống nhau ở chỗ là công phu tu
tập chủ yếu của Phật tử, kể cả các định nghĩa đều
giống nhau, mặc dù dùng từ ngữ có khác nhau; được cô đọng
3 phương tiện.
- Nhẫn nhục đối với
sự khó chịu, sự làm hại của các loài hữu tình.
- Nhẫn nhục đối với sự khó chịu, sự làm hại của các loài
vô tình.
- Nhẫn nhục đối với sự ràng buộc của các pháp nói chung và
nói riêng là đối tượng của mắt, tai...
Chương 16
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Người giữ ái dục ở trong lòng thì không thấy được
Ðạo. Thí như nước trong mà lấy tay khuấy động, người ta
đến soi không thấy bóng của mình. Người do vì ái dục
khuấy động mà trong tâm ô nhiễm nổi lên nên không thấy Ðạo
được.
Sa môn các ông cần
phải xả ly ái dục. Ái dục hết rồi, có thể thấy Ðạo
được".
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy ái dục còn
ở trong lòng thì không thấy được Ðạo. Ái dục hết rồi
mới thấy được Ðạo.
III. Giảng
Nghĩa
Ðức Phật dạy trong Trung
Bộ Kinh: "Như một khúc cây xanh đầy nhựa sống để ở
trong nước thì sẽ không nhúm lên được lửa. Cũng vậy, với
lòng đầy ái dục người ta sẽ không chứng được chánh đẳng
chánh giác. Như một khúc cây xanh đầy nhựa sống vớt lên
khỏi nước, cũng sẽ không nhúm lên ngọn lửa. Cũng vậy,
với lòng đầy ái dục, người ta không thể chứng được chánh
đẳng chánh giác. Như một khúc cây không còn nhựa sống khô ráo
có thể nhúm lên ngọn lửa. Cũng vậy, với lòng thanh tịnh, đoạn
tận ái dục, người ấy có thể chứng được chánh đẳng chánh
giác" Lời kinh này trùng hợp với lời Phật dạy trong chương
16 này.
Ái dục là nguồn gốc
của đau khổ, là nguyên nhân, là tập đế trong Tứ diệu Ðế.
Khá nhiều bài kinh trước đã đề cập đến vấn đề ái
dục. Tham dục làm cho tâm ô nhiễm, không sáng suốt. Ðối
với dục, Ðức Phật dạy cần phải biết rõ 3 vấn đề.
- Vị ngọt:
đối tượng của ái dục luôn đem đến sự vui thích, sự
cảm thọ sung sướng, đam mê, vì vậy mà ai cũng ham muốn, luôn
tìm kiếm.
- Sự nguy hiểm:
vị ngọt là một mặt của dục và sự nguy hiểm là mặt trái
của dục. Lạc thú hay vị ngọt ấy không bao giờ thỏa mãn, làm
cho con người luôn khao khát, tìm cầu vô tận. Lạc thú của
dục vô thường tạm bợ. Tìm kiếm rất vất vả, có thể vì
lạc thú mà con người có thể hy sinh thân mạng của mình hay
triệt tiêu sinh mạng của kẻ khác. Có được rồi lo giữ gìn,
mất đi thì đau khổ ... Tôi thí vua, con giết cha, vợ phản
bội chồng và nhiều sự đau thương khác đều do ái dục mà
ra.
- Sự xuất ly:
phải biết rằng xa lìa được ái dục là thảnh thơi, là
giải thoát. Sự đau khổ do vướng vào ái dục, thì sự hạnh
phúc do xa lìa ái dục.
Ðối tượng của ái dục
thường được gọi là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn
uống, ngủ nghỉ, hoặc là sắc, tiếng, hương thơm, mùi vị,
cảm giác, xúc chạm. Thực ra, điều quan trọng vẫn là lòng ái
dục chớ không phải do các đối tượng của giác quan, là
chủ nhân gây họa. Do không có trí tuệ, không thấy rõ bản
chất của lạc thú, của đối tượng nên mình lệch lạc,
chấp thủ ái dục. Do ái dục khuấy động nên tâm tư mờ
tối, giống như chậu nước trong lặng, lấy tay quấy lên thì
không thể soi bóng mình được.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1) Cho đến chương 16 này
thì vấn đề ái dục được đề cập trong 7 chương, chương này
dành trọn vẹn cả chương để nói về sự khuấy động của
ái dục làm cho tâm không sáng suốt và do đó không thấy được
Ðạo.
