Bắc truyền
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Hán Dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
23/07/2554 13:01 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Mục lục
Xem toàn bộ

QUYỂN THỨ SÁU

PHẨM QUẢNG THỪA 
THỨ MƯỜI CHÍN

Ðức Phật bảo Ngài Tu Bồ Ðề: "Có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tứ niệm xứ.

Thế nào là bốn?

Nầy Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ Tát, trong nội thân, theo thân quán sát, cũng không có thân giác, vì bất khả đắc vậy.

Trong ngoại thân, theo thân quán sát, cũng không có thân giác, vì bất khả đắc vậy.

Trong nội ngoại thân, theo thân quán sát, cũng không có thân giác, vì bất khả đắc vậy.

Ðại Bồ Tát quán thân, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian.

Nội thọ, nội tâm, nội pháp, ngoại thọ, ngoại tâm, ngoại pháp, nội ngoại thọ, nội ngoại tâm, nội ngoại pháp, đại Bồ Tát theo thọ tâm pháp quán sát, cũng không có thọ giác, tâm giác, pháp giác, vì bất khả đắc vậy, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian.

Nầy Tu Bồ Ðề! Thế nào là đại Bồ Tát trong nội thân theo thân quán sát?

Lúc đại Bồ Tát đi thời biết là đi, lúc đứng thời biết là đứng, lúc ngồi thời biết là ngồi, lúc nằm thời biết là nằm. Thân hành động thế nào thời biết như vậy. Ðây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.

Ðại Bồ Tát lúc đến, lúc đi, lúc nhìn ngó, co duỗi, cúi ngửa, lúc đắp y, cầm bát, lúc ăn uống, lúc nằ nghĩ, ngủ, thức, ngồi, đứng, nói, nín, lúc nhập thiền, xuất thiền cũng thường nhứt tâm. Ðây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát lúc thật hành Bát nhã ba la mật, vì bất khả đắc vậy.

Trong nội thân, lúc theo thân quán sát, đại Bồ Tát nhứt tâm niệm, lúc thở vào biết là thở vào, lúc thở ra biết là thở ra, lúc thở vào dài thời biết là thở vào dài, lúc thở ra dài thời biết là thở ra dài, lúc thở vào vắn thời biết là thở vào vắn, lúc thở ra vắn thời biết là thở ra vắn, . Ðây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.

Ðại Bồ Tát quán sát thân tứ đại nghĩ rằng trong thân thể có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại.

Ví như nhà hành thịt dùng dao bén giết bò chia làm bốn phần rồi hoặc đứng hoặc ngồi quán sát bốn phần thịt bò nầy.

Cũng vậy đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật quán sát thân thể bốn đại: thủy đại, hỏa đại, phong đại. Ðây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát, vì bất khả đắc vậy

Ðại Bồ Tát lại quán sát thân thể từ đảnh đầu đến chân, da mỏng bao bọc nhiều thứ bất tịnh đầy trong thân. Nghĩ rằng thân thể có tóc, lông, móng, răng, da mỏng, da dầy, gân, thịt, xương, tủy, tim, gan, phổi, tùy, cật, mật? , tiểu trường, đại trường, bao tử, bàng quang, phân dãi, mồ hôi, cáu ghét, nước mắt, nước mũi, nước miếng, máu, mủ, đàm, nhớt, não óc.

Ví như trong kho của nhà nông chứa lộn lạo đầy những lúa, nếp, mè , đậu, bắp. Người có đôi mắt sáng mở kho liền thấy rõ là lúa, là nếp, là mè , là đậu, là bắp.

Ðại Bồ Tát quán sát trong thân từ đầu đến chân thấy rõ từng chi tiết bất tịnh, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.

Ðại Bồ Tát nếu thấy thân người chết đã trải qua một ngày, hai ngày đến năm ngày, xanh ứ sình trương mủ nước rỉ chảy, tự nghĩ rằng thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Ðây là đại Bồ Tát trong nội thân theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.

Ðại Bồ Tát nếu thấy thân người chết vất bỏ đã sáu ngày, bảy ngày, bị chồn, chó, sài lang, quạ, kên kên, xé ăn, tự nghĩ rằng thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Ðây là đại Bồ Tát trong nội thân theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.

Ðại Bồ Tát nếu thân người chết vất bỏ bị cầm thú xé ăn rã rời hôi thúi bất tịnh, tự nghĩ rằng thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy thân người chết vất bỏ, da thịt đã tan lộ bày gân xương liên tỏa, đại Bồ Tát tự nghĩ rằng thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Nếu thân người chết vất bỏ, xương cốt đã rã rời trên đất, đại Bồ Tát tự nghĩ rằng thân thể của ta đây rồi cũng sẽ như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy thân người chết vất bỏ, xương cốt rã rời trên đất, xương chân chỗ nầy, xương đầu chỗ nọ, mỗi lóng, mỗi đốt đều khác chỗ, đại Bồ Tát tự nghĩ rằng thân thể của ta rồi cũng như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy xương khô bỏ lâu ngày, gió thổi, nắng soi, màu trắng như vỏ ốc, đại Bồ Tát tự nghĩ rằng thân thể của ta rồi cũng như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Nếu thấy xương khô bỏ trên đất lâu ngày mục rã nát bấy lộn với đất, đại Bồ Tát tự nghĩ rằng thân thể của ta rồi cũng như vậy, tất chẳng thoát khỏi thế ấy. Trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhứt tâm trừ sự tham ưu của thế gian, vì bất khả đắc vậy.

Như quán sát nội thân với ngoại thân cùng nội ngoại thân, cũng theo thân quán sát như vậy.

Cũng phải theo như trên đây mà giải thuyết rộng về thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, và pháp niệm xứ.

Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Nầy Tu Bồ Ðề! Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tứ chánh cần.

Những gì là bốn?

Ðại Bồ Tát đối với những pháp ác bất thiện chưa pháp sanh, vì làm cho pháp ác chẳng sanh nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhứt tâm hành đạo. Ðối với pháp ác bất thiện đã pháp sanh, vì dứt trừ nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhứt tâm hành đạo. Ðối với pháp thiện chưa phát sanh, vì phát sanh nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhiếp tâm hành đạo. Ðối với pháp thiện đã pháp sanh, vì làm cho còn mãi để tu tập đến được đầy đủ rộng lớn nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhiếp tâm hành đạo, vì bất kảh đắc vậy. Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa.

Nầy Tu Bồ Ðề! Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tứ như ý phần.

Những gì là bốn?

Ðại Bồ Tát dùng sự mong muốn định hạnh thành tựu mà tu như ý phần, dùng sự tinh tấn định hạnh thành tựu mà tu như ý phần, dùng sự tư duy định hạnh thành tựu mà tu như ý phần, dùng sự nhứt tâm định hạnh thành tựu mà tu như ý phần. Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy,

Nầy Tu Bồ Ðề! Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là ngũ căn.

Những gì là năm? Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Ðây là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là ngũ lực.

Những gì là năm? Tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực, đây là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là thất giác phần.

Những gì là bảy? Ðại Bồ Tát tu niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỉ giác phần, trừ giác phần, định giác phần và xã giác phần, nương nơi ly, nơi vô nhiễm hướng đến Niết Bàn. Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có bát thánh đạo phần là đại Bồ Tát Ðại thừa.

Những gì là tám? Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Ðây gọi là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có ba môn tam muội là đại Bồ Tát Ðại thừa.

Những gì là ba? Không tam muội, vô tướng tam muội và vô tác tam muội.

Không tam muội là nói các pháp tự tướng rỗng không. Ðây gọi là không giải thoát môn.

Vô tướng tam muội là nói diệt hoại các pháp tướng, không nghĩ, không nhớ. Ðây gọi là vô tướng giải thoát môn.

Vô tác tam muội là nói đối với các pháp không mong cầu tạo tác. Ðây gọi là vô tác giải thoát môn.

Ba môn nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, pháp trí, tỉ trí, thế trí, tha tâm trí, và như thiệt trí.

Thế nào gọi là khổ trí? Biết khổ chẳng sanh, đây gọi là khổ trí.

Thế nào gọi là tập trí? Biết tập phải dứt, đây gọi là tập trí.

Thế nào gọi là diệt trí? Biết khổ dứt diệt, đây gọi là diệt trí.

Thế nào gọi là đạo trí? Biết bát thánh đạo phần, đây gọi là đạo trí.

