QUYỂN THỨ NHẤT
PHẨM
TU TẬP ĐÚNG
THỨ BA
Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Lúc thật
hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát phải suy nghĩ như thế nầy:
Bồ Tát chỉ có danh tự, Phật cũng chỉ có danh tự,
Bát nhã ba la mật cũng chỉ có danh tự, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ có
danh tự.
Nầy Xá Lợi Phất! Như ngã chúng sanh thọ giả, mạng
giả, sanh giả, dưỡng dục giả, tác giả, sử tác giả, khởi giả, sử khởi giả, thọ
giả, sử thọ giả, tri giả, kiến giả đều là bất khả đắc tất cả. Vì là bất khả đắc
nên rỗng không. Vì rỗng không nên chỉ dùng danh tự để tuyên nói.
Đại Bồ Tát cũng thật hành Bát nhã ba la mật như
vậy: Chẳng thấy ngã, chẳng thấy chúng sanh, nhẫn đến chẳng thấy tri giả, kiến
giả. Nhữnh danh tự tuyên nói đó cũng chẳng thấy.
Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật như vậy
hơn trên tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, trừ trí huệ của Phật, do vì tánh
không, tác dụng bất khả đắc.
Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát nầy đối với những pháp
danh tự cùng chỗ mà danh tự dính đến, tất cả đều bất khả đắc.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát có thể thật hành như
vậy đó là thật hành Bát nhã ba la mật.
Ví như số Tỳ Kheo nhiều bằng số tre, lau, mía,
mè, lúa, đậu, lùm rừng đầy cả cõi Diêm Phù Đề, tất cả đều có trí huệ như Xá Lợi
Phất, Đại Mục Kiền Liên, đem tất cả trí huệ ấy muốn so sánh với trí huệ của Bồ
Tát thật hành Bát nhã ba la mật, thời không bằng một phần trăm, không bằng một
phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn ức, nhẫn đến không bằng một phần ví dụ.
Tại sao vậy? Vì dùng trí huệ nầy mà Bồ Tát độ
thoát tất cả chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất! Không nói đến như Xá Lợi Phất và
Đại Mục Kiền Liên đầy cõi Diêm Phù Đề, mà ví như đầy cả cõi Đại Thiên, hoặc
nhẫn đến đầy cả hằng sa thế giới ở mười phương, đem tất cả trí huệ ấy muốn so
sánh với trí huệ của Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật cũng không bằng một
phần trăm, nhẫn đến không bằng một phần ví dụ.
Nầy Xá Lợi Phất! “Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba
la mật, một ngày tu tập trí huệ hơn trên tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Trí huệ
của hàng Thanh Văn, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, trí huệ của hàng
Bích Chi Phật, trí huệ của Phật, những trí huệ nầy không sai biệt, không chống
trái nhau, đều là vô sanh tánh không. Nếu đã là tánh vô sanh tánh không, chẳng
trái nhau thời là không sai khác nhau. Cớ sao đức Thế Tôn lại dạy rằng Bồ Tát
thật hành Bát nhã ba la mật một ngày tu tập trí huệ hơn trên tất cả hàng Thanh
Văn, Bích Chi Phật?”
Phật nói: “Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật
một ngày tu tập trí huệ, tâm niệm rằng: Ta hành đạo trí huệ lợi ích tất cả
chúng sanh, ta sẽ dùng nhứt thiết chủng trí biết rõ tất cả pháp, độ thoát tất
cả chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất! Ý của ông nghĩ thế nào, trí huệ
của hành Thanh Văn, Bích Chi Phật có những sự như vậy không?”
- Bạch dức Thế Tôn! Không ạ.
- Nầy Xá Lợi Phất! Hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật
có quan niệm nầy: Ta sẽ thành Vô thượng Bồ đề độ thoát tất cả chúng sanh, làm
cho họ đều được vô dư y Niết Bàn, như chư đại Bồ Tát không?
- Bạch đức Thế Tôn! Không ạ.
- Nầy Xá Lợi Phất! Do những cớ trên đây nên biết
rằng trí huệ của hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật sánh với trí huệ của đại Bồ Tát
không bằng một phần trăm, nhẫn đến không bằng một phần thí dụ.
