TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 51
Kinh Kandaraka
I. TOÁT YẾU
Kandaraka Sutta - To Kandaraka.
The Buddha discusses four kinds of persons found in the world - the
one who torments himself, the one who torments others, the one who
torments both himself and others, and the one who torments neither but
lives a truly holy life.
Kinh nói cho Kandaraka.
Phật bàn đến bốn hạng người được tìm
thấy trên đời: hạng người tự hành
khổ, hạng người hành khổ người, hạng vừa tự hành khổ vừa hành khổ người, hạng
không tự hành khổ, không hành khổ người mà lại sống một
đời thực thánh thiện.
II. TÓM TẮT
Du sĩ Kandaraka cùng cư sĩ Pessa con trai người huấn luyện voi,
đến yết kiến Phật. Quan sát sự thanh tịnh
của chúng tỳ kheo [1], du sĩ ca tụng Phật khéo hướng dẫn, và hỏi
chư Phật trong quá khứ, tương lai có được
những chúng tỳ kheo thanh tịnh như hiện nay không [2]. Phật xác nhận là
có, trong chúng tỳ kheo này, có vị là a la hán lậu tận, việc tu hành
đã thành mãn; có vị là bậc Hữu học
khéo kiên trì giới luật, luôn an trú Bốn niệm xứ [3]
để nhiếp phục tham ưu ở đời.
Pessa công nhận sự vi diệu của pháp tu này, vì thỉnh thoảng ông cũng
tu quán bốn niệm xứ [4]. Ông tán thán Phật
đã thấu hiểu về hạnh phúc và bất hạnh của chúng sinh. Với tư cách
người huấn luyện voi, Pessa nhận xét rằng con voi có khi cũng quỷ quyệt
nhưng không bằng người; con người quả thực rắc rối hơn loài thú [5],
miệng nói khác, lòng nghĩ khác. Phật dạy thật có như vậy, và
đề cập bốn hạng người [6] sống ở đời: hạng
tự hành khổ, hạng làm khổ người, hạng làm khổ cả hai, hạng không
làm khổ mình không làm khổ người, tự ngã trú vào Phạm thể [7].
Phật hỏi trong bốn hạng, Pessa thích ý hạng nào. Cư sĩ trả lời ba
hạng đầu không đáng thích ý, chỉ có hạng
thứ tư làm ông khoái. Nói xong ông từ giã Phật vì còn bận nhiều
công việc.
Khi Pessa bỏ đi, Phật bảo chúng tỳ kheo
rằng, giá mà Pessa ở lại thêm chốc lát, ông sẽ
được lợi ích lớn, tuy vậy ông cũng đã
khá được ích lợi từ cuộc luận đàm
ngắn ngủi ấy [8]. Kế đến Phật giảng rộng
cho chúng tỳ kheo về 4 hạng người:
hạng tự hành mình là những kẻ tu khổ hạnh [9] không
đưa đến giải thoát.
hạng làm khổ kẻ khác là người hành những nghề nghiệp gây
đau khổ cho người và vật.
hạng tự làm khổ và làm khổ người là kẻ theo ác giới [10].
hạng không làm khổ mình không làm khổ người là những vị xuất gia
thành tựu giới, từ bỏ các nghiệp ác của thân, lời, hộ trì căn,
tu 4 niệm xứ, chứng 4 thiền và 3 minh, thành bậc a la hán [11].
III. CHÚ GIẢI
1. Kinh sớ: Vì tôn trọng Phật và theo luật, tỳ kheo không nói
chuyện với nhau cũng không dám ho mỗi khi Phật thuyết pháp. Thân không
giao động, tâm không xao lãng, họ
ngồi vây quanh đức Thế tôn như những cụm
mây vây quanh đỉnh núi Tu di. Du sĩ Kandaraka có lẽ thầm so sánh hội
chúng tỳ kheo này với các hội chúng du sĩ
được mô tả trong kinh 76.
2. Theo kinh sớ, Kandaraka không có tri kiến về chư Phật quá
khứ vị lai. Ông chỉ nói lên lời này để tỏ lòng
ngưỡng mộ đối với chúng tỳ kheo thanh tịnh,
khéo được hướng dẫn. Nhưng Phật thì xác nhận lời của du sĩ trên căn
bản thắng trí của Ngài.
3. Bốn niệm xứ được đưa vào
đây để chỉ rõ nguyên nhân uy nghi
tịch tịnh của tăng chúng. Xem
kinh số 10.
4. "Chúng con cũng vậy, khi có cơ hội, chúng con cũng tu tập tứ niệm
xứ; chúng con không hoàn toàn xao lãng thiền
định."
5. Lời này ngụ ý rằng con vật đôi khi
cũng láu cá và lừa bịp, nhưng sự khôn lanh của nó rất giới hạn,
trong khi sự khôn lanh của con người thì vô cùng tận.
6. Luận giải thích đoạn này
được nói để tiếp theo lời Pessa rằng đức
Thế Tôn biết rõ gì là an lạc gì là nguy hiểm cho hữu tình; vì
Phật hiển thị 3 hạng người đầu hành
xử đưa đến lợi lạc. Ðoạn này cũng có
thể liên hệ đến lời ca tụng của du sĩ đối
với tăng chúng; vì Phật sẽ hiển thị 3 lối Ngài không huấn luyện
chúng tỳ kheo, và 1 lối theo đó chư Phật
quá khứ hiện tại vị lai đều huấn luyện chúng tỳ kheo.
7. Vị "không tự hành khổ, không làm khổ người, tự ngã trú vào Phạm
thể "cảm thọ lạc thọ của các thiền,
đạo, quả, và niết bàn. Phạm thể ở
đây có nghĩa là thánh thiện hay thù thắng.
8. Pessa đáng lẽ chứng quả Dự
Lưu, nhưng anh đã rời khỏi chỗ ngồi
đứng dậy khi Phật chưa giảng xong bài Pháp. Tuy vậy anh cũng nhận
được 2 lợi lạc: thêm lòng tin
đối với tăng chúng, và hiểu thêm về
Bốn niệm xứ.
9. Ðoạn kinh về "tự hành khổ "nói chi tiết về những khổ hạnh
mà nhiều người đương thời Phật đang tu tập,
và chính Phật cũng đã từng tu
trong thời gian nỗ lực đạt giác ngộ. Xem
kinh 12.
10. Ðoạn kinh về "tự làm khổ và làm khổ người "mô tả sự tu tập
của người tự hành hạ mình với hy vọng được
phước, bằng cách lập tế đàn trong đó
nhiều con vật bị giết, nhiều kẻ làm công bị áp bức.
11. Ðoạn kinh về hạng "không tự hành khổ, không làm khổ người
"lại sống thánh thiện, cảm thọ thuần lạc thọ, ám chỉ bậc A la hán. Ðể
hiển thị vị ấy không tự hành mình cũng không làm khổ người,
đức Phật mô tả con đường tu tập của vị ấy
để chứng quả.
IV. PHÁP SỐ
Ba nghiệp, ba minh, bốn chân lý, bốn niệm xứ, bốn hạng người, bốn
thiền, năm triền cái.
V. KỆ TỤNG
Bạn Kan-da-ra-ka
Cùng cư sĩ Pessa
Làm nghề huấn luyện voi
Cùng đến yết kiến Phật.
Du sĩ ca tụng Phật
Khéo hướng dẫn chư tăng
Hỏi quá khứ vị lai
Chúng được như vậy chăng?
Phật dạy: "Cả ba thời
Chư Phật cùng một Pháp
Tỳ kheo tu pháp này
Có vị thành La hán.
Hoặc thành bậc Hữu học,
Khéo kiên trì giới luật,
An trú Bốn niệm xứ
Ðể nhiếp phục tham ưu."
Pessa tiếp lời Phật:
- Thế tôn khéo trình bày
Pháp Bốn niệm xứ này
Con thỉnh thoảng tu tập
Con quán thân nơi thân
Quán thọ nơi cảm thọ
Quán tâm ngay nơi tâm
Quán pháp nơi các pháp
Chánh niệm và tỉnh giác
Ðể nhiếp phục tham ưu.
Thế tôn quả thấu suốt
Vui khổ của hữu tình.
Cởi mở thay, loài thú
Rắc rối thay loài người
Sống rối ren xảo quyệt
Lòng với miệng khác nhau.
"Kẻ tự hành, hành người
Kẻ làm khổ cả hai,
Kẻ không làm ai khổ,
Ngươi thích ý hạng nào?"
- Bạch Phật, ba hạng đầu
Không làm con thích ý
Chỉ có hạng thứ tư
Làm con thấy khoái ý.
Biết chân khổ, ưa vui
Sao lại tự hành mình?
Và hành hạ kẻ khác?
Hoặc hành xác cả hai?
Hạng không khổ mình, người
Quả làm con thích ý.
Rồi Pessa cáo từ
Vì bận nhiều công việc.
Phật dạy chúng tỳ kheo:
"Nếu nán lại chốc lát
Kẻ huấn luyện voi ấy
Sẽ được nhiều lợi lạc.
Có kẻ tu khổ hạnh
Về cách ăn mặc ở
Ðều theo lối khổ sở
Ðây là tự hành mình.
Có hạng làm nghề ác
Sát sinh và trộm cắp
Hoặc tra tấn dã man
Là hành hạ người khác.
Làm khổ mình lẫn người
Là kẻ có tà kiến
Giết vô số sinh loài
Cùng phá hoại cây cối.
Mong tẩy sạch tội lỗi
Chúng dựng những tế đàn
Làm khổ người và vật
Bản thân cũng gian nan.
Không làm khổ mình, người
Xuất gia thành tựu giới,
Từ bỏ 10 nghiệp ác
Hộ trì 5 giác quan
Tu tập 4 niệm xứ
Chúng 4 thiền 3 minh
Ðạt vô thượng an ổn
Ðệ tử Phật, người này."
-ooOoo
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 52
Bát thành
(Atthakanagarasuttam)
I. TOÁT YẾU
Atthakanàgara Sutta - The man from Atthakanagara
The venerable Ànanda teaches eleven "dơrs to the Deathless "by which
a bhikkhu can attain the supreme security from bondage.
Người từ thành Bát.
Tôn giả Ànanda dạy 11 "cửa bất tử ", qua cửa này một tỳ kheo có thể
đạt đến vô thượng an ổn khỏi trói buộc.
II. TÓM TẮT
Gia chủ Dasama đến gặp tôn giả
Ànanda hỏi về pháp môn độc nhất mà
nếu tinh tấn tu hành, sẽ khiến tâm chưa giải thoát
được hoàn toàn giải thoát, lậu hoặc
chưa trừ hoàn toàn được đoạn trừ, đạt vô
thượng an ổn. Tôn giả giảng, đó là pháp môn ly dục, ly bất thiện
pháp, chứng trú sơ thiền với 5 thiền chi, lần lượt chứng
đến tứ thiền chỉ còn xả niệm thanh
tịnh; an trú bốn phạm trú: biến mãn 10 phương với Từ tâm giải thoát, Bi
tâm giải thoát, Hỉ tâm giải thoát, Xả tâm giải thoát; tu tập ba trong
bốn Không định là: Không vô biên xứ,
Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ.
Mười một quả vị ấy đều thuộc hữu vi, do
suy tư tác thành. Nếu khi đắc một
thiền chứng nào, hành giả tuệ tri "cái này thuộc hữu vi, do suy
tư tác thành, nên vô thường, bị hoại diệt", vị ấy sẽ tận trừ lậu hoặc.
Nhưng nếu lậu hoặc chưa đoạn, do tham luyến
pháp này, do hoan hỉ pháp này, vị ấy diệt trừ năm
hạ phần kết sử, được hóa sinh vào cõi trời Ngũ tịnh cư, khỏi trở
lui đời này. Như vậy là pháp
độc nhất do Thế tôn giảng. Nếu tỳ kheo nào
không phóng dật, nhiệt tâm tinh tấn hành trì pháp ấy, thì tâm
được giải thoát, lậu hoặc được trừ diệt, vô
thượng an ổn được chứng đạt.
Khi nghe tôn giả Ananda nói vậy, gia chủ Dasama bạch: "Bạch tôn giả,
như người đi tìm một kho tàng lại
được 11 kho; con đi tìm một pháp môn
bất tử mà được nghe 11 pháp môn. Như ngôi
nhà cháy có 11 cửa, chỉ do một cửa người ta cũng có thể thoát ra
an toàn. Cũng vậy chỉ với một cửa bất tử trong 11 cửa này, con có thể
đạt an toàn cho con." Rồi gia chủ
cúng dường Ananda và chúng tăng.
III. CHÚ GIẢI
1. Lời Dasama nói "tâm chưa giải thoát
được hoàn toàn giải thoát, lậu hoặc
chưa trừ hoàn toàn được đoạn trừ, đạt vô
thượng an ổn "ám chỉ quả vị A la hán.
2. "Thuộc hữu vi, do suy tư tác thành "thường
được sử dụng liên kết, chứng tỏ một
trạng thái có điều kiện, mà tư tâm
sở hay ý hành (volition ) là yếu tố chính.
3. Một phương pháp phát triển tuệ quán từ một thiền tịnh chỉ:
Sau khi đắc 1 thiền chứng, hành giả
xuất khỏi thiền ấy và quán sát trạng thái này là pháp duyên sinh -
được phát sinh nhờ điều kiện - yếu tố chính
là tư tâm sở hay ý hành. Trên căn
bản này, vị ấy xác quyết tính vô thường của nó, rồi quán sát
thiền ấy bằng tuệ thâm nhập 3 đặc tính vô
thường khổ vô ngã. Xem thêm kinh 64, một phương pháp hơi khác với
phương pháp này để phát triển tuệ giác trên
căn bản các thiền chứng.
4. "Do tham luyến pháp này, hoan hỉ pháp này "có nghĩa là dục
tham đối với tịnh chỉ và tuệ quán.
Nếu hành giả có thể từ bỏ tất cả dục tham
đối với chỉ và quán, vị ấy trở thành một A la hán; nếu không thể
từ bỏ dục tham, vị ấy không thể trở thành một A la hán; nếu không thể từ bỏ dục
tham, vị ấy thành một vị Bất Hoàn và được
tái sinh vào cõi Tịnh cư thiên.
5. Mười một cửa bất tử là 4 thiền, 4 phạm trú, và 3
thiền chứng Vô sắc: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ,
Vô sở hữu xứ, được dùng làm
cơ sở để phát triển tuệ quán đạt đến A la
hán quả. Phi tưởng phi phi tưởng xứ không
được đề cập ở đây, vì nó quá vi tế
không thể làm đối tượng cho tuệ quán.
IV. PHÁP SỐ
Bốn thiền, bốn phạm trú hay bốn vô lượng, năm
triền cái, năm thiền chi.
V. KỆ TỤNG
Gia chủ Dasama
Ðến thầy Ananda
Xin giảng pháp độc nhất
Do Thế tôn giảng dạy
"Khiến tâm được giải thoát
Lậu hoặc được đoạn trừ
An ổn khỏi trói buộc
Nếu tinh cần gắng tu.
Ly dục, ly bất thiện,
Chứng và trú sơ thiền
Thấy thiền này hữu vi
Do suy tư tác thành
Tu chứng cả bốn thiền
Vẫn thấy nó hữu vi
Không tham đắm thiền này
Ðạt lậu tận, giải thoát.
Tu đến bốn vô lượng
Nhập Không vô biên xứ,
Ðến Thức vô biên xứ,
Cùng Vô sở hữu xứ
Vẫn thấy là hữu vi
Do suy tư tác thành
Không tham đắm Ðịnh này
Ðạt lậu tận, giải thoát
Nếu tham luyến, hoan hỉ
Với một thiền, định nào
Vị ấy sẽ hóa sinh
Vào cõi Tịnh cư thiên
Do vì đã
đoạn trừ
Năm hạ phần kết sử
Nhập niết bàn tại đấy
Khỏi trở lui đời này."
Gia chủ Dasama
Bạch thầy Ananda:
Như tìm một kho tàng
Ðược mười một kho báu
Con tìm cửa bất tử
Lại được mười một cửa;
Như nhà lửa bốc cháy
Có mười một lối ra
Ở đây cũng như vậy
Bốn thiền và ba không
Cùng bốn tâm vô lượng
Cửa giải thoát an toàn."
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 53
Hữu học
I. TOÁT YẾU
Sekha Sutta - The Disciple in Higher Training.
At the Buddha’s request the venerable Ànanda gives a discourse on the
practices undertaken by a disciple in higher training.
Ðệ tử trên đạo lộ hữu học.
Phật bảo tôn giả Ananda giảng về các pháp tu của một bậc hữu học.
II. TÓM TẮT
Những gia chủ dòng họ Sakya thỉnh Phật và chư tăng
đến khánh thành một ngôi giảng đường
[1] ở Kapilavastu. Sau khi thuyết pháp, Phật nằm xuống nghỉ và
bảo tôn giả Ananda giảng Hữu học đạo.
Tôn giả giảng về sáu giai đoạn tác thành
một bậc Hữu học như sau:
1. Thành tựu giới;
2. Giữ gìn tâm ý khi sáu căn tiếp xúc
sáu trần;
3. Tiết độ ăn uống;
4. Chú tâm cảnh giác hay chánh niệm tỉnh giác trong bốn uy nghi;
5. Thành tựu bảy diệu pháp là tín, tàm, quý [2], tấn, văn,
niệm [3], tuệ [4].
6. Lạc trú bốn thiền một cách không khó khăn
mệt nhọc.
Khi thành tựu được sáu phép ấy, vị thánh
đệ tử được gọi là đi trên
đường Hữu học, có trứng không bị hư thối,
có khả năng phá vỡ vỏ vô minh để đạt vô thượng an ổn khỏi các trói buộc.
Khi chứng tứ thiền với xả niệm thanh tịnh [5], thánh
đệ tử được túc mạng minh, nhớ các đời trước
của mình với đại cương và chi
tiết, như phá vỡ lớp vỏ đầu tiên. Vị
ấy với thiên nhãn thấy được sống chết và
nghiệp quả của chúng sinh, như phá lớp vỏ thứ hai. Vị ấy
đoạn trừ tất cả lậu hoặc, chứng đạt an trú
ngay hiện tại, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát [6], như phá lớp vỏ
thứ ba. Như gà ấp trứng, nếu ấp ủ
đúng mức thì dù không ước mong gì, cũng sẽ có lúc gà con mổ vỏ
chui ra.
Thành tựu giới, hộ trì căn, tiết độ ăn
uống, chú tâm cảnh giác, đầy đủ bảy diệu pháp, hiện tại lạc trú bốn
thiền thuộc tăng thượng tâm [7], sáu thứ này thuộc về Hạnh
đức của vị ấy. Ba minh thuộc về Trí đức vị
ấy.
Rồi tôn giả nhắc lại bài kệ của phạm thiên Sanankumàra:
Chúng sinh tin giai cấp,
Vương tộc là tối thượng,
Vị minh hạnh cụ túc,
tối thắng trên nhân thiên [8].
III. CHÚ GIẢI
1. Người ta tin rằng trước khi sử dụng ngôi nhà mới xây, nếu
mời 1 vị tu cao đến ở trước dù chỉ 1
đêm, sẽ
được phước. Niềm tin này vẫn còn tiếp diễn tại các xứ Phật giáo
ngày nay, nên những phật tử xây nhà mới thường mời các tỳ kheo
đến tụng kinh cầu an trước khi dọn vào
ở.
2. Tàm và quý thường đi đôi, được
Phật gọi là vị "hộ trì thế gian "vì nó là nền tảng của
đạo đức. Tàm có
đặc tính biết tự trọng, ghê tởm
điều xấu xa, quý là quan tâm
đến dư luận, sợ làm
điều quấy.
3. Kinh giải thích danh từ sati, niệm, bằng cách nhắc
đến ý nghĩa nguyên thủy của nó là ký
ức. Tương quan giữa 2 nghĩa của niệm - ký ức và chú ý - có thể nói như
sau: sự chú ý sâu sắc đối với những hình
dáng hiện tại là nền tảng để có ký ức chính
xác về quá khứ. Luận nhắc đến niệm ở đây để ám chỉ nó là pháp
đầu tiên trong 7 yếu tố của giác
ngộ.
4. Theo Kinh sớ, tuệ ở đây
là trí sinh diệt thuộc đạo, có thể
thâm nhập sự sinh diệt của 5 uẩn. Trí thuộc đạo được gọi là
thâm nhập bởi vì nó chọc thủng và nhổ tận cái khối tham sân si; Trí
thuộc tuệ quán được gọi là thâm nhập
vì nó tạm thời chọc thủng tham sân si, và vì nó
đưa đến sự thâm nhập bằng đạo lộ.
5. Ðây nói về thiền thứ 4, nền tảng của 3 loại trí tiếp theo.
6. Ở điểm này, vị ấy chấm dứt làm
bậc hữu học và thành bậc A la hán.
7. Những pháp này là 15 yếu tố truyền thống làm nên Hạnh.
Trong toàn thể quá trình tu tập, Hạnh đi
đôi với Minh là 3 loại trí. "Minh hạnh túc "chỉ chư Phật và A la
hán.
8. Câu này được Phật xác nhận trong kinh
Truờng bộ III. Phạm thiên Sanankumàra, "trẻ mãi "theo sớ, là
1 thanh niên đã
đắc thiền, khi chết tái sinh vào
Phạm Thiên giới mà vẫn giữ sắc đẹp đã
có trong hiện hữu cõi người. Xem Trường bộ, Kinh 18.
IV. PHÁP SỐ
Ba minh, bốn thiền, sáu căn, bảy thánh tài.
V. KỆ TỤNG
Tôn giả Ananda
Giảng sáu pháp tác thành
Một bậc thánh Hữu học
Cho bộ tộc Sakya:
Một là thành tựu giới;
Hai gìn giữ sáu căn
Ba tiết độ ăn uống;
Bốn chú tâm cảnh giác
Ðề phòng ô nhiễm khởi.
Năm, tu bảy thánh tài:
Tín, tàm, quý, tấn, văn,
Chánh niệm và tuệ quán.
Sáu lạc trú bốn thiền
Không khó khăn mệt nhọc.
Thành tựu sáu pháp ấy,
Là một vị Hữu học,
Có trứng không bị thối,
Có khả năng phá vỡ
Các lớp vỏ vô minh
Ðạt vô thượng an ổn.
Bốn thiền, túc mạng trí
Là phá vỏ đầu tiên
Thiên nhãn Sinh tử trí
Như phá vỏ thứ hai.
Ðoạn trừ hết lậu hoặc,
Chứng trú ngay hiện tại,
Tâm và tuệ giải thoát,
Là lớp vỏ thứ ba.
Như gà mái ấp trứng
Khi ấp ủ đến thời
Dù không có mong ước
Gà con cũng chui ra.
Sáu yếu tố đầu tiên
Giữ giới đến bốn thiền
Là thuộc về Hạnh đức
Ba minh thuộc Trí đức.
Chúng sanh tin giai cấp,
Vương tộc là tối thượng,
Vị minh hạnh cụ túc,
Tối thắng cõi trời, người.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 54
Potaliya
I. TOÁT YẾU
Potaliya Sutta - To Potaliya.
The Buddha teaches a presumptuous interlocutor the meaning of the
"cutting off affairs" in his discipline. The sutta offers a striking
series of similes on the dangers in sensual pleasures.
Giảng cho Potaliya.
Phật giảng dạy cho một người hợm hĩnh
đến tham vấn, ý nghĩa của "đoạn trừ tục sự" trong pháp luật của Ngài.
Kinh này đưa ra một loạt những ví dụ đặc
sắc về những nguy hiểm của dục lạc.
II. TÓM TẮT
Gia chủ Potaliya đến viếng Phật, bất mãn
khi nghe Phật gọi mình là gia chủ, vì ông đã
giao phó tục sự cho con cái, sống với tối thiểu
đồ ăn mặc. Phật giảng cho ông rõ thế
nào là đoạn tận các tục sự trong giới luật
bậc thánh, ấy là từ bỏ:
1. sát sinh
2. lấy của không cho,
3. nói dối,
4. hai lưỡi,
5. tham dục,
6. sân hận hủy báng,
7. phẫn não,
8. quá mạn;
Do thấy rõ chúng là kiết sử, là triền cái [1], có thể gây ra những
lậu hoặc, phiền lao nhiệt não; trong khi
đối với người đã từ bỏ chúng [2] thì những lậu hoặc, phiền lao
nhiệt não không còn.
Phật dạy thêm, tuy vậy đó chưa phải là
sự đoạn tận toàn diện các tục sự.
Ðoạn trừ toàn diện là thấy rõ dục [3] như khúc xương, như miếng thịt nơi
miệng chim kên, như đuốc ngược gió, như hố
than bừng, như mộng, như vật mượn, như cây có nhiều quả chín… khổ nhiều
não nhiều, nguy hiểm càng nhiều hơn. Do thấy như vậy, mọi chấp
thủ tài vật được đoạn tận, vị ấy tu xả [4],
chứng ba minh. Potaliya tự nhận còn rất xa với sự
đoạn tận ấy, tự nhận lâu nay đã lầm
tưởng là thù thắng những gì chưa phải thù thắng. Ông ca tụng Phật
đã gợi nơi ông lòng ái kính sa môn,
và xin quy y.
III. CHÚ GIẢI
1. Kết sử là trói buộc và sai khiến; triền cái là cột
trói và ngăn che. Mặc dù sát sinh
không gồm trong 10 kết sử và 5 triền cái, nó
được xem là trói buộc vì buộc người
ta vào vòng tái sinh, và triền cái vì nó ngăn
sự an lạc chân thật.
2. Sát sinh và lấy của không cho phải từ bỏ nhờ thân giới; nói
dối và nói lời ác được từ bỏ nhờ ngữ giới;
tham sân kiêu mạn, bỏ nhờ ý giới.
3. Những ví dụ về nguy hiểm của dục được
nói đến trong kinh 22, mặc dù kinh nầy không khai triển về 3 ví
dụ cuối.
4. Theo Luận giải, "xả căn cứ dị biệt" là
xả liên hệ đến 5 dục; "xả căn cứ đồng nhất"
là xả ở thiền thứ 4.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Gia chủ Potaliya
Phẫn nộ và bất mãn
Khi nghe Phật gọi mình
Với danh từ gia chủ
Người phó thác tục sự
Cho những con cái ông,
Và sống rất đạm bạc
Với tối thiểu cần dùng.
Phật giảng đoạn tục sự
Trong giới luật bậc thánh
Là từ bỏ tám pháp
Tai hại và trói buộc:
Sát sinh và trộm cắp
Nói dối và đâm thọc
Tham dục và sân báng,
Phẫn nộ và kiêu căng
Muốn tận trừ tục sự
Cần thấy rõ dục lạc
Chỉ như khúc xương khô
Như miếng thịt chim tha
Như đuốc cầm ngược gió
Như hố đỏ than hừng,
Như một giấc chiêm bao
Như vật mượn phải trả
Như cây có nhiều quả…
Cần phải thấy như vậy
Dục khổ nhiều não nhiều,
Nguy hiểm càng nhiều hơn.
Do thấy được như vậy,
Tận trừ mọi chấp thủ
Chứng bốn thiền, ba minh
Ðạt lậu tận, giải thoát.
Gia chủ Potaliya
Tự nhận còn cách xa
Lâu nay tưởng thù thắng
Những pháp chưa thù thắng.
Rồi ông ca tụng Phật
Ðã gợi lên nơi ông
Lòng ái kính sa môn
Và quy y Tam bảo.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 55
Jivaka
I. TOÁT YẾU
Jivaka Sutta - To Jivaka.
The Buddha explains the regulations he has laid down concerning
meat-eating and defends his disciples against unjust accusatioins.
Giảng cho Jivaka.
Phật giảng những quy luật Ngài đã
chế định về sự ăn thịt và bảo vệ các
đệ tử khỏi bị lên án bất công.
II. TÓM TẮT
Jivaka [1] hỏi Phật, ông ta nghe nói Sa môn Gotama biết con thú bị
giết để làm thịt cúng dường cho mình
mà vẫn dùng, lời nói đó có đúng không hay là
xuyên tạc. Phật xác nhận đó là lời
xuyên tạc, và dạy có ba trường hợp không
được phép dùng thịt, đó là
khi có thấy, nghe và nghi con vật ấy đã
vì mình mà bị giết [2]. Khi một tỳ kheo sống biến mãn mười phương với
bốn phạm trú từ, bi, hỉ, xả, và khi được cư
sĩ mời ăn, vị ấy lúc ăn không tham đắm vị ngon, không hi vọng, thấy rõ
tai họa của tham dục, ý thức sự xuất ly; lúc
ăn không nghĩ đến tự hại, hại người, hại cả
hai. Tỳ kheo ăn như vậy không lỗi. Khi ấy Jivaka tán thán Phật an trú
tâm từ, nhưng Phật dạy rằng tham sân si đã
được Như lai đoạn trừ tận gốc [3].
Ai vì Phật và chúng tăng mà giết
hại sinh vật sẽ tạo nhiều phi công đức do
năm nguyên nhân:
Thốt lên lời nói hãy dắt con vật này
đến.
Con vật khi bị dắt đem giết rất buồn sầu sợ hãi;
Khi người ấy ra lệnh giết;
Con vật cảm thọ khổ ưu lúc bị giết;
Lúc người ấy cúng dường Phật và chúng Tăng
một cách phi pháp.
Jivaka ca ngợi Phật và xin Phật nhận ông làm
đệ tử [4].
III. CHÚ GIẢI
1. Jivaka là đứa con bị bỏ rơi
của một kỹ nữ được vương tử Vô Úy tìm thấy
đem về nuôi. Ông học thuốc ở thành
Takkasila và về sau được đề cử làm y
sĩ chữa bệnh cho Phật. Ông chứng Dự lưu sau khi nghe Phật thuyết pháp.
2. Ðoạn này nói rõ những quy luật về sự
ăn thịt mà
đức Phật đã
đặt ra cho tăng chúng. Người ta
sẽ thấy rằng Phật không đòi hỏi các
tỳ kheo phải ăn chay, mà cho phép họ
ăn thịt khi tin chắc rằng con vật ấy đã
không bị giết cốt để cung cấp thịt cho mình.
Thịt như vậy gọi là "thanh tịnh ở ba phương diện ", vì nó không
được thấy, được nghe, hay được nghi là
thịt của 1 con vật bị giết cốt để đãi
tỳ kheo. Giới luật của Phật tử tại gia "không
được sát sinh "sẽ ngăn cấm vị ấy giết thịt
để cúng dường tỳ kheo nhưng không cấm mua thịt những con vật đã
chết.
3. Ở đây đức Phật chứng tỏ rằng Ngài
an trú tâm từ không chỉ vì đã dập
tắt ác ý bằng thiền quán về từ tâm như Phạm thiên, mà Ngài
đã tận diệt gốc rễ của sân hận nhờ
đã chứng
đắc A la hán quả.
4. Thật khó hiểu ở đây là Jivaka
xin quy y làm đệ tử tại gia trong khi ông đã
chứng quả Dự lưu. Có lẽ công thức này được
sử dụng như 1 phương tiện tái xác nhận sự quy y Tam Bảo của một người,
chứ không chỉ giới hạn vào sự quy y
đầu tiên.
IV. PHÁP SỐ
Ba thứ tịnh nhục, bốn phạm trú.
V. KỆ TỤNG
Jivaka hỏi Phật
Các trường hợp Phật dạy
Về ăn thịt, không ăn
(Tịnh nhục, bất tịnh nhục.)
Bất tịnh là vật sống
Nhìn thấy nó bị giết
Nghe kêu gào thảm thiết
Nghi nó chết vì mình
Ngược lại khi tỳ kheo
Sống biến mãn mười phương
Với từ, bi, hỉ, xả
Ðược mời thọ cúng dường
Khi ăn không tham đắm
Không hi vọng tơ tưởng,
Thấy tai họa tham dục,
Ý thức sự xuất ly;
Không nghĩ đến tự hại,
Không nghĩ đến hại người,
Không nghĩ hại cả hai
Như vậy ăn không lỗi.
Ai vì Phật và tăng
Mà giết hại sinh vật
Sẽ tạo nhiều phi phước
Do năm nguyên nhân này:
Nào khi sai bắt lợn
Nào lúc trói dắt đi
Nào lúc đâm thọc huyết
Nghe tiếng kêu ai bi
Nào lúc nó dãy chết,
Nào lúc đem cúng dường
Cho chúng tăng ăn dùng
Vật cúng dường phi pháp.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 56
Ưu ba ly
I. TOÁT YẾU
The wealthy and influential householder Upàli, a prominent supporter
of the Jains, proposes to go to the Buddha and refute his doctrine.
Instead, he finds himself converted by the Buddha’s "converting magic".
Giảng cho Upàli.
Gia chủ giàu có và nổi tiếng tên Upàli, một thí chủ quan trọng của
giáo pháp Ni kiền tử, định đến bài
bác chủ trương của Phật. Nhưng ngược lại, ông tự thấy mình bị cảm hóa
bởi "pháp thuật cảm hóa" của Phật.
II. TÓM TẮT
Trường khổ hạnh [1] (Dìghatapassi) thuộc pháp Ni kiền tử
đến nơi Phật. Phật hỏi Ni kiền tử chủ
trương có bao nhiêu pháp làm nên ác nghiệp.
Trường khổ hạnh đáp không chủ trương
nghiệp, mà là phạt [2]. Thân phạt, khẩu phạt, ý phạt, ba thứ khác
nhau.
Phật hỏi thứ nào quan trọng nhất, ông
đáp thân phạt [3] quan trọng nhất. Phật hỏi lại ba lần và ông xác
nhận cả ba lần.
Rồi Trường khổ hạnh hỏi lại. Phật nói Ngài không chủ trương phạt mà
chủ trương nghiệp, là ba nghiệp thân, khẩu, ý. Ba thứ khác nhau nhưng ý
là quan trọng nhất [4].
Trường khổ hạnh cũng hỏi lại ba lần để
Phật xác nhận ý nghiệp là quan trọng nhất. Rồi ông cáo từ trở về
thuật lại cuộc đàm thoại với Ni kiền
tử.
Upàli đại thí chủ của Ni kiền tử được cử
đến luận chiến với Phật, nhưng Trường khổ hạnh can ba lần, nói Sa môn
Gotama có huyễn thuật lôi cuốn đệ tử ngoại đạo. Ni kiền tử không tin, cứ
để Upàli đi. Khi được Phật kể lại
cuộc đàm thoại với Trường khổ hạnh, Upàli cũng xác nhận lập
trường của Ni kiền tử là ý nghiệp kém xa thân nghiệp.
Phật bảo nếu ông có thể đàm luận
trong tinh thần tôn trọng sự thật thì ngài sẽ nói chuyện với ông. Sau
khi Upàli chấp nhận điều kiện này,
Phật đưa ra bốn ví dụ cho thấy ý là
quan trọng.
Ví dụ thứ nhất liên hệ đến giới luật
của Ni kiền tử không uống nước lạnh. Phật hỏi nếu một người vì
giữ giới này mà phải chết, thì tái sinh ở
đâu. Upàli đáp ở cõi trời Ý
trước, vì chấp vào ý mà chết [5]. Phật chỉ cho thấy Upàli
đã tự mâu thuẫn với lời nói trước.
Tuy vậy Upàli vẫn thấy thân nghiệp quan trọng hơn.
Phật lấy ví dụ thứ hai là nếu Ni kiền tử hoàn toàn tự chế
không dùng nước lạnh, hoàn toàn chú tâm vào sự chế ngự nước lạnh, hoàn
toàn loại trừ nước lạnh, hoàn toàn thấm nhuần giới kiêng nước lạnh [6],
nhưng lúc đi qua đi lại lỡ dẫm phải côn trùng,
có phạm tội không. Upàli nói không phạm, vì không cố ý [7]. Phật cho
thấy ông đã tự mâu thuẫn lần thứ
hai.
Ví dụ thứ ba: Một người với đại thần
thông lực, với tâm sân hận trong giây lát có thể giết toàn dân
thành Nalanda không? Upàli nói một tâm sân hận có thể giết không những
một thành mà nhiều thành Nalanda.
Ví dụ thứ tư, Phật hỏi ông có nghe những khu rừng của các vị ẩn
sĩ đã trở thành rừng hoang trở lại
vì tâm sân hận của các ẩn sĩ ấy không. Upàli xác nhận có nghe, và thưa
rằng ông đã phục ngay từ ví dụ
đầu tiên, nhưng vì muốn nghe biện
tài của Phật về vấn đề này mà ông
đóng vai trò chống
đối.
Ông ca tụng Phật và xin quy y, nhưng Phật dạy ông rằng người trí cần
phải suy nghĩ kỹ trước khi quyết định. Upàli
càng thán phục Phật, so với thái độ khoe
khoang của các giáo chủ ngoại đạo khi được làm thầy ông.
Upàli lặp lại lời xin quy y, và Phật dạy ông hãy tiếp tục hỗ trợ cho
Ni kiền tử như bấy lâu nay ông đã
làm. Upàli rất cảm động trước lòng
từ bi của Phật, khác với ngoại đạo chỉ muốn
độc tôn, và lặp lại lời cầu xin quy y.
Khi ấy Phật giảng cho ông về bố thí, giới, các cõi trời, sự hạ liệt ô
nhiễm của dục và lợi ích của xuất ly. Rồi Ngài giảng về Bốn thánh
đế. Upàli ngay tại chỗ
được mắt pháp [8] ly trần vô cấu, hoài
nghi về Pháp [9] được tiêu trừ. Ông
cáo từ Phật và về nhà căn dặn gia nhân từ
nay khi các nam nữ Nigantha đến, hãy nói họ chờ ở cổng sẽ bố thí
đồ ăn, nhưng hãy mời
đệ tử Phật vào.
Khi nghe tin ấy, giáo chủ Nigantha đến
gặp Upàli, nhưng không được mời ngồi
chỗ tôn trọng như thường lệ. Ông chỉ trích Upàli
đã điên
rồ mắc phải huyễn thuật cảm hóa của Gotama. Upàli nói: "Thật tốt lành
thay huyễn thuật cảm hóa ấy [10]. Mong sao tất cả bà con dòng họ, mọi
giai cấp, toàn thế giới, kể cả chư thiên nhân loại,
đều được huyễn thuật này lôi cuốn."
Rồi Upàli ví dụ con khỉ con, có thể nhuộm
được, nhưng không thể đập, ủi, làm
thành mềm dịu; cũng vậy là lý thuyết Nigantha ngu si, chỉ
ăn nhuộm với kẻ ngu, không với bậc trí.
Ngược lại giáo lý Phật như vải mới có thể nhuộm, đập, ủi, làm
thành mềm dịu; nghĩa là ăn nhuộm với người
trí, không với kẻ ngu.
Khi được hỏi bây giờ Upàli là
đệ tử của ai, Upàli
đọc lên bài kệ dài ca tụng những
đức tính của Phật. Nigantha không chịu nổi,
ngay tại chỗ thổ ra huyết nóng [11].
III. CHÚ GIẢI
1. Có nghĩa là khổ hạnh Cao vì ông ta rất cao.
2. Pali Danda là cây roi dùng để
trừng phạt và cuối cùng có nghĩa là hình phạt, ngay cả khi không
có khí cụ. Ở đây dường như muốn nói Ni kiền
tử xem thân hành khẩu hành ý hành là những khí cụ qua
đó người ta tự hành hạ bằng cách kéo
dài sự trói buộc vào sinh tử và hành hạ kẻ khác bằng cách làm hại họ.
3. Ni kiền tử chủ trương thân, khẩu tạo nghiệp biệt lập với sự can
thiệp của ý, cũng như khi gió thổi, những cành lay
động và lá xào xạc không cần có tâm
đi trước.
4. Có lẽ Phật nói điều này vì
trong giáo lý Ngài, thì tâm sở hay ý hành là chất liệu cốt yếu của
nghiệp và khi không có ý - nghĩa là trường hợp một thân hành hay ngữ
hành không cố ý - thì không tạo nghiệp. Nhưng Luận giải cho rằng khi
Phật nói điều này là ám chỉ tà kiến
có hậu quả cố định, và dẫn chứng Tăng
Chi I như sau: "Này các tỳ kheo, ta không thấy pháp nào
đáng quở trách cho bằng tà kiến. Tà
kiến là đáng quở trách nhất trong tất cả
các pháp." Các loại tà kiến được mô
tả trong kinh 60.
5. Ni kiền tử không được dùng
nước lạnh vì có chứa sinh vật. Do sự kiêng cử nước lạnh bằng thân và
lời, họ giữ cho thân hành và ngữ hành thanh tịnh, nhưng nếu tâm họ khao
khát nước lạnh thì ý hành của họ bất định,
và như thế họ tái sinh và cõi "những vị trời bị ý trói buộc."
6. Lời này trong kinh Trường Bộ II được
gán cho Ni kiền tử xem như lập thuyết của họ. Nanamoli nêu lên
trong bản thảo rằng ở đây có lẽ muốn chơi
chữ vì Vàri vừa có nghĩa nước vừa có nghĩa là 1
đường cong. Ðại đức Bodhi dịch căn
cứ Luận Trường Bộ Kinh như sau: "Một Ni kiền tử chế ngự đối với tất cả
loại nước; tránh tất cả ác; thấm nhuần với sự tránh tất cả ác." Mặc dù
lời này có ý quan tâm đến sự thanh lọc,
nhưng giọng điệu khác hẳn giáo lý Phật.
7. Phật nêu lên một mâu thuẫn trong lập luận của Ni kiền tử là một
đằng họ cho "thân phạt" quan trọng nhất,
một đằng lại xác quyết sự hiện hữu của ý hoàn toàn thay
đổi tính chất đạo đức của 1 hành vi.
8. Pháp nhãn là Dự lưu đạo. Câu "tất cả
cái gì phải sinh ra đều phải hoại
diệt" chỉ rõ cách thức đạo khởi lên.
Ðạo lấy tịch diệt làm đối tượng, nhưng
nhiệm vụ của nó là đi sâu vào,
thâm nhập tất cả pháp hữu vi, những pháp phải chịu sinh diệt.
9. Pháp được nói ở đây chính là
Tứ diệu đế. Sau khi thấy được Tứ diệu đế,
vị ấy đã cắt đứt kết sử hoài
nghi và bây giờ có được cái thấy cao quý và
giải thoát sẽ đưa người thực hành
phù hợp với cái thấy ấy đạt đến sự diệt khổ
hoàn toàn.
10. Ưu Ba Ly nói điều này
để ám chỉ quả Dự Lưu mà trước
đây ông đã
đắc.
11. Ni kiền tử rất đau khổ vì mất
đệ tử ngoại hộ, và sự buồn khổ của
ông gây một xáo trộn cơ thể đưa đến kết quả
là ông hộc ra máu tươi. Khi đã
hộc ra máu tươi thì ít ai có thể sống được.
Bởi thế người ta mang ông đến Pàvà trên 1 cái cáng và ở
đấy ít lâu sau ông chết.
IV. PHÁP SỐ
Ba nghiệp, bốn sự thật, năm triền cái.
V. KỆ TỤNG
Khổ hạnh Ni kiền tử
Ðến luận đàm với Phật
Về tầm mức quan trọng
Trong quá trình tạo nghiệp
Theo ông là "Thân phạt"
Phật thì dạy "ý nghiệp"
Trường khổ hạnh trở về
Thuật lại cuộc đàm thoại
Giáo chủ Ni kiền tử
Ðề cử Ưu ba ly
Ðại thí chủ của mình
Ðến luận chiến với Phật
Trường khổ hạnh can gián
- Sa môn Gotama
Có huyễn thuật lôi cuốn
Coi chừng sẽ thua to.
Ni kiền tử cả quyết:
- Không thể có chuyện ấy
Ưu ba ly sẽ thắng
Cồ đàm sẽ thua
Khi đến nơi, Phật bảo
"Muốn sáng tỏ vấn đề
Vì tôn trọng sự thật
Thì có thể đàm luận."
Ưu ba ly chấp thuận
Phật hỏi: "Người giữ giới
Do kiêng cữ nước lạnh
Chết tái sinh chỗ nào?"
- Ở cõi trời Ý trước
Do vì chấp vào ý.
Phật bảo Ưu ba ly:
"Ông đã tự mâu thuẫn."
Phật lại hỏi ông ta
"Người kiêng uống nước lạnh
Nhưng dẫm chết côn trùng
Thì có phạm tội không?"
Ưu ba ly: - Không phạm,
Vì không có cố ý.
Phật lại cho ông thấy
Ðã tự phản lại mình.
"Với gươm giáo, một người
Có thể giết nhiều người
Trong giây lát được không?"
- Thưa Cồ đàm, không thể.
"Người có đại thần thông
Trong giây lát nổi giận
Có thể giết bao nhiêu?"
- Giết cả toàn thế giới.
"Tại sao rừng ẩn sĩ
Ðã trở lại rừng hoang?"
Ưu ba ly trả lời
- Do tâm sân ẩn sĩ
Với ví dụ đầu tiên,
Con đã bị luận bại
Muốn nghe Thế tôn dạy
Nên con vờ chưa tin.
Ông xin quy y Phật
Phật dạy ông nghĩ kỹ
Trước khi làm quyết định
Xứng thái độ người trí.
Ưu ba ly bạch Phật:
- Các bậc đạo sư khác
Nếu được con xin theo
Sẽ rêu rao khoác lác
Thế tôn không như vậy
Con xin quy y Phật
Pháp và Tỳ kheo tăng
Xin trọn đời quy ngưỡng.
Phật bảo Ưu ba ly:
"Hãy tiếp tục cúng dường
Cho ai đến xin ông
Như các Ni kiền tử."
- Ôi đức Phật từ bi
Khác xa kẻ độc tôn
Con bội phần hoan hỉ
Xin trọn đời quy y.
Phật giảng về bố thí,
Giới, và các cõi trời,
Sự hạ liệt của dục
Và lợi ích xuất ly.
Khi tâm ông thuần thục
Phật giảng Bốn thánh đế.
Ông đắc ngay Pháp nhãn
Về Pháp hết hoài nghi.
Ông cáo từ đức Phật
Về nhà dặn gia nhân
Mở cửa đón chư tăng
Ðóng cửa Ni kiền tử.
Giáo chủ Ni kiền tử
Ðến gặp Ưu ba ly
Không còn được tôn trọng
Ngồi cao như mọi khi.
Ni kiền tử tức tối
Trách ông thật ngu si
Ðể Cồ đàm dụ dỗ
Với huyễn thuật bùa mê.
- Vi diệu thay huyễn thuật
Ưu ba ly tiếp lời,
- Thật tốt lành, lợi ích
Huyễn thuật cảm hóa này
Mong bà con dòng họ,
Mong cho mọi giai cấp,
Mong cho cả thế gian
Ðược Cồ đàm dụ dỗ
Vì nhân loại chư thiên
Nhờ huyễn thuật cảm hóa
Của Thế tôn Như lai
Sẽ an lạc lâu dài.
Lý thuyết Ni kiền tử
Chỉ thích hợp kẻ ngu.
Nay tôi là đệ tử
Thế tôn Ðiều ngự sư.
Bậc tham ái tận trừ
Bậc trí tuệ tuyệt luân.
Nghe ca tụng Thế tôn
Nigantha thổ huyết.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 57
Hạnh con chó
I. TOÁT YẾU
Kukkuravatika Sutta - The dog-duty Ascetic.
The Buddha meets two ascetics, one who imitates the behaviour of a
dog, the other who imitates the behaviour of an ox. He reveals to them,
the futility of their practices and gives them a discourse on kamma and
its fruit.
Khổ hạnh Chó.
Phật gặp hai nhà khổ hạnh, một người bắt chước lối sống của chó, một
người bắt chước lối sống của bò. Ngài cho họ biết sự vô ích của lối tu
ấy, và giảng cho họ nghe về nghiệp và quả báo.
II. TÓM TẮT
Khổ hạnh chó và khổ hạnh bò [1] đến gặp
Phật, hỏi về chỗ tái sinh tương lai của các hạnh như thế nào. Phật cho biết
có hai hậu quả chờ đợi: Một là được
sinh và loài chó, bò, nếu bắt chước giống hệt; hai là sinh vào
địa ngục [2] nếu bắt chước không giống, mà
lại có tà kiến cho rằng làm vậy sẽ được lên
trời. Họ xin Phật giảng Pháp để từ bỏ được
khổ hạnh sai lạc.
Phật giảng về bốn loại nghiệp và quả báo:
1. Nghiệp đen có quả báo đen,
như sau khi làm những thân ngữ ý hành có tổn hại [3], sẽ sinh vào thế
giới có tổn hại [4], và do xúc những tổn hại nên cảm thọ khổ.
2. Nghiệp trắng có quả báo trắng, như sau khi làm các thân ngữ
ý hành không có tổn hại [5], sẽ sinh vào thế giới không có tổn hại [6] ;
do xúc những xúc không tổn hại mà cảm thọ lạc.
3. Nghiệp nửa đen nửa trắng
[7], là một phần tốt một phần xấu, sinh vào cõi dữ có lành có, như cõi
người. Do vậy Phật dạy, sự sinh ra của một hữu tình tùy thuộc vào chính
nó; hữu tình là kẻ thừa tự hạnh nghiệp mình [8].
4. Nghiệp không đen không trắng [9],
đưa đến quả báo không đen trắng, tức sự đoạn tận các loại nghiệp, đó là
tư tâm sở hay ý chí đoạn tận các loại
nghiệp đen, trắng và hỗn hợp đã
nói trên.
Hai khổ hạnh nghe xong tán thán Phật, Khổ hạnh Bò xin quy y, khổ hạnh
Chó xin xuất gia thọ giới cụ túc. Phật dạy ngoại
đạo cần trải qua bốn tháng thử thách trước
khi xuất gia, nhưng Ngài biết rõ căn
tính các hạng người [10]. Khổ hạnh Chó chấp nhận dù có phải trải
qua bốn năm thử thách để được xuất gia. Sau
khi thọ giới cụ túc không bao lâu, Khổ hạnh Chó Seniya chứng quả A la
hán.
III. CHÚ GIẢI
1. Punna tu hạnh bò bằng cách mang sừng trên
đầu, cột đuôi sau lưng và
ăn cỏ cùng với những con bò. Seniya
thực hành tất cả hạnh của 1 con chó.
2. Sinh địa ngục là do tà kiến
cho rằng khổ hạnh ấy sẽ dẫn đến tái sinh cõi
trời. Cần chú ý rằng sự tu tập khổ hạnh sai lầm có hậu quả ít nghiêm
trọng khi nó được thực hành không
kèm theo tà kiến hơn là khi có kèm theo tà kiến. Mặc dù ngày nay ít ai
thực hành khổ hạnh chó, bò, song nhiều kiểu sống lạc hướng
đã thành phổ biến và lại
được biện minh bằng một tà thuyết,
do vậy hậu quả của những lối sống này càng tai hại hơn nữa.
3. Thân ngữ (ngữ hành, ý hành ) "có hại" có thể hiểu là 10 bất thiện
hành trái với 10 thiện nghiệp đạo: về 3
thân, 4 về ngữ và 3 về ý. Xem kinh số 9.
4. Thế giới có tổn hại là như 1 trong các
đọa xứ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
5. Ở đây muốn nói đến các ý hành
chịu trách nhiệm về 10 nghiệp thiện và ý hành thuộc các cõi thiền.
6. Vị ấy được tái sinh vào cõi
trời.
7. Nói 1 cách chân chính, thì không có ý hành nào có thể
đồng thời vừa thiện vừa bất thiện, vì
ý hành chịu trách nhiệm về hành vi phải làm thì hoặc thiện, hoặc bất
thiện. Ở đây ta nên hiểu hữu tình
vướng vào những hành động thiện có ác có,
nhưng không 1 hành động nào
đặc biệt nổi bật.
8. Hữu tình tái sinh tùy theo nghiệp đã
làm và theo những cách phù hợp với những nghiệp ấy. Những ngụ ý của
thuyết này được diễn rộng trong kinh
135-136.
9. Chính là ý hành thuộc 4 đạo lộ siêu
thế mà tột cùng là A la hán quả. Mặc dù vị a la hán cũng làm các hành
vi, nhưng những hành vi của vị ấy không còn tác dụng của nghiệp
để phát sinh hiệu hữu mới hoặc để đem lại
kết quả ngay trong kiếp này.
10. Phật có thể quyết định: "Người này
cần qua thời gian thử thách, người này không cần."
IV. PHÁP SỐ
Ba thọ, bốn loại nghiệp (đen, trắng, vừa
đen vừa trắng, không đen không trắng), năm thú ( cõi tái sinh ):
trời, người, địa ngục, quỷ, súc.
V. KỆ TỤNG
Punna Khổ hạnh Bò
Seniya khổ hạnh Chó
Cùng đi đến gặp Phật,
Hỏi tái sinh tương lai
"Nếu hành trì viên mãn
Chó, bò là chỗ sinh
Hoặc sinh vào địa ngục
Nếu không làm như in."
Hai khổ hạnh khóc lóc:
Chúng con tu hạnh ấy
Nay xin Phật chỉ đường
Tu hành theo chính đạo.
Phật dạy bốn loại nghiệp:
Nghiệp toàn đen, toàn trắng
Nghiệp nửa đen nửa trắng
Và nghiệp không trắng đen.
Ðen là nghiệp tổn hại
Sinh cõi có tổn hại
Phải cảm thọ khổ đau
Như địa ngục, quỷ, súc.
Vô hại là nghiệp trắng
Sinh cõi không tổn hại
Nên cảm thọ an vui
Như ở trên thiên giới
Nghiệp vừa đen vừa trắng
Sinh cõi có dữ lành
Thọ có vui có khổ
Như trong cõi người ta
Nghiệp không đen không trắng
Không quả báo trắng đen
Là do tư tâm sở
Ý chí đoạn tận nghiệp
Như khi vị la hán
Dù có làm việc lành
Cũng không ham quả báo
Tương lai khỏi thọ sinh.
Do vậy các hữu tình
Sinh ra do chính nó
Thọ vui hay thọ khổ
Thừa tự hạnh nghiệp mình
Hạnh Bò xin quy y
Hạnh Chó xin thọ cụ
Dù phải qua thử thách
Vì ngoại đạo xuất gia
Phật biết rõ căn cơ
Nên độ cho Seniya
Thọ giới không bao lâu
Ông chứng thành La hán.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 58
Vô Úy vương tử
I. TOÁT YẾU
Abhayaràjakumàra Sutta - To Prince Abhaya.
The Jain leader, Nigantha Nàtaputta, teaches Prince Abhaya a
"two-horned questions" with which he can refute the Buddha’s doctrine.
The Buddha escapes the dilemma and explains what kind of speech he would
and would not utter.
Nói cho Vô Úy vương tử.
Giáo chủ Ni kiền tử dạy cho Vô Úy vương tử một "câu hỏi hai móc"
để có thể bài bác thuyết của Phật.
Phật thoát khỏi ngõ bí và giải thích loại lời nào Ngài sẽ nói và loại
nào không.
II. TÓM TẮT
Ni kiền tử bày cho vương tử Vô Úy [1] một câu hỏi hai móc [2]
để đến chất vấn Phật: "Như lai có bao giờ
nói một lời làm kẻ khác buồn không?" Nếu
đáp có, thì khác gì phàm phu. Nếu
đáp không, thì thành nói dối, vì
Phật mới vừa nói Devadatta sẽ rơi vào đọa
xứ, khiến cho Ðề bà rất phẫn nộ. Như vậy khi Cồ
đàm bị hỏi câu này sẽ như nuốt phải
một cái móc sắt, không thể nhả ra cũng không thể nuốt vào.
Vương tử theo lời, thỉnh Phật đến nhà
thọ trai xong, hỏi như trên. Nào ngờ Phật hỏi lại ông: "Có phải ngươi
chờ đợi Như lai trả lời có hoặc không
chăng?"
Vương tử nói: "Bạch Thế tôn, Ni kiền tử
đã bị bại ngay hiệp đầu."
Phật gạn hỏi, ông thú nhận Ni kiền tử chờ
đợi Phật trả lời có hoặc không để phản bác,
không dè gặp trường hợp này. Khi ấy Phật chỉ vào
đứa bé trai đang được bế ngồi trên
gối vương tử và hỏi ông ta:
"Giả sử người vú em sơ ý để đứa bé nuốt
phải một cái móc sắt, ông sẽ làm sao?"
- Bạch Thế tôn, con sẽ lôi cái móc ấy ra, dù có phải làm cho
đứa trẻ đau đớn, chảy máu miệng. Vì
con rất thương đứa bé.
Khi ấy Phật dạy: "Như lai cũng vậy, vì thương xót hữu tình, Như Lai
sẽ biết thời để nói cho chúng lời nói đúng
sự thật, tương ứng với mục đích, dù lời ấy có thể làm họ ưa thích
hay không." [3]
Khi ấy vương tử bạch Phật, trước khi đến
chất vấn Phật, ngoại đạo phải họp nhau cân nhắc đủ thứ mới nghĩ ra được
một câu hỏi; phải chăng Ngài cũng suy nghĩ trước và chuẩn bị sẵn
những câu trả lời.
Phật hỏi ông: "Ông có rành về xe cộ không?" Vương tử
đáp có, vì
đó là sở trường của ông ta.
Phật hỏi, "Ông có cần phải suy nghĩ về những bộ phận xe
để mỗi khi ai hỏi, có thể trả lời thông
suốt?"
Vương tử cười lớn: "Dạ không, con quá rành về xe nên ai hỏi là
đáp ngay, khỏi cần chuẩn bị gì ráo."
Phật dạy Như lai cũng vậy, đã
liễu tri pháp giới [4] nên không cần phải suy nghĩ rồi mới trả lời.
Vương tử Vô úy ca tụng Phật và xin quy y.
III. CHÚ GIẢI
1. Vô Úy vương tử là con trai vua Bimbisara ( Bình Sa ) xứ Ma Kiệt
Ðà, nhưng không phải là người thừa kế ngai vàng.
2. Ni kiền tử bày ra 1 thế lưỡng nan vì dự
định Phật sẽ đưa ra câu trả lời một chiều (
có hoặc không ).
Nhưng khi sự trả lời 1 chiều đã
bị loại bỏ, ngõ bí đưa ra trở thành
vô hiệu.
3. Phật không ngần ngại rầy la quở trách
đệ tử khi Ngài thấy cách nói như vậy sẽ
đem lại lợi ích cho họ.
4. Theo Luận giải, pháp giới là ám chỉ trí toàn tri của Phật. Ở
đây không nên lầm lẫn pháp giới với
danh từ pháp giới dùng để chỉ đối tượng của
ý trong 18 giới, cũng không có ý nghĩa nguyên lý vũ trụ bao trùm
khắp mọi sự trong Phật giáo đại thừa.
IV. PHÁP SỐ
Ba điều kiện Phật nói ra lời
gì:
1. đúng sự thật; 2. đúng thời; 3. Tương
ứng với mục đích ( nghĩa là, có nhắm
đến một mục đích nào đó, ví dụ cảm
hóa người nghe ). Người nghe có ưa thích hay không ưa thích, không thành
vấn đề.
V. KỆ TỤNG
Vương tử Abhaya (Vô úy)
Ðến thăm Ni kiền tử
Vị này bảo vương tử
Ðến chất vấn Thế tôn
Với câu hỏi hai móc
Trả lời không cũng kẹt
Nói có cũng không xong
Như lưỡi câu móc họng:
Như lai có bao giờ
Nói làm buồn kẻ khác
Nếu có, giống phàm phu
Nếu không, thành nói dối.
Vì chính Ngài vừa nói
Khiến Ðề Bà rất đau
Bị chất vấn như vậy
Như nuốt phải móc câu.
Vương tử theo lời thầy
Thỉnh Phật về thọ trai
Rồi lân la khẽ nói:
- Xin được hỏi Như lai
Như lai có bao giờ
Nói làm buồn kẻ khác?
"Có phải ngươi chờ đợi
Ta nói có hoặc không?"
Vương tử Vô Úy thưa
- Ni kiền tử đã thua.
Khi Phật hỏi lý do
Ông ta bèn thuật lại.
Phật chỉ đứa hài nhi
Ngồi trên vế vương tử
"Ông sẽ phải làm gì
Khi nó nuốt lưỡi câu?"
Con sẽ móc họng nó
Dù phải làm nó đau
Và chảy máu đầy miệng
Vì lòng xót thương sâu.
"Như lai cũng thế ấy,
Vì thương xót người đời
Và gặp lúc đúng thời
Sẽ nói lời chân thật,
Lời tương ứng mục tiêu,
Dù chúng sinh ưa thích
Hoặc chúng không ưa thích
Vì tâm Phật xót thương."
- Bạch Phật, con vẫn thấy
Bà la môn có trí
Thường soạn sẵn câu hỏi
Ðể chất vấn Thế tôn.
Chẳng hay đức Thế tôn
Có thường ngày chuẩn bị
Nghĩ sẵn câu trả lời
Hay đáp ngay tại chỗ?
"Này vương tử, chẳng hay
Ông rành về xe cộ?"
- Quả vậy, bạch Thế tôn
Ðấy sở trường của con.
"Ông có thường suy nghĩ
Về những bộ phận xe
Ðể phòng khi ai hỏi
Sẽ trả lời cho nghe?"
- Dạ thưa không, bạch Phật
Con quá rành về xe
Nên ai hỏi đáp liền
Không cần gì suy nghĩ.
"Cũng thế, với Như lai
Ðã liễu tri pháp giới
Nên không cần nghĩ suy
Ðể trả lời câu hỏi."
- Vi diệu thay, Thế tôn
Như người dụng đứng lên
Những gì bị quăng ngã
Phơi bày cái che khuất,
Chỉ đường kẻ lạc hướng
Ðem đèn vào bóng tối
Cho những người có mắt
Có thể thấy hình sắc.
Cũng vậy, đức Thế tôn
Nay con xin quy y
Từ nay đến mạng chung
Con trọn đời quy ngưỡng.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 59
Nhiều cảm thọ
I. TOÁT YẾU
Bahuvedaniya Sutta - The many kinds of Feeling.
After resolving a disagreement about the classification of feelings,
the Buddha enumerates the different kinds of pleasure and joy that
beings can experience.
Kinh Nhiều cảm thọ.
Sau khi giải quyết một bất đồng về phân
loại các cảm thọ, Phật kể ra các loại lạc và hỉ mà hữu tình có
thể cảm thọ.
II. TÓM TẮT
Thợ mộc Pancakanga một cư sĩ, cãi nhau với tỳ kheo Ưu
đà di. Thợ mộc bảo chỉ có hai thọ là
lạc và khổ. Tỳ kheo bảo có ba thọ là lạc, khổ, và không lạc không khổ.
Thợ mộc cãi loại thọ thứ ba ấy cũng thuộc về lạc, như cảm thọ không khổ
không lạc ở thiền thứ tư. Hai bên không ai chịu ai. Tôn giả A nan chứng
kiến cuộc đàm thoại, về thuật lại
với Phật.
Phật dạy, có khi Ngài giảng hai thọ có khi Ngài giảng ba thọ có khi
Ngài giảng 5 thọ, 6 thọ, 18 thọ, 36 thọ, 108 thọ, … tùy từng pháp môn.
Người biết vậy sẽ không cãi nhau, mà sống hòa hợp.
Rồi Phật giảng có nhiều cấp bực lạc thọ: Thấp nhất, dục lạc là khoái
cảm do năm giác quan đem lại khi tiếp xúc
với năm đối tượng vật chất.
Kế đến là hỷ lạc sơ thiền, rồi
nhị thiền, tam, tứ thiền, Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu xứ, Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, và cuối cùng Diệt thọ tưởng
định. Càng lên cao lạc thọ càng tinh
tế; nên Phật không chấp nhận xem một lạc thọ nào trong
đó là thù thắng nhất.
III. CHÚ GIẢI
1. Thợ mộc của vua Ba tư nặc xứ Kosala là 1 tín
đồ thuần thành của Phật. Ông ta còn
xuất hiện trong kinh 178 và 127.
2. Hai thọ là thân thọ và tâm thọ, hoặc 2 loại thọ mà thợ mộc
nói gồm khổ thọ và lạc thọ ( bao gồm cả thiền lạc tối thắng ) thì ít phổ
thông.
Ba thọ là 3 loại cảm giác được Ưu
Ðà Di đề cập: khổ, lạc, và
bất khổ bất lạc.
Năm thọ là thân lạc, tâm
hỷ, thân khổ, tâm ưu, và xả.
Sáu thọ là những cảm thọ do xúc sinh qua 6 giác quan.
18 thọ là căn trần tiếp xúc sinh
ra 6 loại hỷ, 6 loại ưu và 6 loại xả (xem kinh 137).
36 loại thọ là 6 hỷ, 6 ưu, và 6 xả, mỗi loại gồm hai, là hỷ ưu
xả thuộc đời sống tại gia hay hỷ ưu xả
trong đời sống xuất gia (xem kinh 137).
108 loại thọ là 36 loại thọ đã
nói, phối hợp với ba thì quá khứ, hiện tại, và vị lai.
3. Luận giải nêu lên rằng khi nói về cảm thọ không khổ không lạc của
tứ thiền là 1 loại lạc thọ, đức Phật đã
ngầm chấp nhận quan điểm của thợ mộc đưa
ra.
4. Cả hai loại lạc được cảm thấy và
không được cảm thấy; loại không được cảm
thấy tức là lạc liên hệ đến sự chứng
đắc diệt định. Ðức Như Lai mô tả cả 2 là lạc thọ với ý nghĩa
chúng không có khổ.
IV. PHÁP SỐ
Hai thọ, ba thọ, năm dục trưởng dưỡng,
năm căn, năm trần, sáu thọ, chín định thứ đệ, 18 thọ, 36 thọ, 108 thọ.
V. KỆ TỤNG
Thợ mộc tên Ngũ phần
Ðến nơi Ưu đà di
Tỳ kheo đệ tử Phật
Hỏi có bao nhiêu thọ.
- Thế tôn thuyết ba thọ
Lạc thọ và khổ thọ
Cùng bất khổ bất lạc
Chính tôi đã
được nghe.
- Tôn giả Ưu đà di
Thế tôn thuyết hai thọ
Còn bất khổ bất lạc
Là thiền lạc tối cao.
- Thế tôn thuyết ba thọ
Không phải thuyết hai thọ.
Tỳ kheo và thợ mộc
Không ai chịu nghe ai.
Chứng kiến cuộc luận đàm
A nan về bạch Phật
Phật dạy: "Tùy pháp môn
Ta nói hai, ba thọ.
Ta cũng giảng năm thọ
Sáu thọ, mười tám thọ,
Băm sáu, trăm linh tám…
Tùy theo mỗi pháp môn.
Những điều đã trình bày
Ai không khéo lĩnh hội
Tranh chấp sẽ xảy ra
Bằng binh khí miệng lưỡi.
Hỉ lạc do năm dục
Sắc thanh hương vị xúc
Ðược gọi là dục lạc
Chưa phải tối thắng lạc.
Vì còn có hỉ lạc
Do ly dục sinh ra
Do ly bất thiệt pháp
Khi chứng trú sơ thiền
Lạc này hơn dục lạc
Nhưng cũng chưa thù thắng
Bằng hỷ lạc nhị thiền
Ðịnh sanh, không tầm tứ
Tam thiền vi diệu hơn
Với xả niệm lạc trú
Tứ thiền càng vi diệu
Xả niệm thanh tịnh lạc.
Khi vượt qua sắc tưởng
Trừ các chướng ngại tưởng
Chứng Không vô biên xứ
Lạc càng thù thắng hơn.
Lên đến Thức vô biên
Rồi Vô sở hữu xứ
Phi tưởng, phi phi tưởng
Lạc càng thêm tinh vi
Tột cùng, Diệt tận định
Dù không còn lạc thọ
Cũng được gọi là lạc
Với nghĩa không còn khổ
Những ai khéo lĩnh hội
Pháp được giảng nhiều cách
Sẽ lìa được tranh cãi
Sống hòa hợp an vui."
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 60
Không gì chuyển hướng
I. TOÁT YẾU
Apannaka Sutta - The Incontrovertible teaching.
The Buddha gives a group of brahmin householders an "incontrovertible
teaching" that will help them steer clear of the tangle in contentious
views.
Giáo lý không thể tranh cãi.
Phật giảng cho một nhóm gia chủ là bà la môn một giáo lý không ai cãi
được, để giúp họ khỏi mắc kẹt vào sự
rối ren của các quan điểm tranh chấp.
II. TÓM TẮT
Phật trình bày cho các gia chủ làng Sala [1] một số quan
điểm mâu thuẫn nhau của các sa môn bà
la môn đương thời, và dạy một pháp
môn không thể tranh cãi [2]. Ngài đề cập
năm tà thuyết đương thời:
1. Chấp hư vô luận hay duy vật cực
đoan
2. Chấp không có đời sau và quả báo;
3. Chấp không có quả báo các nghiệp lành dữ;
4. Thuyết định mệnh, vô nhân; [3]
5. Không các cõi vô sắc;
6. Không có Hữu diệt hay Niết bàn.
Mỗi chủ trương đều có một lập trường
ngược lại với nó. Cuối cùng Ngài đề
cập bốn hạng người như ở kinh 51: tự hành khổ, hành khổ người,
hành khổ cả mình lẫn người, và không hành khổ mình, người.
Người chủ trương 3 thuyết đầu [4], thì
có thể từ bỏ ba thiện pháp về thân, ngữ, ý, thực hành ba ác pháp về thân
ngữ ý; vì họ không thấy sự nguy hiểm, hạ liệt của bất thiện pháp và lợi
ích của thiện pháp [5]. Họ cũng nói trái ngược với thánh giáo, vì các
bậc thánh đều biết có đời sau. Vậy là
do duyên tà kiến Phi hữu [6], khởi lên các ác pháp: tà tư duy, tà ngữ, tà
nghiệp, sự đối nghịch với các bậc thánh, sự
thuyết phục chống lại diệu pháp, sự khen mình chê người. Những
người chủ trương ngược lại thì có chính kiến, và do chính kiến, khởi lên
các thiện pháp: chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, không
đối nghịch các bậc thánh, thuyết phục thuận
với diệu pháp, không khen mình chê người.
Về thuyết đầu "không có đời sau", người
có trí sẽ nghĩ rằng: nếu chủ trương ấy là
đúng, thì người chủ trương khi mạng
chung sẽ cảm thấy an toàn [6], vì không có
đời sau [7], nên việc ác họ đã
làm không có quả báo; nhưng hiện tại họ vẫn bị người trí quở trách. Còn
nếu chủ trương của họ sai, thì họ bị mất mát cả hai phương diện [8],
hiện tại bị người trí quở trách, tương lai còn chịu quả báo, sinh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ngược
lại, người chủ trương Hữu kiến [9] và hành xử tùy theo
đó, thì
được lợi cả hai phương diện: hiện tại được người trí tán thán, và
tương lai sinh vào thiện thú, cõi trời [10]. Về thuyết thứ hai "Vô hành"
[11] và thứ ba "Vô nhân" [12] hay thuyết
định mệnh [13] cũng vậy.
Ðối với lập trường thứ 4 "Không thể có vô sắc toàn diện" [14] người
có trí nên suy nghĩ: Người có chủ trương này chỉ khao khát sinh vào cõi
chư thiên có sắc [15] do "ý" thành. Còn nếu chủ trương ngược lại, "có
thể có một vô sắc toàn diện" thì người này sẽ khao khát sinh vào cõi chư
thiên vô sắc do "tưởng" thành [16]. Vị ấy nghĩ, nhân cái gì có sắc
đều có đấu tranh, nhưng sẽ không có đấu
tranh trong một thế giới hoàn toàn vô sắc. Do nghĩ như vậy, vị ấy
thành tựu sự yểm ly, ly tham, diệt tận đối
với sắc pháp.
Ðối với lập trường thứ 5, "Không thể có Hữu diệt toàn diện" [17]
người có trí suy nghĩ: ai chủ trương như vậy sẽ khao khát tái sinh vào
cõi vô sắc do tưởng. Còn nếu chủ trương ngược lại, "Có thể có Hữu diệt
toàn diện" thì vị ấy có thể hi vọng nhập niết bàn ngay hiện tại [18].
Quan điểm đầu gần với tham ái, kết sử, chấp
thủ, quan điểm sau gần với ly tham, không chấp thủ, gần với ái diệt. Do
suy tư như vậy, vị ấy thành tựu yểm ly, ly tham,
đoạn diệt đối với các hữu.
Về bốn hạng người, hạng 1 tự hành khổ là hạng tu các khổ hạnh; hạng 2
làm khổ kẻ khác là hạng làm các nghề ác; hạng 3 hành khổ cả hai, là hạng
vua chúa gia chủ theo ác giới, dựng tế đàn
giết hại sinh vật. Hạng 4 không làm ai khổ là vị a la hán xuất hiện ở
đời, từ bỏ 5 triền cái, chứng trú 4 thiền 3
minh, tự thân cảm thấy mát lạnh.
Sau khi nghe pháp các bà la môn ở làng Sala xin quy y Tam bảo.
III. CHÚ GIẢI
1. Làng Sa la nằm ở lối vào rừng, nơi có nhiều sa môn bà la môn thuộc
nhiều giáo phái thường nghỉ đêm,
trình bày quan điểm của mình và
đả kích quan điểm của người khác, điều này
làm cho dân làng bối rối không biết tin theo giáo lý nào.
2. Không thể tranh cãi, Apan năm
triền cái, năm triền cái, naka, theo Luận giải, là 1 giáo
lý không thể nói ngược lại, 1 giáo lý sáng sủa, chắc chắn, dễ chấp nhận,
không có ý nghĩa mập mờ. Danh từ này cũng xuất hiện trong kinh Tăng
Chi Bộ 3-4.
3. Ba loại kiến ấy gọi là tà kiến có hậu quả xấu nhất
định. Người nào tin theo chúng là
đóng cửa ngõ tái sinh lên thiên
đường, đóng cửa ngõ
đưa đến giải thoát.
4-5. Sự khảo sát 3 kiến chấp này diễn tiến theo
đường lối sau: Phật nêu lên kiến
chấp A và phản đề của nó là B. Xét
kiến chấp A trước, trong A.i Ngài chứng minh hậu quả tai hại của kiến
chấp này trên ba nghiệp thân, khẩu, ý. Trong A.ii Ngài tiếp tục phê phán
rằng kiến chấp ấy thực sự là sai, và nói
đến những hậu quả tiêu cực của sự tin theo kiến chấp ấy. Rồi
trong A.iii Ngài chứng minh làm thế nào 1 người trí
đi đến kết luận rằng dù kiến chấp ấy
đúng hay không đúng, tốt hơn hết là
nên bác bỏ nó.
6. Kế tiếp lập trường B được xét đến.
Trong B.i Phật mô tả ảnh hưởng tốt lành của kiến chấp này trên
lối hành xử. Trong B.ii Ngài đưa ra những
hậu quả tích cực của sự theo 1 quan điểm như thế. Và trong B.iii
Ngài chứng minh làm thế nào 1 người trí đi
đến kết luận rằng, bất luận sự thật ra sao, tốt nhất cho vị ấy là
nên xem như thể là quan điểm ấy đúng, và
hành xử theo đó.
7. Xem chú thích kinh 41 giải thích những cách diễn
đạt khác nhau của quan điểm "không có đời
sau."
8. Danh từ Pàli là Susilya ( thiện giới ) và Dusilya (
ác giới ). Vì ác giới nghe ra mâu thuẫn, giới có nghĩa là
đạo đức, nên ở
đây dịch là thiện pháp và bất thiện
pháp.
9. Vị ấy đã tự trấn an mình do
nghĩ mình sẽ không phải đau khổ trong một
đời sau. Tuy nhiên vị ấy vẫn còn chịu những loại khổ phải gặp
trong đời này, mà Phật sắp nói
đến.
10. Phi hữu luận có nghĩa là chối bỏ hiện hữu một
đời sau và quả báo của nghiệp.
11. Vị ấy chỉ theo một chiều của giáo lý không thể tranh cãi, nghĩa
là tự cảm thấy an toàn chỉ nhờ giả thuyết không có
đời sau, cho nên nếu thật có
đời sau thì vị ấy sẽ mất mát cả 2
mặt - hiện tại bị người trí quở trách, tương lai sinh vào cõi dữ.
12. Hữu kiến: là sự xác nhận có
đời sau và có quả báo các nghiệp.
13. Cách hiểu của vị này trải ra cả 2 chiều, nên
được lợi ích của quan điểm mình -
xác nhận có đời sau - dù
đời sau có thực hay không.
14. Trong kinh Sa Môn Quả, thuyết "Vô hành" này
được gắn cho Phú Lan Na Ca Diếp. Mặc dù
mới nghe qua, quan điểm này dường
như chủ trương duy vật như quan điểm chấp
đoạn trước đấy, nhưng có bằng chứng kinh điển cho thấy Phú Lan Na Ca
Diếp theo một lý thuyết nguy hiểm. Lý thuyết đạo đức của ông là,
mọi hành vi đã
được định trước theo những cách mà
ta không thể gán trách nhiệm đạo đức cho
người làm.
15. Ðây là thuyết "Vô nhân" mà giáo phái Mạt Già Lê (Makkhali) chủ
trương trong kinh Sa Môn Quả, gọi là thuyết Luân hồi tịnh hóa.
Thuyết này đã
được đề cập trong tác phẩm Lịch
Sử và Lý Thuyết của Mạt Già Lê, chương 12-13.
16. Ðịnh mệnh là yếu tố chính giải thích triết học Mạt Già Lê, theo
đó những biến cố ngoại giới và cá
nhân đều do hoàn cảnh và thiên nhiên
điều động: "Cái quay búng sẵn trên
trời, Lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm."
Sáu tầng lớp xã hội tùy theo trình độ tiến
hóa tâm linh của họ, tầng cao nhất dành cho 3 luận sư ngoại
đạo nói trong kinh Trung bộ 36.
17. Ðây là phủ nhận 4 cõi vô sắc, cảnh giới của 4 thiền chứng vô sắc.
18. Ðây là những vị trời thuộc các cảnh giới tương ứng với 4 thiền
sắc giới - những vị trời có thân thể bằng sắc chất vi tế, không như
những vị trời thuộc vô sắc giới chỉ có thuần tâm, không lẫn vào sắc.
IV. PHÁP SỐ
Ba minh, bốn hạng người, bốn thiền, năm
triền cái, tám thánh đạo, chín định thứ đệ.
V. KỆ TỤNG
Dân chúng làng Sa La
Ðến viếng thăm đức Phật
Khi Ngài đang du hành
Trong xứ Kosala
Phật hỏi các gia chủ
Có vị đạo sư nào
Họ đặt hết niềm tin?
Họ đáp rằng không có.
Phật bèn giảng cho họ
Pháp môn "không chuyển hướng"
Ðối với các quan điểm
Hoàn toàn trái ngược nhau.
Một là hư vô luận
Thuyết duy vật cực đoan
Chấp không có đời sau
Và quả báo thiện ác.
Hai là thuyết Vô hành
Làm các nghiệp dữ lành
Cả hai đều vô hiệu
Không có tội phước gì.
Ba là thuyết Vô nhân
Hay là thuyết định mệnh
Bốn, không có Vô sắc
Năm không có Hữu diệt.
Mỗi chủ trương đều có
Một lập trường ngược lại.
Cuối cùng Ngài đề cập
Lối sống bốn hạng người.
Người theo ba thuyết đầu,
Từ bỏ ba thiện pháp
Về thân, ngữ, và ý,
Thực hành ba ác pháp
Vì không thấy bất thiện
Là hạ liệt, nguy hiểm
Tà kiến Hư vô này,
Khởi thêm sáu ác pháp:
Tà tư duy, tà ngữ,
Tà nghiệp, ngược thánh giáo
Thuyết phục chống diệu pháp,
Và khen mình chê người.
Người chủ trương ngược lại
Có đời sau, quả báo…
Thì có được chính kiến,
Lại thêm các thiện pháp:
Chính tư duy, chính ngữ,
Chính nghiệp, thuận thánh giáo,
Thuyết phục theo diệu pháp,
Không khen mình chê người.
Ai nói "không đời sau",
Người trí nên suy nghĩ:
Nếu kẻ ấy nói đúng
Khi chết được an toàn
Vì việc ác họ làm
Sẽ không có quả báo;
Nhưng ngay trong hiện tại
Bị người trí quở trách.
Nhưng nếu có đời sau
Họ sẽ phải thua đau:
Hiện tại, người trí chê
Tương lai sinh cõi dữ.
Người chấp hành Hữu kiến
Lợi cả hai phương diện:
Hiện tại người trí khen
Tương lai sinh cõi thiện.
Về chủ trương "Vô hành"
Và "Vô nhân" cũng vậy
Hãy suy luận như trên
Ðược sự "không cãi được"
"Không có cõi vô sắc"
Người trí nên suy nghĩ:
Kẻ này sinh sắc giới
Cõi trời do "ý" thành
Ai chủ trương ngược lại
"Có thể có vô sắc"
Người này sinh vô sắc
Cõi do "tưởng" mà thành
Bất cứ gì có sắc
Ðều sinh ra đấu tranh,
Nhưng không có đấu tranh
Trong cõi thuần vô sắc.
Do suy tư như vậy,
Thành tựu hạnh yểm ly,
Ly tham và diệt tận
Ðối tất cả sắc pháp.
"Không Hữu diệt toàn diện"
Ai chủ trương như vậy
Còn khao khát tái sinh
Cõi vô sắc do tưởng.
Ai chủ trương ngược lại,
"Có Hữu diệt toàn diện"
Có thể nhập niết bàn
Hữu diệt ngay hiện tại.
Lại nữa, quan điểm trước
Chấp không có hữu diệt
Thì gần với tham ái
Quan điểm sau ly tham,
Gần vô chấp, ái diệt.
Do suy tư như vậy,
Thành yểm ly, ly tham,
Ðoạn diệt với các hữu.
Trên đời có bốn hạng
Tự hành, hành khổ người
Vừa khổ mình, khổ người
Và không làm ai khổ
Là La hán ly dục,
Chứng bốn thiền ba minh
Thân cảm thấy mát lạnh
Tự ngã trú Phạm thể.