Thế nào gọi là tận trí? Biết tham, sân, si, diệt tận, đây gọi là tận trí.

Thế nào gọi là vô sanh trí? Biết trong các cõi hữu lậu là vô sanh, đây gọi là vô sanh trí.

Thế nào gọi là pháp trí? biết bổn sự của ngũ ấm, đây gọi là pháp trí.

Thế nào gọi là tỉ trí? Biết nhân vô thường nhẫn đến biết ý xúc nhơn duyên sanh thọ vô thường, đây gọi là tỉ trí.

Thế nào gọi là thế trí? Biết nhơn duyên danh tự, đây gọi là thế trí.

Thế nào gọi là tha tâm trí? Biết tâm niệm của những chúng sanh khác, đây gọi là tha tâm trí

Thế nào gọi là như thiệt trí? Biết nhứt thiết chủng trí của chư Phật, đây gọi là như thiệt trí.

Mười một trí nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có tam căn là đại Bồ Tát Ðại thừa.

Những gì là ba? Vị tri dục tri căn, tri căn và trí giả căn.

Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn và huệ căn, ngũ căn của hành hữu học chưa đắc quả, đây gọi là vị tri dục căn.

Ngũ căn của hành hữu học đã đắc quả, đây gọi là tri căn.

Ngũ căn của bậc vô học, hoặc A La Hán, Bích Chi Phật, hoặc chư Phật, đây gọi là trí giả căn.

Tam căn nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có tam tam muội là đại Bồ Tát Ðại thừa. Những gì là ba? Hữu giác hữu quán tám muội, vô giác hữu quán tam muội và vô giác vô quán tam muội.

Rời những dục nhiễm và rời những pháp ác bất thiện có giác, có quán, rời dục nhiễm pháp sanh hỉ lạc nhập sơ thiền, đây gọi là hữu giác hữu quán tam muội.

Chặng giữa của sơ thiền và nhị thiền, đây gọi là vô giác hữu quán tam muội.

Từ nhị thiền đến phi hữu tưởng phi vô tưởng định, đây gọi là vô giác vô quán tam muội.

Tam tam muội nầy? Là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có thập niệm là đại Bồ Tát Ðại thừa.

Những gì là mười? Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xã, niệm thiên, niệm thiện, niệm xuất nhập tức, niệm thân và niệm tử.

Mười chánh niệm nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, bát bội xả và cửu thế đệ định là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là thập lực.

Những gì là mười? Một là Phật biết như thiệt những tướng thhị xứ, bất thị xứ của tất cả pháp. Hai là Phật biết như thiệt những nghiệp, những thọ pháp của chúng sanh khác, biết chỗ tạo nghiệp, biết nhơn duyên, biết báo của chúng sanh khác. Ba là Phật biết như thiệt những tướng cấu tịnh sai khác của các thiền giải thoát, các tam muội và các định. Bốn là Phật biết như thiệt những tướng căn tánh thượng hạ của chúng sanh khác. Năm là Phật như thiệt biết những loại dục giải của chúng sanh khác. Sáu là Phật như thiệt biết vô số tánh loại sai khác của thế gian. Bảy là Phật như thiệt biết chỗ đến của tất cả đạo hạnh. Tám là Phật như thệit biết túc mạng của mình và của chúng sanh khác từ một đời đến vô lượng đời trong vô lượng kiếp có tướng như vậy, có nhơn duyên như vậy. Chín là Phật thiên nhãn thanh tịnh hơn chư Thiên, như thiệt thấy biết chúng sanh chết đây sanh kia, hoặc thiện đạo hoặc ác đạo. Mười là Phật biết như thiệt các lậu tận nên vô lậu tâm giải thoát, vô lậu huệ giải thoát, trong pháp hiện tại tự chứng biết nhập vào pháp ấy, nghĩa là chứng biết như thiệt ta đã hết sanh tử, đã thành phạm hạnh, từ đời nay chẳng còn lại thấy có đời sau nữa.

Mười trí lực nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tứ vô sở úy.

Thế nào là bốn? Phật nói lời thành thiệt rằng ta là bực nhứt thiết chánh trí. Ðối với những điều như như thiệt gạn hỏi về các pháp của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả hàng Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên Vương, Phạm Vương, Ma Vương, cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Ðây là vô sở úy thứ nhứt.

Phật nói lời thành thiệt rằng ta là bực tất cả lậu đã dứt diệt hết sạnh. Ðối với chỗ gạn hỏi như thiệt về lậu phiền não dứt diệt đây của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa đại chúng chư sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả trời, Người cùng chúng sanh khác không chuyển được. Ðây là vô sở úy thứ hai.

Phật nói lời thành thiệt rằng đây là những pháp chướng ngại chánh đạo giải thoát. Ðối với những lời gạn hỏi như thiệt về pháp chướng đạo đây của tất cả đại chúng. Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ bực thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Nhơn, Thiên cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Ðây là vô sở úy thứ ba.

Phật nói lời thành thiệt rằng những thánh đạo mà ta đã dạy quyết định có thể ra khỏi thế gian, theo đây thật hành thời có thể hết khổ. Ðối với những lời gạn hỏi như thiệt về thánh đạo đây của tất cả đại chúng. Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ bực thánh chúa. ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Nhơn, Thiên cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Ðây là vô sở úy thứ tư.

Tứ vô sở úy nầy là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tứ vô ngại trí.

Những gì là bốn? Pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí, từ vô ngại trí và lạc thuyết vô ngại trí đây là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là thập bát bất cộng pháp.

Những gì là mười tám? Một là thân của chư Phật không đổi, hai là khẩu của chư Phật không lỗi, ba là ý niệm của chư Phật không lỗi, bốn là chư Phật không có dị tướng, năm là chư Phật không có tâm bất định, sáu là chư Phật không có tâm chẳng biết rồi mà xả, bảy là nguyện dục không diệt, tám là tinh tấn không diệt, chín là chánh niệm không diệt, mười là huệ không diệt, mười một là giải thoát không diệt, mười hai là giải thoát tri kiến không diệt, mười ba là tất cả thân nghiệp của chư Phật đều theo nghiệp trí huệ mà hiện hành, mười bốn là tất cả khẩu nghiệp đều theo trí huệ mà hiện hành, mười lăm là tất cả ý nghiệp đều theo trí huệ mà hiện hành, mười sáu là trí huệ của chư Phật thấy biết thuở quá khứ không ngại, không chướng, mười bảy là trí huệ thấy biết thuở vị lai không ngại, không chướng, mười tám là trí huệ thấy biết thuở hiện tại không ngại, không chướng. Ðây là đại Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy.

Lại có đại Bồ Tát Ðại thừa, chính là tự đẳng ngữ đẳng chư tự nhập môn.

Những gì là tự đẳng ngữ đẳng chư tự nhập môn?

A tự môn, vì tất cả pháp từ đầu vốn là bất sanh vậy.

La tự môn, vì tất cả pháp ly cấy vậy.

Ba tự môn, vì tất cả pháp đệ nhứt nghĩa vậy.

Giá tự môn, vì tất cả pháp trọn bất khả đắc vậy, vì tất cả pháp bất diệt, bất sanh vậy.

Na tự môn, vì tất cả pháp rời danh tánh tướng bất đắc, bất thất vậy.

LÃ tự môn, vì tất cả pháp thoát khỏi thế gian vậy, cũng là vì ái chi nhơn duyên dứt diệt vậy.

Ðà tự môn, vì tất cả pháp thiện tâm phát sanh, cũng là tướng xả thí vậy.

Bà tự môn, vì các pháp bà tự rời lìa vậy.

Ðồ tự môn, vì các pháp đồ tự thanh tịnh vậy.

Sa tự môn, vì các pháp tự tại tánh thanh tịnh vậy.

Hòa tự môn, vì nhập vào các pháp, dứt bặt ngữ ngôn vậy.

Ða tự môn, vì nhập vào các pháp, như tướng bất động vậy.

Dạ tự môn, vì nhập vào các pháp, như thiệt bất sanh vậy.

Tra tự môn, vì nhập vào các pháp, chiết phục bất khả đắc vậy.

Ca tự môn, vì nhập vào các pháp, tác giả bất khả đắc vậy.

Ta tự môn, vì nhập vào các pháp, thời gian bất khả đắc vậy, vì các pháp thời gian lay chuyển vậy.

Ma tự môn, vì nhập vào các pháp, ngã sở bất khả đắc vậy.

Già tự môn, vì nhập vào các pháp, khứ giả bất khả đắc vậy.

Tha tự môn, vì nhập vào các pháp, xứ sở bất khả đắc vậy.

Xà tự môn, vì nhập vào các pháp, sanh bất khả đắc vậy.

Bả tự môn, vì nhập vào các pháp, bả tự bất khả đắc vậy.

Ðà tự môn, vì nhập vào các pháp, tánh bất khả đắc vậy.

Xa tự môn, vì nhập vào các pháp, định bất khả đắc vậy.

Khư tự môn, vì nhập vào các pháp, hư không bất khả đắc vậy.

Xoa tự môn, vì nhập vào các pháp, diệt tận bất khả đắc vậy.

Ðá tự môn, vì nhập vào các pháp, hữu bất khả đắc vậy.

Nhã tự môn, vì nhập vào các pháp, trí bất khả đắc vậy.

Tha tự môn, vì nhập vào các pháp, tha tự bất khả đắc vậy.

Bà tự môn, vì nhập vào các pháp, phá hoại bất khả đắc vậy.

Xa tự môn, vì nhập vào các pháp, dục bất khả đắc vậy, ngũ ấm như ảnh cũng bất khả đắc vậy.

Ma tự môn, vì nhập vào các pháp, ma tự bất khả đắc vậy.

Hòa tự môn, vì nhập vào các pháp, kêu gọi bất khả đắc vậy.

Ta tự môn, vì nhập vào các pháp, ta tự bất khả đắc vậy.

Noa tự môn, vì nhập vào các pháp, chẳng đến, chẳng đi, chẳng đứng, chẳng ngồi, chẳng nằm vậy.

Phả tự môn, vì nhập vào các pháp, biên bờ bất khả đắc vậy.

Ca tự môn, vì nhập vào các pháp, tụ họp bất khả đắc vậy.

Sai tự môn, vì nhập vào các pháp, sai tự bất khả đắc vậy.

Già tự môn, vì nhập vào các pháp, hiện hành bất khả đắc vậy.

Tra tự môn, vì nhập vào các pháp, cong vậy bất khả đắc vậy.

Ðồ tự môn, vì nhập vào các pháp, chỗ tột biên bờ nên chẳng diệt, chẳng sanh vậy.

Quá chữ Ðồ thời không chữ có thể tuyên thuyết. Tại sao vậy? Vì không còn có chữ vậy.

Những chữ vô ngại, vô danh, cũng diệt, chẳng nói được, chẳng chỉ được, chẳng thấy được, chẳng biên chép được.

Nầy Tu Bồ Ðề! Phải biết tất cả pháp như hư không. Ðây gọi là đà la ni môn chính là nghĩa của chữ A.

Nếu đại Bồ Tát, nơi những tự môn ấn, a tự ấn nầy, hoặc nghe, hoặc thọ, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc trì, hoặc giảng nói cho người khác, thời biết rằng sẽ được hai mươi công đức.

Những gì là hai mươi? Ðược nhớ biết dai. Ðược tâm kiên cố. Ðược chỉ thú của kinh. Ðược trí huệ. Ðược lạc thuyết vô ngại. Dễ được những môn đà la ni khác. Ðược tâm không nghi hối. Ðược nghe lành chẳng mừng, nghe dữ chẳng giận. Ðược chẳng cao, chẳng hạ, an trụ tâm không tăng, không giảm. Ðược thiện xảo, biết lời nói của chúng sanh. Ðược khéo phân biệt ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, thập nhị nhơn duyên, tứ duyên và tứ đế. Ðược khéo phân biệt những căn tánh lợi độn của các chúng sanh. Ðược khéo biết tâm niệm của kẻ khác. Ðược khéo phân biệt ngày, tháng, năm, mùa. Ðược khéo phân biệt thiên nhĩ thông, Ðược khéo phân biệt túc mạng thông. Ðược khéo phân biệt sanh tử thông. Ðược có thể khéo tuyên thuyết thị xứ, phi xứ. Ðược khéo biết thân oai nghi qua, lại, ngồi, đứng.

Những đà la ni môn, tự môn, a tự môn nầy gọi là đai Bồ Tát Ðại thừa, vì bất khả đắc vậy”.

Tiêu điểm: