TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 121
Tiểu không
(Culasunnata Sutta)
I. TOÁT YẾU
The Shorter Discourse on Voidness.
The Buddha instructs Ananda on the "genuine, undistorted, pure
descent into voidness."
[Bản kinh ngắn về Không tính. Phật dạy A nan về sự chứng nhập Tánh
Không thuần túy không bị cong quẹo]
II. TÓM TẮT
Phật xác nhận với tôn giả A nan rằng không những ngày xưa mà hiện
tại, Ngài vẫn thường an trú trong Không tính [1], và giải thích ý nghĩa
của sự trú Không như sau.
Như trong giảng đường không có voi ngựa,
vàng bạc, đàn ông
đàn bà… nhưng có một cái không phải
không, đó là chúng tỷ kheo. Cũng
vậy, tỷ kheo khi ở rừng không tác ý đến các
tưởng về thôn xóm, về người, chỉ tác ý duy nhất đến tưởng rừng
[2]. Khi ấy những phiền hà do thôn tưởng, nhân tưởng không có mặt, chỉ
có sự phiền hà do duyên lâm tưởng [3]. Vị ấy nhận rõ là không, những gì
không hiện hữu, và nhận cái gì hiện hữu là có hiện hữu. Ðây là sự thực
hiện Tính không hoàn toàn chân thật, không cong quẹo. Lại nữa, tỷ kheo
không tác ý đến cái tưởng Rừng, mà
tác ý tưởng Ðất [4]. Tâm vị ấy thích thú, hân hoan, an trú, giải thoát
trong địa tưởng, như một tấm da bò căng
thẳng trên trăm cọc gỗ, không để ý
đến chỗ lồi lõm hay cây cối núi sông ở trên
đất. Vị ấy biết các ưu phiền do nhân tưởng,
lâm tưởng không có mặt, chỉ còn một ưu phiền là sự nhất trí do
duyên địa tưởng. Ðối với cái còn
lại, vị ấy biết (do duyên sinh): Cái kia có, cái này có. Ðây là sự thực
hiện Tính không hoàn toàn, chân thật, không cong quẹo. Kế tiếp, vị tỷ
kheo không tác ý địa tưởng mà tác ý
Không vô biên xứ tưởng [5].
Tâm vị ấy thích thú, hân hoan trong tưởng này, và biết ở
đây chỉ có thuần một tưởng về Hư không vô
biên, không có các ưu phiền do duyên lâm tưởng,
địa tưởng. Cái gì không có mặt, vị
ấy nhận là không có mặt, và cái còn lại thì biết do duyên sinh. Kế tiếp,
vị ấy tác ý Thức vô biên xứ tưởng, thì các tưởng về rừng,
đất, hư không không có mặt, chỉ có độc nhất
một ưu phiền về tưởng Thức vô biên. Kế tiếp, tác ý Vô sở hữu xứ
tưởng rồi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, cũng như trên. Cuối cùng là tác ý Vô tướng
tâm định [6].
Vị ấy biết các ưu phiền do duyên tưởng Vô sở hữu và Phi tưởng phi phi
tưởng không có mặt, chỉ còn một ưu phiền là sáu nhập duyên mạng y cứ thân này
là không phải không; và thấy nó cũng duyên sinh như trên. Và vị ấy thấy
rõ cái gì do ý tạo ra, do duyên sinh thì phải vô thường, hoại diệt [7].
Nhờ vậy tâm giải thoát khỏi dục hữu vô minh lậu; tự biết tâm
đã giải thoát, sinh tận, phạm hạnh
thành, sau đời này không còn
đời nào khác nữa. Ðây gọi là an trú
tối thượng Không tính [8].
III. CHÚ GIẢI
1. Sunnatàvihàra, Không trú. Kinh sẽ làm rõ dần rằng
đây ám chỉ quả chứng về Tánh không, quả A
la hán do tập trung quán tưởng khía cạnh Không của Niết bàn.
2. MA: Vị ấy tác ý đến lâm tưởng do căn
cứ vào một khu rừng, nghĩ: Ðây là một khu rừng,
đây là một gốc cây, một hòn núi, một
hang động.
3. MA và MT đều giải thích đoạn này
như sau: Sự phiền hà của ưa và chán khởi lên do nhận thức về con người,
không hiện hữu ở đây; song vẫn còn
có phiền hà gây nên bởi sự sinh khởi các pháp thô do vì thiếu sự an tịnh
cần thiết.
4. MA: Vị ấy từ bỏ tác ý về rừng và chuyên chú
đến địa đại, vì người ta không thể
đạt được gì, cận hành hay an chỉ,
khi thiền quán về rừng. Nhưng đất thì
có thể được dùng làm
đề mục để quán kasina, trên căn
bản này hành giả phát sinh thiền và tuệ
để đắc quả A la hán.
5. Sau khi dùng tưởng về đất để đắc bốn
thiền, vị ấy khai triển biến xứ đất rồi bỏ tướng kasina để đắc Không vô
biên xứ. Xem TTĐ chương X.
6. Vô tướng tâm định, animitta cetosamàdhi.
MA: Ðây là định của tâm có tuệ giác, được
gọi vô tướng vì không có tướng thường vân vân.
7. Xem Trung 52. MA gọi đây là
tuệ phản quan (pativipassanà) nghĩa là áp dụng các nguyên lý của tuệ vào
chính chức năng của tâm làm nhiệm vụ
tuệ quán.
8. Ở đây các từ vô thượng, tối cao
(paramànuttarà) đã
được thêm. MA nói
đây là quả chứng Tánh không của A la
hán.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Phật dạy với A nan
Ta thường trú Không tính
Và giải thích ý nghĩa
Của thứ lớp trú Không.
Như ở trong giảng đường
Không voi ngựa các thứ
Nhưng có cái không không
Ấy là chúng tỷ kheo.
Cũng thế khi ở rừng
Chỉ có tưởng về rừng
Không có tưởng gì khác
Khi ấy chỉ có mặt
Ưu phiền duyên lâm tưởng.
Những gì không hiện hữu
Biết rõ nó là không
Cái gì có hiện hữu
Nhận là do duyên tưởng.
Ðấy là thực hiện Không
Chân thật, không cong quẹo.
Kế tiếp bỏ tưởng Rừng
Ðể tác ý tưởng Ðất
Tâm vị ấy thích thú,
Hân hoan trong tưởng này,
Biết rõ các ưu phiền
Do duyên các tưởng khác
Bây giờ không có mặt
Chỉ còn lại ưu phiền
Sinh ra do tưởng Ðất.
Kế tiếp bỏ tướng Ðất
Quán Hư không vô biên
Tâm chỉ còn độc nhất
Không vô biên xứ tưởng.
Không có các ưu phiền
Do duyên các tưởng khác.
Cái gì không có mặt,
Nhận là không có mặt,
Cái gì còn có mặt
Biết rõ do duyên sinh.
Khi bỏ tưởng hư không
Quán Thức vô biên xứ
Tâm chỉ còn độc nhất
Thức vô biên xứ tưởng.
Bỏ tưởng Thức vô biên
Quán Vô sở hữu xứ
Tâm chỉ còn độc nhất
Vô sở hữu xứ tưởng.
Bỏ tưởng Vô sở hữu
Quán Phi tưởng phi phi tưởng xứ
Tâm chỉ còn độc nhất
Tưởng Phi tưởng phi phi.
Không để ý tưởng này
Nhập Vô tướng tâm định
Vị tỷ kheo rõ biết
Chỉ còn một ưu phiền
Là sáu nhập duyên thân
Tồn tại do sinh mạng
Cái gì không có mặt,
Nhận là không có mặt,
Cái gì còn có mặt
Biết rõ do duyên sinh.
Ðấy là thực hiện Không
Chân thật, không cong quẹo.
Vị tỷ kheo thấy rõ
Vô tướng tâm định này
Cũng do duyên mà sinh
Do ý hành tạo nên.
Cái gì do duyên sinh
Tất phải bị hoại diệt
Nhờ thấy rõ như vậy
Tâm vị ấy giải thoát
Dục, hữu, vô minh lậu
Tự biết tâm giải thoát,
Sinh tận, phạm hạnh thành
Sau đời sống hiện tại
Không còn đời khác nữa
Ðây gọi là an trú
Trong tối thượng Tính Không.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 122
Ðại không [1]
(Mahàsunnatasuttam)
I. TOÁT YẾU
The Greater Discourse on Voidness.
Upon finding that the bhikkhus have grown fond of socialising, the
Buddha stresses the need for seclusion in order to abide in voidness.
[Thấy chư tỷ kheo khởi sự ưa tụ hội, Phật nhấn mạnh nhu yếu
độc cư để an trú Tánh không.]
II. TÓM TẮT
Nhân thấy trú xứ của tỷ kheo Kàlakhemaka [2] có nhiều chỗ nằm, Phật
hỏi phải chăng ở đây đang có nhiều tỷ kheo
cư trú [3]. Tôn giả A nan thưa vì
đấy là thời gian may y nên họ mới quy tụ
để may y [4]. Phật nhân
đấy dạy về pháp tu Chỉ và Quán nhờ
sống viễn ly. Một tỷ kheo ưa quần tụ thì không thể thưởng thức lạc viễn
ly, độc cư, an tịnh, chính giác [5];
không thể chứng tâm giải thoát có hạn kỳ hay tâm giải thoát Bất
động [6]. Không một sắc (thân) nào
bị biến hoại mà không gây sầu bi khổ ưu não cho người ham thích nó.
Nhưng Phật đã tìm ra một sự an trú,
đó là trú Nội Không nhờ không tác ý
tất cả tướng [7]. Trong lúc an trú nội không, dù
đông đảo hạng người đến với Ngài,
tâm Phật vẫn hướng đến viễn ly độc cư, và
vì không còn dính gì đến các việc làm
căn bản cho hữu lậu pháp, Ngài luôn
luôn dạy họ những lời thuần túy liên hệ đến
viễn ly. Rồi Phật dạy A Nan cách trú Nội Không [8], và kết quả
của nó.