Nầy Xá Lợi Phất! Hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật có
quan niệm nầy: Ta thật hành sáu ba la mật, thành tựu chúng sanh, trang nghiêm
Phật độ, đầy đủ mười trí lực, bốn vô sở úy, bốn vô nggại trí, mười tám pháp bất
cộng, độ thoát vô lượng vô số chúng sanh đến quả Niết Bàn như chư đại Bồ Tát
không?
- Bạch đức Thế Tôn! Không ạ.
- Nầy Xá Lợi Phất! Ví như loài đom đóm kia chẳng
bao giờ nghĩ rằng mình như mạt nhựt mọc lên chiếu ánh sáng khắp Diêm Phù Đề.
Cũng vậy, hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng có
quan niệm như đại Bồ Tát: Ta thật hành sáu ba la mật nhẫn đến mười tám pháp bất
cộng được Vô Thượng Bồ đề, độ vô lượng vô số chúng sanh đến quả Niết Bàn”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “ Bạch đức Thế Tôn! Thế
nào là đại Bồ Tát hơn bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà đến bực bất thối chuyển
thanh tịnh Phật đạo?”
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát từ lúc
sơ phát tâm thật hành sáu ba la mật, an trụ nơi pháp không, vô tướng, vô tác,
có thể vượt hơn bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà đến bực bất thối chuyển thanh
tịnh Phật đạo”.
- Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát an trụ bực nào mà
có thể làm phước điền cho hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật?
- Nầy Xá Lợi Phất! Từ lúc sơ phát tâm thật hành
sáu ba la mật nhẫn đến lúc ngồi đạo tràng thành Vô thượng Bồ đề, trong khoảng
thời gian ấy, luôn thường làm phước điền cho hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Tại sao vậy? Vì do có nhân duyên của đại Bồ Tát
nên những thiện pháp của thế gian phát sanh. Như những pháp thập thiện, ngũ
giới, bát quan trai, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ, tứ
chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác phần, bát thánh đạo phần,
lục ba la mật, thật bát không, thập lực, tứ vô úy, tứ vô ngại trí, thập bát bất
cộng, đại từ, đại bi, nhứt thiết chủng trí, do nhơn duyên của đại Bồ Tát mà
những pháp nầy hiện ra trên thế gian. Cũng do nhơn duyên của Bồ Tát mà những
đại tộc Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Cư Sĩ, Tứ Thiên Vương nhẫn đến Phi Phi Tưởng
Thiên, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật và Phật Đà đều
xuất hiện trên thế gian.
- Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát có thanh tịnh xong
phước bố thí chăng?
- Nầy Xá Lợi Phất! Không có. Vì bổn lai đã thanh
tịnh xong.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát là vị đại thí chủ bố
thí những thiện pháp như thập thiện, ngũ giới nhẫn đến nhứt thiết chủng trí”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào
đại Bồ Tát tu tập đúng Bát nhã ba la mật tương ứng với Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu tập
đúng sắc không, tu tập đúng thọ, tưởng, hành, thức không, đây gọi là tương ứng
với Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu tập đúng nhãn
không, tu tập đúng nhĩ, tĩ, thiệt, thân, tâm không, đây gọi là tương ứng với
Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng sắc không, tu tập đúng
thinh, hương, vị, xúc, pháp không, đây gọi là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng nhãn giới không, đúng sắc
giới không, nhãn thức giới không, nhãn đến tu tập đúng ý thức giới không, đây
gọi là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng khổ không, tu tập đúng
tập, diệt, đạo không, đây gọi là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng vô minh không, tu tập đúng
hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử không,
đây gọi là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng tất cả pháp không, hoặc
hữu vi hoặc vô vi, đây gọi là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu tập đúng tánh
không, tự tướng không, chư pháp không, vô sở đắc không, vô pháp không, hữu pháp
không, vô pháp hữu pháp không bảy môn không, đây gọi là tương ứng với Bát nhã
ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc tu tập bảy môn không, đại Bồ
Tát chẳng thấy sắc hoặc tương ứng hay không tương ứng, chẳng thấy thọ, tưởng,
hành, thức hoặc tương ứng hay không tương ứng, chẳng thấy sắc hoặc sanh tướng
hay diệt tướng, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc sanh tướng hay diệt
tướng, chẳng thấy sắc hoặc cấu tướng hay tịnh tướng, chẳng thấy thọ, tưởng,
hành, thức hoặc cấu tướng hay tịnh tướng, chẳng thấy sắc hiệp với thọ, chẳng
thấy thọ hiệp với tưởng, chẳng thấy tưởng hiệp với hành, chẳng thấy hành hiệp
với thức. Tại sao vậy? Vì tánh của các pháp vốn rỗng không nên không có pháp
nào hiệp với pháp nào.