2) Ái dục chính là Tập
đế, nguyên nhân của đau khổ, mà trong Luật đã dạy:
"Sinh Tử Căn Bản, Dục Vi Ðệ Nhất".
3) Ðức Phật khuyên các
thầy Sa môn cần phải đoạn tận ái dục để thấy được Ðạo,
bằng cách thấy như thật vị ngọt, sự nguy hiểm và xuất ly
ái dục.
Chương 17
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Người thấy được Ðạo cũng như cầm đuốc vào trong
nhà tối, bóng tối liền mất, còn lại ánh sáng. Người
học Ðạo mà thấy được chân lý thì vô minh liền diệt,
chỉ còn trí tuệ".
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy về tính
chất của các bậc kiến đạo hay ngộ đạo.
III. Giảng
Nghĩa
1. Giải thích từ ngữ,
thuật ngữ:
Kiến đạo:
là thấy Ðạo, thấy được chân lý, đồng nghĩa với từ
Kiến đế ở trong bài. Theo kinh dạy, thì bậc Kiến đạo là
vị chứng quả vị Tu Ðà Hoàn, là vị Thánh đầu tiên trong 4
quả vị. Ðối với Bồ Tát đạo thì bậc Kiến đạo đạt
được địa thứ 4 trong 10 địa (Kiến địa, Diệm huệ địa).
Vô minh:
tiếng Phạn là Avidya, nghĩa là không sáng suốt, mê mờ, không
thấy rõ bản chất của sự vật, đồng nghĩa với chữ Si.
2. Giải thích nội dung:
Chương này Ðức Phật nói
về tính chất của một bậc Kiến đạo. Bậc Kiến đạo tức
là người thấy được chân lý, thấy được sự thật, không
còn là bị sự vật làm cho mê muội nữa, một lần thấy là
thấy vĩnh viễn. Ở đây chỉ cho quả vị Tu Ðà Hoàn, hay còn
có nghĩa là bậc dự vào dòng Thánh bất thoái chuyển, không
trở lại mê lầm nữa. Sau quả vị Kiến đạo, còn có các
quả vị tu đạo là để cân bằng giữa sự thấy và hành động.
Sau đó là chứng Ðạo tức là đạt đến chỗ tột cùng.
Trong kinh sử dụng ví dụ
người cầm đuốc đi vào nhà tối, bóng tối liền biến mất
chỉ còn ánh sáng là để dụ cho trí tuệ thấy được chân lý,
không còn trở lại tối tăm mê lầm nữa, minh họa cho ý bất
thoái chuyển của bậc kiến đạo.
Từ Kiến đế nghĩa là
thấy chân lý. Chân lý ở đây là 4 chân lý KHỔ – TẬP –
DIỆT – ÐẠO. Trong kinh A hàm , Ðức Phật dạy, ai thấy được
khổ đế, người ấy thấy luôn cả nguyên nhân khổ, sự
diệt khổ và con đường diệt khổ.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
Chương này Ðức Phật nói
về tính chất của bậc Kiến đạo, tức Thánh Tu Ðà Hoàn.
Bậc Thánh này đã thấy được chân lý, tâm không còn mê
muội nữa, và không còn trở lại trạng thái mê lầm nữa như
người cầm đuốc vào nhà tối, bóng tối hết, chỉ còn ánh sáng.
Chương 18
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Pháp của ta là Niệm mà không còn chủ thể Niệâm và
đối tượng Niệm, Làm mà không còn chủ thể Làm và đối tượng
Làm, Nói mà không có chủ thể Nói và đối tượng Nói, Tu mà
không còn chủ thể Tu và đối tượng Tu. Người ngộ thì
rất gần, kẻ mê thì rất xa. Dứt dường ngôn ngữ, không
bị ràng buộc bất cứ cái gì. Sai chỉ một hào ly thì mất
tức khắc.
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy thực
thể của Ðạo thì nằm ngoài phạm trù ngôn ngữ tư duy và
bị tác thành của hữu vi pháp.
III. Giảng
Nghĩa
Chương này nói về thực
thể của Ðạo. Chữ PHÁP ở trong chương này chính là Ðạo.
Pháp là nguyên lý, là thể tánh của vạn vật. Pháp này (hay là
Ðạo) siêu việt chủ thể và đối tượng, nên nằm ngoài
phạm trù ngôn ngữ, tư duy và tác thành của hiện tượng
giới. Ðạo không có tướng để có thể khái niệm hay tư duy.
