Bắc truyền
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Hán Dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
23/07/2554 13:01 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Mục lục
Xem toàn bộ

QUYỂN THỨ MƯỚI BỐN

PHẨM VÔ TÁC 
THỨ BỐN MƯƠI BA

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật nầy không sở tác!”

Đức Phật nói: “Vì tác giả bất khả đắc. Vì sắc bất khả đắc nhẫn đến tất cả pháp bất khả đắc”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Nếu đại Bồ Tát muốn thật hành Bát nhã ba la mật thời phải thật hành thế nào?”

Đức Phật nói: “Muốn thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng thật hành nơi sắc, chẳng hành nơi thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết chủng trí, thời đó là thật hành Bát nhã ba la mật.

Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành thường hay vô thường, thời là thật hành Bát nhã ba la mật.

Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành hoặc khổ hoặc vui, thời thật hành Bát nhã ba la mật.

Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành là ngã hay chẳng phải ngã, thời thật hành Bát nhã ba la mật.

Đại Bồ Tát, nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành tịnh hay bất tịnh, thời là thật hành Bát nhã ba la mật.

Tại sao vậy?

Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến nhứt thiết chủng trí đây vốn không có tánh, thời thế nào lại có thường, có vô thường, có khổ, có vui, có ngã, có chẳng ngã, có tịnh, có bất tịnh được.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng hành sắc chẳng đầy đủ, nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết chủng trí chẳng đầy đủ, thời là thật hành Bát nhã ba la mật.

Tại sao vậy? Vì sắc chẳng đầy đủ thời chẳng gọi là sắc, như đây cũng chẳng hành thời là thật hành Bát nhã ba la mật. Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí chẳng đầy đủ thời chẳng gọi là nhứt thiết chủng trí, như đây cũng chẳng hành thời là thật hành Bát nhã ba la mật”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Thật chưa từng có! Đức Thế Tôn khéo nói tướng dạng ngại cùng tướng dạng chẳng ngại của những thiện nam, thiện nữ cầu đạo Bồ Tát”.

Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Phật khéo nói tướng dạng ngại cùng tướng dạng chẳng ngại của những thiện nam, thiện nữ cầu đạo Bồ Tát.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, nếu đại Bồ Tát chẳng hành sắc, chẳng chướng ngại, thời hành Bát nhã ba la mật. Nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết chủng trí, chẳng chướng ngại, thời là hành Bát nhã ba la mật.

Nầy Tu Bồ Đề! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật như vậy, đại Bồ Tát biết sắc là chẳng chướng ngại, biết thọ, tưởng, hành, thức là chẳng chướng ngại, nhẫn đến biết nhứt thiết chủng trí là chẳng chướng ngại. Biết quả Tu Đà Hoàn là chẳng chướng ngại, nhẫn đến biết đạo Vô thượng Bồ đề là chẳng chướng ngại”,

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Chưa từng có vậy, Bạch đức Thế Tôn!

Pháp thậm thâm nầy, hoặc giảng thuyết, hoặc chẳng giảng thuyết cũng đều chẳng tăng, chẳng giảm”.

Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Pháp thậm thâm nầy, hoặc nói hoặc chẳng nói cũng đều chẳng tăng, chẳng giảm.

Nầy Tu Bồ Đề! Như ảo nhơn, lúc khen hay lúc chê cũng đều chẳng tăng, chẳng giảm. Lúc khen chẳng mừng, lúc che chẳng lo.

Nầy Tu Bồ Đề! Pháp tướng của các pháp cũng như vậy, lúc nói cũng như bổn không khác, lúc chẳng nói cũng như bổn không khác”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Chỗ làm của chư đại Bồ Tát rất khó. Lúc tu hành Bát nhã ba la mật nầy, các Ngài chẳng mừng chẳng lo, mà có thể thực tập Bát nhã ba la mật. Cũng chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.

Tại sao vậy?

Bạch đức Thế Tôn! Tu hành Bát nhã ba la mật như tu hành hư không.

Như trong hư không, không có Bát nhã ba la mật nhẫn đến không có Đàn na ba la mật. Như trong hư không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến không có mười tám pháp bất cộng. Như trong hư không, không có quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến đạo Vô thượng Bồ đề. Tu Bát nhã ba la mật cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Tất cả đều nên kính lễ chư đại Bồ Tát có thể đại thệ trang nghiêm nầy.

Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy vì chúng sanh mà đại thệ trang nghiêm chuyên cần tinh tấn, như hư không đại thệ trang nghiêm chuyên cần tinh tấn.

Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy muốn độ chúng sanh như muốn độ hư không.

Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy đại thệ trang nghiêm, như là hư không khắp cả chúng sanh đại thệ trang nghiêm.

Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy đại thệ trang nghiêm muốn độ chúng sanh như là cất hư không lên.

Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy được sức đại tinh tấn, vì muốn độ chúng sanh mà phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát nầy rất dũng mãnh, vì độ chúng sanh đồng như hư không mà phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Tại sao vậy?

Bạch đức Thế Tôn! Nếu chư Phật đầy cả trong cõi Đại Thiên như là tre, lau, mía, lúa, mè, lùm rừng, thường thuyết pháp luôn cả một kiếp hoặc gần một kiếp. Mỗi Đức Phật độ vô lượng vô biên vô số chúng sanh làm cho họ nhập Niết Bàn.

Tánh chúng sanh nầy cũng vẫn tăng, chẳng giảm.

Tại sao vậy?

Vì chúng sanh vốn vô sở hữu vậy, là ly vậy.

NHẫn đến chư Phật trong quốc độ mười phương độ chúng sanh, tánh chúng sanh vẫn không tăng, không giảm cũng như vậy.

Do nhơn duyên ấy, bạch đức Thế Tôn! Tôi nói rằng chư đại Bồ Tát nầy vì muốn độ chúng sanh mà phát tâm Vô thượng Bồ đề, là muốn độ hư không.

Bấy giờ có một Tỳ Kheo nói rằng: Tôi phải đảnh lễ Bát nhã ba la mật.

Trong Bát nhã ba la mật dầu không pháp sanh, không pháp diệt, mà có chúng chánh giới, có chúng chánh định, có chúng chánh huệ, có chúng giải thoát, có chúng giải thoát trí kiế. Mà có các bực Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, chư Phật. Mà có Phật Bửu, Pháp Bửu, Tỳ Kheo Tăng Bửu. Mà có chuyển pháp luân”.

Lúc đó Thiên Đế hỏi Ngài Tu Bồ Đề: “Nếu đại Bồ Tát tu tập Bát nhã ba la mật là tu tập pháp gì?”

Ngài Tu Bồ Đề bảo Thiên Đế: “Nầy Kiều Thi Ca! đại Bồ Tát nầy tu tập Bát nhã ba la mật là tu tập không”.

Thiên Đế bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nầy và thân cận, đọc tụng, giải thuyết, chánh ức niệm, thời tôi phải thủ hộ những gì?”

Ngài Tu Bồ Đề hỏi Thiên Đế: “Nầy Kiều Thi Ca! Ngài có pháp gì có thể thủ được chăng?”

Thiên Đế nói: “Không! Bạch Đại Đức! Tôi chẳng thấy pháp gì có thể thủ hộ được”.

Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nếu thiện nam, thiện nữ tu hành đúng như lời Phật dạy trong Bát nhã ba la mật, thời chính là thủ hộ. Nghĩa là thường tu hành đúng như lời Phật dạy trong Bát nhã ba la mật mà chẳng xa rời, thời hoặc người hay phi nhơn không làm hại được thiện nam, thiện nữ nầy.

Phải biết rằng thiện nam, thiện nữ nầy chẳng xa rời Bát nhã ba la mật.

Nầy Kiều Thi Ca! Nếu ai muốn thủ hộ hàng Bồ Tát tu hành Bát nhã ba la mật, thời là muốn thủ hộ hư không.

Nầy Kiều Thi Ca! Ý Ngài nghĩ sao? Ngài có thể thủ hộ mộng, diệm, ảnh, hưởng, ảo, hóa được chăng?”

Thiên Đế nói: “Không thể thủ hộ được”.

Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nếu ai muốn thủ hộ chư Bồ Tát tu hành Bát nhã ba la mật thời cũng như vậy. Chỉ luống nhọc nhằn thôi.

Nầy Kiều Thi Ca! Ngài có thể thủ hộ chỗ biến hóa của chư Phật chăng?”

Thiên Đế nói: “Tôi chẳng thủ hộ được”.

Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nếu ai muốn thủ hộ chư Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật thời cũng như vậy.”

Nầy Kiều Thi Ca! Có thể thủ hộ pháp tánh, thiệt tế, pháp như, bất tư nghì tánh chăng?”

Thiên Đế nói: “Không thể thủ hộ được”.

Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nếu có ai muốn thủ hộ chư Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật thời cũng như vậy”.

Thiên Đế hỏi: “Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Thế nào đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật thấy biết các pháp như mộng, như diệm, như ảnh, như ảo, như hóa? Thế nào chư đại Bồ Tát như chỗ mình thấy biết nên chẳng quan niệm mộng, chẳng quan niệm là mộng, chẳng quan niệm dùng mộng, chẳng quan niệm tôi mộng?

Như mộng với diệm, ảnh, hưởng, ảo và hóa cũng vậy”.

Ngài Tu Bồ Đề nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật, chẳng quan niệm sắc, chẳng quan niệm là sắc, chẳng quan niệm dùng sắc, chẳng quan niệm sắc với tôi, thời đại Bồ Tát nầy cũng có thê chẳng quan niệm mộng, chẳng quan niệm là mộng, chẳng quan niệm dùng mộng, chẳng quan niệm tôi mộng, nhẫn đến ảo và hóa cũng vậy.

Nếu đại Bồ Tát nhẫn đến nhứt thiết trí, chẳng quan niệm nhứt thiết trí, chẳng quan niệm là nhứt thiết trí, chẳng quan niệm dùng nhứt thiết trí, chẳng quan niệm nhứt thiết trí của tôi, thời đại Bồ Tát cũng có thể nhẫn đến chẳng quan niệm hóa, chẳng quan niệm là hóa, chẳng quan niệm dùng hóa, chẳng quan niệm hóa của tôi.

Nầy Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát như vậy biết các pháp như mộng, như diệm, như ảnh, như hưởng, như ảo, như hóa”.

Bấy giờ do thần lực của Phật, nên trong Đại thiên thế giới, các hàng Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời đâu Suất, Trời Hóa lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại, Trời Phạm Thiên, Trời Phạm Phụ, Trời Phạm Chúng, Trời Đại Phạm, Trời Thiểu Quang, nhẫn đến Trời Tịnh Cư, tất cả những hàng Trời nầy đem hương chiên đàn cõi Trời vói rải trên Đức Phật, cùng nhau đến chỗ Phật, đầu mặt lạy chơn Phật, rồi đứng qua một phía.

Do thần lực của Phật, nên những hàng Trời nầy đều thấy ngàn Đức Phật phương Đông thuyết pháp, cùng tướng dạng như vậy, danh hiệu như vậy, giảng nói phẩm Bát nhã ba la mật nầy, chư Tỳ Kheo đều tên Tu Bồ Đề, người gạn hỏi phẩm Bát nhã ba la mật đều tên Thích đề Hoàn Nhơn.

Như phương Đông, chín phương kia cũng đều hiện ngàn Đức Phật như vậy.

Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Thời kỳ Di Lặc Đại Bồ Tát chứng Vô thượng Bồ đề chánh đẳng Chánh giác, cũng sẽ nói Bát nhã ba la mật tại chỗ nầy. Chư đại Bồ Tát trong Hiền kiếp, lúc chứng Vô thượng Bồ đề cũng ở tại chỗ nầy mà nói Bát nhã ba la mật”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc Ngài Di Lặc Bồ Tát thành Phật, dùng tướng gì, nhơn gì, nghĩa gì mà nói nghĩa Bát nhã ba la mật?”

Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Lúc Di Lặc Bồ Tát chứng Vô thượng Bồ đề sẽ thuyết pháp như vầy:

Sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.

Sắc chẳng phải khổ, chẳng phải lạc.

Sắc chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã.

Sắc chẳng phải phải tịnh, chẳng phải bất tịnh.

Sắc chẳng phải hệ phược, chẳng phải giải thoát.

Sắc chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Sắc rốt ráo thanh tịnh.

Thọ, tưởng, hành và thức nhẫn đến nhứt thiết trí cũng như vậy”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật nầy thanh tịnh?”

Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh?”

Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Nếu sắc chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, thời gọi là sắc thanh tịnh. Nếu thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, thời gọi là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì hư không thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào vì hư không thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh?”

Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Vì hư không chẳng sanh, chẳng diệt nên thanh tịnh. Bát nhã ba la mật cũng vậy.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc chẳng nhiễm ô nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng nhiễm ô nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Nầy Tu Bồ Đề! Như hư không chẳng thể nắm lấy được nên hư không thanh tịnh. Vì hư không thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì hư không có thể thuyết minh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Nhơn trong hư không hai âm thanh xuất phát.