Trước hết phải an chỉ nội tâm nhờ căn
bản là một trong bốn thiền (tu Chỉ). Kế tiếp sau khi
đã đắc
một thiền làm căn bản (từ thiền thứ
nhất cho đến thiền thứ tư), vị tỷ kheo tác ý đến Nội không hoặc tác ý
Ngoại không hoặc tác ý Bất động [9]. Nếu không có sự hân hoan
thích thú đối với nội không, ngoại không
hay bất động, vị ấy cần phải ý thức rõ như vậy, và nhập lại thiền
căn bản [10]
để quán trở lại cho đến khi biết tâm đã
thích thú, hân hoan, giải thoát nhờ quán nội không, ngoại không, nội
ngoại không và bất động. Một người đã
an trú trong chỉ và quán như vậy,
1. Khi tâm hướng về đi hoặc đứng, nằm,
ngồi, vị ấy sẽ đi đứng ngồi nằm với ý thức rõ biết không có tham
ưu và các bất thiện pháp ám ảnh tâm trí.
2. Lúc tâm hướng đến nói chuyện, vị ấy
nghĩ mình sẽ chỉ nói chuyện liên hệ
đến mười đề mục là thiểu dục, tri túc, viễn ly,
độc cư, tinh cần, giới định tuệ giải thoát
vân vân, tránh tất cả chuyện khác.
3. Lúc suy tầm, vị ấy ý thức rõ mình sẽ suy tư ly dục, vô sân, bất
hại, không suy tư những gì không liên hệ viễn ly, ly tham, tịch diệt, an
tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết bàn.
4. Ðối với năm dục công đức [11]
là sắc thanh hương vị xúc, vị ấy phải thường quán sát tự tâm có còn dục
ái đối với chung hay đã
đoạn tận, ý thức rõ ràng như vậy.
5. Ðối với năm thủ uẩn [12] vị ấy
luôn quán sự sinh diệt của chúng, và rõ biết tâm kiêu mạn tôi là y cứ
trên năm thủ uẩn này
đã được
từ bỏ.
Phật dạy một Thanh văn đệ tử nên
sống gần bậc thầy dù có bị xua đuổi, khi
được nghe những lời dạy khắc khổ đưa đến ly tham, tịch diệt, như dạy
thiểu dục, tri túc, viễn ly, độc cư, tinh cần, giới định tuệ giải thoát
và giải thoát tri kiến. (Do vì không tu học chỉ và quán như trên
mà) cả thầy lẫn trò của ngoại đạo trong lúc
tu khổ hạnh cuối cùng đều gặp phiền
lụy [13] khi được nổi tiếng, đông đồ
đệ; họ khởi lên nhiễm tâm, trở lui
đời sống thế tục, bị các bất thiện tấn công và không thoát khỏi
già chết trong tương lai. Một số đệ tử Phật
tu phạm hạnh cũng rơi vào mối nguy tương tự, bị phiền lụy khi bắt
chước Phật sống viễn ly (mà chưa chuẩn bị chu
đáo.) Nhưng sự phiền lụy của các vị tu phạm
hạnh này kết quả còn bi thảm hơn phiền lụy của thầy trò ngoại
đạo [14]. Và Phật khuyên các
đệ tử hãy
đối xử với Ngài bằng tâm thân hữu,
không thù nghịch. Thân hữu là không đi
ngược lại lời dạy của đấng Ðạo sư đã
vì lòng từ mẫn mà thuyết pháp đem lại hạnh
phúc an lạc cho mình. Nhưng Ngài không
đối xử nhẹ tay với đệ tử như thợ gốm đối xử
với đồ gốm [15]. Cái gì là lõi cây thì sẽ
đứng vững.
III. CHÚ GIẢI
1. Kinh này cùng với luận giải đã
được Nanamoli dịch và ấn hành với
nhan đề Ðại kinh nói về Không.
2. MA: Trú xứ này được Kalakhemaka dòng
Thích ca xây cất trong vườn Ni câu luật. Giường chiếu ghế và thảm
được trang bị san sát đến nỗi nó trông như
chỗ ở của một hội chúng tỷ kheo.
3. MA giải thích đây chỉ là một
câu hỏi gặn, vì với thần thông chư Phật có thể biết những gì các Ngài
muốn biết. Phật hỏi câu này với ý nghĩ: Khi chúng tỷ kheo này tụ hội
thành đoàn thể và ưa thích tụ hội,
chúng sẽ hành xử phi pháp. Vậy ta sẽ giảng Pháp tu vĩ
đại về Không, đấy sẽ trở thành giống
như một học giới [cấm ưa quần tụ].
4. MA: Tôn giả Ananda định nói: Các tỷ
kheo này sống quần tụ như thế không chỉ vì ưa lăng
xăng rộn ràng, mà vì may y.
5. Viễn ly là lìa dục vọng, độc cư là
xa đám đông, an tịnh là
đoạn tham sân si, chính giác là
đạo và quả.
6. Giải thoát đầu là giải thoát
nhờ chứng bốn thiền và bốn không (vô sắc), giải thoát sau là nhờ
đạo và quả siêu thế. Xem thêm Trung
bộ 29 và chú thích 348.
7. MA: Phật mở đầu đoạn này
để tránh chỉ trích rằng trong khi Ngài
khuyên các đệ tử sống độc cư, thì
bản thân Ngài lại thường được nhiều đồ
chúng quây quần. Không tánh đây là quả chứng về Không, xem chú
thích số 1, kinh Trung bộ 121.
8. MA giải thích nội không là cái không liên hệ
đến năm uẩn của tự thân, ngoại không là
cái không liên hệ đến năm uẩn của kẻ khác.
Vậy tánh không đề cập ở đây phải là tâm giải thoát tạm thời nhờ
tuệ quán vô ngã, như kinh 43 giải thích. Khi tuệ về vô ngã
được nâng lên ngang tầm của
đạo lộ thì sẽ
đưa đến sự chứng quả niết bàn theo
khía cạnh Không của nó.
9. MA: Vị ấy tác ý đến một thiền chứng
vô sắc bất động.
10. MA: Ðây nói về thiền được dùng
làm căn bản cho tuệ giác. Nếu sau khi xuất
khỏi thiền căn bản, tâm vị ấy không đi vào Không bằng tuệ quán về
năm uẩn của tự thân hay của người, và
cũng không thể đạt đến vô sắc bất động, thì
vị ấy nên trở về thiền căn bản mà
mình đã phát triển
được và tác ý
đến nó nhiều lần.
11. Theo MA, cho đến điểm này,
Phật đã hiển thị sự tu tập
để đắc hai đạo lộ đầu tiên là Dự lưu
và Nhất lai. Ðoạn này là để nêu rõ
tuệ quán cần thiết để đạt đến Bất hoàn
đạo mà tột
đỉnh là từ bỏ ham muốn dục lạc.
12. Ðoạn này hiển thị tuệ giác cần có để
đạt đến A la hán đạo, mà tột đỉnh là
từ bỏ ngã mạn tôi là.
13. Upaddava cũng có thể dịch là tai họa. MA giải thích rằng Phật dạy
đoạn kinh này
để nêu lên sự nguy hiểm của
độc cư khi người ta chưa hoàn thành
mục tiêu của sự sống độc cư. Ðạo sư
ở đây là thầy ngoại
đạo.
14. MA: Sự xuất gia theo ngoại đạo không
đem lại lợi ích bao nhiêu, nên người nào thối thất thì bất quá
chỉ mất lợi lạc thuộc thế gian; họ không có
đau khổ gì lớn lắm, cũng như người cỡi lừa té thì chỉ bị lấm bụi.
Nhưng xuất gia trong Pháp Phật đem lại lợi
ích lớn là đạo, quả và niết
bàn. Bởi thế người nào thối thất trong giáo lý này gặp phải khổ
đau lớn, như người té xuống từ lưng voi.
15. Tương phản trong ví dụ này là giữa cái cách người thợ gốm nắm cục
đất sét còn ẩm và cách ông nắm
đồ gốm đã
được nặn từ đất sét ấy. MA giải rộng câu này
như sau: Sau khi đã giáo giới rồi
thì ta sẽ không im lặng; ta sẽ khuyến cáo, dạy bảo bằng cách liên tục
quở trách các ông. Như thợ gốm thử đồ đã
nung, đặt sang một bên những cái bị
nứt nẻ, có lỗi, và chỉ giữ lại những đồ gốm
đã vượt qua cuộc thử thách, cũng vậy ta sẽ giáo giới và khuyến
cáo bằng cách thử nghiệm các ông. Người nào trong
đây đã
đạt đến đạo và quả, thì sẽ chịu đựng
được cơn thử thách. MA thêm rằng những thiện
đức thế gian cũng được xem là tiêu
chuẩn của sự lành mạnh.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Tỷ kheo ưa quần tụ
Khó nếm lạc viễn ly
Lạc độc cư, an tịnh
Khó nếm lạc chính giác.
Cũng không thể chứng được
Giải thoát có hạn kỳ
Và giải thoát bất động.
Không một sắc pháp nào
Bị vô thường biến hoại
Mà không gây đau khổ
Cho người ham thích nó.
Phật an trú Nội Không
Không tác ý tướng ngoài
Giữa đồ chúng đủ hạng
Tâm Phật vẫn như nhiên.
Hướng viễn ly độc cư
Xa lìa pháp hữu lậu
Và giảng dạy những lời
Thuần đưa đến viễn ly.
Muốn an trú nội không
Trước phải ổn định tâm
Ðắc một thiền căn bản
Từ sơ đến tứ thiền
Rồi tác ý Nội không
Hoặc tác ý Ngoại không
Hoặc tác ý Bất động
Nếu trong khi tác ý
Tâm không thấy thích thú
Trong nội không, ngoại không
Cần biết rõ như vậy
Nhập lại thiền căn bản
Rồi lại quán nội không
(Ngoại không, và Bất động)
Cho đến khi thích thú
Hân hoan trong pháp này
Và tâm được giải thoát.
Một người đã an trú
Trong chỉ và quán này
Thì trong bốn uy nghi
Tâm không khởi bất thiện
Cũng không có tham ưu.
Câu chuyện vị ấy nói
Chỉ liên hệ thiểu dục
Tri túc và viễn ly
Ðộc cư và tinh cần
Giới, định, tuệ, giải thoát
Và giải thoát tri kiến
Tránh những chuyện ngoài đề
Lúc vị ấy suy tầm
Chỉ suy tư ly dục
Vô sân và bất hại
Gạt bỏ ra ngoài tâm
Những gì không liên hệ
Ðến viễn ly, ly tham
Tịch diệt và thắng trí
Giác ngộ với niết bàn.
Ðối năm dục công đức
Sắc thanh hương vị xúc
Vị ấy thường quán sát
Tâm đoạn dục hay chưa.
Ðối với năm thủ uẩn
Thường quán sát sinh diệt
Ðể biết mạn tùy miên
Ðã hoàn toàn từ bỏ
Một Thanh văn đệ tử
Nên sống gần bậc thầy
Dù có bị xua đuổi
Ðể được nghe dạy Pháp
Liên hệ đến viễn ly
Ly tham và giải thoát.
Vì không tu chỉ quán
Các thầy trò ngoại đạo
Dù có sống độc cư
Cuối cùng gặp phiền lụy
Bởi đồ đệ đoanh vây
Bởi dục tham chi phối
Bị bất thiện tấn công
Trong thời gian vị lai
Không thoát khỏi già chết
Một số tu phạm hạnh
Theo gương đức Thế tôn
Cũng gặp nguy tương tự
Vì không tu chỉ quán.
Chưa an trú nội không
Phiền lụy của vị này
Kết quả bi thảm hơn
Các thầy trò ngoại đạo.
Phật khuyên các tỷ kheo
Ðừng đối xử với Ngài
Với tâm lý thù nghịch
Không theo lời chỉ giáo
Hãy đối xử với Ngài
Bằng tâm lý thân thiện
Nương theo Pháp tu hành
Ðể an lạc dài lâu.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 123
Hy hữu vị tằng hữu
(Acchariyabbhutadhammasuttam)
I. TOÁT YẾU
Wonderful and Marvellouse.
At a gathering of bhikkhus the venerable Ananda recounts the
wonderful and marvellous events that preceded and attended the birth of
the Buddha.
[Trong một buổi họp chúng, tôn giả A nan thuật lại những sự cố ly kỳ
mầu nhiệm trước và trong ngày Phật đản
sanh.]
II. TÓM TẮT
Chúng tỷ kheo đang bàn tán về một
thần lực của Phật là Ngài biết được chi
tiết về chư Phật quá khứ [1]. Phật bèn dạy tôn giả A nan trình
bày những điều kỳ diệu hy hữu về đức Như
Lai đúng như tôn giả đã được nghe từ
chính kim khẩu của Thế tôn:
1. Chính niệm tỉnh giác, Bồ tát sinh vào cung trời Ðâu suất [2].
2. Chính niệm tỉnh giác, Bồ tát trú tại cung trời ấy
đến hết thọ mạng.
3. Chính niệm tỉnh giác, Ngài giáng hạ mẫu thai.
4. Khi Ngài mệnh chung tại cung trời Ðâu suất thì có một ánh sáng
vô lượng xuất hiện trên thế gian làm cho những cõi chúng sinh từ lâu
sống trong bóng tối [3] tự nhiên nhờ ánh sáng ấy liền trông thấy lẫn
nhau và tưởng là chúng mới xuất hiện lần
đầu.
5. Khi đức Bồ tát đã giáng hạ
mẫu thai thì có bốn vị thiên nhân [4] canh gác bốn góc
để hộ vệ Ngài và mẫu hậu, không
một ai có thể làm hại mẹ hay con.
6. Khi đức Bồ tát đã giáng hạ
mẫu thai, bà mẹ tự nhiên sống đức hạnh,
nghiêm trì ngũ giới.
7. Khi đức Bồ tát đã giáng hạ
mẫu thai, bà không có dục tưởng đối với đàn
ông, và không kẻ nào có dục tâm có thể
đến gần bà.
8. Khi đức Bồ tát đã giáng hạ
mẫu thai, bà thụ hưởng đầy đủ năm dục:
không cảm thấy mệt mỏi gì, lại thấy
được Bồ tát trong bụng mình với
đầy đủ tứ chi như thể là ngắm một
viên ngọc khéo giũa đặt trên lòng
bàn tay.
9. Bảy ngày sau khi sinh hạ Bồ tát, bà mẹ chết [5] và tái sinh vào
cõi Ðâu suất.
10. Bồ tát trú thai mẹ đúng mười
tháng.
11. Mẹ Bồ tát sinh trong lúc đứng thay
vì nằm hoặc ngồi như các sản phụ khác.
12. Khi đức Bồ tát ra khỏi bụng mẹ, thì
chư thiên đón Ngài trước, sau mới
đến người đỡ.
13. Khi đức Bồ tát ra khỏi bụng mẹ, Ngài
không chạm đất. Chư thiên
đỡ lấy Ngài
đưa cho bà mẹ mà nói: Bà hãy sung
sướng vì một người con trai có đại oai
thần lực đã đến với bà.
14. Khi đức Bồ tát ra khỏi bụng mẹ, Ngài
không bị lấm bẩn vì máu mủ hay bất cứ thứ gì bất tịnh.
15. Khi đức Bồ tát ra khỏi bụng mẹ, có
hai vòi nước tuôn xuống từ trên trời, một nóng một lạnh,
để tắm cho hai mẹ con.
16. Vừa khi mới sinh ra, đức Bồ tát đã
đứng vững hai chân trên
đất [6],
đi bảy bước về phương Bắc, và
được che với chiếc lọng trắng, Ngài
nhìn bốn hướng và thốt lên lời của bậc Ðiều ngự sư: "Trên thế gian này
Ta là tối thượng. Ðây là đời cuối cùng
của Ta, từ nay không còn tái sinh nữa."
Sau khi tôn giả A nan kể xong những điều
kỳ diệu ấy, Phật thêm rằng còn một
điều này nữa [7], là đối với đức Như
lai, các cảm thọ được biết đến lúc sinh khởi, lúc trú và diệt,
các ý tưởng và tư duy cũng thế.
III. CHÚ GIẢI
1. Khả năng này của Phật
được Trường bộ kinh 14 đề cập trong những
thông tin chi tiết về sáu vị Phật trước đức Thích ca Gotama.
2. Ðây ám chỉ sự tái sinh của đức Bồ tát
tại cung trời Ðâu suất sau khi sinh làm người tên Vessantara và
trước khi tái sinh vào cõi người làm thái tử Siddhartha Gotama.
3. Cứ ở khoảng giữa mỗi ba thế giới hệ lại có một khoảng trống tám
ngàn do tuần, giống như khoảng trống giữa ba bánh xe bò hay ba cây cung
đụng nhau. Chúng sinh sinh vào
khoảng này là do ác nghiệp cực trọng như giết cha mẹ, giết thánh nhân,
hoặc do thường xuyên làm nghề ác như giết súc vật.
4. Bốn vị trời này là Tứ thiên vương, những vị thống lĩnh cõi trời là
Tứ thiên vương.
5. MA: Ðiều này xảy ra không phải lỗi ở sự sinh nở mà do bà mẹ
đã chấm dứt thọ mạng; vì cái nơi mà
Bồ tát đã chiếm dụng (bào thai mẹ)
thì không ai khác sử dụng được, như một
điện thờ.
6. MA: Mỗi khía cạnh của biến cố này đều
báo trước những sở đắc của đức Phật sau này. Vậy, sự việc Ngài
đứng vững trên
đất là
điềm báo Ngài sẽ chứng các thần túc; mặt hướng về phương Bắc báo
hiệu Ngài sẽ vượt trên thế tình; đi bảy
bước là Ngài sẽ có được bảy giác
chi; lọng trắng là Ngài sẽ đạt chiếc
lọng giải thoát; nhìn quanh bốn hướng là Ngài sẽ có
được minh trí vô ngại; những lời Ngài
thốt ra báo hiệu Ngài sẽ chuyển bánh xe Pháp không ai có thể chuyển
ngược lại. Lời tuyên bố Ðây là tái sinh cuối cùng báo hiệu Ngài sẽ nhập
vô dư niết bàn, không còn quay lại cõi hữu.
7. Lời này dường như là một cách đức
Phật kêu gọi ta chú ý đến cái phẩm
chất mà Ngài xem là điều kỳ diệu
đích thực.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Chúng tỷ kheo đang bàn
Một thần lực của Phật
Là biết đủ chi tiết
Về chư Phật trước kia.
Phật bèn dạy A nan
Trình bày những kỳ diệu
Mà tôn giả được nghe
Từ kim khẩu đức Phật:
Bồ tát lúc tái sinh
Vào cung trời Ðâu suất
Và lúc ở cõi trời
Cho đến hết thọ mạng.
Giáng phàm nhập mẫu thai
Ðều chính niệm tỉnh giác
Khi bồ tát đản sinh
Có ánh sáng nhiệm mầu
Soi ba ngàn thế giới
Những chúng sinh từ lâu
Bị sống trong u tối
Tự nhiên trông thấy nhau
Mới ngạc nhiên làm sao.
Lúc Bồ tát nhập thai
Tứ thiên vương canh gác
Gìn giữ mẹ và con
Tránh xa mọi bất trắc.
Bà mẹ lúc hoài thai
Tự nhiên sống đức hạnh
Và nghiêm trì ngũ giới.
Tâm xa lìa dục tưởng
Nam nhân có lòng dục
Không thể đến gần bà.
Bà thụ hưởng đầy đủ
Sắc thanh hương vị xúc
Thân không bị mệt mỏi
Lại thấy được Bồ tát
Ðang ở trong bụng mình
Có đầy đủ tứ chi
Như ngắm nhìn ngọc quý.
Bảy ngày sau sinh nở
Bà từ giã cõi trần
Và được tái sinh ngay
Vào cung trời Ðâu suất.
Bồ tát trú mẫu thai
Thời gian đúng mười tháng
Mẹ Bồ tát lâm bồn
Trong lúc đứng vịn cây
Thay vì nằm hoặc ngồi
Như các bà sản phụ.
Khi Bồ tát chào đời
Ðược chư thiên đón trước,
Sau mới đến loài người.
Khi ra khỏi bụng mẹ
Thân Ngài không chạm đất.
Chư thiên đỡ lấy Ngài
Ðưa cho bà mẹ xem
Kèm theo lời chúc tụng:
Mẫu hậu hãy vui mừng
Ðã sinh được người con
Có đại oai thần lực
Hơn tất cả thế gian.
Khi ra khỏi bụng mẹ,
Ngài không bị lấm bẩn
Vì những thế uế ô.
Lại có hai vòi rồng
Từ trời cao tuôn xuống
Nóng với lạnh hòa nhau
Ðể tắm con và mẹ.
Vừa khi mới sinh ra,
Ngài đã
đứng vững được
Với hai chân trên đất
Bảy bước về phương Bắc
Ðược tàn lọng trắng che,
Ngài nhìn quanh bốn hướng
Và thốt lên lời rằng
Trên trời và dưới trời
Chỉ Ta là tối thượng
Thân này là thân cuối
Không còn thọ thân sau.
Nghe A nan kể xong
Ðức Phật bèn bổ túc:
Ðối với đức Như lai,
Tất cả các cảm thọ
Ðều được Ngài biết rõ
Trong cả ba giai đoạn
Trú diệt cũng như sinh.
Cũng vậy với tưởng, tư
Ngài luôn luôn giác tỉnh.
Ðây cũng điều kỳ diệu
Của đức Phật Thế tôn.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 124
Bạc câu la
(Bakkula Sutta)
I. TOÁT YẾU
The elder disciple Bakkula enumerates his austere practices during
his eighty years in the Sangha and exhibits a remarkable death.
[Tôn giả Bạc câu la kể ra những khổ hạnh của Ngài suốt 80 năm
sống giữa tăng và hiển bày một cái chết
đặc biệt.]
II. TÓM TẮT
Acela Kassapa bạn cũ của tôn giả Bakkula lúc còn tại gia,
đến thăm Ngài và cuộc vấn
đáp xảy ra. Theo sự trả lời của tôn giả,
người bạn xác nhận Ngài có những
điều kỳ diệu như sau. Một là trong tám mươi năm
xuất gia [1], không bao giờ trong tâm Ngài khởi lên dục tưởng,
sân tưởng và hại tưởng. Hai là không nhận hoặc cắt may y phục trong thời
may y Ca thi na [2]. Ba không nhận lời mời
ăn, cũng không ngồi ăn dưới một mái nhà. Bốn, không bao giờ
để ý tướng chung hay tướng riêng của
một phụ nữ, hoặc giảng pháp cho họ dù chỉ bốn câu, hoặc
đi đến khu vực của ni chúng, hoặc giảng
pháp cho ni hay nữ cư sĩ. Năm là Ngài không từng truyền giới cho
ai, là y chỉ sư cho ai, để ai hầu hạ. Sáu,
Ngài không bao giờ tắm trong nhà tắm với bột tắm (xà phòng),
không để ai chà xát thân thể, không
bao giờ ốm đau dùng thuốc, không nằm
giường, không an cư mùa mưa dưới một mái nhà trong thôn xóm. Bảy là,
Ngài chỉ mắc nợ thí chủ trong bảy ngày đầu
sau khi xuất gia, đến ngày thứ tám Ngài
được thắng trí [3]. Sau khi xác nhận
đấy là những
điều kỳ diệu nơi tôn giả Bakkula, Acela
Kassapa cũng xin xuất gia thọ đại giới [4] và không lâu sau
đó ông cũng chứng quả A la hán như Ngài.
Ðiều kỳ diệu cuối cùng là tôn giả Bakkula báo tin trước [5], rồi ngồi
kiết già giữa đại chúng mà nhập Niết
bàn [6].
III. CHÚ GIẢI
1. MA: Tôn giả Bạc câu la đi tu năm tám
mươi tuổi, tức vào lúc Phật nói kinh này thì Ngài
đã 160 tuổi. Ngài
được Phật xem là
đệ tử có sức khỏe tốt nhất.
2. Ðoạn này và những đoạn kế tiếp chứng
tỏ tôn giả Bạc câu la là người tu khổ hạnh. Thời may y Ca thi na
là thời gian sau mùa an cư khi chúng tỷ kheo dùng những vải vóc họ
đã nhận
được để may thành y phục.
3. MA: Sau khi xuất gia, trong bảy ngày
đầu Ngài vẫn còn là người bình thường, nhưng vào ngày thứ tám
Ngài đắc quả A la hán cùng với các
trí biện tài.
4. MA: Vì đang tu khổ hạnh, tôn giả Bạc
câu la không truyền giới xuất gia cho người khác, mà chỉ sắp xếp
cho các vị khác truyền giới.
5. MA: Tôn giả Bạc câu la xét rằng suốt
đời Ngài đã không làm gánh
nặng cho tỷ kheo khác, và cũng không muốn nhục thân trở thành gánh nặng
sau khi chết, nên đã nhập thiền quán
nội hỏa (lửa tam muội) để nhập niết bàn,
bằng cách khiến cho toàn thân bốc cháy, chỉ còn lại xá lợi.
6. MA: Kinh này được tụng đọc tại kỳ đệ
nhị Kết tập xảy ra khoảng một trăm năm sau Phật niết bàn.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
A chê la Ca diếp
Bạn cũ Bạc câu la
Ðến thăm tôn giả này
Thấy những điều kỳ diệu:
Trong vòng tám mươi năm
Không bao giờ trong tâm
Ngài khởi lên dục tưởng,
Sân tưởng và hại tưởng
Ngài không nhận y phục
Hoặc cắt may quần áo
Trong thời gian may y.
Không nhận lời mời ăn
Không ngồi ăn trong nhà.
Không bao giờ để ý
Dáng dấp của phụ nữ
Hoặc giảng pháp cho họ
Dù chỉ nói vài câu,
Không bao giờ lai vãng
Các nơi ni cư trú
Hoặc giảng pháp cho ni
Không truyền giới cho người,
Hoặc làm y chỉ sư
Hoặc để người hầu hạ.
Không tắm trong nhà tắm
Với bột tắm (xà phòng)
Không để ai chà xát
Không bao giờ ốm đau
Nên không từng dùng thuốc
Không nằm ngủ trên giường
Không an cư mùa mưa
Dưới mái nhà thôn xóm.
Ngài chỉ nợ thí chủ
Bảy ngày đầu xuất gia
Ngày thứ tám đắc quả
Với thắng trí thần thông.
Sau khi đã thấy
được
Những điều vi diệu ấy
Nơi Ngài Bạc câu la
A chê-la Ca diếp
Xuất gia thọ đại giới
Không bao lâu chứng quả
Thành vị A la hán.
Ðiều kỳ diệu cuối cùng
Mọi người được chiêm ngưỡng
Tôn giả Bạc câu la
Báo trước cho đại chúng
Ngồi kiết già giữa chúng
Nhập vô dư niết bàn.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 125
Ðiều ngự
địa
I. TOÁT YẾU
Grade of the Tamed.
By analogy with the taming of an elephant, the Buddha explains how he
tames his disciples.
[Phật giảng cách huấn luyện đệ tử với ẩn
dụ luyện voi.]
II. TÓM TẮT
Vương tử Jayasena [1] đến xin Sa di
Aciravata dạy cho mình Pháp ông đã
được nghe, theo đó, một tỷ kheo nhiệt tâm
tinh cần có thể đắc định. Sa di từ chối, nhưng trước sự năn nỉ của vương
tử, ông bảo tôi sẽ nói Pháp mà tôi đã
được nghe và học, nhưng nếu ông
không hiểu ý nghĩa thì cũng không được hỏi.
Vương tử bằng lòng. Sau khi nghe sa di nói Pháp, vương tử bảo làm
gì có chuyện một tỷ kheo không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần lại có thể
đắc định, và vương tử ra về. Sa di
đến hầu Phật, thuật lại mọi sự.
Phật dạy dĩ nhiên vì Jayasena đang sống
trong dục lạc, bị dục lạc nhai nghiến nên không thể hiểu những gì
cần phải xa lìa các dục mới hiểu được. Rồi
Phật lấy ví dụ con voi [2] chưa được
thuần hóa không thể đạt đến địa vị chỉ có thể đạt bởi voi thuần; và
ví dụ về một người đứng trên
đỉnh núi tả phong cảnh trên
đỉnh cho một kẻ đang đứng dưới chân núi, kẻ
sau này vì bị ngọn núi che tầm mắt nên không thể thấy gì và sẽ
cho người đứng trên là nói dóc. Cũng
vậy vương tử đối với sa di là như
con voi rừng với con voi đã luyện,
như người đứng dưới núi với kẻ đứng trên
đỉnh. Khi người ở dưới cũng leo lên
đỉnh thì sẽ thấy như bạn mình
đã thấy, và biết mình
đã bị chướng ngại nên không thấy
được. Nhưng chướng ngại của vương tử lại còn
nặng nề hơn nhiều, vì ông ta bị đống vô
minh che khuất khi sống với dục lạc, và không thể thấy những gì
cần được thấy nhờ ly dục. Và Phật
bảo sa di: Nếu ông đưa ra hai ví dụ ấy thì
chắc vương tử sẽ nghe theo ông, và cư xử phải phép. Sa di bạch Phật: Hai
ví dụ này chính con cũng mới được nghe lần
đầu, thì làm sao con có thể nói với ông vương tử một cách tự
nhiên như Thế tôn dạy?
Khi ấy Phật giảng rộng ẩn dụ luyện voi
để ví với sự đào luyện một người từ cương vị phàm phu cho
đến bậc thánh. Như một vị vua bảo người thợ
rừng cỡi trên một thớt voi chúa đi vào
rừng, và khi trông thấy con voi nào thì cột nó vào cổ con voi chúa mà
kéo ra khỏi rừng. Sau đó vua bảo người
luyện voi hãy điều phục con voi mới
tóm được ấy, cho hết những thói rừng rú của nó. Làm cho nó hết
buồn sầu vì nhớ rừng và thích thú với làng mạc. Người luyện voi dùng lời
khả ái dạy nó dần dần cho đến khi nó làm
được những động tác nhặt lên,
để xuống, đi tới đi lui đứng lên
ngồi xuống và cuối cùng là tập cho nó bất
động toàn thân, mặc cho bao nhiêu sự tấn công từ ngoài. Khi ấy
con voi trở thành vương tượng kham nhẫn
được mọi đau đớn do gươm giáo tên
đạn và những tiếng động chát chúa.
Nó trở thành xứng đáng cho vua dùng.
Cũng vậy, một tỷ kheo sau khi xuất gia từ bỏ gia
đình,
được Phật huấn luyện giữ giới, hộ trì căn,
tiết độ ăn uống, chú tâm cảnh giác gột sạch tâm khỏi chướng ngại pháp,
chính niệm tỉnh giác trong các uy nghi, chọn chỗ vắng ngồi thiền gột trừ
năm triền cái, quán 4 niệm xứ để điều phục tham ưu liên hệ thế
tục [3], cuối cùng chứng sơ thiền, nhị thiền [4]
đến tứ thiền. Sau khi đắc một thiền chứng
trong số này, vị ấy hướng tâm đến
lậu tận và đắc quả A la hán. Vị tỷ
kheo khi ấy nhẫn nhục chịu được nóng lạnh đói khát, từ bỏ tất cả tham
sân si và lầm lỗi, xứng đáng sự lễ
bái cúng dường của thế nhân. Như một con voi không được điều phục lúc
sống thì khi chết, nó chết một cái chết không
được điều phục, bất kể con voi ấy trẻ hay
già. Một tỷ kheo cũng vậy.
III. CHÚ GIẢI
1. Theo MA, thái tử là con vua Bimbisàra.
2. Ẩn dụ giống như kinh 90.
3. Ðể ý ở đây, bốn niệm xứ được giải
thích ở chỗ thông thường dành cho bốn thiền.
4. Vì sự trình bày ở đây bắt đầu bằng
thiền thứ hai, nên đoạn trước đấy về
tu bốn niệm xứ phải được ngầm hiểu là bao quát thiền thứ nhất.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Vương tử Jayasena
Hỏi Sa di ở rừng
Thế nào với nhiệt tâm
Tinh cần không phóng dật
Thì có thể đắc định
Xin đại đức nói nghe.
Sa di bảo vương tử:
Tôi sẽ nói cho ông
Nhưng nếu ông không hiểu
Ðừng hỏi nữa mất công.
Sa di nói Pháp xong
Vương tử không tin nhận
Cho chỉ là nói dóc
Và đứng dậy bỏ đi.
Sa di đến hầu Phật
Thuật lại hết sự tình.
Phật dạy lẽ đương nhiên
Kẻ sống trong dục lạc
Bị năm dục nhai nghiến
Làm sao hiểu những gì
Muốn hiểu cần yểm ly
Và lánh xa năm dục.
Như voi đã
được luyện
Cư xử khác voi rừng
Như người dưới chân núi
Không thấy cảnh bao la.
Vương tử bị chướng ngại
To tát hơn cả núi
Là năm dục lôi kéo
Và đống lớn vô minh.
Nếu ông ví dụ vậy
Vương tử sẽ tin ngay
Và khi đã tin ông
Sẽ hành xử đúng cách.
Nhưng bạch đức Thế tôn
Làm sao con nói được
Khi con chỉ được nghe
Ví dụ ấy lần đầu?
Khi ấy Phật giảng rộng
Về ẩn dụ luyện voi
Tương tự cách đào luyện
Phàm phu thành bậc thánh.
Như vua bảo thợ săn
Cỡi tượng vương vào rừng
Thấy voi hãy tóm cổ
Dẫn ra khỏi rừng sâu
Rồi lại bảo anh nài
Luyện voi thành thuần thục.
Trước hết bỏ thói rừng
Thích thú với làng mạc
Dần tập nhiều động tác
Cuối cùng tập đứng yên
Toàn thân thành bất động
Trước mọi sự tấn công
Bấy giờ voi xứng đáng
Báu vật của vua dùng.
Thiện nam tử xuất gia
Ra khỏi nhà thế tục,
Giữ giới, hộ trì căn,
Uống ăn có tiết độ,
Cảnh giác các lỗi lầm
Ðứng đi trong chính niệm
Chọn chỗ vắng thiền tư
Gột trừ năm triền cái
Quán bốn chỗ tưởng niệm
Và chứng đắc bốn thiền.
Sau khi được thiền chứng
Hướng tâm đến lậu tận.
Vị tỷ kheo khi ấy
Nhẫn chịu mọi thử thách
Từ bỏ tham sân si
Ðáng lễ bái cúng dường
Bất kể trẻ hay già
Người sống không điều phục
Chết với tâm hoang mang
Của kẻ thiếu tỉnh thức
Dù thượng, trung, hạ tọa
Người sống có điều phục
Chết với tâm an nhiên
Như một người giác tỉnh.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 126
Phù Di
(Bhùmija) [1]
I. TOÁT YẾU
The Buddha brings forward a series of similes to illustrate the
natural fruitfulness of the Noble Eightfold Path.
[Phật đưa ra một loạt ví dụ để hiển thị
hiệu quả tự nhiên của đạo Bát
chánh.]
II. TÓM TẮT
Vương tử Jayasena hỏi tôn giả Bhùmija lập trường của Phật giáo về
việc tu phạm hạnh, vì ông nghe các ngoại
đạo cho rằng tu phạm hạnh không đem lại kết quả, dù người tu có
ước nguyện hay không [2], hoặc vừa có vừa không, hay không có không
không. Tôn giả đáp vấn đề là ở chỗ
tu phạm hạnh cách nào, chứ không phải do có ước nguyện hay không ước
nguyện. Nếu tu phạm hạnh theo tám tà là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà
nghiệp, tà mạng, tà tinh tiến, tà niệm và tà định,
thì phạm hạnh không kết quả. Ngược lại, nếu tu theo tám chính
đạo thì phạm hạnh có kết quả, dù ước
nguyện hay không. Vương tử khen lập trường Phật giáo là chính
đáng hơn cả, và cúng dường cho tôn
giả Bhùmija. Sau đó tôn giả đến thỉnh vấn
Phật.
Phật xác nhận ông đã khéo trả
lời, không xuyên tạc giáo lý của Ngài, và bổ túc với bốn ví dụ về chánh
đạo và tà
đạo. Theo tám tà là phương pháp sai,
thì phạm hạnh không có kết quả, như ép cát
để tìm dầu, vắt sừng bò để lấy sữa,
khuấy nước lã để làm bơ, và
dùng cây tươi để lấy lửa. Theo tám chính,
phương pháp đúng, thì tu phạm hạnh có kết quả. Như ép hột có dầu
để tìm dầu, vắt sữa từ vú bò cái,
khuấy sữa để làm bơ, và dùng cây khô
để nhóm lửa. Tôn giả Bhùmija rất
sung sướng với bốn ví dụ vừa được nghe lần
đầu.
III. CHÚ GIẢI
1. MA: tôn giả Phù di là cháu của thái tử Jayasena.
2. Asam karitvà: Nếu người ta làm một ước nguyện, khởi lên một
mong mỏi, chờ đợi. Những sa môn bà
la môn có quan điểm này chắc phải là
những người theo thuyết hoài nghi hoặc đoạn
diệt luận.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Vương tử Jayasena
Hỏi tôn giả Phù Di
Lập trường của Phật giáo
Về việc tu phạm hạnh.
Có ngoại đạo cho rằng
Tu phạm hạnh vô ích
Không có kết quả gì
Dù có nguyện hay không
Hoặc vừa có vừa không
Hoặc không có không không.
Tôn giả trả lời ông:
Vấn đề là ở chỗ
Tu phạm hạnh cách nào
Chứ không do mong ước.
Nếu tu phạm hạnh sai
Nghĩa là theo tám tà
Tà kiến, tà tư duy
Tà ngữ, tà nghiệp, mạng
Tà tinh tiến, niệm, định
Phạm hạnh không ích gì.
Ngược lại theo tám chính
Thì phạm hạnh kết quả
Dù ước nguyện hay không.
Vương tử rất hài lòng:
Nếu đây lời Phật dạy
Thì Ngài vượt hơn hết
Các sa môn hiện nay.
Tôn giả thỉnh vấn Phật
Cuộc đối đáp vừa rồi
Phật khen khéo trả lời
Không xuyên tạc giáo lý
Và Thế tôn bổ túc
Với bốn mẩu ví dụ
Hiển thị tà, chính đạo
Tám tà phương pháp sai
Phạm hạnh không kết quả
Như ép cát tìm dầu
Vắt sừng bò lấy sữa
Khuấy nước lã làm bơ
Dùng cây tươi nhóm lửa.
Tám chính, phương pháp đúng
Phạm hạnh sẽ trổ bông:
Ép hột dầu tìm dầu
Vắt vú bò lấy sữa
Khuấy sữa để làm bơ
Dùng cây khô nhóm lửa.
Tôn giả Bhùmija
Vui mừng với ví dụ
Vừa được nghe lần đầu.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 127
A Na Luật
(Anuruddha)
I. TOÁT YẾU
The Venerable Anuruddha clarifies the difference betwên the
immeasurable deliverance of mind and the exalted deliverance of mind.
[Tôn giả A na luật thuyết minh sự khác nhau giữa tâm giải thoát vô
lượng và tâm giải thoát đại hành.]
II. TÓM TẮT
Tôn giả A na luật giảng cho thợ mộc Ngũ Phần về sự khác nhau giữa hai
loại tâm giải thoát [1] là Vô lượng và Ðại hành. Cũng
đều quán từ bi hỷ xả (bốn phạm trú) nhưng
đại hành tâm [2] là tâm biến mãn từ một gốc cây rộng dần ra cho
đến một làng, một nước. Còn Vô lượng
tâm giải thoát là biến mãn tâm từ bi hỷ xả
đến khắp mười phương thế giới, vô lượng vô biên, không hận không
sân. Do khi tu thiền, phát nguyện biến mãn ánh sáng có hạn hoặc vô hạn,
có tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, mà khi thân hoại mạng chung, sinh vào bốn
loại tái sinh [3] là các cõi trời Thiểu quang, Vô lượng quang và Thiểu
tịnh, Vô lượng tịnh [4].
Ðại hành tâm đưa đến tái sinh vào
các cõi trời thiểu quang. Vô lượng tâm đưa
đến tái sinh vào các cõi trời vô lượng quang. Do khi tu thiền,
chưa đốt cháy [5]
được hôn trầm trạo hối mà khi chết
sinh vào cõi có ánh sáng tạp nhiễm. Quang (ánh sáng) và sắc (màu sắc)
mỗi vị trời ở các cõi ấy khác nhau, nhưng khi họ nhóm họp thì ánh sáng
hòa lẫn mặc dù màu sắc mỗi ánh sáng khác nhau; như khi hàng ngàn ngọn
đèn thắp sáng
đặt trong phòng thì ánh sáng chỉ có
một. Khi họ giải tán thì quang và sắc mỗi vị trời
đều khác, như khi từng người bưng cây đèn
của mình đi ra khỏi phòng thì màu
sắc và ánh sáng của mỗi ngọn một khác. Sở dĩ cõi trời có thiểu tịnh (ít
sạch), vô lượng tịnh (sạch vô cùng) là do khi tu thiền tâm có tạp nhiễm
(xen lẫn các vọng tưởng) hay hoàn toàn thanh tịnh. Như ngọn
đèn
được thắp với dầu cặn, bấc dơ, bình dầu và bóng dơ thì không sáng
bằng ngọn đèn
được thắp với dầu trong, bấc sạch, bình
dầu và bóng đều sạch sẽ.
Khi nghe tôn giả A na luật giảng cho thợ mộc Ngũ phần, tôn giả Abhiya
Kaccàna (Ca chiên diên) bình phẩm: Bộ ông đã
lên các cõi trời ấy rồi chắc [6]. Tôn giả A na luật cho biết từ lâu Ngài
đã cộng trú với chư thiên ấy. Tôn
giả Ca chiên diên chúc mừng thợ mộc đã
được nghe pháp từ tôn giả A na luật.
III. CHÚ GIẢI
1. Trong kinh số 43 cũng như kinh này, vô lượng tâm giải thoát
(appamànà cetovimutti) được giải thích là
bốn phạm trú. Vì mỗi phạm trú đều được diễn
tả với từ ngữ quảng đại, nên có lẽ Pancakanga
đã lầm cho hai thứ giải thoát này
đồng nghĩa.
2. MA: Vị ấy bao quát một vùng bằng gốc cây, tướng của kasina (biến
xứ) mình đang quán, rồi trú tâm trên
tướng ấy, biến mãn nó bằng tâm thiền quảng
đại. Cũng cách giải thích này áp dụng cho các trường hợp sau
đó.
3. MA: Giáo lý này cốt hiển thị những loại tái sinh khác nhau nhờ
đắc đại hành tâm giải thoát.
4. Theo MA, không có những cõi trời riêng biệt gọi là cõi có ánh sáng
còn ô nhiễm (thiểu quang) và cõi ánh sáng thuần tịnh, mà cả hai
đều là những cách phân loại vi tế
trong hai cõi trời có ánh sáng hữu hạn (Thiểu quang thiên) và vô hạn (Vô
lượng quang thiên). Tái sinh vào cõi trời có ánh sáng hữu hạn là do
đắc nhị thiền với tướng kasina hữu hạn, tái
sinh vào cõi trời Vô lượng quang cũng nhờ
đắc nhị thiền nhưng với tướng kasina đã
được khai triển rộng ra. Tái sinh vào
cõi trời có ánh sáng còn ô nhiễm là tái sinh của những người chưa làm
chủ được thiền chứng, chưa thanh lọc nó
khỏi các pháp chướng ngại. Tái sinh vào cõi trời có ánh sáng
thuần tịnh là dành cho những người đã
có được sự làm chủ và sự thanh lọc
nói trên.
5. Ở đây có sự chơi chữ, vì
động từ Pli jhàyati có hai nghĩa:
thiền định và
đốt cháy; mặc dù Phạn ngữ sanskrit
có hai động từ khác nhau; kshàyati
là đốt cháy, dhyàyati là thiền
định.
6. Những lời lẽ của Abhiya khiếm nhã vì
đi sâu vào kinh nghiệm riêng tư của A na luật. MA nói trong khi
viên mãn các pháp tu ba la mật vào các đời
quá khứ, Ngài đã xuất gia làm
sa môn, đắc các thiền chứng và
đã trải qua ba trăm
kiếp liên tục sinh vào cõi Phạm thiên. Do
đó mà Ngài trả lời như vậy.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Thợ mộc tên Ngũ Phần
Hỏi Ngài A na luật
Về những chỗ khác nhau
Giữa Ðại hành, Vô lượng
Quán từ bi hỷ xả
Trải tâm có giới hạn
Từ phạm vi gốc cây
Cho đến một làng, nước
Rồi biến mãn dần ra
Gọi là tâm đại hành.
Còn loại tâm vô lượng
Là biến mãn từ, bi
Khắp mười phương thế giới
Ðến tất cả muôn loài
Vô biên không sân hận.
Do trong khi tu thiền
Trải tâm có giới hạn
Hoặc trải rộng vô biên
Mà kết quả tái sinh
Cõi trời cũng bốn hạng
Thiểu quang, Vô lượng quang.
Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh.
Ðại hành tâm tái sinh
Vào chư thiên ít sáng
Vô lượng tâm tái sinh
Vào vô lượng quang thiên.
Tâm thiền còn tạp nhiễm
Sinh vào trời Thiểu tịnh
Tâm thiền không tạp nhiễm
Sinh Biến tịnh, Vô lượng
Quang và sắc khác nhau
Mỗi vị trời một vẻ.
Khi chư thiên nhóm họp
Sắc khác, sáng hòa chan
Giống như ở trong phòng
Ngàn bóng đèn dầu
đốt
Thì ánh sáng chỉ một
Dù mỗi ngọn khác nhau.
Khi chư thiên giải tán
Thì quang, sắc muôn vẻ
Như giữa trời đêm thâu
Mỗi người cầm đèn dầu.
Tái sinh cõi Thiểu tịnh
Do thiền tâm tạp nhiễm
(lẫn trạo hối hôn trầm).
Vào cõi vô lượng tịnh
Do thiền tâm thuần khiết.
Ví như ngọn đèn dầu
Ðược thắp với dầu cặn
Bình, bóng, bấc đều dơ,
Thì ngọn đèn ít sáng.
Tôn giả Abhiya (Kaccàna):
Nghe Ngài nói như vậy
Chắc đã từng lên trời?
Tôn giả A na luật:
Quả thế tôi từ lâu
Cộng trú với chư thiên.
Tôn giả Ca chiên diên
Vui thay cho thợ mộc
Ðã được nghe việc này.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 128
Tùy phiền não
(Upakkilesa)
I. TOÁT YẾU
Imperfections.
The Buddha discusses the various impediments to meditative progress
he encountered during his quest for enlightenment, with particular
reference to the divine eye.
Những ô nhiễm.
Phật bàn về các chướng ngại trong quá trình tu thiền của Ngài
để đạt giác ngộ,
đặc biệt đề cập về thiên nhãn.
II. TÓM TẮT
Chúng tỷ kheo ở Kosambì (Câu diệm bì) chia phe
đấu tranh cãi cọ [1], Phật can không
được, Ngài nói bài kệ dài [2] rồi du
hành đến thăm tôn giả Bhagu, thuyết pháp
khích lệ, và đến trú xứ các tôn giả
A na luật. Tại đấy có ba vị đang cư trú [3]. Phật hỏi thăm
sự sống và đường lối tu hành
của họ.
Tôn giả A na luật trình bày cách sống hòa hợp của họ là mỗi người
đều bỏ tâm mình mà sống bằng tâm
người khác, tự giác giữ gìn trật tự nếp sống chung, không phóng dật,
nhiệt tâm tinh cần tu thiền [4], thấy ánh sáng và các sắc hiện ra, nhưng
quang và sắc ấy chỉ hiện một lúc rồi tan biến. Ngài thỉnh vấn Phật về
tình trạng ấy.
Phật dạy tôn giả cần phải tìm nguyên nhân tại sao mà ra như thế [5].
Lúc còn là Bồ tát đang tu thiền Ngài
cũng gặp như vậy, và truy tìm những nguyên nhân làm
định tướng (quang và sắc) biến mất
là do tâm có khởi lên 11 tùy phiền não: nghi hoặc, không tác ý, hôn
trầm, sợ hãi, phấn chấn (như một người tìm lối vào kho tàng bí mật, bỗng
dưng gặp được năm lối vào, thì sẽ
khởi lên sự phấn chấn) dâm ý, tinh cần quá
độ, thiếu tinh cần, ái dục [6], sai biệt tưởng [7], và quá chú
tâm vào sắc pháp [8]. Mỗi khi nhận diện
được các tùy phiền não [9] ấy, Ngài
đoạn trừ chúng. Và khi chúng đã
được đoạn trừ, Ngài tu tập ba cách
[10]: định có tầm tứ, định chỉ có tứ, và
định không tầm tứ; định có hỷ, không hỷ,
định câu hữu lạc, câu hữu xả [11]. Và khi tu tập như vậy, Ngài
biết đã
đạt giải thoát bất động, đây là đời
sống cuối cùng, sau đời sống này
không còn đời nào khác [12].
III. CHÚ GIẢI
1. Kinh này mở đầu giống kinh số 48.
2. Bài kệ này theo gần trọn bản dịch của HT MC. Ðoạn 3, 4, 5 của bài
kệ xuất hiện trong Pháp cú 3, 5, 6. Ba bài kệ cuối có trong Pháp cú
328-330.
3. Những đoạn kinh này gần giống
với kinh 31. Nhưng rõ ràng kinh này được
nói sớm hơn, vì trong kinh 31 cả ba vị tỷ kheo
đều đã
đắc quả A la hán, trong khi ở kinh này, họ chỉ
đang nỗ lực tu hành
để chứng quả.
4. Từ điểm này trở
đi kinh bắt đầu khác với kinh 31. MA giải
thích obhàsa ánh sáng hay quang sắc, là ánh sáng phát sinh lúc
đắc thiền, và thêm rằng người chứng
thiền thứ tư khai triển kasina ánh sáng làm chuẩn bị
để đắc thiên nhãn. Sự thấy sắc là
thấy các hình dạng với thiên nhãn. Về sau Phật
đã công bố tôn giả là bậc
đệ nhất về thiên nhãn.
5. Nimittam pativijjhitabham, nghĩa là ngươi nên
đi sâu vào tướng ấỵ
6. Xem kinh 52.
7. MA: Trong khi ta tác ý một tướng duy nhất, ta khởi lên mong ước
rằng ta nên tác ý nhiều tướng khác nhau. Rồi khi thì ta tác ý cõi trời,
khi lại tác ý cõi người. Vì tác ý đến các
loại tướng khác nhau như vậy mà sai biệt tưởng khởi lên trong ta.
8. Atinijjhàyitattam rúpànam. MA: Khi sai biệt tưởng khởi lên,
ta nghĩ mình sẽ tác ý một loại sắc duy nhất, dù dễ chịu hay khó chịu.
Khi làm thế, thiền quán ráo riết về sắc khởi lên trong ta.
9. Cittassa upakkileso. Cấu uế của tâm. Cũng danh từ này
được dùng trong kinh số 7, mặc dù ở
đây nó không có nghĩa là nhiễm ô do
phiền não mà là những khiếm khuyết trong sự tu tập
định. Do đó từ ngữ này
được dịch là tùy phiền não thay vì
dịch là cấu uế như kinh 7.
10. Ba đường lối có lẽ là ba loại
định đầu tiên
đề cập trong đoạn kế tiếp, mà Trường
bộ
33 cũng đề cập kể như một bộ ba. Ðầu
tiên là sơ thiền, thứ ba là ba thiền sau trong hệ thống bốn thiền. Loại
định thứ hai không có chỗ đứng trong bốn
thiền, nhưng được gọi là thiền thứ hai trong hệ thống năm
thiền được nói trong tạng Luận. Thiền thứ hai trong năm thiền được chứng
bởi những người không thể vượt qua tầm tứ cùng một lúc mà phải
tuần tự diệt tầm rồi diệt tứ.
11. MA: Ðịnh có hỷ là hai thiền thấp; không hỷ là hai thiền cao; câu
hữu với lạc là ba thiền đầu, câu hữu với xả
là thiền thứ tư.
12. Theo MA, Phật khai triển các thiền chứng này vào canh cuối của
đêm Ngài chứng
đạo trong khi ngồi dưới cội bồ đề.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Ðại chúng Câu diệm bì
Kịch liệt đả kích nhau
Không nghe Phật can gián
Ngài nói kệ như sau:
Giữa quần chúng la ó
Không ai nghĩ mình ngu
Giữa tăng chúng phân ly
Có ai nghĩ hướng thượng.
Thất niệm kẻ trí nói
Ba hoa trăm thứ chuyện
Há miệng nói thả dàn
Dẫn đến đâu, ai biết?
Nó mắng tôi, đánh tôi
Nó hại tôi, cướp tôi
Ai ôm oán niệm ấy
Hận thù không thể nguôi.
Nó mắng tôi đánh tôi
Nó hại tôi, cướp tôi
Không ôm oán niệm ấy
Hận thù sẽ tự nguôi.
Hận thù diệt hận thù
Không đời nào diệt
được
Từ bi diệt hận thù
Là định luật ngàn thu.
Người khác không hiểu biết
Rồi ta sẽ hoại diệt
Những ai hiểu điều này
Nhờ vậy tranh chấp tiêu.
Kẻ chủ xướng hại mạng
Cướp bò ngựa tài sản
Kẻ cướp đoạt quốc độ
Chúng còn biết đoàn kết
Sao các ông không vậy?
Nếu được bạn hiền trí
Ðồng hành khéo ở chung
Thì vượt mọi nguy nan
Cùng sống vui chánh niệm.
Nếu không bạn hiền trí
Như vua bỏ quốc độ
Ðể độc hành
độc bộ
Như voi trú rừng sâu.
Thà một mình mình sống
Không làm bạn kẻ ngu.
Ðộc hành không ác hạnh
Thoải mái như voi rừng.
Ngài bỏ đi du hành
Thăm tôn giả Bhagu,
Thuyết pháp khích lệ ông
Rồi đến nơi trú xứ
Tôn giả A na luật
Nan đề, Kim tỳ la
Ba người đang cộng trú
Phật hỏi thăm sinh hoạt
A na luật trình bày
Sự sống chung hòa hợp
Mỗi người bỏ ý riêng
Sống bằng tâm kẻ khác
Tự giác trật tự chung
Tinh cần không phóng dật
Nhiệt tâm tu thiền định.
Họ đã thấy ánh sáng
Và các sắc hiện ra
Nhưng rồi tan biến mất.
Phật dạy A na luật
Cần phải tìm nguyên nhân
Tại sao định tướng mất.
Xưa kia còn đang tu
Ngài cũng gặp như vậy
Và truy tìm nguyên nhân
Thấy do tùy phiền não:
Nghi hoặc, không tác ý
Hôn trầm và sợ hãi,
Hoặc đâm ra phấn chấn
Như kẻ được hũ vàng.
Hoặc là do dâm ý,
Tinh cần thiếu hay thừa
Ái dục, sai biệt tưởng
Quá chú vào sắc pháp.
Khi thấy các pháp này
Chướng ngại cho thiền chứng
Ngài liền gột trừ chúng
Và tu tập ba cách
Ðịnh có tầm có tứ
Ðịnh không tầm có tứ
Và định không tứ tầm
Hoặc có hỷ, không hỷ
Ðịnh câu hữu lạc, xả
Khi tu tập như vậy
Ngài đạt đến Bất động
Biết đây đời sống cuối
Không còn phải tái sinh.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 129
Hiền ngu
(Bàlapanditasuttam)
I. TOÁT YẾU
Fools and Wise Men.
The sufferings of hell and animal life onto which a fool is reborn
through his evil deeds, and the pleasures of heaven that a wise man
reaps through his good deeds.
Kẻ ngu và người trí.
Những thống khổ của cõi địa ngục và
súc sinh mà do ác nghiệp, kẻ ngu tái sinh vào, và những thiên lạc mà
người trí gặt hái do thiện hành.
II. TÓM TẮT
Phật dạy chúng tỷ kheo về kẻ ngu và người trí.
A. Người ngu:
Có ba đặc điểm là nghĩ ác, nói ác
và làm ác; cảm thọ ba loại khổ trong hiện tại khi nghe ai nói
động đến việc ác mình có làm, khi
thấy kẻ có tội như mình bị trừng phạt bằng các cực hình [1], và khi nằm
ngồi thường bị ám ảnh bởi tội lỗi đã
làm, như xế chiều bóng núi đổ trên
mặt đất. Khi chết người ngu tái sinh vào
cõi dữ như địa ngục chịu khổ hơn cả người
mỗi ngày bị đâm ba trăm mũi giáo
[2], hoặc vào các loài bàng sinh ăn
bẩn, sinh ra và chết nơi u tối ẩm thấp tùy theo nghiệp ác
đã làm. Trả hết nghiệp
được làm người thì bị sinh vào gia
đình hèn hạ, lại làm ác và phải
đọa như trước. Ðược làm người là một
cơ may hiếm có như rùa mù chui cổ vào một tấm ván có lỗ trôi lênh
đênh trên biển. Như người thua canh
bạc đầu tiên phải bán cả gia sản vợ
con là một sự mất mát lớn, nhưng còn vô vàn lớn hơn thế nữa là sự mất
mát của kẻ ngu làm ác bị đọa. Ðây là
chu kỳ trọn vẹn của kẻ ngu [3].
B. Người trí:
Ðặc điểm của người trí là nghĩ
lành, nói lành và làm lành; hiện tại cảm thọ va sự vui là lúc nghe bàn
tán sự từ bỏ các ác hành và tự xét mình không làm ác [4]; lúc thấy kẻ ác
bị trừng phạt do ác hành và tự xét mình không có như vậy; và lúc nghỉ
ngơi tự xét đã không làm
điều quấy nên
được an ổn. Khi chết tái sinh vào
cõi trời hưởng thiên lạc thù thắng hơn vua chuyển luân [5] với bảy báu
(xe, voi, ngựa, cư sĩ, nữ báu, tướng quân và châu báu) và bốn
đức (đẹp, sống lâu, khỏe mạnh, được dân
chúng yêu mến). Sau một thời gian dài hưởng thiên lạc, nếu lại
sinh làm người thì vào nhà quyền quý cao sang. Như kẻ
đánh bạc thắng canh bạc đầu tiên
được rất nhiều tài sản, lợi lạc của
người trí làm ba thiện hành còn vạn lần lớn hơn. Ðây là chu kỳ trọn vẹn
của người trí [6].
III. CHÚ GIẢI
1. Như kinh số 13.
2. Ẩn dụ sau đây được giải thích trong
kinh Tương ưng 12 để hiển thị sự ăn bằng thức (thức thực).
3. MA: Nghĩa là, kẻ ngu do làm ba ác hành mà tái sinh vào
địa ngục. Do quả báo của nghiệp địa ngục còn
sót lại, nên khi được trở lại làm
người thì sinh vào gia đình hèn hạ,
rồi lại làm ba ác hành và lại đọa địa ngục.
4. Mặc dù trong nguyên bản Pali không có chữ na ở
đầu, ở đây cần thêm na mới có nghĩa
muốn nói, như trong các mệnh đề tương đương
ở đoạn sau.
5. Xem kinh 91. Huyền thoại về Chuyển luân vương
được bàn rộng rãi trong kinh Trường
bộ 17 và 26.
6. MA: Nghĩa là, người trí nhờ làm ba thiện hành mà
được sinh lên trời. Khi trở lại nhân
gian, họ sinh vào nhà lành, có tài sản và sắc
đẹp. Họ lại làm ba thiện hành và lại
sinh lên trời. Cần để ý rằng sự hoàn
thiện của người trí ở đây hoàn toàn
thuộc thế gian, không nói gì đến những giai
đoạn thù thắng hơn trên con đường
đưa đến giải thoát.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Phật dạy chúng tỷ kheo
Về kẻ ngu, người trí
Ba đặc điểm kẻ ngu
Là nghĩ, nói, làm ác.
Hiện tại có ba khổ:
Khi nghe chuyện liên hệ
Những việc ác mình làm
Khi thấy kẻ như mình
Bị phạt bằng cực hình
Khi tâm tư bị ám
Bởi tội lỗi đã làm
Như xế chiều bóng núi.
Chết tái sinh cõi dữ
Ðọa địa ngục, bàng sinh
Theo nghiệp trước kia tạo.
Ðã đọa vào cõi ấy
Thì khó lại làm người
Rùa mù gặp lỗ ván
Trôi nổi giữa biển khơi
Ðến khi được làm người
Tái sinh nhà hèn hạ
Lại làm ác, lại đọa.
Tình trạng thảm thê hơn
Kẻ thua canh bạc lớn
Ðấy bức tranh toàn vẹn
Hoàn cảnh của kẻ ngu.
Người trí có đặc điểm
Nghĩ nói làm điều lành
Hiện tại có ba vui:
Khi nghe chuyện liên hệ
Các ác mình đã bỏ;
Thấy kẻ bị trừng phạt
Do ác hành đã làm
Tự xét mình không vậy;
Và do không làm quấy
Tâm tư luôn an vui
Chết sinh vào cõi trời
Hưởng thiên lạc thù thắng
Hơn cả chuyển luân vương
Với bảy báu bốn đức
Sau một thời gian dài
Hưởng thụ các thiên lạc
Nếu trở lại làm người
Sinh vào nhà quyền quý
Lợi lạc của kẻ trí
Thật vô vàn lớn hơn
Ðánh thắng canh bạc lớn.
Ðấy bức tranh toàn vẹn
Hoàn cảnh của kẻ hiền.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 130
Thiên sứ
I. TOÁT YẾU
The Divine Messengers.
The Buddha describes the sufferings of hell that await the evil-doer
after death.
Sứ giả thiêng liêng.
Phật mô tả những nổi khổ ở địa ngục đang
chờ đợi kẻ làm ác sau khi
chết.
II. TÓM TẮT
Phật dạy chúng tỷ kheo rằng với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ngài
thấy chúng sinh chết và tái sinh tùy theo nghiệp lành dữ. Những hữu tình
thành tựu thiện hành về thân, lời, ý, có chính kiến, không phỉ báng các
bậc thánh, chết tái sinh vào cõi tốt lành như cõi người cõi trời.
Ngược lại những hữu tình thành tựu ba loại ác hành về thân, lời, ý,
có tà kiến, thường phỉ báng các bậc thánh, chết tái sinh vào những cõi
xấu ác như ngạ quỷ, bàng sinh, địa ngục.
Tại đây Yama [1] cho họ biết có năm
thiên sứ [2] (sứ giả nhà trời) thường hiện ra giữa loài người là
trẻ sơ sinh, người già, người bệnh, kẻ có tội bị trừng phạt, và xác
chết; nhưng vì ham vui họ đã không ý
thức rằng mình cũng bị chi phối bởi sinh, già, bệnh, chết, và có thể
phạm tội ác, để lo làm các thiện
hành về thân, khẩu, ý. Vì đã sống
buông thả không lánh dữ làm lành nên giờ
đây họ phải chịu hậu quả ác nghiệp do chính họ làm, không phải do
ai khác. Sau khi bị Diêm vương thẩm vấn, họ bị các người canh giữ tra
tấn bằng những cực hình làm họ đau đớn khốc
liệt rồi lại bị quăng vào Ðại địa
ngục [3] toàn bằng sắt nóng, địa
ngục Phấn nị, địa ngục Than hừng, địa ngục Rừng gai, địa ngục Rừng lá
gươm, địa ngục Sông vôi. Tại đấy khi đói, họ phải ăn hoàn sắt
nóng, khát uống nước đồng sôi. Dù
đau đớn khốc liệt, họ vẫn phải chết đi sống
lại để chịu khổ và chỉ mạng chung khi ác nghiệp
đã tiêu trừ. Phật dạy
điều này chỉ có Ngài thấy biết,
không nghe từ ai khác. Và Ngài kết thúc bằng một bài kệ nói mặc dù
đã được
thiên sứ báo động, kẻ ngu vẫn sống
buông thả và phải chịu đau khổ dài
lâu, còn bậc trí thấy vậy không bao giờ phóng dật, siêng tu diệu pháp,
giải thoát khỏi chấp thủ và nhờ vậy chấm dứt sinh tử về sau, hiện tại
được an lạc.
III. CHÚ GIẢI
1. Yama là thần chết. MA nói ông ta là chúa tể của loài ma sở hữu một
cung trời. Khi thì ông sống trên cung trời hưởng thọ thiên lạc, khi thì
ông thọ quả báo của nghiệp; ông ta là một ông vua công chính. MA thêm
rằng kỳ thực có đến bốn Yamas, mỗi ông trấn
một trong bốn cổng (địa ngục?).
2. Theo thần thoại PG, ba thiên sứ là người già, người bệnh, và xác
chết, xuất hiện trước đức Bồ tát trong khi
Ngài đang sống trong hoàng
cung, khiến Ngài đâm chán, muốn xa lìa
cuộc sống thế tục và đánh thức trong Ngài
ước muốn tìm giải thoát. Xem Tăng chi 3, để
thấy cái cốt lõi tâm lý mà có lẽ từ
đó câu chuyện đã được triển khai.
3. Sự mô tả địa ngục ở đây cũng được tìm
thấy trong kinh 129.
4. Bắt đầu từ chỗ này trong Kệ
tụng dưới đây, chép nguyên văn
lời kệ do Hòa thượng Minh Châu dịch.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Với thiên nhãn thanh tịnh
Phật thấy các hữu tình
Chết rồi lại tái sinh
Tùy theo nghiệp lành dữ.
Ai thành tựu thiện hành
Về thân, lời và ý,
Làm việc theo chính kiến
Không phỉ báng bậc thánh
Chết tái sinh cõi lành
Làm người, sinh thiên giới.
Ngược lại những hữu tình
Thành tựu ba ác hành
Về thân, lời, và ý
Lại thêm có tà kiến
Phỉ báng các bậc thánh
Chết sinh làm ngạ quỷ
Vào bàng sinh, địa ngục.
Diêm vương tra vấn họ
Về thiên sứ hiện ra:
Trẻ sơ sinh, người già
Người bệnh và xác chết
Phạm tội bị cực hình
Sao không biết chính mình
Sẽ lâm vào cảnh ấy
Ðể phát tâm tu hành
Vẫn buông lung thói ác?
Giờ đây ngươi phải chịu
Hậu quả của ác nghiệp
Do chính ngươi đã làm
Không phải do ai khác.
Diêm vương thẩm vấn xong
Người canh giữ địa ngục
Tra tấn kẻ làm ác
Những cực hình khốc liệt
Quăng vào Ðại địa ngục
Làm toàn bằng sắt nóng
Rồi địa ngục Phấn nị
Ðến địa ngục Than hừng
Qua địa ngục Rừng gai
Ðịa ngục Rừng lá gươm
Và địa ngục Sông vôi
Ðói ăn hoàn sắt nóng
Khát uống nước đồng sôi
Dù đau đớn dữ dội
Ðến chết đi sống lại
Sinh mạng vẫn kéo dài
Bao lâu chưa tiêu nghiệp
Ðiều này Phật thấy biết,
Không nghe từ một ai.
Ðối với bậc hiền trí
Ðược thiên sứ báo động [4]
Không bao giờ phóng dật
Trong diệu pháp bậc thánh.
Thấy sợ trong chấp thủ
Trong hiện hữu sinh tử
Ðược giải thoát chấp thủ
Sinh tử được đoạn trừ
Ðược yên ổn khoái lạc
Ngay hiện tại tịch tịnh
Hết oán hận sợ hãi
Thoát đau đớn khổ sầu.