Kinh Kim Cương nói: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư
vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như
Lai". Nghĩa là nơi nào có tướng là nơi đó có sự giả
dối. Nếu thấy được tính cách không tướng của các tướng,
tức là thấy được Như Lai. Cái gì mà có tướng là có chủ
thể và đối tượng đối đãi nhau, cái đó là hư vọng. Vì
vậy, Lão tử nói: "Ðạo khả đạo phi thường đạo. Danh
khả danh phi thường danh", nghĩa là "Ðạo mà có thể nói
được không phải là "đạo chân thường". Danh mà có
thể gọi được không phải là"danh thường tại", Ðạo
là thực tại nằm ngoài phạm trù đối đãi của ngôn ngữ, khái
niệm... nên nghĩ hay nói về Ðạo hẳn nhiên không phải thực
tại của Ðạo. Với ý nghĩa đó Kinh Kim Cương nói: "...
Chẳng có một pháp gì riêng biệt được gọi là vô thượng
chánh đẳng giác, cũng không pháp nào riêng biệt được Như
Lai tuyên thuyết. Vì sao? Vì những pháp Như Lai đã chứng, đã
nói thì không thể nắm bắt được, cũng không thể diễn tả
được. Ðó không phải là pháp, cũng không phải là không pháp..."
Vì vậy mà nói pháp của Như lai không có chủ thể tu và đối
tượng tu". Tư duy nói năng và hành động thí cách Ðạo
rất xa. Ðạo vốn chẳng gần chẳng xa. Ngộ thì rất gần, mê
thì rất xa.
IV. Nhận Xét Và Kết
Luận
1) Chương này nói về
thực thể của Ðạo. Pháp ở đây chính là Ðạo, Ðạo là
Niết bàn chân như; đạo này không thể nắm bắt được bằng
tư duy, tạo tác, nói năng hay tu tập.
2) Người hiểu hay ngộ
được lý đạo này thì ở đâu cũng là Ðạo, người không
ngộ được thì Ðạo rất xa.
3) Chương này mang tư tưởng
của Kinh Kim Cương Bát Nhã và phong thái của Thiền tông. Dĩ
nhiên tư tưởng này được thêm vào về sau.
Chương 19
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Quán trời đất nghĩ là vô thường, quán thế giới nghĩ
là vô thường, quán linh giác tức là Bồ đề. Hiểu biết như
vậy thì chóng đắc đạo".
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy về đối
tượng quán chiếu để mau thành Ðạo quả.
II. Giảng
Nghĩa
1. Chú thích từ ngữ,
thuật ngữ:
Bồ đề:
dịch âm của tiếng Phạn là Bodhi, dịch nghĩa là Giác, giác
ngộ, trí tuệ.Tâm giác ngộ gọi là Tâm Bồ đề. Linh giác:
tâm linh giác ngộ, hay tuệ giác linh thiêng của chúng sinh.
2. Giải thích nội dung:
Chương này, Ðức Phật
dạy về đối tượng quán chiếu. Có 2 đối tượng:
- Trời đất và thế
giới, có thể gọi là vũ trụ vạn vật, quán vũ trụ vạn
vật cho sâu sắc để thấy cái tính vô thường của nó.
- Tâm linh giác ngộ là
Bồ đề ; quán tâm niệm tỉnh giác của mình chính là sự giác
ngộ.
Vấn đề thứ nhất: Vũ
trụ vạn vật chung quanh ta là đối tượng tiếp xúc của các
giác quan và ý thức. Ta luôn luôn thấy nó bền vững, chắc
thật như tảng đá, ngọn núi, bầu trời, trái đất ... Chúng
ta dễ dàng thấy sự vô thường của bọt nước, của ánh
chớp, của sương mai ... nhưng ít khi chúng ta thấy rõ sự vô
thường của các thiên hà, của những hiện tượng lớn trong vũ
trụ. Vì vậy Ðức Phật dạy, phải thấu triệt bản chất
của vũ trụ vạn vật từ lớn cho đến nhỏ đều vô thường.
Thấy sự vô thường một cách toàn diện của mọi sự vật là
ta đã có trí tuệ, rất gần với sự giải thoát.
Vấn đề thứ hai: Quán
linh giác tức là Bồ đề Linh giác là Tâm linh giác ngộ có
sẵn trong mỗi chúng sanh. Vì không tu tập khai mở khả năng
sẵn có ấy nên chúng sanh chìm trong mê muội. Bồ đề là Tuệ
giác để khai mở kho tàng giác ngộ thiêng liêng ấy. Vì vậy
nếu xét để thấy rằng tâm niệm tĩnh giác (chánh niệm tĩnh
giác) cao độ là Bồ đề, tâm Bồ đề với nguồn linh giác là
một.
Sự nhận thức về bản
chất vô thường của vũ trụ vạn vật chính là tâm Bồ đề.
Tâm ấy với nguồn cội giác tánh không khác nhau. Do đó thấy
được tánh giác của mình. Rốt cuộc sự tu tập quán chiếu
về vô thường vẫn là điều quan trọng nhất để đạt được
giác ngộ.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
Chương này, Ðức Phật
dạy về đối tượng quán chiếu, thấy rõ tính chất của các
đối tượng ấy để mau đắc Ðạo. Ðối tượng thứ nhất là
vạn vật vũ trụ, phải thấy được tính vô thường của nó.
Ðối tượng thứ hai là tâm tĩnh giác; phải thấy rõ chính tâm
tĩnh giác là Bồ đề. Như nói niệm giác ngộ với sự giác
ngộ là một.
Do quán thiên địa mà
thấy bản chất của vạn vật vũ trụ và do quán linh giác mà
thấy khả ăng giác ngộ của mình. Như vậy, có thể nhanh chóng
thành tựu Ðạo quả.
Chương 20
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Phải biết rằng bốn đại ở trong thân thể, mỗi đại
có một cái tên (Ðịa, Thủy, Hỏa, Phong) đều là không có
Ngã, cái Ngã đã không có, thì cái có chỉ như ảo hóa mà thôi.
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy phải quán
xét sự huyễn hóa của thân thể.
III. Giảng
Nghĩa
1. Chú thích từ ngữ,
thuật ngữ:
Bốn đại:
tiếng Phạn là Mahabhutas, là bốn yếu tố vật chất: Ðất, Nước,
Lửa, Gió.
Ngaõ:
tiếng Phạn là Atman, nghĩa là Ta hay Tôi, tức quan niệm rằng
thân của ta có một năng lực chủ thể thường hằng bất
biến.
Như ảo
(như huyễn): giống như thật mà không phải thật, sự
vật có thể nhìn thấy, nghe thấy như thật mà không phải
thật.
2. Giải thích nội dung:
Khi ta nói đến thân tôi có
nghĩa là ta nói đến các chủ thể ngự trị trên thân xác, thường
gọi là linh hồn, là cái tôi. Cái được gọi là Ngã, nghĩa là
một thực thể tồn tại độc lập, bất biến, trường cửu,
cái linh hồn ấy đứng đằng sau sự chuyển biến vô thường
của thể xác. Sau khi chết, xác tàn hoại, linh hồn sẽ rời
khỏi đi đầu thai ở đâu đó. Thực ra, theo đạo Phật chẳng
có cái ngã nào như vậy. Chủ trương vô ngã của đạo Phật
hết sức đặc biệt, và đó là điều chính yếu để phân
biệt giữa Ðạo Phật và các tôn giáo khác. Chủ trương đó
xuyên suốt hệ thống Phật học, phù hợp với chân lý, với
thực tiễn, chỉ có điều nó ngược lại với sự suy tư và
mong ước của người đời.
Trong chương này đề cập
đến cái thân xác này do bốn đại tạo nên, là tập hợp
của bốn yếu tố vật chất: đất, nước, lửa, gió. Không có
cái gì là Ngã, là chủ thể cả. Cái mà ta hiện có ta tưởng
là Ngã, là chủ thể, thực ra chúng có mà không thật, không độc
lập, không tồn tại lâu, gọi là huyễn, ảo mà thôi.
Nói một cách đầy đủ hơn,
con người là tập hợp của 5 yếu tố: vật chất, cảm giác,
tri giác, tâm hành và nhận thức. Năm yếu tố này làm nhân, làm
duyên nương tựa nhau mà tồn tại. Không có cái nào được
gọi là "chủ" cả, ngay cả "nhận thức" là
yếu tố thứ năm tồn tại nhờ sắc (vật chất), thọ, tưởng...
Kinh Tương ưng nói: "Nếu có người nói tôi sẽ chỉ ra
sự đến, sự đi, sự sinh, sự phát triển của nhận thức
biệt lập với sắc, thọ, tưởng, hành thì người ấy đã nói
một chuyện không có thực".
Sự tồn tại của thân
hay của sự vật nói chung là sự tồn tại duyên sinh:"Cái
này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Cái này
sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt".
Ðó chính là lẽ tự nhiên
của cuộc đời, không có một linh hồn, một chủ thể nào độc
lập ngự trị trên thân xác một người, chỉ có sự nhận
lầm của con người về sự hiện hữu của cái Ngã, từ đó
chấp thủ cái Ngã, lo tô bồi cái Ngã, thỏa mãn cho nó, vì
vậy mà chiến tranh, đau khổ, tàn phá...xảy ra. Chấp Ngã là
nguyên nhân toàn diện cho mọi sự đau khổ của thế gian.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1) Chương này Ðức Phật
dạy quán thân là vô thường, không có chủ thể, chỉ có sự
tập hợp của bốn yếu tố: đất, nước, lửa, gió mà thôi.
2) Do không có một thực
thể bất biến, nên vạn vật chuyển biến không ngừng. Sự có
mặt của thân vật... như thật mà không phải thật, chỉ là hư
ảo mà thôi.
3) Quán Vô Ngã như thế,
sẽ thấy được chân lý và chấm dứt mọi khổ đau.
Chương 21
I. Chánh Văn
Ðức Phật
dạy:"Người thuận theo lòng dục để mong được danh
tiếng, khi danh tiếng vừa nổi, thì thân đã mất rồi. Ham
muốn cái danh tiếng thường tình mà không lo học đạo chỉ
uổng công mệt sức mà thôi. Giống như đốt hương, khi người
ta ngửi được mùi thơm, thì cây hương đã tàn rồi. Cái
lửa hại thân theo liền cái danh tiếng.
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy không nên
cầu mong được danh tiếng, có hại cho sự học Ðạo.
III. Giảng
Nghĩa
Danh tiếng là mục đích hướng
đến của nhiều người. Nó được liệt vào trong năm dục,
tức năm đối tượng hấp dẫn con người. Từ những danh
tiếng dễ thấy như thích chức vụ, đăng báo, chụp hình, đến
những danh tiếng tế nhị khó thấy như mừng vui khi được người
khác khen ngợi, ca tụng và buồn rầu khi bị chỉ trích chê
bai, đều là danh cả. Cho đến các việc làm từ thiện mang tính
nhân ái cao cả vẫn bị danh tiếng làm cho hoen ố. Mấy ai mà
không ham danh! Ở đâu mà không có danh! Do vậy đau khổ ở đâu
cũng có. Ham danh là khổ, bởi lẽ sự việc ở cuộc đời không
bao giờ thuận theo ý thích của mình, làm sao mà đạt được
sự không bị chỉ trích? Người xưa nói: "Thùy nhân bối
hậu vô nhân thuyết" (Ai là người mà không bị kẻ khác nói
xấu sau lưng) , được khen thì vui, bị chê thì buồn. Ðó là
tai họa của kẻ thích danh. Kinh Pháp Cú đã dạy: "Như
ngọn núi kiên cố chẳng bao giờ bị lay động. Những lời
hủy báng hay tán dương chẳng bao giờ làm lay động người đại
trí." Ðừng khốn khổ vì sự chỉ trích là lo làm vui lòng
kẻ khác, vì không có gì ngu ngốc hơn là muốn làm hài lòng
mọi người. Có những người suốt đời chạy theo danh tiếng,
làm lụng vất vả để mưu cầu tiếng thơm, đúng như người
xưa đã nói: "Càng cao danh vọng càng dày gian nan", nhưng
cho đến khi có danh hoặc khi mọi người biết đến mình thì mình
đã chết rồi, đúng là "Chết mới nói được nên
lời". Thí dụ đốt hương rất hay, khi hương đã lan tỏa
đến người thưởng thức thì bản thân cây hương đó sắp tàn
hay đã tàn rồi.
Cái danh thường tình của
cuộc đời nó làm hại mình nhiều hơn là lợi, vì danh mà ta
phải làm nhiều điều thất nhân tâm, vì danh mà ta đánh mất
con người thật của chính mình. Trang tử nói: "Làm theo
danh mà bỏ mất mình thì không phải là kẻ sĩ". (Ðại Tông
Sư). Lão tử cũng nói: "Danh mà có thể gọi được không
phải là danh thường". Danh đó là vô thường nên chỉ là
"Uổng công mệt sức", như trong chương này đã nói mà
thôi.
Câu cuối cùng của chương
này nói rằng ngọn lửa tham danh làm hại thân theo liền sau đó
là Ðức Phật xác định rằng tai họa của sự tham danh xảy
ra ngay trong đời sống hiện tại chứ không hẳn đời sau mới
chịu.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1) Tham danh tiếng là một
trong năm đối tượng hấp dẫn đó là Tài, Sắc, Danh, Thực,
Thùy.
2) Người tùy theo lòng
dục chạy theo danh tiếng hão huyền, tâm luôn dao động không có
điều kiện tu tập giải thoát, nên kết quả thì đau khổ cho
đời này và đời sau.
Chương 22
I. Chánh Văn
Ðức Phật
dạy:"Tiền tài và sắc đẹp đối với con người rất
khó buông xả. (Tiền tài và sắc đẹp ấy) giống như chút
mật trên lưỡi dao, không đủ cho bữa ăn ngon, thế mà đứa
trẻ liếm vào thì bị nạn đứt lưỡi".
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy về sự ràng
buộc tai hại của tiền tài và sắc đẹp.
III. Giảng
Nghĩa
Chương 21 nói về danh
tiếng là đối tượng của dục thứ ba trong năm dục. Chương
này Ðức Phật dạy về hai đối tượng của dục là tiền tài
và sắc đẹp, là hai đối tượng chủ yếu của năm dục.
Sự nguy hiểm của dục
(tiền tài và sắc đẹp) ở chương này được ví dụ như chút
mật trên lưỡi dao, có vị ngọt đấy, nhưng không đủ để bù
đắp cái thiệt hại đứt lưỡi.
Trung A hàm Kinh Anletra, Ðức
Phật có dạy thêm một số ví dụ vị ngọt và sự nguy hiểm
của dục như:
a) Khúc xương:
chỉ còn một chút ít thịt dính vào xương, con chó gặm rất
vất vả. Dục cũng như vậy.
b) Miếng thịt:
con quạ có miếng mồi ngon là miếng thịt, những con quạ khác
tranh nhau cắn mổ để giành miếng thịt. Dục cũng như thế.
c) Bó đuốc cỏ khô:
cây đuốc cháy hết sẽ bị nạn cháy tay. Dục cũng như vậy.
d) Dục như hầm lửa:
người bị bệnh phong đến bên hầm lửa hơ rất thích thú, nhưng
sau khi đó bị nóng rát...
e) Rắn độc:
cầm nắm đầu rắn độc không vững sẽ bị rắn cắn chết.
f) Như giấc mộng:
như người nằm mộng thấy nhiều cái đẹp nhưng tỉnh giấc
mộng không có gì cả, như mộng Nam kha, mộng Hoàng lương....
Chẳng hạn. Dục cũng như thế.
g) Như đồ vay mượn:
đồ vật mượn của kẻ khác thì phải trả, không phải của
mình. Dục cũng như vậy.
h) Như gậy nhọn:
người cầm cây gậy nhọn nếu không cẩn thận vấp té sẽ
tự đâm hại bản thân mình.
i) Như trái cây:
cây có trái ngon có nhiều người đến hái. Dục cũng như
vậy.
j) Như lò thịt:
là chỗ giết thú lấy thịt, nơi đầy máu và nước mắt.
Dục cũng như vậy.
Ðó là 10 ví dụ về dục
được trình bày trong các Kinh A Hàm, và Nikàya nói lên mặt
nguy hiểm của tài sản, sắc đẹp, danh vọng, ăn, ngủ. Sự
nguy hiểm của Dục trong kinh Ðại Khổ Uẩn có nói 7 sự nguy
hiểm như:
1- Vì dục mà lo đấu
tranh, nỗ lực làm việc vất vả.
2- Nỗ lực mà vẫn không đạt được tài sản như ý, sinh ra
thất vọng.
3- Nếu đạt được tài sản ... lo giữ gìn, sợ cướp
giựt.
4- Cha con anh em tranh đoạt nhau, đâm chém nhau.
5- Con người vì dục mà sinh ra chiến tranh.
6- Vì dục mà giết hại, đi ăn trộm, tà dâm, bị bắt bớ tù
đày.
7- Thân khẩu ý bất thiện, chết sinh vào đọa xứ.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1) Chương này nói về hai
đối tượng hấp dẫn trong năm dục, đó là tiền bạc và
sắc đẹp.
2) Không buông xả hai
loại đối tượng của sự ham muốn này rất nguy hiểm, giống
như chút mật trên lưỡi dao, liếm vào có thể bị đứt lưỡi.
Chương 23
I.
Chánh Văn
Ðức Phật dạy: "Người
bị vợ con, nhà cửa ràng buộc còn hơn là lao ngục. Lao ngục
có kỳ hạn được phóng thích còn đối với vợ con không có
ý tưởng xa rời. Khi đã đam mê sắc đẹp, đâu có ngại gì
đến gian nguy ! Dù tai họa nơi miệng cọp vẫn cam tâm ! Tự đắm
mình vào chốn bùn lầy nên gọi là phàm phu. Vượt thoát cảnh
ấy sẽ là bậc Alahán.
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy con người
khi bị tình ái, vợ con, tài sản ràng buộc khó mà ra khỏi. Người
thấu rõ được sự nguy hiểm này của nó sẽ trở thành bậc
Thánh.
III. Giảng
Nghĩa
Kinh Pháp Cú, kệ 345 có
thể nói là tương đương với chương này. Kệ nói: "Ðối
với người trí, sự trói buộc bằng dây gai, bằng cây, bằng
sắt chưa phải là kiên cố. Chỉ có lòng luyến ái vợ con, tài
sản, mới thật sự trói buộc chắc bền".
Sự trói buộc đối với
vợ con và tài sản là sự trói buộc tự nguyện nên không có
kỳ hạn ra khỏi. Nói đến điều này là dạy cho hàng xuất
gia biết sự nguy hiểm mà tránh, mặt khác cảnh tỉnh những người
có tâm niệm muốn thoát ly sinh tử. Ðối với người thường,
thì vợ con tài sản là niềm hạnh phúc. Vợ hiền con thảo, tài
sản sung túc, đó là niềm mong ước của nhiều người.
Sự trói buộc của vợ
con có hai mặt: Một là tình ân ái, yêu thương giữa vợ
chồng bắt nguồn từ sự hấp dẫn giới tính, đưa đến sự
tìm kiếm cảm giác lạc thú, rồi đến chức năng di truyền nòi
giống, tạo thành chuỗi gắn bó ngày càng sâu. Cảm giác lạc
thọ giữa nam nữ trở thành thói quen, thiếu sẽ trở nên hụt
hẫng, đó là bản chất lạc thọ. Hai là sự gắn bó vì trách
nhiệm ngoài tình ân ái, trách nhiệm đóng vai trò lớn để trói
buộc nam nữ với nhau trong hôn nhân. Luân lý đạo đức xã
hội, về mặt pháp luật cũng như về mặt lương tâm không cho
phép một người buông trôi vợ con do chính anh đã tạo nên.
Nhưng điều quan trọng
nhất là về mặt tâm lý, cảm giác lạc thọ trở thành tập
quán, kích thích con người tiếp diễn theo hướng đi đã định
và điều tất nhiên là đằng sau các lạc thú, nỗi khổ đau
phiền muộn, bất an cũng tiếp diễn bất tận.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1) Chương này tiếp tục
đề cập đến tài sắc, nhưng cụ thể hóa tài sắc ấy là
vợ con và tài sản.
2) Sự trói buộc của vợ
con, tài sản không có ngày ra khỏi, hơn sự trói buộc của lao
ngục thế gian.
3) Tâm tham ái rất mạnh,
làm cho con người có thể hy sinh mạng sống để giữ gìn.Cho nên
ai thấy được bản chất của ái dục, sẽ thoát khỏi trần
lao, chứng được Thánh vị.
Chương 24
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Trong các thứ ái dục, không gì bằng sắc dục. Sự ham
muốn sắc dục mạnh hơn mọi thứ khác. Chỉ có một sắc
dục như vậy, nếu có cái thứ hai giống như sắc dục thì
người trong thiên hạ không có ai có thể tu tập theo Ðạo.
II. Ðại
Ý
Ðức Phật cảnh giác
rằng trong các dục (5 dục), sắc dục là mạnh hơn hết.
III. Giảng
Nghĩa
Chương 22 nói về sự nguy
hiểm của Dục, chú trọng sắc đẹp và tiền tài. Chương 23
cụ thể hơn, sắc dục nguy hiểm ấy là vợ con và tiền tài,
qua chương 24, một lần nữa nói lên sự nguy hiểm của các
dục, nhưng chương này đề cập nặng một mình sắc dục.
Sắc dục được coi là có sự hấp dẫn mạnh nhất so với các
đối tượng ham muốn khác, đến nỗi phải nhấn mạnh rằng
nếu có đối tượng ham muốn tương đương với sắc dục thì
không ai tu hành được. Chương này rõ ràng nhấn mạnh vai trò
chướng ngại pháp của sắc dục. Tương tự kinh Tăng Chi II
(Phẩm Triền Cái) nói: "Này các tỳ kheo, ta không thấy
một sắc nào lại khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly
như vậy, trói buộc như vậy, say sưa như vậy, chướng ngại
cho sự tu tập như vậy, này các tỳ kheo, đó là sắc đẹp
của nữ nhân. Và này các Tỳ kheo, người nào ái nhiễm, tham
luyến, say đắm sắc đẹp nữ nhân, chúng sẽ sầu ưu lâu dài,
vì bị rơi vào uy lực của nữ sắc". "Nữ nhân khi đang
đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, khi cười, khi nói, khi hát,
khi khóc, khi bất tỉnh, khi chết đều có thể chinh phục tâm
của người đàn ông". "Này các Tỳ kheo, nếu có ai nói
rằng: "Nữ nhân là bẫy mồi toàn diện của Mara", thì
người ấy đã phát biểu một cách chân chánh về nữ nhân".
Ðiều ta cần chú ý là
qua các lời nhấn mạnh cảnh giác, chỉ trích nữ nhân, không
phải Ðức Phật coi thường nữ nhân mà chỉ nói lên sự hấp
dẫn giới tính làm chướng ngại đạo Pháp. Ðối với các
Tỳ kheo Ni, thì nam nhân là nguy hiểm, là "bẫy mồi toàn
diện của Mara".
Thực vậy, sự thèm muốn
nữ sắc có sức mạnh đến nỗi vượt qua vòng lễ giáo, mọi
chướng ngại, có những trường hợp loạn luân, hay cưỡng
bức dâm, những ranh giới giữa cha con, thầy trò, vua tôi ...
rất mong manh, kẻ trí người ngu đều một đường. Người xưa
nói: "Anh hùng bất quá mỹ nhân quan", quả thật là đúng
như vậy.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1) Chương này cũng nhấn
mạnh về sự nguy hiểm của các dục, nhưng chú trọng về
sắc dục.
2) Sắc dục oai lực rất
mạnh, đến nỗi nếu có một đối tượng của dục nào mạnh
bằng sắc dục thì không ai có thể hành đạo được.
3) Nói lên sự nguy hiểm
của nữ sắc, là nói lên khía cạnh hấp dẫn của giới tính
là chướng ngại sự tu tập của người Sa môn , chứ không
phải khinh khi phụ nữ.
Chương 25
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Người đam mê ái dục giống như người cầm đuốc đi
ngược gió, chắc chắn sẽ bị tai họa cháy tay".
II. Ðại
Ý
Ðức Phật nhấn mạnh cái
nguy hiểm của người đam mê ái dục.
III. Giảng
Nghĩa
Chương 24 nói về sức
mạnh của sắc dục, chương này lại nhấn mạnh sự nguy hiểm
của ái dục, càng đam mê càng tự hại cho mình, thí dụ người
cầm đuốc đi ngược gió gần giống với một trong 10 ví dụ
về dục trong kinh Trung A Hàm, dục được ví như bó đuốc cỏ
khô (đã trình bày ở chương 22). Người cầm bó đuốc bằng
cỏ khô lửa sẽ cháy xuống tay. Ở đây, người cầm đuốc đi
ngược gió cũng bị nạn cháy tay, cả hai ví dụ đều hay, đều
có chung một hình ảnh.
Những chương kinh tập
trung nói về cái hại của ái dục, mục đích cho người xuất
gia nhận thức rõ rệt để mà tránh. Lý thuyết về đoạn
trừ ái dục có thể đem đến sự khó chịu cho nhiều người,
biết vậy Ðức Phật vẫn cứ đề cập một cách mạnh mẽ, vì
lòng thương đối với đệ tử, với chúng sanh. Trong kinh Ðức
Phật dạy rằng: "Như một đứa trẻ bị hòn bi vào
miệng, thì điều quan trọng là phải cấp tốc móc họng lấy
ra, dù cho bị đau và chảy máu (nếu không đứa trẻ sẽ
chết). Cũng vậy, dù nói đến vấn đề đoạn trừ ái dục làm
khó chịu một số người, nhưng đó là điều cần thiết cho
cuộc s?ng tu hành.
IV. Nhận Xét
Và Kết Luận
1) Chương này cũng vẫn
nhấn mạnh sự nguy hiểm của ái dục. Ở đây chỉ cho sắc
dục.
2) Hình ảnh người cầm
đuốc đi ngược gió tương đương với ví dụ người cầm đuốc
bằng cỏ khô trong Trung A Hàm đều diễn tả nạn cháy tay.
3) Nói về sự nguy hiểm
của dục và phải đoạn trừ chúng, sẽ làm cho một số người
khó chịu, nhưng Ðức Phật vẫn nói vì cần thiết cho sự tu
tập giải thoát.
-oOo-