Như hư không, vì Bát nhã ba la mật có thể thuyết minh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.

Nầy Tu Bồ Đề! Vì hư không chẳng thể thuyết minh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Như hư không vì không chỗ thuyết minh được nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.

Nầy Tu Bồ Đề! Lại như hư không vì chẳng thể được nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Như hư không vì không chỗ được nên hư không thanh tịnh, Bát nhã ba la mật cũng không chỗ được nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Vì tất cả pháp chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Vì tất cả pháp rốt ráo thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nầy và gần gũi, chánh ức niệm, thời trọn chẳng mắc bịnh, nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân cũng trọn chẳng bịnh, thân không tàn tật cũng chẳng suy già, chẳng hoạnh tử, vô số hàng chư Thiên, từ Trời Tứ Thiên Vương đến Trời Tịnh Cư thảy đều đi theo nghe học. Mỗi tháng đến sáu ngày trai: mùng tám, mưới bốn, mười lăm, hai mươi ba, hai mươi chín và ngày ba mươi, tại chỗ thiện nam, thiện nữ nầy làm pháp sư, giảng thuyết Bát nhã ba la mật, chư Thiên chúng hội đều vân tập đến. Ở giữa đại chúng, thiện nam, thiện nữ giảng thuyết Bát nhã ba la mật nầy được vô lượng vô biên vô số bất khả tư nghì, bất khả xưng lượng phước đức”.

Đức Phật nói: “Đúng như lời Tu Bồ Đề nói. Tại sao vậy? Vì Bát nhã ba la mật là đại trân bửu.

Những gì là đại trân bửu?

Bát nhã ba la mật nầy có thể nhổ được sự bần cùng của Địa ngục, Súc sanh, Ngạ quỷ và trong loài người. Bát nhã ba la mật nầycó thể ban cho hào tộc đại tánh Sát Lợi, Bà La Môn, Cư Sĩ, ban cho cõi Trời Tứ Vương đến Phi Phi Tưởng, ban cho quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, Vô thượng Bồ đề.

Tại sao vậy?

Vì trong Bát nhã ba la mật nói rộng về thập thiện, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác phần, bát thánh đạo phần, Đàn na ba la mật, Thi la ba la mật, Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia ba la mật, Thiền na ba la mật, Bát nhã ba la mật, thập bát không, thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí.

Học theo đây thời xuất sanh đại tánh Sát Lợi, đại tánh Bà La Môn, đại tánh Cư Sĩ, Trời Tứ Vương, Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất Đà, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại, Trời Phạm Chúng, Trời Phạm Phụ, Trời Phạm Vương, Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang, Trời Quang Âm, Trời Thiểu Tịnh, Trời Vô Lượng Tịnh, Trời Biến Tịnh, Trời Vô Vân, Trời Phước Sanh, Trời Quảng Quả, Trời Vô Tưởng, Trời Vô Phiền, Trời Vô Nhiệt, Trời Thiện Kiến, Trời Thiện Hiện, Trời Sắc Cứu Cánh, Trời Không Vô Biên Xứ, Trời Thức Vô Biên Xứ, Trời Vô Sở Hữu Xứ, Trời Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ.

Học trong pháp nầy thời được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, A La Hán đạo Bích Chi Phật, đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Nầy Tu Bồ Đề! Vì thế nên Bát nhã ba la mật gọi là đại trân bửu.

Trong trân bửu ba la mật, không pháp gì có thể được là hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc cấu, hoặc tịnh, hoặc lấy, hoặc bỏ.

Trong trân bửu ba la mật cũng không có pháp hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi.

Vì thế nên gọi là vô sở đắc trân bửu ba la mật.

Nầy Tu Bồ Đề! Trân bửu ba la mật nầy không có pháp gì làm ô nhiễm được

Tại sao vậy?

Vì chỗ dùng nhiễm pháp là bất khả đắc.

Vì thế nên gọi là vô niễm trân bửu ba la mật.

Nầy Tu Bồ Đề! Nếu đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật, cũng chẳng biết như vậy, chẳng phân biệt như vậy, cũng bất khả đắc như vậy, chẳng hí luận như vậy. Đây là có thể tu hành Bát nhã ba la mật, cũng có thể kính lễ chư Phật, từ một cõi Phật đến một cõi Phật để cúng dường, cung kính tán thán chư Phật, đi đến các cõi Phật để thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.

Nầy Tu Bồ Đề! Đối với các pháp, Bát nhã ba la mật nầy không có năng lực, không chẳng phải năng lực, cũng không lãnh thọ, không ban cho, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng thêm, chẳng bớt.

Bát nhã ba la mật nầy cũng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng bỏ cõi Dục, Cõi Sắc, cõi Vô sắc, cũng chẳng trụ cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Bát nhã ba la mật nầy chẳng ban cho Đàn na ba la mật đến Thiền na ba la mật và Bát nhã ba la mật, cũng chẳng bỏ Đàn na ba la mật đến Thiền na ba la mật và Bát nhã ba la mật.

Bát nhã ba la mật nầy chẳng cho nội không đến vô pháp hữu pháp không cũng chẳng bỏ, chẳng cho tứ niệm xứ đến bát thánh đạo cũng chẳng bỏ, chẳng cho thập lực đến thập bát bất cộng pháp cũng chẳng bỏ, chẳng cho quả Tu Đà Hoàn đến nhứt thiết trí cũng chẳng bỏ.

Bát nhã ba la mật nầy chẳng cho pháp A La Hán, chẳng bỏ pháp phàm phu, chẳng cho pháp Bích Chi Phật, chẳng bỏ pháp A La Hán, chẳng cho Phật pháp, chẳng bỏ Bích Chi Phật.

Bát nhã ba la mật nầy cũng chẳng cho pháp vô vi, chẳng bỏ pháp hữu vi.

Tại sao vậy?

Vì hoặc có Phật, những pháp tướng nầy luôn thường trụ không khác, vì pháp tướng, pháp trụ, pháp vị thường trụ chẳng sai, chẳng mất vậy”.

Bấy giờ chư Thiên đứng trong hư không vui mừng hớn hở phát âm thanh lớn, đem hoa âu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi rải lên trên Đức Phật mà nói rằng ở Diêm Phù Đề chúng tôi thấy pháp luân chuyển lần thứ hai.

Trong đây có vô lượng trăm ngàn Thiên Tử được vô sanh pháp nhẫn.

Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Pháp luân nầy chuyển, chẳng phải chuyển lần thứ nhứt, chẳng phải chuyển lần thứ hai.

Bát nhã ba la mật nầy chẳng do chuyển, chẳng do hườn mà xuất hiện, vì vô pháp hữu pháp rỗng không vậy”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! thế nào vì vô hữu pháp rỗng không nên Bát nhã ba la mật chẳng do chuyển, chẳng do hườn mà xuất hiện?”

Đức Phật nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Bát nhã ba la mật Bát nhã ba la mật tướng rỗng không nhẫn đến Đàn na ba la mật Đàn na ba la mật tướng rỗng không, nội không nội không tướng rỗng không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không vô pháp hữu pháp không tướng rỗng không, tứ niệm xứ tứ niệm xứ tướng rỗng không nhẫn đến bát thánh đạo bát thánh đạo tướng rỗng không, Phật thập lực thập lực tướng rỗng không nhẫn đến mười tám pháp bất cộng pháp bất cộng tướng rỗng không, quả Tu Đà Hoàn quả Tư Đà Hàm tướng rỗng không nhẫn đến nhứt thiết trí nhứt thiết trí tướng rỗng không”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật của chư đại Bồ Tát là Ma ha Bát nhã ba la mật.

Tại sao vậy?

Dầu tất cả pháp, tự tánh rỗng không, nhưng chư đại Bồ Tát nhơn nơi Bát nhã ba la mật mà được Vô thượng Bồ đề, cũng không có pháp được huyển pháp luân, cũng không có pháp chuyển được, cũng không có pháp hườn được.

Trong Ma ha Bát nhã ba la mật nầy cũng không có pháp thấy được.

Tại sao vậy?

Pháp nầy không có được hoặc huyển hoặc hườn, vì tất cả pháp rốt ráo chẳng sanh vậy.

Tại sao vậy?

Vì tướng không nầy, tướng vô tướng nầy, tướng vô tác nầy chẳng chuyển được, chẳng hườn được.

Nếu giải thuyết Bát nhã ba la mật được như vậy, có thể giảng dạy, khai thị, phân biệt rành rẽ, giải thích cặn kẽ, thời gọi là thanh tịnh giải thuyết Bát nhã ba la mật. Cũng không người nói, cũng không người nghe, cũng không người chứng.

Nếu không nói, không nghe, không chứng, thời cũng không diệt mất.

Trong thuyết pháp nầy, cũng không phước điền quy định”.

Tiêu điểm: