TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 101
Kinh Devadaha
I. TOÁT YẾU
Devadaha Sutta.
At Devadaha. The Buddha examines the Jain thesis that liberation is
to be attained by self-mortification, proposing a different account of
how striving becomes fruitful.
[Phật xem xét chủ trương của Kỳ na giáo cho cần khổ hạnh mới
đạt giải thoát, và
đề nghị một giải thích khác, làm thế
nào để tinh cần đem lại kết quả.]
II. TÓM TẮT
Tại thị trấn Devadaha của bộ tộc Sakya (Thích Ca), Phật thuật lại cho
chúng tỳ kheo việc Ngài luận bại chủ trương của lõa thể ngoại
đạo Nigantha (Ni Kiền Tử).
1. Ngoại đạo Ni Kiền Tử chủ trương: Tất
cả cảm thọ vui, khổ, trung tính đều do nghiệp quá khứ [1]. Nếu diệt
nghiệp quá khứ (bằng khổ hạnh), không tạo nghiệp mới, thì tất cả
nghiệp chấm dứt. Do nghiệp đoạn, khổ đoạn;
do khổ đoạn, cảm thọ đoạn; do cảm thọ đoạn, tất cả khổ sẽ chấm dứt [2].
Phật dạy, vì họ không biết gì về đời
quá khứ, không biết thiện pháp hiện tại; nên thật không hợp lý
chủ trương như vậy [3]. Ví như người bị trúng tên
độc cảm thọ đau đớn lúc y sĩ mổ xẻ, lúc vật
dụng dò tìm chạm da thịt, lúc mũi tên
được rút ra, lúc đốt miệng vết thương, lúc
đắp thuốc. Khi vết thương lành, người ấy phải nhớ
đã trải qua những
đau khổ như thế nào, và cũng biết
hiện tại mình đã khỏi bệnh, an vui.
2. Các Ni Kiền Tử nói: Nigantha tự xưng có tri kiến toàn diện luôn
tồn tại khi đi đứng ngủ thức. Ông đã
dạy tu khổ hạnh để làm mòn ác nghiệp
cũ, hộ trì thân khẩu ý để tương lai không
tạo ác nghiệp. Chúng tôi hoan hỉ tin nhận lý thuyết ấy. Phật dạy những gì
ta tin tưởng, hoan hỉ chấp thuận, nghe đồn,
xét thấy có lý, chấp nhận một quan điểm - cả năm điều ấy có thể đúng
hoặc sai.
3. Vì chỉ có đau đớn khốc liệt khi có
tha thiết tinh cần, không tinh cần thì không khổ, nên nói cảm thọ
do nhân các nghiệp quá khứ là sai. Lại nữa, khổ hạnh không thể làm cho
nghiệp hiện báo [4] thành sanh báo và ngược lại; nghiệp có khổ
báo thành nghiệp lạc báo và ngược lại; nghiệp
đã chín [5] thành chưa chín và
ngược lại; nghiệp nhiều báo thành ít báo và ngược lại; nghiệp có báo
thành nghiệp không báo [6] và ngược lại.
4. Phật kết luận: Ni Kiền Tử đáng bị chỉ
trích vì mười điểm: Nếu cảm giác khổ
vui do nghiệp quá khứ, thì quá khứ họ
đã làm nhiều phi pháp; nếu do tạo
hóa [7] họ đã có một tạo hóa hung
ác; nếu do kết hợp các điều kiện [8], họ đã
kết hợp ác duyên; nếu do sinh loại [9], họ bị ác sinh loại; nếu do tinh
tấn hiện tại, họ đang thực hành tà
tinh tấn. Nếu khổ vui không do năm nguyên
nhân ấy, Ni Kiền Tử vẫn đáng bị chỉ trích,
vì vô cớ tự chuốc khổ.
5. Tinh tấn có kết quả là khi vị tỷ kheo không
để tự ngã bị khổ thắng lướt, không
từ bỏ lạc thọ hợp pháp nhưng cũng không bị nó chi phối [10]. Vị ấy biết
hai cách diệt trừ tham dục (nhân khổ) là tinh cần và xả [11]. Vì khi
tinh cần thì không có tham dục; cũng thế khi tu xả. Ví như có người sầu
khổ vì nhiệt tình ái mộ một cô gái, khi biết vậy bèn xả tâm luyến ái và
từ đấy đâm ra dửng dưng dù thấy nàng
nói cười với bất cứ ai. Sự tinh cần chống lại ái dục trong trường hợp ấy
được gọi là tinh tấn hợp pháp. Lại
nữa nếu tự thấy lạc thọ khiến bất thiện tăng,
thiện giảm, ngược lại tinh cần khiến thiện tăng [12], bất thiện giảm; vị
tỷ kheo sẽ khổ hạnh vừa đủ để nhiếp phục tự ngã, như thợ làm tên
nung tên cho dễ uốn. Sự tinh cần có kết quả là như cuộc
đời Phật từ khi xuất gia đến lúc thành
đạo.
6. Và Phật kết luận có mười trường hợp Như Lai
đáng được tán thán, ngược lại với mười điều
đáng chỉ trích của Ni Kiền Tử: Nếu lạc khổ do nghiệp quá khứ, Như Lai đã
làm thiện hành nên nay được tối thắng lạc;
nếu do tạo hóa, Như Lai đã được sinh
bởi một tạo hóa toàn thiện; nếu do duyên hợp, Như Lai
đã kết thiện duyên; nếu do sinh
loại, Như Lai đã
được thiện sinh; do tinh cần hiện tại, Như
Lai đã thiện tinh tấn. Với năm giả
thuyết ngược lại Như Lai cũng đáng được tán thán.
III. CHÚ GIẢI
1. Trong Tương ưng 36, 21 và Tăng chi 3,
61, Phật cũng bác bỏ thuyết này của Kỳ na giáo, cho cảm thọ vui
khổ là do nghiệp quá khứ. Giáo lý Phật thừa nhận có thứ cảm thọ không do
nghiệp quá khứ mà do nghiệp hiện tại, và còn có thứ cảm thọ không có tác
dụng nghiệp và cũng không phải là hậu quả nghiệp.
2. Ðây là chủ trương của Ni Kiền Tử, như trong kinh số 14.
3. Thuyết Ni Kiền Tử không hợp lý vì chính sự tha thiết tinh cần
(khổ hạnh) khiến cảm thọ đau đớn không phải
là nghiệp quá khứ.
4. Nghiệp hiện báo là hành động
có hậu quả ngay trong đời này.
5. Nghiệp hiện báo đã chín
cũng đồng nghĩa với nghiệp hiện báo, nghĩa
là phải chịu hậu quả ngay bây giờ. Nghiệp chưa chín
đồng nghĩa với nghiệp sanh báo nghĩa là
phải chịu hậu quả ở đời kế tiếp. Nhưng có
sự phân biệt như sau. Tất cả nghiệp nào có quả báo trong cùng một
đời đều được gọi là hiện báo, song
chỉ có những nghiệp đem lại quả báo trong vòng
bảy ngày mới được gọi là nghiệp
đã chín.
6. Nghĩa là một nghiệp không có cơ hội
đem lại quả báo.
7. Issaranimmànehetu. Thuyết này của hữu thần giáo bị Phật bác
bỏ trong kinh Tăng chi 3, 61.
8. Sangatibhàvahetu, ám chỉ học thuyết của Makkhali Gosàla
(Mạt già lê), bị bác bỏ dông dài trong kinh Trung 60 và Tăng
chi 3.
9. Abhijàtihetu, một tín điều của
Makkhali Gosàla.
10. Thuyết Trung đạo của Phật, tránh cực
đoan khổ hạnh ép xác và cực đoan say
đắm nhục lạc.
11. Kinh sớ giải thích nguồn gốc khổ là tham ái,
được gọi thế vì
đấy là gốc rễ của khổ bao hàm trong
năm uẩn. Ðoạn kinh này
đưa ra hai cách diệt tham ái là nỗ
lực tinh cần và buông xả. Sự tàn tạ của nguồn gốc, theo Kinh sớ, là
đạo lộ siêu thế. Ðoạn kinh này muốn
ám chỉ cách tu tập của một vị lợi tuệ đi trên
con đường vui (sukhapatipadà
khippàbhinnà).
12. Ðoạn này hiển thị lý do Phật cho phép chư tỷ kheo tu khổ hạnh
đầu đà một cách vừa phải
để vượt qua những nhiễm ô. Những khổ hạnh
trong đạo Phật không phải để làm tiêu mòn nghiệp cũ và thanh
luyện tâm hồn như Kỳ na giáo và ngoại đạo
chủ trương. Theo Kinh sớ, đoạn này hiển thị sự tu hành của một tỷ
kheo có tuệ chậm lụt đi trên con
đường gian nan (dukkhapatipadà
dandhàbhinnà).
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
1. Ở Deva-daha
Thị trấn tộc Sakya
Phật thuật lại tỏ tường
Luận bại Ni Kiền Tử.
Pháp này nói khổ vui
Ðều do nghiệp quá khứ
Nghiệp đoạn cảm thọ đoạn
Thọ đoạn, dứt khổ đau.
Nhưng vì không thể biết
Ðời quá khứ ra sao
Ðã tạo nghiệp thế nào
Ðến mức nào hết khổ?
Làm sao trong hiện tại
Thành tựu các hạnh lành?
Không biết những việc ấy
Thuyết họ thành vô căn.
Như người trúng tên độc
Chịu đau lúc mổ xẻ
Lúc dò tìm tên độc,
Lúc rút mũi tên ra,
Lúc đốt nung, đắp thuốc
Khỏi bệnh phải nhớ ra
Khổ đau càng cay đắng
An vui thêm mặn mà.
2. "Ni Kiền Tử toàn trí
Có tri kiến toàn diện
Lúc đi đứng ngủ thức.
Dạy khổ hạnh nghiệp tiêu.
Hộ trì thân khẩu ý,
Tương lai khỏi tạo ác
Nghiệp đoạn sẽ dứt khổ
Tôi hoan hỉ lời này."
Phật dạy điều ta tin
Hoặc hoan hỉ chấp thuận,
Hoặc nghe nhiều người nói,
Hoặc xét thấy hay ho,
Hoặc chấp nhận quan điểm
Ðều có thể lầm to.
Và Ngài bác chủ trương
Thọ do nghiệp quá khứ.
Vì ngay trong hiện tại
Họ chịu khổ khốc liệt
Khi tha thiết tinh cần,
Không tinh cần không khổ.
3. Khổ hạnh không thể chuyển
Hiện báo thành sanh báo
Khổ báo thành lạc báo
Ðã chín thành chưa chín
Nhiều báo thành ít báo
Có báo thành không báo
Vì không chuyển được gì
Nên Khổ hạnh vô ích.
4. Nếu cảm giác khổ vui
Là do nghiệp quá khứ
Thì chắc Ni Kiền Tử
Ðã làm nhiều phi pháp
Nếu do một tạo hóa
Tạo hóa ấy hung ác
Nếu do nhiều duyên hợp,
Ni Kiền bị ác duyên
Nếu do sáu sinh loại
Họ thuộc ác sinh loài
Nếu do nghiệp hiện tại,
Ni Kiền nỗ lực sai.
Nếu cảm giác khổ vui
Không do năm nhân ấy,
Ni Kiền vẫn đáng chê
(Vì vô cớ chuốc khổ).
5. Tinh tấn có kết quả
Là khi vị tỷ kheo
Nhận lạc thọ hợp pháp
Bất động trước khổ vui.
Vị ấy biết rõ rằng
Tham dục không khởi lên
Khi tinh cần nỗ lực
Hoặc khi tu tập xả
Ví như có một người
Say đắm một nữ nhân
Do nhiệt tình ái mộ
Nên mất ngủ mất ăn
Ðau khổ vì hờn ghen
Trái tim chàng tan nát
Những khi thấy cô nàng
Vui đùa cùng kẻ khác.
Sau thấy sự tai hại
Bèn dứt bỏ mê say
Tâm an nhiên tự tại
Mặc ai cười với ai.
Phật đưa ví dụ này
Hiển thị có hai cách
Ðể trừ diệt tham ái
Nguyên nhân của khổ sầu:
Một là tu tập xả
Không ái luyến tham cầu
Hai tinh cần nỗ lực
Khi vướng lụy mắc câu.
Tinh cần tiêu ái dục
(Nguyên nhân của khổ đau)
Là tinh cần hợp lý
Trong pháp Phật nhiệm mầu.
Lại nữa nếu trú lạc
Mà ác tăng, thiện giảm
Nên khổ hạnh hợp lý
Ðể nhiếp phục bản thân.
6. Như Lai đáng tán thán
Vì cả mười trường hợp:
Dù khổ vui hữu tình
Do nghiệp cũ hay không.
Như Lai đã thiện hành
Nay gặt Niết bàn lạc
Không như ai làm ác
Khiến nay phải hành xác;
Dù khổ vui hữu tình
Do, không do tạo hóa:
Như Lai đã
được tạo
Bởi tạo hóa thiện hiền.
Dù khổ vui hữu tình
Do, không do các duyên:
Như Lai thiện kết hợp
Tối thắng lạc hiện tiền.
Dù khổ vui hữu tình
Do, không do sinh loại:
Như Lai sinh loại lành
Nay được Niết bàn lạc.
Dù khổ vui hữu tình
Do, không do tinh tấn:
Như Lai khéo tinh tấn
Nay được Niết bàn vui.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 102
Kinh Devadaha
I. TOÁT YẾU
Devadaha Sutta.
A survey of various speculative views about the future and the past
and of misconceptions about Nibbàna.
[Xét qua các kiến chấp siêu hình về vị lai quá khứ và những quan niệm
sai lạc về Niết bàn.]
II. TÓM TẮT
Tại vườn Cấp cô độc [1], Phật dạy chúng
tỷ kheo các chủ thuyết ngoại đạo luận bàn về tương lai tự ngã sau
khi chết:
1. không bệnh [2], có tưởng;
2. không bệnh, không tưởng;
3. không bệnh, phi tưởng phi phi tưởng;
4. đoạn diệt;
5. Hiện tại Niết bàn.
Tóm lại, ba chủ trương đầu thuộc thường
kiến (cho rằng sau khi chết, tự ngã tồn tại không bệnh), chủ
trương 4 là đoạn kiến (cho hữu tình
chết là hết); chủ trương cuối chấp hiện tại Niết bàn. Những chủ thuyết
ấy xoay vần từ 5 còn lại 3 (gồm 3 loại thường kiến kể như một, một
đoạn kiến và một hiện tại niết bàn),
hoặc từ 3 thành 5.
A. Thường kiến loại một là Hữu tưởng (sau khi chết tự ngã không
bệnh, có tưởng), chia ra nhiều thuyết: 1. (tự ngã) có sắc; 2. không sắc;
3. vừa có vừa không sắc; 4. không có không không sắc; 5. tưởng
đồng nhất; 6. tưởng dị biệt; 7. tưởng hữu
hạn; 8. tưởng vô lượng [3]. Vượt trên các tưởng này, còn có một
số ít cho rằng tự ngã là biến xứ Thức vô lượng và bất
động [4], hoặc cho tự ngã là tưởng
Vô sở hữu xứ. Họ cho cái tưởng không có gì siêu việt các tưởng về sắc,
vô sắc, hữu hạn hay vô lượng [5]. Như Lai biết rõ
đấy toàn là hữu vi (có
điều kiện), và cái gì có
điều kiện đều thô. Nhưng có niết bàn
là sự chấm dứt các hành, và vì biết cái này là sự thoát ly, Như Lai
đã ra khỏi các tưởng ấy [6].
B. Thường kiến loại hai là Vô tưởng [sau khi chết, tự ngã không
có tưởng, không bệnh] chia ra: 1. tự ngã có sắc; 2. không sắc; 3. vừa có
vừa không sắc; 4. không có không không sắc [7]. Những vị này bài bác chủ
trương hữu tưởng, cho tưởng là bệnh hoạn, cục bướu, mũi tên, chỉ có vô
tưởng là an tịnh, cao cả. Ðối với chủ trương vô tưởng này, Như Lai biết
rõ: Ngoài năm uẩn ra, không thể nói sự đến
đi sinh diệt tăng trưởng thuần thục của thức [8]. Ðấy vẫn còn là
hữu vi, thô. Thấy được cái này, tức
sự thoát ly khỏi hữu vi, Như Lai đã
vượt qua vô tưởng.
C. Thường kiến loại ba là Phi tưởng phi phi tưởng, cũng có 4
trường hợp như trên là (tự ngã sau khi chết không bệnh, không có cũng
không không tưởng) có sắc, không sắc, cũng có cũng không, không có không
không sắc [9]. Những sa môn bà la môn này bài bác các chủ trương hữu
tưởng, và cũng bài bác chủ trương vô tưởng. Họ nói hữu tưởng là bệnh,
cục bướu…, còn vô tưởng thì kỳ cục [10]; chỉ có cái này là thù diệu,
đó là phi tưởng phi phi tưởng. Như
Lai biết không thể có sự chứng nhập xứ này nếu còn tạo tác của thấy,
nghe, cảm, biết (kiến văn giác tri), vì
đấy là một tai họa cho việc chứng
nhập xứ này [11]. Họ lại công bố xứ này không phải
được chứng nhập bằng các (tâm) hành,
mà bằng tàn dư của các hành[12]. Ðây vẫn còn hữu vi thô. Như Lai biết rõ
có sự chấm dứt các hành gọi là Niết bàn. Sau khi biết rõ Có cái này
(niết bàn), thấy rõ sự thoát ly khỏi cái kia (các hành), Như Lai
đã vượt khỏi hành.
D. Ðoạn kiến: Những sa môn bà la môn chấp sau khi chết tự ngã
đoạn diệt, hủy diệt [13] thì bài bác
cả ba chủ trương trên, là hữu tưởng, vô tưởng và phi tưởng phi phi
tưởng. Như Lai biết những kẻ này sợ hãi chán ghét tự ngã nhưng vẫn chạy
vòng quanh ngã [14], như một con chó bị cột vào dây cọc không ngừng chạy
quanh cây cọc.
Tóm lại, những kiến chấp về tương lai
đều lập một trong năm xứ đã kể [15] (không vô biên, thức vô biên,
vô sở hữu, phi tưởng phi phi tưởng, và hiện tại niết bàn.)
E. Về quá khứ, các sa môn bà la môn có 16 kiến chấp như sau về tự
ngã và thế giới:
1. Thường[16];
2. Vô thường [17];
3. Thường và vô thường [18];
4. Không thường, không vô thường [19];
5. Hữu biên [20];
6. Vô biên;
7. Hữu biên và vô biên;
8. Không hữu biên không vô biên;
9. Tưởng đồng nhất [21];
10. Tưởng sai biệt;
11-12. Tưởng hữu hạn, vô lượng;
13-14. Toàn vui, toàn khổ;
15. Vừa khổ vừa vui;
16. Không khổ không vui.
Những vị giữ một trong 16 kiến chấp này
đều cho chỉ đây là sự thật, ngoài ra
đều sai. Nhưng về điều này, họ không có một tri kiến thuần tịnh
thân chứng nào ngoài niềm tin, sự hoan hỉ chấp nhận, nghe
đồn, suy xét lý do, chấp nhận quan điểm
[22]. Cho nên dù họ có quan điểm gì
cũng chỉ là chấp thủ tà kiến [23]. Sau khi biết rõ Có cái này (niết
bàn), thấy rõ sự thoát ly khỏi cái kia (các hành), Như Lai
đã vượt khỏi tất cả hành [24].
F. Hiện tại Niết bàn [25]
Một số sa môn bà la môn [26] từ bỏ quan
điểm về quá khứ vị lai, ít dục, an trú viễn ly hỷ [27]; nhưng khi viễn
ly hỷ này diệt thì ưu tư sanh khởi, ưu tư diệt thì viễn ly hỷ
sinh [28] như hết bóng mát lại bị nóng, hết nóng lại mát. Như Lai biết
cái này là hữu vi pháp và đã vượt
khỏi hữu vi. Lại có người còn vượt qua vượt khỏi hữu vi. Lại có người
còn vượt qua viễn ly hỉ, đạt được phi vật
chất lạc [29] cho là thù điệu. Nhưng
khi phi vật chất lạc bị diệt thì viễn ly hỷ sanh, và ngược lại.
Cái này cũng thuộc hữu vi, Như Lai đã
vượt qua. Có người vượt qua cả 2 thứ hỷ lạc trên, an trú bất khổ bất lạc
cho là thù điệu. Nhưng khi bất khổ bất lạc
này diệt, phi vật chất lạc [30] lại sinh, như bóng mát nhường chỗ
cho sức nóng. Như Lai biết đây cũng thuộc
hữu vi và đã vượt qua. Lại có
người vượt qua tất cả chủ thuyết và tu tập trên, không dục kiết sử, vượt
qua hỷ, lạc, vô khổ vô lạc, quán "ta là tịch tịnh không chấp thủ." [31]
Nhưng Như Lai biết vị này vẫn còn chấp thủ [32].
Vô thượng tịch tịnh được Như Lai chính
đẳng giác, đạt giải thoát không chấp thủ [33] do biết tập khởi, đoạn
diệt, vị ngọt và nguy hiểm của 6 xúc xứ [34].
[đại ý đoạn này Phật dạy người
nào chứng đến tứ thiền nhưng còn có
ý nghĩ Ta là tịch tịnh thì vẫn còn chấp trước mặc dù
đã đi
đúng đường đến Niết bàn. Vô thượng Niết bàn
được Như Lai thân chứng là khi thấy
rõ cả 2 khía cạnh sinh và diệt, vị ngọt cùng nguy hiểm của 6 căn
6 trần, nhờ thấy rõ nên giải thoát chấp thủ vào 6 xúc xứ, nghĩa
là thoát khỏi 5 uẩn hay cái Ta.]
III. CHÚ GIẢI
1. Kinh này tương tự kinh Phạm Võng trong Trường Bộ kinh.
2. Aroga, vô bệnh, theo Kinh sớ, là chấp thường
(chủ trương sau khi chết tự ngã vẫn tồn tại).
3. Kinh Phạm Võng đề cập mười sáu kiến
chấp kiểu này, gồm tám quan điểm nói
ở đây và thêm: (tự ngã) hữu biên, vô biên, vừa hữu vừa vô, phi
hữu phi vô biên; toàn vui, toàn khổ, vừa vui vừa khổ, không vui không
khổ. Trong kinh này tám quan điểm sau được
kể như những suy tưởng về quá khứ.
4. Rõ ràng những kiến chấp ngã vô sắc, có tưởng
đồng nhất hoặc tưởng dị biệt, căn
cứ vào sự chứng đắc Không vô biên
xứ. Biến xứ Thức theo kinh sớ, là Thức vô biên xứ. Những người chứng
Thức vô biên xứ tuyên bố xứ này là tự ngã.
5. Tưởng trong thiền vô sắc thứ ba - Vô sở hữu xứ - là vi tế nhất
trong các tưởng thế gian. Mặc dù trong thiền vô sắc thứ tư (Phi tưởng
phi phi tưởng) vẫn còn có một loại tưởng, song nó quá vi tế nên không
còn thích hợp để gọi là tưởng.
6. Theo Kinh sớ, đoạn này có
nghĩa như sau: Tất cả loại tưởng này cùng các kiến chấp liên hệ
đều hữu vi, và vì hữu vi nên thô.
Nhưng có Niết bàn, được gọi là sự
chấm dứt tất cả hành, nghĩa là cái hữu vi. Sau khi biết rõ Có cái này,
nghĩa là Niết bàn, thấy sự thoát ly khỏi hữu vi,
đức Như Lai đã vượt qua hữu vi pháp.
7. Bốn trường hợp sau (tưởng đồng nhất,
dị biệt, hữu hạn, vô lượng) không được kể ở đây vì phái này chấp
ngã là vô tưởng. Kinh Phạm võng đề cập tám
kiến chấp, ngoài bốn cái này thêm hữu biên, vô biên, vừa hữu biên
vừa vô biên, phi hữu phi vô biên.
8. Theo Kinh sớ, lời này nhắm đến các cõi
chúng sinh đủ cả năm uẩn. Trong các cõi
vô sắc, thức sinh khởi không cần có sắc uẩn, và trong cõi vô tưởng thì
có sắc không thức. Nhưng thức không bao giờ sinh mà vắng bóng ba tâm uẩn
kia (thọ, tưởng, hành).
9. Kinh Phạm võng kể thêm bốn chấp hữu biên vô biên, vv.
10. Sammoha, ở đây có nghĩa khác
với ngu si vọng tưởng như thường hiểu. (Bản Anh dịch là
stupefaction).
11. Kiến văn giác tri chỉ cho các nhận
thức qua cửa ngõ giác quan. Muốn đắc
thiền vô sắc thứ tư, phải vượt qua mọi tâm hành thường ngày liên
hệ các giác quan, vì nó là chướng ngại cho sự chứng
đắc xứ này (Phi tưởng phi phi tưởng
xứ). Do vậy tưởng này gọi là phi tưởng (neva sannì).
12. Sasankhàràvasesasamàpatti. Trong thiền vô sắc thứ tư, một
tâm hành vô cùng vi tế vẫn còn sót lại, nên gọi là Phi phi tưởng.
13. Kinh Phạm võng giải thích bảy loại chấp
đoạn, ở đây gồm chung thành một
loại.
14. Sự sợ hãi chán ghét tự ngã là một khía cạnh của phi hữu ái
(vibhavahanhà), khát khao phi hữu, gọi là
đoạn kiến. Nó cũng còn mang sự chấp
ngã, cho rằng lúc chết là ngã hủy diệt, và do
đó mặc dù nó chối bỏ ngã, thuyết này
vẫn trói buộc người ta vào vòng sinh tử.
15. Kỳ thực Phật mới kể ra có bốn loại tư duy về tương lai.
16. Quan điểm này bao gồm cả bốn
hạng chấp thường tư duy về quá khứ, đề cập
trong kinh Phạm võng.
17. Vì đây là quan
điểm về quá khứ, ta có thể xem nó ngụ ý ngã
và thế giới tự nhiên phát sinh không do từ
đâu cả. Như vậy nó cũng gồm cả hai thuyết ngẫu sinh trong kinh Phạm võng.
18. Thuyết này bao gồm cả bốn loại chấp một phần bất diệt (thường).
19. Thuyết này có thể gồm luôn bốn loại chủ thuyết trườn uốn như
con lươn nói trong kinh Phạm võng.
20. Các kiến chấp từ 5-8 tương đương với
bốn thuyết về không gian (extensionists) trong kinh Phạm võng.
21. Tám chấp này, từ số 9 đến 16, trong
kinh Phạm võng được kể vào
các chủ thuyết về tương lai tự ngã bất diệt, hữu tưởng.
22. Nghĩa là, chủ tuyết họ không căn cứ
trên trí tuệ mà chỉ dựa vào niềm tin hoặc suy luận. Kinh số 95
nói năm nền tảng niềm tin này có thể
đưa đến hậu quả đúng hoặc sai.
23. Kinh sớ: đấy không phải là
chân thật trí mà chỉ là tà giải (hiểu sai), nên gọi là ôm giữ quan
điểm (chấp thủ kiến).
24. Theo Kinh sớ, ngang đây đã
bao gồm tất cả sáu mươi hai kiến chấp đề
cập trong kinh Phạm võng; nhưng kinh này có phạm vi rộng lớn hơn
vì nó còn bao gồm một trình bày về ngã kiến, nhất là ở
đoạn cuối nói về một vị chứng tứ thiền.
25. Tiêu đề này do
đại đức Nanamoli đưa vào cho
đủ số năm, vì ở trên Phật chỉ mới
trình bày có bốn loại quan điểm.
26. Kinh sớ: Ðoạn này cốt hiển thị rằng tất cả 62 kiến chấp siêu hình
đều nặng ngã kiến (chấp có chủ thể
hay cái ta dưới dạng này hay khác).
27. Pavivekam pìtim, ám chỉ hai thiền
đầu có hỉ.
28. Theo Kinh sớ, ưu tư khởi lên là do mất thiền. Ưu tư không khởi
lên ngay sau khi thiền (tâm) chấm dứt, mà khởi lên khi (hành giả) suy
nghĩ về sự biến mất của (tâm) thiền.
29. Niràmisam sukham. Ðây là lạc ở thiền thứ ba.
30. Thiền thứ tư.
31. Santo ham asmi, nibbuto ham asmi, anupàdàno ham asmi. Từ
ngữ aham asmi, tôi là, chứng tỏ vị ấy vẫn còn chấp trước, như
Phật sẽ hiển thị.
[Chú riêng của người dịch: Xem thêm kinh Kim Cương, chỗ Phật hỏi Tu
Bồ Ðề rằng A la hán có ý thức mình là la hán không. Tu Bồ Ðề bạch: Dạ
không, vì nếu có tức còn chấp ngã, chưa thực sự thanh tịnh. Sở dĩ Phật
nói con - Tu Bồ Ðề - là kẻ ưa tịch tịnh cũng vì trong tâm con không còn
một tạo tác nào cả, vô sở hành.]
32. Theo Kinh sớ, đây là ngã
kiến, vì còn thấy ta là tịch tịnh.
33. Ở chỗ khác, giải thoát không chấp thủ (anupàdà vimokkha)
có nghĩa là Niết bàn, nhưng ở đây có nghĩa
là sự chứng quả A la hán.
34. Kinh Phạm võng cũng hiển thị sự liễu tri các khía cạnh tập khởi,
đoạn diệt, vị ngọt, nguy hiểm và
xuất ly của sáu xúc sứ là con đường vượt
khỏi mọi kiến chấp.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Phật dạy chúng tỷ kheo
Ngoại đạo bàn tự ngã
Có ba loại chấp thường
Có tưởng hoặc không tưởng;
Một chấp ngã đoạn diệt;
Một hiện tại Niết bàn.
Ðấy là các chủ thuyết
Xoay vần giữa năm ba.
Chấp Hữu tưởng gồm tám:
Ngã có sắc, không sắc
Vừa có vừa không sắc
Không có cũng không không;
Ngã có tưởng đồng nhất
Hoặc có tưởng dị biệt
Hoặc có tưởng hữu hạn
Hoặc có tưởng vô cùng.
Trên nữa có các chấp
Ngã là Thức vô biên,
Hoặc Vô sở hữu xứ
Vẫn còn hữu vi thô.
Chấp Vô tưởng gồm bốn:
Ngã có sắc, không sắc;
Hoặc vừa có vừa không;
Không có cũng không không.
Vô tưởng bác Hữu tưởng,
Cho tưởng là bệnh hoạn,
Là cục bướu, mũi tên,
Chỉ Vô tưởng thù diệu.
Nhưng bàn Thức đến đi
Diệt, sinh hay tăng trưởng
Ngoài sắc thọ tưởng hành
Là việc làm phi lý.
Chấp Phi tưởng phi phi
Gồm bốn: có, không sắc,
Cũng có cũng không sắc,
Không có cũng không không.
Bác hữu tưởng cục bướu
Vô tưởng thì kỳ cục
Chỉ cái này thù diệu:
Phi tưởng phi phi tưởng.
Như Lai như thật biết
Nếu nhờ hành sót lại
Mà chứng Phi phi tưởng
Vẫn còn hữu vi thô.
Phái chủ trương đoạn diệt
Vẫn xoay quanh tự ngã:
Sau chết, ta thế này
Như chó chạy quanh cột.
Về tự ngã, thế giới
Có mười sáu kiến chấp
Liên hệ đến quá khứ:
Là thường, là Vô thường
Vừa thường vừa vô thường
Không thường, không vô thường;
Là Hữu biên, Vô biên;
Vừa Hữu biên, vô biên
Không hữu không vô biên
Tưởng đồng nhất; sai biệt
Tưởng hữu hạn, vô lượng;
Tưởng toàn vui, toàn khổ
Vừa khổ lại vừa vui;
Không khổ cũng không vui.
Ai cũng cho mình đúng
Các quan điểm khác sai.
Lại có những sa môn
Từ bỏ các quan điểm
An trú viễn ly hỷ;
Cho đấy là thù diệu
Nhưng khi hỷ này diệt
Thì ưu tư sanh khởi.
Kẻ đắc thiền thứ ba,
Xem lạc này thù diệu
Nhưng khi lạc ấy diệt
Viễn ly hỷ lại sinh
(tụt xuống lại nhị thiền)
Như hết mát lại nóng.
Có người vượt tam thiền
Hết bị dục trói buộc
Chứng tứ thiền và nghĩ
"Ta tịch tịnh vô chấp."
Nhưng họ còn vẫn chấp
Dẫu đã
đi đúng đường.
Cái Vô thượng tịch tịnh
Ðược Như Lai chính giác
Khi biết rõ năm uẩn:
Khởi, diệt, và vị ngọt,
Cùng nguy hiểm của chúng
Nên vô chấp, xuất ly.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 103
Như thế nào
(Kimtisutta)
I. TOÁT YẾU
Kinti Sutta: What Do You Think About Me?
The Buddha explains how the monks can resolve disagreements about the
Dhamma
[Các ông nghĩ gì về ta? Phật dạy các tỷ kheo cách giải quyết những
bất đồng về Pháp.]
II. TÓM TẮT
Phật ở Kusinara gọi các tỷ kheo mà hỏi, có phải vì bốn sự cúng dường
hay vì thành bại [1] mà Thế Tôn thuyết pháp không. Chúng tỷ kheo thưa
không. Ngài chỉ vì từ tâm và lợi tha mà nói pháp. Phật dạy nếu biết thế,
thì hãy học tập tất cả pháp mà Như Lai sau khi thân chứng
đã truyền dạy - tức là 4 niệm xứ, 4
chính cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7
giác chi, 8 thánh đạo - và hãy tu học trong tinh thần hòa hợp
không tranh cãi. Nhưng trong khi tu học hòa hợp như vậy, có thể có sự
bất đồng giữa hai tỷ kheo về Thắng pháp [2]
hoặc về Luật. Nên dàn xếp như sau.
A. Về pháp:
Vị tỷ kheo hòa giải nên xét xem sự bất
đồng của họ thuộc tính chất nào. Có 4 trường hợp:
1. Giữa 2 phe, có sai khác cả về nghĩa lẫn về văn
[3];
2. Hoặc sai khác về nghĩa, đồng nhất về văn;
3. Hoặc đồng nhất về nghĩa, sai khác về văn;
4. Hoặc đồng nhất về nghĩa và văn.
Vị hòa giải nên đến người nào dễ
nói trong cả 2 phe để khuyên họ
đừng cãi lộn: Với 2 trường hợp
đầu, cãi nhau vô ích vì hai bên
không đồng nói một chuyện (khác nhau về
nghĩa); với 2 trường hợp sau thì chỉ khác nhau về văn
là vấn đề nhỏ nhặt [4] không nên
cãi nhau vô lối.
B. Về Luật:
Nếu có người phạm giới phạm luật [5] thì không nên khiển trách liền,
mà phải suy nghĩ đắn đo như sau, trường hợp
nào nên nói, trường hợp nào không nên.
1. Nên sửa sai cho người ấy nếu việc này không hại gì cho ta, cho
họ; họ không phẫn uất, lanh lợi, dễ nói, và ta có thể khiến họ bỏ ác
theo thiện.
2. Vẫn nên sửa sai nếu xét thấy cuối cùng ta sẽ khiến người ấy bỏ
ác theo thiện mặc dù có thể gặp một hay nhiều chướng ngại như sau: a)
có hại cho ta; b) có hại cho người; c) có hại cho cả hai; d) người kia
phẫn uất; e) chậm lụt; f) khó nói. Nhưng tất cả trở ngại này
đều là việc nhỏ nếu cải hóa
được một con người.
3. Ngược lại nếu xét thấy cuối cùng không thể nào sửa
đổi họ dù phải chịu những thiệt
thòi trên, thì nên xả, nhưng không nên khinh miệt.
Trong khi tu học với tinh thần hòa hiệp, nếu có khởi lên một cuộc cãi
nhau, một ý kiến ngoan cố, tâm hiềm hận phẫn nộ ưu não, thì người hòa
giải nên đi đến người nào dễ nói
nhất trong mỗi phe và bảo: Có phải nếu biết
được việc này thì vị Sa môn [6] sẽ quở trách? Nếu không bỏ việc
này [7] thì có thể chứng niết bàn không? Ðương nhiên họ phải
đáp rằng Phật sẽ quở trách, và không
thể chứng niết bàn. Khi sự thuyết phục thành công, nếu có ai hỏi có phải
nhờ ngài mà họ đã an trú vào
điều thiện không, vị tỷ kheo hòa
giải chỉ nên nói nhờ được nghe Pháp của Thế
Tôn mà họ tự sửa đổi. Trả lời như
vậy tỷ kheo hòa giải khỏi phạm lỗi khen mình chê người.
III. CHÚ GIẢI
1. Bhavàbhavahetu, Kinh sớ: Các ngươi có nghĩ rằng Như Lai
giảng Pháp để được công đức, được hưởng vui
ở một cõi cao siêu nào chăng?
2. Abhidhamma. Theo Sớ, ám chỉ 37 pháp trợ
đạo nói ở đoạn trước.
3. Nghĩa attha và văn
byanjana là hai khía cạnh của Pháp Phật dạy. Xem thêm Trường 29,
cũng bàn đến sự bảo tồn Pháp cho đúng về
văn và nghĩa.
4. Ðoạn này muốn nói rằng câu văn hơi
khác không nhất thiết trở ngại việc hiểu đúng ý nghĩa. Nhưng ở chỗ khác,
ví dụ kinh Tăng Chi 2, Phật có dạy rằng Diệu pháp biến mất là do
hai yếu tố: diễn đạt sai trên văn
tự, và giải sai ý nghĩa.
5. Nguyên tắc chung trong việc sửa sai là: Nếu vị tỷ kheo có lỗi có
thể sửa đổi, thì dù vị ấy có bị tổn
thương và bản thân người can gián bị phiền hà, cũng nên can. Nhưng nếu
vị ấy không thể nào sửa đổi được, thì
người can gián nên có thái độ xả.
6. Vị Sa môn ở đây là
đấng Ðạo sư (satthà), chỉ
đức Phật. Như ở kinh Trung bộ 105.
7. Việc này có nghĩa là sự cãi nhau.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Phật ở Câu thi na
Gọi chư tỷ kheo hỏi
Như Lai có giảng dạy
Ðể được phước lợi lành?
Chúng tỷ kheo thưa không,
Ngài chỉ vì từ tâm
Vì lợi ích tha nhân
Mà thuyết tuyên diệu pháp.
Vậy hãy khéo tu học
Băm bảy pháp trợ đạo
Do Như Lai thân chứng
Trong tinh thần vô tranh.
Nên hòa giải tranh chấp
Mỗi khi có bất đồng
Giữa hai nhóm tỳ kheo
Khi bàn về thắng pháp:
Khác nhau nghĩa và văn;
Ðồng nhất văn, khác nghĩa;
Ðồng nhất nghĩa, khác văn;
Ðồng nhất văn và nghĩa.
Với hai trường hợp đầu
(Kẻ nói gà người vịt)
Cãi nhau thật vô ích
Vì vấn đề khác nhau.
Với hai trường hợp sau
- đồng nghĩa, văn hơi khác -
Cũng không nên cãi nhau
Về bất đồng vụn vặt.
Vị Tỷ kheo hòa giải
Nên đến người dễ nói
Ở trong cả hai bên
Ðể trình bày như trên.
Khi phạm giới xảy ra
Xét nên, không nên nói
Nên nói nếu không hại
Cho người hoặc cho ta;
Người kia không phẫn uất,
Thông minh, biết phục thiện
Và chính ta có thể
Ðưa họ thoát đường tà.
Và cũng nên sửa sai
Nếu xét ra sửa được
Dù có những phiền phức:
Hoặc hại bản thân ta
Hoặc hại đến cho người
Hoặc ta, người đều hại;
Hoặc người kia phẫn uất
Chậm hiểu, khó thuyết phục.
Tất cả chướng ngại này
Chỉ là điều nhỏ nhặt
So với việc to lớn
Cải hóa một con người.
Nhưng nếu xét cho cùng
Có nói chỉ phí công
Thì bỏ qua, im lặng
Nhưng cũng chớ phiền lòng.
Giữa chúng tăng bình yên
Bỗng khởi lên tranh cãi
Ngoan cố và hiềm hận
Nên hòa giải đôi bên:
Ðấng Ðạo sư biết được
Ngài sẽ quở trách liền.
Không từ bỏ tranh chấp
Niết bàn khó chứng nên.
Nếu hòa giải thành công,
Nên nói nhờ Phật Pháp
Mà hai phe tranh chấp
Tự bỏ ác theo lành.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 104
Làng Sama
I. TOÁT YẾU
Sàmagàma Sutta.
At Sàmagàma. The Buddha lays down disciplinary procedures for the
guidance of the Sangha to ensure its harmonious functioning after his
demise.
[Tại làng Sàma, Phật ấn định những điều
luật để chỉ đạo cho tăng chúng sống hòa hợp sau khi Ngài niết
bàn.]
II. TÓM TẮT
A. Phật thuyết kinh này ở thôn Xá Di (Samagama) của bộ tộc Thích
Ca (Sakka). Sau khi giáo chủ Ni Kiền Tử qua
đời ở Pàvà [1], đệ tử chia làm
hai phe đả thương nhau bằng binh khí miệng
lưỡi, khiến cư sĩ của họ chán ngấy, như đã chán ngấy Pháp và luật
vụng thuyết không đưa đến giải thoát, do
một người chưa đạt hoàn toàn giải thoát giảng dạy; và bây giờ họ
không còn nơi nương tựa [2]. Ðây là những gì sa di Cunda [3] thuật lại
với tôn giả A Nan. Tôn giả đến bạch Phật.
Phật dạy trong Phật pháp không có sự cãi nhau về 37 pháp trợ
đạo, nên khỏi lo. A Nan lại lo có
tranh luận về giới luật [4]. Phật dạy tranh luận này là việc nhỏ nhặt
không đáng kể, chỉ có tranh chấp về Pháp
[5] mới đem lại bất an cho đa số.
Rồi Ngài dạy có 6 nguyên nhân tranh chấp [6] là:
- hiềm hận não hại,
- khinh miệt lấn lướt,
- ganh ghét xan tham,
- gian manh xảo trá,
- ác dục tà kiến,
- cố chấp khó xả.
Do 6 gốc rễ này mà tỷ kheo sống không kính Ðạo sư, Pháp và Tăng,
không viên mãn học tập. Vậy hãy có phương pháp dứt các tranh chấp
đưa đến bất an cho đa số.
B. Các tranh chấp có 4:
- do tranh luận,
- do chỉ trích,
- do phạm giới,
- do trách nhiệm.
Ðể diệt 4 tránh sự này [7] có 7 nguyên tắc [8]:
1. Hiện tiền tì ni [9]: tất cả tỷ kheo phải có mặt
để phán quyết một việc tranh cãi
theo chỉ đạo của Pháp [10];
2. Quyết định đa số (đa nhân mích
tội): khi tránh sự không thể giải quyết tại chỗ, thì phải
đi đến một trú xứ nhiều tỷ kheo hơn, rồi
tất cả tập hợp để giải quyết;
3. Ức niệm tỳ ni [11], để cho
đương sự tự nhớ lại có phạm tội ba la di hoặc gần ba la di [12] hay
không;
4. Bất si tì ni [13]: đương sự
bị điên đã làm quấy, tỉnh
lại không nhớ;
5. Quyết định tùy theo thú nhận
(tự ngôn trị) [14]: là khi một tỷ kheo nhớ 1 giới tội, tỏ lộ
với một tỷ kheo lớn tuổi hơn mà sám hối;
6. Quyết định tùy theo giới tội
người phạm [15] (Mích tội tướng);
7. Trải cỏ che lấp (Như thảo phú
địa) [16]: cả 2 phe lần lượt cử ra một người
đứng lên tỏ lộ tội lỗi của những
người phe mình để xí xóa cho nhau, trừ
những tội trọng và tội liên hệ đến
cư sĩ [17].
C. Có sáu pháp khả niệm (lục hòa)
đem lại sự hòa hợp [18] cho tăng
chúng, đó là:
1) An trú từ thân nghiệp đối với nhau;
2) Từ khẩu nghiệp;
3) Từ ý nghiệp;
4) San sẻ lợi dưỡng;
5) Cùng thành tựu giới luật;
6) Thành tựu tri kiến thánh thiện đưa đến
xuất ly.
Thực hành sáu pháp này thì không có một cách nói nào thô hoặc tế mà
tỷ kheo không thể chịu nổi [19]. Sáu pháp ấy sẽ mang lại cho tỷ kheo an
lạc hạnh phúc lâu dài.
III. CHÚ GIẢI
1. Kinh này mở đầu giống kinh Trường bộ
29, cũng liên quan đến việc duy trì
sự hòa hợp của tăng chúng sau khi Phật nhập
diệt.
2. Theo Kinh sớ, đền thờ và chỗ
tựa ở đây là Nàtaputta, vị giáo chủ
đã chết.
3. Sa di Cunda là em trai tôn giả Xá Lợi Phất.
4. Ngay lúc Phật còn ở đời, tranh chấp
thuộc loại này cũng đã xảy ra
trong chúng tỷ kheo ở Kosambi, được nói
trong kinh Trung bộ 48 đoạn 2.
5. Ðây là tranh chấp về Bát thánh đạo
hoặc các giác chi khác.
6. Bốn cặp đầu bao gồm các cấu uế làm
ô nhiễm tâm nói trong kinh Trung bộ 7.
7. Adhikarana. Horner dịch là legal questions (vấn
đề luật pháp) đề cập dông dài trong
Luật tạng. Vắn tắt, ngôn tránh (vivàdàdhikarana) khởi lên
khi tỷ kheo cãi nhau về Pháp và Luật; phạm tránh (anuvàdàdhikarana)
khi buộc tội một tỷ kheo phạm giới luật; mích tránh (àphattàdhikarana)
khi một tỷ kheo phạm giới tìm cách chối tội; sự tránh (kiccàdhikarana)
liên hệ đến việc thực thi các phận sự của
tăng.
8. Adikaranasamatha, chỉ tránh hay diệt tránh. Làm thế nào áp
dụng bảy cách diệt tránh để dàn xếp
4 loại tranh chấp, được nói trong Luật
tạng.
9. Sammukhàvinaya, Hiền tiền tì ni. Luật giảng là
đối diện với, hay với hiện diện của Tăng
chúng, Pháp, Luật và những người liên hệ
đến việc tranh chấp. Luật này áp
dụng cho cả bốn loại tránh sự (chuyện cãi nhau), chỉ khác nhau cách diễn
đạt.
10. Dhammanetti samanumajjitabbà, Kinh sớ
đưa ví dụ là mười thiện nghiệp và
bất thiện nghiệp, ở đây cốt ám chỉ Pháp và
Luật.
11. Sativinaya, ức niệm tì ni. Khi một tỳ kheo vô tội mà bị cử
tội thì vị ấy phải xin tăng làm pháp
yết ma Ức niệm để vị ấy nhớ đầy đủ và
chính xác hành vi mình.
12. Tội ba la di, pàràjika, là tội
đáng trục xuất khỏi tăng chúng. Tội gần ba
la di là phạm tăng sàn
sanghàdisesa, (cần họp chúng để tỏ lộ và
hành sám một thời gian); hoặc phạm những bước
đầu tiến đến trọng tội.
13. Amùlhavinaya, Bất si tì ni, Một tỷ kheo trong quá khứ bị
bệnh điên
đã phạm những giới tội, khi bình
phục được tăng làm pháp này. Tiêu
chuẩn để xác định sự điên cuồng là
đương sự không nhớ mình
đã làm gì trong lúc bị
điên.
14. Thủ tục này là phương pháp lập ra để
giải tội cho một tì kheo khi phạm một giới tội có thể sám hối
để giải tỏa.
15. Pàphiyyàsikà, Mích tội tướng, pháp này dành cho một tỷ
kheo thường gây rối, ngu si nhiều lỗi, hoặc sống liên hệ bất
đáng với tục gia cư sĩ.
16. Tinavattràraka, Như thảo phú
địa, được áp dụng khi tăng chúng vướng vào một cuộc cãi vã trong
đó nhiều tỷ kheo phạm các tiểu giới. Nếu
kết tội những vị này thì tranh chấp sẽ kéo dài, nên Kinh dạy
phương pháp để giải tỏa, được ví như lấy cỏ
phủ lấp trên phân để khử mùi
hôi.
17. Những giới tội đáng khiển trách nặng
nề thuộc loại Ba la di và Tăng tàn.
Giới liên hệ cư sĩ là khi vị tỷ kheo phỉ báng người thế tục.
18. Như kinh 48, đoạn 6.
19. Như kinh 21, ám chỉ ví dụ cái cưa.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Tại thôn Xá Di
Phật thuyết kinh này
Về bảy diệt tránh
Và pháp lục hòa
Tôn giả Thuần Ðà
Thuật với A Nan
Rằng ở Pa-va
Ðệ tử Ni Kiền
Sau khi thầy chết
Ðã chia hai phe
Cãi nhau kịch liệt
Tục gia đệ tử
Ðâm ra chán ngấy
Trước tình trạng ấy
Cũng như chán ngấy
Pháp luật vụng thuyết
Khiến các tín đồ
Không chỗ tựa nương.
Tôn giả A Nan
Nghe xong bạch Phật
Nỗi lo của mình
Sau Phật niết bàn
Có việc tương tự
Trong tỷ kheo chúng.
Phật hỏi tôn giả
Ở trong tăng chúng
Có ai cãi nhau
Về Bốn niệm xứ
Về Bốn chánh cần
Bốn Như ý túc
Năm căn năm lực
Về Bảy giác chi
Và tám thánh đạo?
A Nan bạch Phật
Về các pháp này
Con không hề thấy
Hai vị tỷ kheo
Nói trái ngược nhau.
Thế thì khỏi sợ.
Nhưng bạch Thế Tôn
Sợ có tranh luận
Về giới và luật.
Ðấy là việc nhỏ.
Tranh chấp về Pháp
Mới là tai hại
Ðem lại bất an
Cho đa số người.
Có 6 nguyên nhân
Ðưa đến tranh chấp:
Hiềm hận não hại
Khinh miệt lấn lướt,
Ganh tị xan tham
Gian manh xảo trá,
Ác dục tà kiến
Cố chấp khó xả.
Do 6 pháp này
Tỷ kheo không kính
Phật, Pháp và Tăng,
Không tròn học giới.
Vậy hãy tìm cách
Dứt các tranh luận
Ðưa đến bất an
Cho cả mọi người.
Tranh chấp có 4:
Do tranh luận Pháp,
Do chỉ trích nhau
Do phạm giới tội,
Và do trách nhiệm.
Ðể diệt tránh sự
Có 7 nguyên tắc:
Hiện tiền tì ni
Tất cả tỷ kheo
Ðều phải có mặt
Mỗi khi phán quyết
Một việc tranh cãi
Theo đúng luật pháp.
Ða nhân mích tội
(Quyết định đa số)
Gặp một tránh sự
Khó mà giải quyết
Tại chỗ mình ở,
Hãy đến trú xứ
Có nhiều tỷ kheo
Họp lại xử phân.
Ức niệm tỳ ni
Là cho đương sự
Tự nhớ tội mình
Ðể rồi xử trị.
Bất si tì ni
Lúc điên phạm giới
Nay đã tỉnh lại
Xin tăng miễn bàn.
Pháp tự ngôn trị
Là tỏ lỗi mình
Trước người lớn hơn
Ðể mà sám hối.
Pháp Mích tội tướng
Gặp kẻ chối quanh
Thì cứ phán xét
Theo tội đã phạm.
Trải cỏ che lấp
Là khi 2 phe
Ðều phạm nhiều lỗi
Cử ra đại diện
Xin lỗi lẫn nhau.
Cuối cùng Phật dạy
Sáu pháp khả niệm
(thường gọi lục hòa):
Tỷ kheo sống chung
Thân khẩu ý nghiệp
Thấm nhuần từ tâm;
San sẻ lợi dưỡng;
Thành tựu giới luật;
Tri kiến thánh thiện
Ðưa đến xuất ly.
Thực hành như vậy
Thì không có gì
Không thể kham nhẫn;
Sáu pháp khả niệm
Làm cho tăng chúng
An vui lâu dài.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 105
Thiện Tinh
I. TOÁT YẾU
Sanakkhatta Sutta - To Sunakkhatta.
The Buddha discusses the problem of an individual’s overestimation of
his progress in mediatation.
[Phật bàn thảo vấn đề cá nhân đánh giá
quá mức sự tiến bộ của mình về thiền.]
II. TÓM TẮT
Lúc Phật ở Vesali, có nhiều tỷ kheo đã
tuyên bố chứng thánh quả. Tỷ kheo Thiện Tinh [1]
đến hỏi Phật những vị tuyên bố như
thế có thực sự đã chứng thánh hay
chưa. Phật dạy một số chứng thật, một số chỉ tuyên bố như vậy vì tăng
thượng mạn [2] (chưa chứng nói chứng). Chính vì số người sau này
mà Phật thuyết pháp [3]. Nhưng cũng có người ngu si bày
đặt câu hỏi để chất vấn, thì dù lúc
đầu Như Lai có định nói pháp cho họ, sau
cũng đổi ý [4]. Khi ấy tỷ kheo Thiện Tinh thỉnh Phật nói Pháp. Phật dạy
như sau:
1. Có hạng người thiên về vật chất thế gian [5]. Họ chỉ ưa nói chuyện
vật chất thế gian, suy nghĩ những gì liên hệ năm
dục, và khoái giao du với hạng người như vậy. Khi câu chuyện khởi
lên liên hệ đến bất động thì họ
không để ý, lóng tai hay cố tìm
hiểu, cũng không khoái hạng người ưa nói về bất
động. Như người xa quê ưa nghe
chuyện liên hệ đến quê nhà mình.
Cũng vậy, khi thấy một người không thích câu chuyện về bất
động thì nên biết
đấy là hạng bị trói buộc về vật chất
thế gian.
2. Một số người thiên nặng về Bất động
[6] thì chỉ nói và suy tư những gì liên hệ
đến bất động, và khoái giao du với
hạng người tương tự. Họ không để tâm, không
lóng tai hay cố tìm hiểu câu chuyện liên hệ vật chất thế gian và
cũng không giao du hạng người này. Như lá khô
đã lìa cành, không thể xanh trở lại.
Cũng vậy, khi thấy một người thiên về bất
động thì nên biết họ không bị trói buộc vì vật chất thế gian.
3. Một số thiên nặng về Vô sở hữu xứ cũng như trên, không ưa nghe câu
chuyện về vật chất hay bất động. Như hòn
đá vỡ làm
đôi không liền lại được. Cũng thế, khi thấy
một người không bị trói buộc vì kiết sử bất
động thì nên biết họ thiên về Vô sở
hữu xứ.
4. Một số người thiên về Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Họ không ưa
thích nói chuyện, suy tư liên hệ đến Vô sở
hữu xứ, không khoái giao du với hạng người này. Ví như một người
đã ăn
các món ngon chán chê, sau khi đã
quăng bỏ thì không ưa
ăn lại. Cũng vậy khi một người không bị
trói buộc bởi kiết sử Vô sở hữu thì ta biết họ thiên về Phi tưởng
phi phi tưởng xứ.
5. Một số thiên về chính Niết Bàn. Họ không thích hay nghe suy tư câu
chuyện chỉ liên hệ Phi phi tưởng xứ, hay giao du hạng người này. Kiết sử
Phi tưởng phi phi tưởng xứ nơi họ đã
bị cắt đứt như thân cây sa la. Mặc dù
thiên về chính Niết Bàn, họ lại khởi lên ý nghĩ: Khát ái
đã được
vị Sa môn [7] gọi là mũi tên, nọc
độc vô minh bị dục tham và sân làm cho lan khắp. Nay ta
đã nhổ mũi tên khát ái, tẩy trừ
độc vô minh. Ta là người hoàn toàn
thiên hướng Niết bàn. Vì vọng tưởng về tự ngã [8] như thế, họ có thể
khởi sự theo đuổi những việc bất đáng thuộc
đối tượng giác quan, tâm họ bị tham dục xâm chiếm, và sẽ phải
đau khổ cho đến chết. Ví như người bị trúng
tên độc dược y sĩ giải phẫu dùng
dao cắt miệng vết thương, dùng dụng cụ dò tìm mũi tên và rút ra
được nhưng dấu vết mổ xẻ [9] vẫn còn.
Bởi thế y sĩ dặn phải kiêng cử nắng gió bụi bặm, giữ vệ sinh,
ăn đồ ăn thích hợp cho đến khi vết thương
hoàn toàn bình phục. Nhưng vì không làm theo lời dặn nên vết
thương lại làm độc, khiến người ấy đau như
chết. Cũng thế, một người đã nhổ tên
độc khát ái nếu còn chút tự mãn về việc này thì sẽ bị tham dục
xâm chiếm trở lại khiến họ đau khổ gần
chết. Vì trong Pháp Luật Như Lai thì một người xả giới hoàn tục
cũng như chết, và phạm giới nặng thì như gần chết. Phật dạy vết thương
dụ cho 6 xúc xứ; thuốc độc là vô
minh; ái như mũi tên; vật dụng dò tìm là niệm; con dao là thánh trí tuệ;
y sĩ giải phẫu là Phật. Tỷ kheo phải phòng hộ sáu xúc xứ vì khi
đã rõ sanh y là nguồn gốc của
đau khổ [10] vị ấy lìa sanh y như xa
lánh ly nước ngọt có tẩm độc, hoặc xa một
con rắn độc, nếu người ấy muốn sống, không muốn chết, muốn vui không
muốn khổ [11].
III. CHÚ GIẢI
1. Xem kinh 12.
2. Adhimànena, tăng thượng mạn.
Họ công bố chứng quả vì tăng thượng
mạn, nghĩa là chưa chứng mà tự cho đã
chứng.
3. Kinh sớ: Cho họ biết rõ họ thuộc trình
độ nào.
4. Kinh sớ: Vì họ bị tham thúc đẩy, nên
đức Như Lai không thuyết pháp cho họ. Ngài
chỉ khởi lên ý hướng nói Pháp khi gặp những hành giả chân chính.
5. Lokàmisa, chỉ năm dục là
sắc thanh hương vị xúc.
6. Anenja, bất động, chỉ các
thiền chứng từ tứ thiền đến bốn vô sắc định. Nhưng vì hai
định cao nhất được đề cập riêng, nên
kinh này dường như chỉ xem tứ thiền và hai Không
định đầu tiên (Không vô biên xứ,
Thức vô biên xứ) là Bất động.
7. Chỉ đức Phật.
8. Trở lại vấn đề tự đánh giá quá mức,
như mở đầu kinh.
9. Bản PTS hoàn toàn ngược lại.
10. Như kinh 66.
11. Như kinh 46.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Khi Phật ở Vesali
Nhiều tỷ kheo tuyên bố
Họ đã chứng thánh quả
Khiến Thiện Tịnh hoài nghi.
Ông bèn đến hỏi Phật
Phật cho ông biết rằng
Một số đã chứng thật
Ngoài ra chỉ khoa trương
Ðấy là tăng thượng mạn
Chưa chứng đã nói chứng
Chính vì hạng người này
Mà Như Lai thuyết pháp
Nhưng Ngài Không định nói
Với kẻ chất vấn suông.
Rồi Ngài dạy Thiện Tinh
Ðặc tính năm hạng người.
Hạng thiên về vật chất
Hạng thiên về Bất động
Hạng thiên Vô sở hữu
Hạng Phi tưởng phi phi
Hạng chính hướng Niết bàn.
Chỉ nghĩ về năm dục
Giao du người trần tục
Câu chuyện về Bất động
Bị họ gác ngoài tai
Là hạng người thứ nhất
Bị trói vào vật chất
Ví như kẻ đi xa
Nhớ quê nhà dằng dặc.
Hạng thiên về Bất động
Nói, nghĩ và tương giao
Liên hệ đến bất động
Gác mọi chuyện thế gian
Như lá khô lìa cành
Không còn xanh trở lại.
Hạng thiên Vô sở hữu
Không ưa chuyện vật chất
Cũng chẳng màng Bất động
Như hòn đá vỡ đôi.
Phi tưởng phi phi tưởng
Thiên về định chứng này
Không thích nói, suy tư
Liên hệ Vô sở hữu.
Như người đã chán chê
Ðồ cao lương mỹ vị
Ðã quăng bỏ đi rồi
Không ưa ăn trở lại.
Hạng chính hướng Niết Bàn
Không màng chuyện Phi tưởng
Vì họ đã cắt
đứt
Trói buộc của xứ này.
Nhưng vừa khởi tâm nghĩ:
Ta ái tận, niết bàn
Dục sẽ xâm chiếm tâm
Làm họ đau như chết.
Như người trúng tên độc
Ðược y sĩ mổ xẻ
Với dụng cụ dò tìm
Rút được mũi tên ra
Vì vết mổ còn tươi
Y sĩ dặn kiêng cữ,
Do không theo lời dặn
Người ấy phải đớn đau.
Người còn chút tự mãn
Ðã nhổ độc khát ái
Sẽ bị dục xâm chiếm
Khiến khổ đau dài dài
Trong Pháp Luật Như Lai
Xả giới cũng như chết
Khi biết rõ sanh y
Là nguồn gốc đau khổ
Tỷ kheo lìa sanh y
Như xa lìa rắn độc,
Muốn sống, không muốn chết,
Muốn vui, không khổ sầu.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 106
Bất
động
lợi ích [1]
I. TOÁT YẾU
Ànenjasappàya Sutta - The Way to the Imperturbable.
The Buddha explains the approaches to various levels of higher
meditative states culminating in Nibbàna.
[Con đường đến Bất động. Phật giải thích
những cách đạt đến các tầng thiền chứng, tột đỉnh của nó là niết
bàn.]
II. TÓM TẮT
Tôi nghe như vầy, Phật ở Rammassadhamma thị trấn dân Kuru, dạy các tỷ
kheo:
(Bất động)
Dục [2] là vô thường, trống rỗng, giả dối, thuộc ngu si tánh. Dục và
dục tưởng hiện tại, tương lai đều thuộc lãnh
vực ma, chỗ dinh dưỡng của ma, dẫn đến
tham, sân, chướng ngại cho tu tập. Sau khi xét thấy vậy, tỷ kheo an trú
đại hành tâm, vượt khỏi cảnh giới của dục và quyết
định [3] đắc thiền. Khi tu tập như vậy, tâm
vị ấy không còn các bất thiện pháp như tham, sân, mạn, và trở
thành an tịnh trong giới xứ này [4], tâm vị ấy hoặc
đạt đến Bất động (định), hoặc thiên
về trí tuệ (tuệ), và khi thân hoại mạng chung vị ấy sẽ tái sinh vào cõi
Bất động [5]. Ðây là con
đường thứ nhất đạt đến Bất động.
Hoặc vị tỷ kheo suy tư như sau [6]: Những dục và dục tưởng hiện tại
tương lai đều liên hệ 4
đại và sắc do 4
đại tạo. Tỷ kheo hành trì như vậy,
tâm vị ấy trở nên an tịnh trong giới xứ của nó, thành tựu Bất
động ngay hiện tại, hoặc thiên nặng
về trí tuệ. Khi chết, thức diễn tiến như vậy có thể
đạt đến Bất động. Ðây là con
đường thứ hai để được Bất động.
Hoặc tỷ kheo suy nghĩ [7]: "Dục, dục tưởng hiện tại và tương lai,
sắc, sắc tưởng hiện tại và tương lai, cả 2
đều vô thường, không đáng tham chấp vui thú trong đó." Nhờ an trú nhiều
lần như vậy, tâm vị ấy trở nên an tịnh trong giới xứ này. Với tâm
an tịnh vị ấy thành tựu Bất động ngay hiện
tại hay thiên về tuệ. Khi chết thức có thể nhờ vậy
đạt Bất động. Ðây là con
đường thứ ba để đạt đến Bất động.
(Vô sở hữu xứ)
Vị tỷ kheo suy nghĩ [8]: "Dục và dục tưởng hiện tại và tương lai,
sắc, sắc tưởng hiện tại và tương lai và bất
động tưởng, khi được đoạn diệt không dư tàn, thì tâm
được tịch tịnh. Ðây gọi là Vô sở hữu
xứ thù diệu. Ðây là cách thứ nhất để đạt
đến Vô sở hữu xứ.
Hoặc vị tỷ kheo đi đến gốc cây và
suy nghĩ: "Ngã, và ngã sở đều trống rỗng"
(không có gì là Ta hay của ta) [9]. An trú trong giới xứ này vị
ấy thành tựu Vô sở hữu xứ ngay hiện tại hoặc thiên về tuệ. Khi chết vị
ấy có thể đạt Vô sở hữu xứ. Ðây là
con đường thứ hai để đạt đến Vô sở hữu xứ.
Hoặc vị ấy nghĩ: "Ta và sở thuộc của ta không có bất cứ ở
đâu và trong hình thức nào" [10]. Tu
tập như vậy, tâm vị ấy trở thành an tịnh, hoặc thiên về tuệ. Khi chết vị
ấy tái sinh về Vô sở hữu xứ. Ðây là con
đường thứ ba để đạt Vô sở hữu xứ.
(Phi tưởng phi phi tưởng xứ)
Vị tỷ kheo nghĩ: "Dục, dục tưởng, sắc tưởng và bất
động tưởng, vô sở hữu xứ tưởng, chỗ nào
các tưởng ấy đoạn diệt không dư tàn
là tịch tịnh, thù diệu, tức là Phi tưởng phi phi tưởng xứ." Nhờ an trú
như vậy, vị ấy thành tựu ngay hiện tại Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc
thiên về tuệ. Khi chết có thể tái sinh ở phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðây
là con đường tu tập Phi tưởng phi phi tưởng
xứ.
(Niết bàn)
Tôn giả A Nan bạch: Nếu một tỷ kheo tư duy, tu tập như sau: "Trước
đã không có thì nay không là của ta;
về sau cũng sẽ không có và không là của ta. Hãy
đoạn trừ những gì hiện có và
đã có" [11]. Nhờ thế vị ấy
được xả [12] thì có chứng cứu cánh
Niết bàn không? Phật đáp có người chứng
người không. Không chứng là do còn chấp trước xả ấy, hoan hỷ
trong xả ấy, nghĩa là thủ trước Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Còn chấp
trước thì không thể chứng Niết bàn. Khi ấy tôn giả A Nan bạch: Bạch Thế
Tôn, nhưng vị ấy chấp trước vào cái gì? Phật
đáp, vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ
[13]. A Nan bảo, đấy là chỗ chấp
trước thù thắng nhất. Phật đồng ý, nhưng
dạy thêm rằng nếu xả mà không hoan hỷ chấp trước xả ấy, không lệ
thuộc vào nó, thì sẽ chứng cứu cánh Niết bàn, bất tử, nghĩa là tâm giải
thoát không thủ trước.
Khi ấy tôn giả A Nan tán thán Phật đã
dạy về sự vượt qua bộc lưu nhờ vào một điểm
tựa nào hay khác [14], và hỏi thêm: Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào
là Thánh giải thoát [15]? Và Phật đã
trả lời: Ấy là khi vị thánh đệ tử suy xét
như sau: Dục và dục tưởng, sắc và sắc tưởng hiện tại tương lai,
tưởng về Bất động, về Vô sở hữu xứ hay Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, đều là cái ngã nối dài [16]. Ðây là bất tử,
tức cái tâm giải thoát nhờ không chấp thủ [17].
Những gì cần giảng dạy cho đệ tử vì
lòng thương tưởng, Ta đã giảng dạy.
Ðây là những gốc cây, những ngôi nhà trống. Hãy thiền
định chớ trì hoãn mà phải ân hận về
sau.
III. CHÚ GIẢI
1. Xem chú thích số 6 kinh 105. Bất động
ở đây dường như chỉ bao gồm thiền thứ tư và Không vô biên xứ,
Thức vô biên xứ...
2. Ám chỉ cả hai thứ: dục lạc và những ô nhiễm do dục lạc.
3. Kinh sớ ghi chú: sau khi đã
vượt qua dục giới và quyết định đắc thiền.
4. Theo Kinh sớ, tâm vị ấy an trú trong xứ này có nghĩa là,
hoặc vị ấy đạt được tuệ nhắm đến A la hán
quả, hoặc đắc thiền thứ tư. Nếu vị ấy đắc tứ thiền, thì thiền này
trở thành căn bản để đạt đến bất động, tức
chính thiền thứ tư. Nhưng nếu vị ấy đắc tuệ, thì vị ấy sẽ quyết
định làm viên mãn tuệ giác bằng cách
đào sâu tuệ
để chứng quả A la hán. Sự quyết định viên
mãn tuệ là lý do tại sao những đoạn kinh kế
tiếp mặc dù cuối cùng dẫn đến các
định chứng, lại chỉ toàn nói về phát triển tuệ giác.
5. Kinh sớ giải thích đoạn này mô
tả tái sinh của một người không thể chứng quả A la hán mặc dù
đã đắc
tứ thiền. Kết sanh thức của vị ấy là thức dị thục lúc tái sinh,
thức ấy cũng có bản chất bất động như cái
nghiệp thức đã đạt tứ thiền. Vì
chính cái thức thuộc tứ thiền định đoạt sự
tái sinh, nên người ấy sẽ tái sinh trong một cõi trời tương ưng
với tứ thiền.
6. Theo Kinh sớ, đây là tư duy
của một người đã
đắc tứ thiền. Vì vị ấy xem sắc (vật
chất) cũng thuộc những thứ cần phải vượt qua, nên nếu
được định bất động thì vị ấy
đạt đến Không vô biên xứ, và nếu
không chứng quả A la hán thì vị ấy tái sinh vào Không vô biên xứ.
7. Ðây là suy nghĩ của một người đắc xứ
Không vô biên. Nếu đạt bất động, vị
ấy sẽ đắc Thức vô biên xứ và tái sinh vào xứ ấy nếu không
đắc quả A la hán.
8. Ðây là suy nghĩ của một vị đã
đắc Thức vô biên và
đang nhắm đến Vô sở hữu xứ.
9. Kinh sớ gọi đấy là hai cái
không - không tôi và của tôi - và cho giáo lý về Không vô biên xứ này
được giảng giải bằng tuệ hơn là bằng
định như đường lối trong phần trước. Kinh
Trung Bộ số 43 nói pháp quán này sẽ dẫn
đến Không tâm giải thoát.
10. Kinh sớ gọi đây là Bốn không
và giải thích như sau: (i) Vị ấy không thấy
đâu là cái ngã; (ii) không thấy một cái ngã như là một cái gì
thuộc về một người khác như anh, bạn, người phụ tá…; (iii) không thấy
ngã của một người khác; (iv) không thấy cái ngã của người khác
được xem như cái gì thuộc về mình.
Trong cảo bản của đại đức Nanamoli có ghi
chú như sau: Những từ trong đoạn này và
đoạn sau hình như là những câu
đúc về sự chứng đắc Vô sở hữu và Phi
tưởng phi phi tưởng xứ trong ngoại đạo, đôi
khi được dùng làm cơ sở cho ngã kiến hay thân kiến.
11. Kinh sớ: Nếu trong quá khứ vòng nghiệp
đã không do ta tích lũy, thì bây giờ
vòng quả báo sẽ không dành cho ta; nếu hiện tại ta không tích lũy vòng
nghiệp thì tương lai ta cũng sẽ không gặt quả báo. Cái gì
đang hiện hữu, đã sinh ra, chính là
năm uẩn. Phần đầu của công thức này
cũng lại như là công thức cô đọng của một
kiến chấp của ngoại đạo. Nhiều kinh cho đấy là
đoạn kiến mà Phật
đã áp dụng nhưng gán cho nói những ý
nghĩa mới.
12. Theo Kinh sớ, vị ấy đạt tuệ xả,
nhưng từ đoạn 11 trở đi, dường như cũng cốt nói đến xả của Phi tưởng phi
phi tưởng xứ.
13. Ðây ám chỉ tái sinh của một vị đắc
Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ý nói vị ấy tái sinh vào cõi hữu tốt
nhất, thù thắng nhất.
14. Nissàya nissàya oghassa nittharanà. Theo kinh sớ, Phật
đã giải thích sự vượt qua bộc lưu
cho một tỷ kheo xử dụng bất cứ định chứng nào
từ tam thiền đến bốn không làm căn
bản để đắc quả A la hán.
15. Câu hỏi của ngài A Nan là cốt để gợi
cho Phật nhắc đến sự tu tập của thiền giả càn tuệ (sukkhavipassaka)
người đắc quả A la hán mà không phải
tùy thuộc vào một thiền chứng nào cả.
16. Esa sakkàyo yàvatà sakkàyo. Ðây là toàn thể thân kiến - ba
cõi (hữu); ngoài vòng ba hữu này, không có một cái ngã nào hết.
17. Theo Kinh sớ, đây ám chỉ quả vị A la
hán của hành giả càn tuệ. Quả vị này gọi là Bất tử vì nó có hương
vị của Niết bàn bất tử.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
1. Phật dạy chúng tỷ kheo:
Các dục là vô thường
Trống rỗng và lừa dối
Chuyện trò của kẻ ngu
2. Do dục và dục tưởng
Nổi lên tham sân mạn
Hãy chiến thắng cảnh dục
Quyết trú tâm đại hành.
3. Khi tâm đã an
định
Sẽ hướng đến tứ thiền
Hoặc A la hán quả
Ðây bất động đầu tiên.
4. Thứ hai là Bất động
Của Không vô biên xứ
Khi vượt qua sắc tưởng
Quán bốn đại bốn không.
5. Loại Bất động ba
Là Thức vô biên xứ
Quán dục tưởng sắc tưởng
Vô thường, không đáng ham.
6. Hoặc vượt xa dục sắc
Bất động cũng không màng
Ðoạn diệt không dư tàn
Chứng Vô sở hữu xứ.
7. Cách hành đạo thứ hai
Ðể chứng Vô sở hữu
Là quán hai cái không
Không tôi, không của tôi.
8. Cách hành đạo thứ ba
Do thấy bốn cái không
Không ta không của ta
Không nó không của nó.
9. Lại đoạn dục, sắc tưởng
Cùng các tưởng bất động
Thấy đây là thù diệu:
Phi tưởng phi phi tưởng.
10. Ananda hỏi Phật
Quán không ngã, ngã sở
Một tỳ kheo trú xả
Có chứng niết bàn chăng?
11. Không hoan hỷ, sẽ chứng
Còn thủ trước, khó chứng
Dù thủ Phi phi tưởng
Chỗ bám víu tinh vi.
12. A Nan lại bạch Phật
Vi diệu, hy hữu thay
Thế Tôn đã giải thích
Nhiều cách vượt qua dòng.
Nhưng xin Ngài giảng thêm
Thế nào Thánh giải thoát?
13. Hãy quán sát mọi tưởng
Dục sắc và bất động
Phi tưởng phi phi tưởng
Ðều là ngã nối dài.
14. Chỉ đây là bất tử:
Giải thoát không chấp thủ
Tỷ kheo quán như vậy
Ðạt cứu cánh Niết bàn.
15. Ta đã giảng lợi ích
Bất động, Vô sở hữu
Và Phi tưởng phi phi
Cuối cùng, Thánh giải thoát.
16. Này đây những gốc cây
Và những ngôi nhà trống
A Nan, hãy thiền định
Chớ để hận về sau.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 107
Ganaka Moggallana
I. TOÁT YẾU
Ganakamoggallàna Sutta - To Ganaka Moggallàna.
The Buddha sets forth the gradual training of the Buddhist monk and
describes himself as the "shower of the way."
[Nói với nhà toán học Moggallàna. Phật
đề ra trình tự huấn luyện một tỷ kheo và tự cho mình là người chỉ
đường.]
II. TÓM TẮT
1. Bà la môn lấy ví dụ xây nhà [1] hoặc làm cứ gì như học toán [2]
đều theo một trình tự,
để hỏi trong đạo Phật có chăng một trình
tự như thế. Phật đưa ra hình ảnh
huấn luyện ngựa [3] để giảng về thứ tự học
đạo. Trước hết là hộ trì giới, sống chế ngự với giới bổn,
đủ uy nghi chính hạnh, thấy nguy hiểm trong
lỗi nhỏ. Hai hộ trì 6 căn khi tiếp
xúc 6 trần. Ba tiết chế trong ăn uống, không cho cảm thọ mới khởi lên.
Bốn chú tâm cảnh giác gột sạch tâm trí khỏi chướng ngại pháp. Năm,
thành tựu chính niệm tỉnh giác trong mọi uy nghi. Sáu, an trú
chính niệm bằng thiền toạ tại chỗ vắng để
rũ bỏ 5 triền cái, chứng sơ thiền đến tứ thiền. Những pháp này
vừa đưa đến vô thượng an ổn thoát khỏi khổ
ách mà cũng vừa là hiện pháp lạc trú của vị
đã đắc
quả A la hán. [4]
2. Bà la môn lại hỏi khi được giảng dạy
như vậy, có phải ai cũng chứng cứu cánh niết bàn hay chỉ một số
ít? Phật đáp chỉ một số ít, ví như người đã
được chỉ đường rành rẽ nhưng lại
đi theo hướng khác, thì người chỉ
đường [5] không thể làm gì
được. Cũng thế, trong khi có niết bàn,
có đường đến niết bàn, với Phật là
người dẫn đường, các đệ tử sau khi được
khuyến giáo chỉ một số đi theo đúng đường, một số không theo đúng.
3. Bà la môn bạch Phật [6] có những người sống không vì lòng tin chỉ
vì sinh kế, không giữ giới hộ trì căn,
không kính trọng sự tu học, sống quá dung tục, dẫn đầu đọa lạc, ngu đần,
liệt tuệ, từ bỏ gánh nặng, viễn ly… tôn giả Gotama không thể sống với
những người như vậy. Còn những thiện nam tử vì lòng tin xuất gia,
tôn kính học tập, không thờ ơ với sa môn hạnh, dẫn
đầu về viễn ly, chính niệm tỉnh giác, nhất
tâm, có tuệ, tôn giả Gotama sống hòa hợp với những vị ấy. Ví như
trong các loại hương rễ cây, hương sắc chiên
đàn là nhất, trong các loại hương
hoa, hương hoa nhài là nhất. Cũng vậy trong các giáo lý, giáo lý của tôn
giả Gotama cao nhất hiện nay [7] Rồi bà la môn xin quy y Tam bảo.
III. CHÚ GIẢI
1. Không thể nào nội trong một ngày mà xây
được một cái nhà bảy tầng, phải có
sự tiến hành tuần tự từ lúc phát quang, đặt
nền móng cho đến khi hoàn tất.
2. Ganaka, tên ông có nghĩa là Mục Kiền Liên nhà kế toán.
3. Xem Trung 65, đoạn 33.
4. Những giao đoạn tu hành trước
đấy là cần thiết cho những tỷ kheo
để đắc quả la hán, song cũng lợi ích cho
các vị tỷ kheo đã đắc quả ở chỗ đưa đến
hiện tại lạc trú. Theo sớ giải, lạc trú này là sự
đắc quả A la hán, và giải thích rằng
một vài vị có thể chứng quả A la hán dễ dàng bất cứ lúc nào, còn các vị
khác thì phải siêng năng tu tập từng bước
một để đắc quả.
5. So sánh với Pháp cú 276: Chính các ông phải nỗ lực; chư Như Lai
chỉ có nêu lên con đường.
6. Như Kinh số 5, đoạn 32.
7. Paramajjadhammesu. Lý thuyết của Gotama là tối thượng, cao
nhất trong các giáo lý đương thời, tức của
lục sư ngoại đạo.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Toán số gia Mục liên
Hỏi trình tự tu hành
Trong Pháp và Luật Phật
Ðấng Thiện thệ đáp liền.
Thành tựu Giới trước tiên
Thứ hai, gìn giữ tâm
Khi căn trần xúc đối
Khiến ô nhiễm không sinh.
Ba uống ăn chừng mực
Ðủ duy trì cơ thể
Bốn chú tâm cảnh giác
Phòng chướng ngại tham sân.
Năm đứng ngồi giác tỉnh
Chính niệm từng uy nghi
Sáu tìm nơi an tịnh
Dứt triền cái, chứng thiền.
Ðây sáu việc cần làm
Của người chưa chứng thánh
Nhưng bậc thánh vẫn làm
Ðể hiện tại vui an.
Dù được dạy như thế
Mà kẻ chứng, người không
Vì Phật chỉ con đường
Ai không theo khó chứng.
Những người thiếu đức tin
Xuất gia vì sinh kế
Thờ ơ sa môn hạnh
Khó theo Gotama;
Những thiện gia nam tử
Vì lòng tin xuất gia
Sống chú tâm tỉnh giác
Sẽ gần đức Thích Ca.
Ngài là vị tối cao
Trong các thầy giáo đạo
Con trọn đời quy kính
Tôn giả Gotama!
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 108
Gopaka Moggallana
I. TOÁT YẾU
Gopakamoggallàna Sutta.
With Gopaka Moggallàna. The venerable Ànanda explains how the Sangha
maintains its unity and internal discipline after the passing away of
the Buddha.
[Với Gopaka Moggallàna. Tôn giả A nan giải thích làm sao tăng
chúng duy trì được sự thống nhất và
kỷ luật nội bộ sau khi Phật qua đời.]
II. TÓM TẮT
Sau khi Phật nhập diệt [1] không lâu, tôn giả A Nan vào khất thực
trong thành Vương xá đang được xây kiên
cố [2], và vì còn quá sớm, ngài đến nơi bà
la môn Gopaka. Ông này hỏi có vị tỷ kheo nào thành tựu trọn vẹn các pháp
như Phật đã thành tựu không; tôn giả
đáp không, các đệ tử đang còn hành
đạo và sẽ thành tựu về sau. Khi ấy
đại thần xứ Ma kiệt đà [3]
đi đến, ông hỏi có vị tỷ kheo nào
được Phật sắp đặt làm chỗ nương tựa
cho chúng tăng sau khi ngài nhập
diệt không. Tôn giả đáp không có vị tỷ kheo
nào cả. Ông lại hỏi, vậy có vị tỷ kheo nào
được tăng chúng tôn lên làm chỗ
nương cho toàn thể không, và tôn giả cũng trả lời không có. Vị
đại thần nói, vậy tăng chúng không có chỗ
nương tựa, làm sao sống hòa hợp
được. Tôn giả nói chúng tăng có Pháp và Luật làm chỗ nương [4],
mỗi kỳ bố tát chúng tăng nhóm họp và
y cứ giới bản Phật chế để biết ai sống đúng
pháp ai không. Khi ấy đại thần hỏi có vị tỷ kheo nào
được chúng tăng cung kính đảnh lễ và
sống nương tựa vào vị ấy không. Tôn giả đáp
có, đấy là bất cứ ai thành tựu mười pháp như sau. Một là sống có
giới hạnh, đúng theo giới bổn Biệt giải
thoát. Hai là đa văn; ba biết đủ với
4 vật dụng; bốn chứng 4 thiền không khó nhọc; năm thực hiện được các
thần túc thông; sáu biết tâm kẻ khác (tha tâm thông); bảy có thiên
nhĩ thông; tám túc mạng thông (biết vô lượng kiếp trước của mình); chín
thiên nhãn thông (thấy sự sống chết của chúng sinh); mười lậu tận thông,
không còn sơ hở, đạt tâm giải thoát, tuệ
giải thoát.
Ðại thần xứ Ma kiệt đà công nhận
một vị tỷ kheo như thế quả thật xứng đáng
được tôn thờ, rồi hỏi chỗ ở của tôn giả. Khi được biết tôn giả trú tại
vườn Trúc, Ðại thần bảo chỗ ấy rất tốt cho thiền
định, tôn giả Gotama lúc ở đấy đã
giảng nói về thiền. Ngài quả là vị tu thiền, thiên về thiền, tán thán
tất cả thiền định. Tôn giả A Nan phản bác:
"Thế Tôn không tán thán tất cả thiền định. Có loại thiền định Phật không
tán thán. Ðó là vị tu thiền với tâm bị tham dục chi phối, không
như thật biết sự giải thoát khỏi dục tham đã
khởi. Vị ấy lấy dục tham làm đối tượng để
tu thiền, nhập thiền [5]. Cũng vậy với 4 triền cái khác (sân, hôn trầm,
trạo hối, hoài nghi). Loại thiền
định được Thế Tôn tán thán là thiền nơi vị tỷ kheo ly dục ly bất
thiện, chứng trú từ sơ đến tứ thiền.
Ðại thần hoan hỷ tín thọ lời tôn giả A Nan và xin cáo từ vì bận nhiều
công việc.
III. CHÚ GIẢI
1. Theo sớ giải, sau khi phân chia xá lợi Phật, tôn giả Ananda
đi đến Vương xá để trùng tuyên về
Pháp trong kỳ Ðại kết tập thứ nhất.
2. Vua Pajjota là bạn vua Bình sa xứ Ma kiệt
đà, người
đã bị con trai A xà thế giết chết.
Theo kinh sớ, vua A xà thế nghĩ rằng vua Pajjota có thể tìm cách báo thù
cho bạn.
3. Xem Trường bộ 16.
4. Câu này cốt nói rằng Tăng già
không phải được cai quản bởi phán định của
các phần tử trong Tăng, mà bởi Pháp và Luật do Phật
đặt ra cho tăng noi theo. Về vấn đề này
các tỷ kheo tuân theo lời dạy cuối cùng của Phật là: Sau khi Ta nhập
diệt, Pháp và Luật sẽ là thầy của các ông.
5. Xem số 525.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Tôn giả Ananda
Vào Vương xá khất thực
Vì hãy còn quá sớm
Ghé thăm Gopaka.
Bà la môn này hỏi
Có vị tỷ kheo nào
Thành tựu Pháp trọn vẹn
Bằng đức Gotama?
Thật không tỷ kheo nào
Thành tựu trọn vẹn Pháp
Như Thế Tôn thành tựu
Việc ấy hãy còn lâu.
Ðại thần xứ Ma kiệt
Ðến cắt ngang câu chuyện
Nêu lên một vấn đề
Với A Nan tôn giả:
Ai sẽ là chỗ nương
Sau khi Phật niết bàn
Việc này được sắp đặt
Do Phật hay chư Tăng?
Không vị tỷ kheo nào
Ðược Thế Tôn sắp đặt
Hay tăng chúng thỏa thuận
Ðể lãnh đạo tăng già.
Nếu không người lãnh đạo
Làm sao tăng hòa hợp?
Chúng tôi nương theo Pháp
Pháp chính là chỗ nương.
Mỗi kỳ tăng bố tát
Tụng giới Biệt giải thoát
Theo đúng pháp xử trị
Những trường hợp trái sai.
Có một tỷ kheo nào
Ðược chư vị tôn kính
Thường đảnh lễ cúng dường
Xem là chỗ tựa nương?
Có mười pháp khả hỷ
Ðược Thế Tôn tuyên bố
Ai thành tựu như vậy
Ðáng đảnh lễ, nương theo:
Vị tỷ kheo giữ giới;
Biết đủ bốn vật dụng;
Ða văn, chứng bốn thiền
Ðã được các thần túc
Biết tâm địa kẻ khác
Nhớ nhiều đời quá khứ
Ðắc thiên nhĩ siêu phàm
Thiên nhãn, lậu tận thông.
Ðại thần Ma kiệt đà
Thốt lên lời tán thán:
Chư tôn giả tôn kính
Ðúng người đáng kính tôn!
Thưa tôn giả A Nan
Vườn trúc lâm khả ái
Thật hợp với thiền tư
Thế Tôn thường ca ngợi.
Không hẳn, Bà la môn
Thế tôn không ca ngợi
Thiền định của hạng người
Còn tham sân, trạo hối
Lấy hôn trầm rối loạn
Lấy hoài nghi bối rối
Làm đối tượng thiền tư
Bị năm triền chi phối.
Thế Tôn chỉ tán thán
Ly dục ly bất thiện
Chứng và trú sơ thiền
Hỷ lạc ly dục sanh.
Nhị thiền không tầm tứ
Với hỷ lạc định sanh
Và nội tĩnh nhất tâm
Tứ thiền Phật ca ngợi.
Ðại thần xứ Ma Kiệt
Tin nhận lời tôn giả
Rồi đứng dậy cáo từ
Vì còn đi công việc.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 109
Ðại kinh Mãn Nguyệt
I. TOÁT YẾU
Mahàpunnama Sutta.
The Greater Discourse on the Full-mơn Night. A bhikkhu questions the
Buddha on the five aggregates, clinging, personality view, and the
realisation of non-self.
[Bản kinh lớn giảng vào đêm rằm.
Một tỷ kheo thỉnh vấn Phật về năm uẩn, về
chấp thủ, thân kiến và sự chứng ngộ vô ngã.]
II. TÓM TẮT
1. Vào một đêm trăng
rằm bố tát [1] tại giảng đường Lộc mẫu, Phật ngồi giữa trời có tăng chúng
vây quanh. Một tỷ kheo [2] nêu lên nhiều câu hỏi,
được Ngài tuần tự giải
đáp.
2.
1) Gì là gốc của 5 thủ uẩn? Ấy là dục tham [3];
2) Chấp thủ với 5 thủ uẩn là một hay khác [4]? Không phải một,
không phải khác. Khi có dục tham đối với
5 thủ uẩn thì gọi là chấp thủ;
3) Có thể có nhiều kiểu tham đối với 5
thủ uẩn? Có thể, như mong có sắc như vậy trong tương lai, hoặc mong có
thọ như vậy, hoặc tưởng, hoặc hành, hoặc thức như vậy trong
tương lai;
4) Gì là nghĩa chữ "uẩn"? Tất cả sắc nội ngoại thô tế xa gần
đều thuộc sắc uẩn. Thọ tưởng hành
thức cũng vậy;
5) Gì là điều kiện hay duyên
cho mỗi thứ? Bốn đại là nhân duyên
để gọi là sắc uẩn. Xúc là nhân
duyên của ba uẩn thọ, tưởng, hành. Danh sắc là nhân, duyên
để gọi là thức uẩn [5].
6) Thế nào là thân kiến [6]? Do không học tập thánh Pháp, xem sắc
là tự ngã, hoặc tự ngã có sắc, hoặc sắc ở trong tự ngã, hoặc tự ngã ở
trong sắc. Với 4 uẩn kia cũng thế (thành 20 thân kiến). Không thân
kiến là khi không chấp trước như trên;
7) Gì là vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly của sắc, thọ, tưởng, hành,
thức? Hỷ lạc khởi lên do năm uẩn là
vị ngọt. Tính vô thường, khổ, biến hoại của chúng là nguy hiểm. Sự
nhiếp phục dục tham đối với năm uẩn gọi là
xuất ly;
8) Do nhân duyên gì mà không có mạn tùy miên (chấp ta và của ta)?
Do thấy như thật với trí tuệ tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức nội
ngoại thô tế xa gần đều không phải của
tôi, không phải là tôi hay tự ngã của tôi."
3. Khi nghe vậy, một tỷ kheo khởi lên hoài nghi: nếu cả 5 uẩn là vô
ngã, vậy những hành động do tâm vô ngã
làm, được ngã nào lãnh thọ quả báo
[7]? Phật biết được tâm niệm ấy, trách cứ
tỷ kheo và nhắc lại rằng Ngài đã
nhiều lần dạy cách đặt câu hỏi [8] như sau:
Sắc, thọ… là thường hay vô thường? Cái gì vô thường là khổ hay
vui? Cái gì đã vô thường, khổ thì có
hợp lý để xem là tôi hay của tôi
không? Do quán sát như vậy, thánh đệ tử
sinh yểm ly với 5 uẩn. Do yểm ly nên ly tham, do ly tham nên giải
thoát. Trong sự giải thoát, vị ấy biết mình
đã giải thoát: "Sanh đã tận,
phạm hạnh đã thành, những gì nên làm
đã làm, từ nay không còn trở lại
đời sống này nữa."
III. CHÚ GIẢI
1. Ngày thứ mười lăm của mỗi nửa tháng.
2. Vị tỷ kheo này là một A la hán đang
dạy dỗ sáu mươi đệ tử cùng sống với ông trong rừng. Những
đệ tử này nỗ lực thiền quán,
đã pháp triển
được nhiều tri kiến thuộc tuệ giác nhưng
không chứng được đạo và quả, bởi thế họ
được thầy dẫn đi yết kiến Phật. Vị
thầy hỏi Phật nhiều câu hỏi không phải vì bản thân mà vì muốn
đánh tan hoài nghi của các môn
đệ.
3. Chandamùlakà. Ở đây
chanda (dục) đồng nghĩa với
tanhà (khát ái) nguồn gốc của khổ bao hàm trong năm
uẩn.
4. Xem kinh Trung bộ 44, đoạn 6.
5. Trong sắc uẩn, mỗi đại (trong bốn
đại) làm điều kiện cho ba đại kia và
cho sở tạo sắc (vật chất do bốn đại tạo).
Xúc là một duyên (điều kiện) cho các
uẩn thọ, tưởng, hành, như kinh Tương ưng bộ 35 dạy: Này các tỷ
kheo, khi tiếp xúc, người ta cảm thọ, khi tiếp xúc người ta nhận thức,
khi tiếp xúc người ta có khuynh hướng hành
động (hành, ý muốn). Kinh Sớ giải thích rằng vào lúc nhập thai,
sắc và ba tâm uẩn khởi lên gọi là danh sắc, một duyên cho kết sanh thức.
Trong tiến trình đời sống, các giác quan và
đối tượng của chúng cùng ba tâm uẩn
(thọ, tưởng, hành) là danh sắc làm duyên cho năm
thức thuộc cảm quan.
6. Như trong kinh Trung bộ 44, đoạn 7-8.
7. Dường như vị tỷ kheo này khó hiểu làm thế nào nghiệp lại có thể
phát sinh ra hậu quả nếu không có cái ngã
để nhận hậu quả ấy.
8. Câu này rất khác nhau tùy mỗi ấn bản. Bản dịch này dựa theo câu
tương tự trong kinh Tương ưng 22, trong đó
ghi patipucchà vinìtà có lẽ
đúng hơn ấn bản hội Pali Text là paticca vinìtà, mà
đại đức Nanamoli dùng làm bản gốc,
và dịch: Này các Tỷ kheo, bằng nhiều ví dụ, Ta
đã giảng dạy cho các ông về lý duyên
sinh.
9. MA (Sớ giải Trung bộ): Sáu mươi tỷ kheo từ bỏ các
đề mục thiền của mình
đã tu, và quán một
đề mục mới dựa trên lời giảng dạy
của Phật. Ngay tại chỗ, họ chứng quả A la hán.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Vào một kỳ bố tát
Thế Tôn ngồi giữa trời
Chúng tỷ kheo vây quanh
Giữa đêm rằm trăng
sáng.
Một tỷ kheo đứng lên
Xin phép nêu câu hỏi
Phật dạy ngồi yên chỗ
Ðưa ra các vấn đề.
Sắc thọ tưởng hành thức
Lấy gì làm gốc rễ?
Tham dục là gốc rễ.
Chấp thủ là năm uẩn
Hay ngoài năm uẩn ra
Còn có sự chấp thủ?
Thủ không là năm uẩn
Cũng không ngoài năm uẩn;
Nhưng khi có hỷ tham
Ðây gọi là chấp thủ.
Nghĩa của uẩn là gì?
Tất cả sắc trong ngoài
Thô tế quá hiện vị
Xa gần hay xấu đẹp
Ðều gọi là sắc uẩn.
Thọ tưởng hành và thức
Cũng nên hiểu như vậy.
Gì là nhân và duyên
Của sắc cho đến thức?
Bốn đại: nhân của sắc
Xúc, nhân thọ tưởng hành
Và nhân của thức uẩn
Chính là danh và sắc.
Thế nào là thân kiến?
Kẻ ngu xem sắc uẩn
Là tự ngã của ta
Hoặc tự ngã có sắc
Hoặc ngã ở trong sắc
Hoặc sắc ở trong ngã
Bốn cũng kia cũng vậy
Thành hai mươi thân kiến.
Bốn cũng kia cũng vậy
Thành hai mươi thân kiến.
Không thấy sai như trên
Gọi là không thân kiến.
Gì là những vị ngọt
Nguy hiểm và xuất ly
Của sắc và bốn uẩn?
Hỷ lạc khởi từ sắc
Là vị ngọt của nó
Vô thường của sắc pháp
Là nguy hiểm của nó
Ðiều phục sự tham sắc
Là xuất ly của sắc.
Với bốn tâm uẩn kia
Cũng cần hiểu như vậy.
Làm sao để bỏ được
Tâm ngã mạn về tôi
Và sở thuộc của tôi?
Ðối với tất cả sắc
Và thọ tưởng hành thức
Hãy thường xuyên quán sát
Ðây không phải là tôi
Của tôi, tự ngã tôi.
Khi ấy có tỷ kheo
Khởi lên một ý nghĩ
Nếu năm uẩn vô ngã
Thì ai chịu quả báo?
Phật biết tâm niệm này
Dạy cách đặt câu hỏi:
Sắc thường, vô thường?
Vô thường khổ hay vui?
Cái gì vô thường, khổ
Nên chăng xem là ta
Và tự ngã của ta?
Ðối với bốn tâm uẩn
Cũng tự hỏi như thế.
Khi như thật quán sát
Thực chất của năm uẩn
Tâm khởi lên nhàm chán
Do nhàm chán, hết ham
Do ly tham, giải thoát
Tự biết đã giải thoát
Không còn thọ thân sau.
Phật dạy kinh này xong
Chúng tỷ kheo tín thọ
Ngay tại chỗ đang ngồi
Chứng lậu tận, giải thoát.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 110
Tiểu kinh Mãn Nguyệt
I. TOÁT YẾU
Cùlapunnama Sutta.
The Shorter Discourse on the Full-moon Night. The Buddha explains the
differences between an "untrue man" and a "true man".
[Bản kinh ngắn thuyết vào đêm
rằm. Phật giảng sự khác biệt giữa một người bất chính và một người chân
chính.]
II. TÓM TẮT
Phật ở Ðông viên, giảng đường Lộc mẫu, vào
ngày rằm bố tát dạy chúng tỷ kheo về chính và bất chính.
1. Người bất chính (asappurisa [1]) không thể biết
được một người là bất chính hay chân
chính. Người bất chính là kẻ đầy đủ pháp
bất chính; giao du với người bất chính, suy tư như người bất chính, nói
năng như người bất chính, hành động
bất chính, có tà kiến, bố thí một cách bất chính. Ðầy
đủ pháp bất chính là: bất tín, vô
tàm, vô quý, ít nghe, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ. Giao du với người
bất chính là làm bạn với những kẻ có các pháp bất chính như trên. Suy tư
bất chính là nghĩ những việc tự hại, hại người, hại cả hai. Nói năng
bất chính là nói láo, hai lưỡi, ác khẩu, vô ích. Hành
động bất chính là sát sinh, tà hạnh
trong các dục. Tà kiến là tuyên bố không có bố thí và quả báo, thiện ác
không có kết quả, không có đời này
đời sau, các loại hóa sanh, ở đời không có
sa môn, bà la môn tự chứng thánh trí và truyền dạy lại. Bố thí
bất chính là không tự tay bố thí, bố thí một cách vô lễ, không nghĩ kỹ,
bố thí vật không cần, bố thí không nghĩ tương lai. Người
đầy đủ pháp bất chính như vậy, sau chết
sanh vào cảnh giới của kẻ bất chính là
địa ngục hoặc bàng sanh.
2. Người chân chính thì có thể biết được
một người khác là chân chính hay bất chính. Người chân chính là
người đầy đủ chính pháp, giao du các bậc
chân chính, suy nghĩ chân chính, có chính kiến, bố thí chân chính. Và
"chân chính" thì ngược lại với những gì là bất chính nói trên.
III. CHÚ GIẢI
1. Asappurisa, Kinh sớ chú thích là pàpapurisa, một kẻ
xấu ác.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
1. Thế Tôn dạy chúng ta
Về chính và bất chính
Kẻ bất chính khó phân
Người chính với kẻ tà.
2. Bất chính là một người
Ðầy đủ pháp bất chính
Giao du kẻ ác nhân
Nghĩ nói làm đều quấy.
3. Bố thí cũng phi chân
Trong cách cho, vật thí.
Khi thân hoại mạng chung
Ðọa bàng sanh ngạ quỷ.
4. Pháp bất chính nghĩa là
Không tin, không hổ thẹn
Ít nghe và lười biếng
Thất niệm lại ngu đần.
5. Giao du kẻ bất chính
Là thường kết bạn thân
Với những người có đủ
Pháp bất chính như trên.
6. Suy tư cùng toan tính
Ðều tự hại, hại người
Hoặc hại đến cả hai
Là tư duy bất chính.
7. Nói dối, ác, ly gián
Hai lưỡi và phù phiếm
Sát sinh, trộm, tà dâm
Là nói làm bất chính.
8. Bố thí không chính chân
Không tự tay, vô lễ
Ðem cho vật không cần
Không nghĩ đến tương lai.
9. Có tà kiến nghĩa là
Bác bỏ nghiệp và quả
Phủ nhận đời này, sau
Thánh nhân và cha mẹ.
10. Một con người chân chính
Biết kẻ chính người tà
Ðầy đủ pháp chính chân
Giao du người hiền thiện.
11. Tín tàm quý đa văn
Tinh cần niệm và tuệ
Ðây gọi là chính pháp
Theo chính ấy, bạn hiền.
12. Nghĩ chính: không tự hại
Hoặc hại đến mình, người
Nói chính: không hai lưỡi
Lời dối, thô, phù phiếm.
13. Chính kiến tin nhân quả
Có cha mẹ, thánh nhân
Sự bố thí chính chân:
Tự tay cho vật cần.
14. Một con người chân chính
Ðầy đủ pháp chính chân
Nghĩ, nói, làm đều tốt
Mạng chung sinh cõi lành.