Nầy Xá Lợi Phất! Trong sắc không chẳng có sắc,
trong thọ không, tưởng không, hành không, thức không chẳng có thọ, tưởng, hành,
thức.
Nầy Xá Lợi Phất! Vì sắc rỗng không nên không có
tướng não hoại, vì thọ rỗng không nên không có tướng thọ, vì tưởng rỗng không
nên không có tướng biết, vì hành rỗng không nên không có tướng tác giả, vì thức
rỗng không nên không có tướng tri giác. Tại sao vậy? Vì chẳng phải sắc khác với
không, cũng chẳng phải không khác với sắc, mà sắc chính là không và không chính
là sắc, thọ, tưởng, hành, thức chính là không và không chính là thọ, tưởng,
hành, thức.
Nầy Xá Lợi Phất! Tướng rỗng không của các pháp
vốn chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm,
chẳng phải quá khứ, vị lai, hiên tại, vì thế nên trong không pháp ấy không có
sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không có nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, không có
sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, nhẫn đến không có ý thức
giới, không có vô minh cũng không có vô minh tận, nhẫn đến không có lão tử,
cũng không có lão tử tận, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí cũng không
có đắc, không có Tu Đà Hoàn và quả Tu Đà Hoàn, không có Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A
La Hán và Phật, cũng không có quả Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A Na Hán, quả Bích Chi
Phật và quả Phật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng thấy Bát nhã ba la mật hoặc tương ứng hay chẳng tương ứng,
cũng chẳng thấy Đàn na ba là mật, Thi la ba la mật, Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia
ba la mật và Thiền na ba la mật hoặc tương ứng hay chẳng tương ứng. Đại Bồ Tát
cũng chẳng thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thấy nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt,
thân, ý, chẳng thấy sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng thấy nhãn giới nhẫn
đến ý thức giới hoặc tương ứng hay chẳng tương ứng. Đại Bồ Tát cũng chẳng thấy
tứ niệm xứ đến bát thánh đạo phần, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí hoặc tương ứng
hay chẳng tương ứng.
Như trên đây, nầy Xá Lợi Phất! Phải biết đó là
đại Bồ Tát tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Lúc đại Bồ Tát thật hành Bát
nhã ba la mật, không chẳng hiệp với không, vô tướng chẳng hiệp với vô tướng, vô
tác chẳng hiệp với vô tác. Tại sao vậy? Vì không, vô tướng, vô tác chẳng có
hiệp với chẳng hiệp.
Đại Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát nhã ba la
mật, đại Bồ Tát nhập vào tự tướng không của các pháp, nhập xong nơi sắc, thọ,
tưởng, hành, thức, Bồ Tát chẳng cho là hiệp chẳng cho là chẳng hiệp, sắc, thọ,
tưởng, hành, thức chẳng hiệp với tiền tế cũng chẳng hiệp với hậu tế, chẳng hiệp
với hiện tại. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát chẳng thấy tiền tế, chẳng thấy hậu tế cũng
chẳng thấy hiện tại.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã
ba la mật, vì tham tế là danh từ rỗng không, nên tiền tế chẳng hiệp với hậu tế,
hậu tế chẳng hiệp với tiền tế, hiện tại chẳng hiệp với tiền tế, hậu tế, tiền tế
với hậu tế cũng chẳng hiệp với hiện tại. Như đây gọi là tương ứng với Bát nhã
ba la mật. Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật, nhứt thiết
trí chẳng hiệp với đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại. Tại sao vậy? Vì đời
quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại đều còn chẳng thể thấy huống là có hiệp. Như
đây gọi là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba
la mật, vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể thấy, vì nhãn đến ý chẳng thể
thấy, vì sắc nhẫn đến pháp chẳng thể thấy, vì nhãn thức nhẫn đến ý thức chẳng
thể thấy nên sắc, thọ đến ý thức đều chẳng hiệp với nhứt thiết trí. Như đây gọi
là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba
la mật, vì Đàn na ba la mật đến Bát nhã ba la mật đều chẳng thể thấy nên Đàn na
đến Bát nhã ba la mật chẳng hiệp với nhất thiết trí. Vì tứ niệm xứ đến bát
thánh đạo phần nhẫn đến thập lực, thập bát bất cộng pháp đều chẳng thể thấy nên
tất cả đều chẳng hiệp với nhất thiết trí. Như đây gọi là tương ứng với Bát nhã
ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng tu tập sắc là hữu hay là vô, chẳng tu tập sắc là vô thường hay
là vô thường, chẳng tu tập sắc là khổ hay là lạc, chẳng tu tập sắc là ngã hay
là phi ngã, chẳng tu tập sắc là tịch diệt hay là chẳng phải tịch diệt, chẳng tu
tập sắc là rỗng không hay là chẵng phải rỗng không, chẳng tu tập sắc là hữu
tướng hay là vô tướng, chẳng tu tập sắc là hữu tác hay là vô tác; thọ, tưởng.
hành. thức cũng như vậy. Như đây gọi là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng
có quan niệm là ta thật hành hay chẳng thật hành Bát nhã ba la mật, cũng chẳng
có quan niệm chẳng phải thật hành cùng chẳng phải chẳng thật hành. Như đây gọi
là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Chẳng vì Bát nhã ba la mật
mà đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật. Cũng chẳng vì Đàn na, Thi la, Sằn
đề, Tỳ lê gia, Thiền na ba la mật, cũng chẳng vì bực bất thối chuyển thành tựu
chúng sanh thanh tịch Phật độ, cũng chẳng vì thập lực, tứ vô úy, tứ vô ngại
trí, thập bát bất cộng pháp mà đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật. Cũng
chẳng vì nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ
nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán
không, tánh không, chư pháp không, tự tướng không, bất khả đắc không, vô pháp
không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không, cũng chẳng vì như pháp tánh,
thiệt tế mà đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì lúc thật
hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng phá hoại tướng của các pháp. Tu tập
đúng như đây thời gọi là tương ứng vơi Bát nhã ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Chẳng vì thiên nhãn, thiên nhĩ,
tha tâm, túc mạng, thần túc, lậu tận sáu môn thần thông mà đại Bồ Tát thật hành
Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì lúc thật hành, đại Bồ Tát còn chẳng thấy Bát
nhã ba la mật huống là thấy Bồ Tát thần thông. Như đây gọi là tương ứng với Bát
nhã ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng quan niệm rằng ta dùng như ý thần thông bay đến phương Đông
cùng bay đến khắp mười phương để cúng dường hằng sa chư Phật, cũng chẳng quan
niệm rằng ta dùng thiên nhĩ nghe hằng sa chư Phật mười phương thuyết pháp, dùng
tha tâm thông trí biết tâm niệm của hằng sa chúng sanh mười phương, dùng túc
mạng trí biết việc làm của vô lượng đời của hằng sa chúng sanh ở mười phương,
cũng chẳng nghĩ rằng ta dùng thiên nhãn thấy hằng sa chúng sanh chết đây sanh
về nơi kia. Như đây gọi là đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật tương ứng với
Bát nhã ba la mật và cũng có thể độ thoát vô lượng vô số chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát có thể thật hành Bát
nhã ba la mật như vậy thời ác ma không hại được, tất cả sự việc thế gian đều
tùy ý muốn, hằng sa chư Phật mười phương đều ủng hộ cho Bồ Tát nầy chẳng sa vào
hành Thanh Văn, Bích Chi Phật. Chư Thiên từ Tứ Vương đến Sắc Cứu Cánh Thiên
cũng đều ủng hộ Bồ Tát giúp thêm tự tại. Nếu Bồ Tát nầy đã có trọng tội thì
hiện đời bị báo nhẹ. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát nầy dùng lòng bình đẳng lợi ích
chúng sanh. Như đây gọi là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật,
đại Bồ Tát mau được các môn đà la ni và các môn tam muội, sanh về đâu cũng
thường gặp được chư Phật mãi đến khi chứng quả Vô thượng Bồ đề không bao giờ
rời chư Phật. Đây gọi là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng có
pháp nầy với pháp nầy hoặc hiệp hay chẳng hiệp nhau, hoặc bằng hay chẳng bằng
nhau. Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát chẳng thấy có pháp nầy cùng những pháp khác
hoặc hiệp hoặc bằng hay chẳng hiệp chẳng bằng. Đây gọi là tương ứng với Bát nhã
ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật,
đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng ta sẽ chóng được pháp tánh hoặc chẳng được. Tại sao
vậy? Vì pháp tánh chẳng phải là tướng được. Đây gọi là tu tập tương ứng với Bát
nhã ba la mật.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát nhã ba la
mật, đại Bồ Tát chẳng thấy có pháp nào ra ngoài pháp tánh, cũng chẳng nghĩ rằng
pháp tánh khác với các pháp, cũng chẳng nghĩ rằng pháp nầy có thể được pháp
tánh hay chẳng được. Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát chẳng thấy dùng pháp nầy có thể
được pháp tánh hay chẳng được pháp tánh. Đại Bồ Tát tu tập đúng như đây thời
gọi là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc đại Bồ Tát thật hành Bát nhã
ba la mật, pháp tánh chẳng hiệp với không, không cũng chẳng hiệp với pháp tánh.
Đây gọi là tương ứng với Bát nhã ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc đại Bồ Tát thật hành Bát nhã
ba la mật, nhãn giới chẳng hiệp với không, không cũng chẳng hiệp với nhãn giới,
sắc giới chẳng hiệp với không, không cũng chẳng hiệp với sắc giới, nhãn thức
giới chẳng hiệp với không, không cũng chẳng hiệp với nhãn thức giới, nhẫn đến ý
giới, pháp giới và ý thức giới chẳng hiệp với không, không cũng chẳng hiệp với
ý giới, pháp giới và ý thức giới. Tương ứng không như vậy gọi là tương ứng đệ
nhứt.
Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thật hành pháp không
chẳng sa vào hành Thanh Văn, Bích Chi Phật, có thể thanh tịnh Phật độ, thành
tựu chúng sanh, chóng được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Xá Lợi Phất! Trong các môn tương ứng, thời
tương ứng với Bát nhã ba la mật là tối đệ nhứt, là tối tôn, tối thắng, tối diệu
không có gì trên. Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát nầy thật hành tương ứng với Bát
nhã ba la mật, chính đó là không, vô tướng, vô tác. Phải biết rằng Bồ Tát nầy
như đã được thọ ký hoặc đã gần được thọ ký.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tương ứng như vậy có
thể làm lợi ích cho vô lượng vô số chúng sanh. Đại Bồ Tát nầy cũng chẳng nghĩ
rằng ta tương ứng với Bát nhã ba la mật, chư Phật sẽ thọ ký cho ta, ta sẽ gần
được thọ ký, ta sẽ thanh tịnh Phật độ, sẽ thành Phật chuyển pháp luân. Tại sao
vậy? Vì đại Bồ Tát nầy chẳng thấy có pháp nào ra ngoài pháp tánh, cũng chẳng
thấy có pháp nào thật hành Bát nhã ba la mật, chẳng thấy có pháp nào được Phật
thọ ký, chẳng thấy có pháp nào thành Phật chuyển pháp luân. Tại sao vậy? Vì lúc
thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng sanh tướng ngã, tướng chúng sanh
nhẫn đến chẳng sanh tướng tri giả, tướng kiến giả. Tại sao vậy? Vì chúng sanh
rốt ráo bất sanh bất diệt, chúng sanh không có sanh, không có diệt. Nếu các
pháp đã không có tướng sanh diệt thời làm sao lại có pháp thật hành Bát nhã ba
la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Thế nên vì đại Bồ Tát chẳng thấy
chúng sanh đó chính là thật hành Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì chúng sanh
là bất thọ, là bất khả đắc, là ly, chính đây là thật hành Bát nhã ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Trong các môn tương ứng của đại
Bồ Tát, tương ứng với không là tối đệ nhất. Tương ứng với không đây hơn tất cả
các môn tương ứng.
Đại Bồ Tát tu tập pháp không như vậy có thể phát sanh
đại từ, chẳng sanh những tâm san lẫn, phạm giới, sân hận, giải đải, tán loạn,
vô trí”.