TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 81
Ghatikara
I. TOÁT YẾU
Ghatìkàra Sutta - Ghatìkàra the Potter.
The Buddha recounts the story of the chief lay supporter of the past
Buddha Kassapa.
Thợ gốm Ghatìkàra.
Phật thuật câu chuyện về người cư sĩ ngoại hộ chính thức của Phật Ca
Diếp thời quá khứ.
II. TÓM TẮT
Ðang du hành ở Kosala, Phật mỉm cười nhớ lại
đây là nơi phồn thịnh vào thời Phật
Ca Diếp. Lúc ấy, Ngài là một thanh niên quý tộc tên Jotipala [1] chơi
thân với một người thợ gốm. Một hôm thợ gốm rủ Jotipala
đi nghe pháp, Jotipala không đi nói có ích
gì để yết kiến sa môn trọc đầu [2].
Sau nhiều lần năn nỉ không được, thợ gốm nắm đầu tóc của Jotipala mà
kéo đi [3]. Ngạc nhiên vì thái
độ phạm thượng của người thợ gốm, Jotipala
tò mò đi theo. Sau thời pháp,
Jotipala hỏi bạn sao không xuất gia, thợ gốm bảo còn phải nuôi
cha mẹ già mù. Jotipala xin xuất gia theo Phật và
được thọ đại giới [4].
Nghe tin Phật đã
đến Ba la nại, vua Kiki thỉnh Phật về thọ
trai. Khi Phật dùng cơm xong, vua mời Phật
đến an cư mùa mưa tại Ba la nại
để vua được cúng dường. Phật từ chối vì
đã nhận sự cúng dường của thí chủ
khác. Vua Kiki thất vọng buồn rầu hỏi Phật, ai là người ngoại hộ may mắn
hơn vua như thế. Phật cho biết đó là
thợ gốm, và kể ra những đức tính của thợ
gốm cho vua nghe:
1. Không có phiền não như vua nếu bị từ chối.
2. Ðã quy y Tam bảo thọ trì năm giới.
3. Có lòng tin bất thối đối với Phật
pháp, không còn hoài nghi về khổ, tập, diệt,
đạo.
4. Ăn ngày một bữa, sống phạm
hạnh, theo thiện pháp, từ bỏ vàng bạc, không
đào cuốc
đất đai.
5. Nuôi cha mẹ già mù với nghề nắn đồ
gốm bằng đất lở nơi bờ đê, không mua bán [5] mà chỉ
đổi lấy gạo.
6. Thợ gốm đã
đắc quả Bất hoàn, sẽ hóa sinh và
nhập Niết bàn không còn trở lui đời này.
Phật kể lại cho vua nghe chuyện một lần Ngài
đã đến
nhà thợ gốm, trút hết phần cơm của ông. Khi thợ gốm trở về nghe
cơm của mình đã
được Phật dùng, thợ gốm và cha mẹ
hoan hỷ cho đến 7 ngày liền. Một lần
khác Ngài sai đệ tử đến trút hết mái tranh
về sửa am thất. Khi về biết chuyện, thợ gốm vui mừng suốt nửa tháng, và
trong ba tháng mùa mưa ấy, cái chòi của người thợ gốm không bị mưa dột,
nắng chói mặc dù không còn mái tranh. Nghe xong vua cho chở nhiều xe
thực phẩm đến tặng thợ gốm [6].
Phật dạy Jotipala chính là tiền thân của Ngài.
III. CHÚ GIẢI
1. Ở đoạn cuối kinh này, Phật cho
biết Jotipàla thời ấy chính là Ngài. Trong kinh Tiểu bộ, vị trời Thợ Gốm
đến thăm Phật và nhắc lại tình bạn
cũ với Ngài.
2. Ðây có vẻ là một từ ngữ bôi bác mà các gia chủ bà la môn thường
dùng để ám chỉ các vị xuất gia trọn đời,
trái ngược với lý tưởng của họ là nối dõi tông
đường.
3. Ở Ðông phương, một người thuộc giai cấp dưới mà sờ
đầu người thuộc giai cấp trên là
điều tối kỵ. Kinh sớ giải thích, thợ gốm
sẵn sàng đánh liều vi phạm quy luật
để làm cho thanh niên Jotipala phải
đến gặp Phật.
4. Theo kinh sớ, bồ tát xuất gia theo Phật giữ giới thanh tịnh, học
giáo lý, thực hành thiền định và tu
tập tuệ quán cho đến khi đạt được trí thuận
thứ, anulomanàna. Nhưng họ không nỗ lực
đạt đến đạo và quả, vì làm vậy thì
sự nghiệp bồ tát của họ sẽ chấm dứt.
5. Một người còn tại gia như thợ gốm mà giữ giới như vậy thì không
khác gì một tỳ kheo. Theo kinh sớ, thợ gốm không bán sản phẩm mà chỉ
trao đổi với láng giềng.
6. Theo kinh sớ, do thiểu dục thợ gốm đã
từ chối. Anh nhận ra rằng sở dĩ vua gởi thực phẩm
đến vì
đã nghe Phật ca tụng đức hạnh của mình,
nhưng anh nghĩ: ta không cần thực phẩm này. Với những gì ta kiếm
được bằng công việc của mình, ta
cũng đủ nuôi cha mẹ và cúng dường.
IV. PHÁP SỐ
3 ngôi báu, 4 sự thật, 5 giới tại gia.
V. KỆ TỤNG
Tại xứ Kosala
Trong khi đang du hành
Phật mỉm cười nhớ lại
Nơi này xưa phồn vinh
Vào thời Phật Ca Diếp
Một thanh niên quý tộc
Tên Jotipala
Kết giao cùng thợ gốm.
Thợ gốm là phật tử
Nên rủ bạn đi chùa
Nhưng thanh niên từ chối
Ích chi gặp trọc đầu
Sau nhiều lần năn nỉ
Thanh niên không chịu đi
Thợ gốm nắm tóc bạn
Buộc phải cùng theo đi.
Thái độ chưa từng có
Của người bạn nghèo hèn
Khiến thanh niên quý tộc
Tò mò đi thử xem.
Sau khi nghe thuyết pháp
Chàng thanh niên hỏi bạn
Sao anh không xuất gia
Nuôi cha mẹ mù già.
Thanh niên xin xuất gia
Và được thọ đại giới.
Phật đến Ba la nại
Vua thỉnh Phật thọ trai
Vua mời Phật an cư
Ở thành Ba la nại
Ðể vua được cúng dường
Phật Ca Diếp từ chối
Vì Ngài có thí chủ
Vua buồn rầu thất vọng
Muốn biết thí chủ nào
Ðược may mắn hơn vua
Phật nói về thợ gốm
Và đức tính của ông:
Không phiền não như vua
Nếu bị Ngài từ chối.
Thọ trì năm cấm giới
Có lòng tin bất thối
Ðối với Phật Pháp Tăng
Hết hoài nghi về Pháp
Thợ gốm ăn một bữa
Sống đúng theo chính pháp
Từ bỏ vàng và bạc,
Không đào cuốc
đất đai.
Với nghề nắn đồ gốm
Bằng đất lở bờ đê
Thợ gốm đổi lấy gạo
Nuôi cha mẹ già mù
Thợ gốm đắc Bất hoàn
Khi chết sẽ hóa sinh
Tại đấy nhập Niết bàn
Một đi không trở lại.
Phật Ca Diếp lại kể
Có lần đến khất thực
Ngài lấy hết phần cơm
Ðể dành cho thợ gốm
Khi thợ gốm trở về
Nghe Phật đến lấy cơm
Thợ gốm và cha mẹ
Bảy ngày vui dầm dề
Ngài lại sai đệ tử
Ðến chòi của thợ gốm
Rút hết mái tranh che
Ðể về sửa am thất
Khi trở về biết chuyện,
Thợ gốm vui dào dạt
Ròng rã hai tuần liền
Tâm ông tràn hỉ lạc.
Suốt ba tháng mùa mưa
Cái chòi ông trú ngụ
Không mưa dột, nắng hanh
Mặc dù không còn tranh.
Vua Ki ki nghe qua
Cho chở nhiều thực phẩm
Ðến nơi nhà thợ gốm
Tặng phẩm của nhà vua.
Và Phật bảo A nan
Thanh niên quý tộc kia
Bạn của người thợ gốm
Chính là tiền thân Ngài.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 82
Ratthapala
I. TOÁT YẾU
Ratthapàla Sutta - On Ratthapàla.
The story of a young man who goes forth into homelessness against the
wishes of his parents and later returns to visit them.
Về Ratthapàla.
Chuyện về một thanh niên cưỡng lại ước muốn của cha mẹ mà
đi tu, và sau trở về thăm
cha mẹ.
II. TÓM TẮT
Khi Phật đến thuyết pháp tại thị trấn
Thullakotthita, thanh niên con nhà giàu nên Ratthapàla xin cha mẹ
theo Phật xuất gia. Cha mẹ không cho, Ratthapàla bèn tuyệt thực gần chết
nên cha mẹ buộc lòng cho phép. Ratthapàla
được xuất gia, thọ đại giới [1]. Chẳng bao lâu ông chứng quả A la hán
[2]. Sau khi chứng quả, tôn giả Ratthapàla xin Phật về nhà thăm
cha mẹ.
Khi về đến làng cũ, Ratthapàla
tuần tự khất thực đến nhà cha mẹ.
Người cha không nhận ra nên mắng nhiếc xua
đuổi, nghĩ chính những người này đã
khiến con mình bỏ nhà ra đi. Khi tôn giả bỏ
đi, trông thấy người tớ gái đem cháo thiu [3] đi đổ, ông bảo hãy
trút vào bát của mình. Nữ tỳ đến gần để
trút cháo, nhận ra tiểu chủ bèn vào báo tin. Ông bà chạy ra, bảo:
"Ồ con, có chứ [4] ... sao ngồi đấy ăn cháo
thiu mà không đi vào nhà của
con?" Tôn giả nói ông không có nhà, ông có
đến khất thực song chỉ nhận được những lời mắng nhiếc. Rồi ông nhận lời
cha mẹ hôm sau đến dùng cơm.
Người cha sửa soạn đón tôn giả, cho chất
vàng bạc của cải thành đống, lấy màn
che lại; và bảo các bà vợ cũ của tôn giả trang sức lộng lẫy
để đón tiếp. Khi tôn giả vào nhà,
ông chỉ đống vàng mà khuyên tôn giả
hãy hoàn tục tu tại gia, làm phước bố thí. Tôn giả khuyên hãy
đổ tất cả xuống sông, vì
đấy là nguồn gốc của sầu bi khổ não
cho gia chủ. Kế đến, các bà vợ
đi ra ôm chân tôn giả mà hỏi có phải
vì mê thiên nữ nên đi tu để được lên
đấy. Tôn giả bảo thưa bà chị, không
phải vì mục đích sanh thiên mà bần tăng
xuất gia tu phạm hạnh. Khi ấy các bà vợ cũ lăn
lóc nói chồng bây giờ lại gọi mình bằng bà chị. Tôn giả bảo gia
chủ muốn bố thí đồ ăn thì hãy dọn
ra, chớ có phiền nhiễu ngài. Người cha mời tôn giả
ăn.
Ăn xong tôn giả đọc một bài kệ nói
đến tính dơ uế, khổ, vô thường của thân xác
nhưng lại được tô điểm [5] để lừa bịp kẻ ngu. Rồi ngài
đi vào rừng của vua
để nghỉ trưa. Vua Koravya nghe tôn giả [6]
trở về bèn cho thắng cỗ xe đến thăm.
Khi gặp tôn giả, vua hỏi người đời vì bốn sự suy vong mà
đi tu, là lão suy, bệnh suy, tài
suy, thân suy. Nay tôn giả không có bốn cái suy ấy thì cớ gì xuất gia.
Tôn giả đáp vì bốn
điểm thuyết giáo của đức Thế tôn:
1. Thế giới vô thường, đi đến hủy diệt
[7],
2. Vô hộ vô chủ [8],
3. Vô sở hữu [9],
4. Luôn luôn thiếu thốn khát khao [10].
Vua rất hoan hỉ với lời giải thích của tôn giả.
III. CHÚ GIẢI
1. Phật công bố vị này là bậc nhất trong những vị xuất gia với lòng
tin, vì ông đã sẵn sàng liều chết
để được cha mẹ cho phép đi tu. Có những vần
thơ của ông trong Trưởng lão kệ 769-93.
2. Mặc dù kinh nói "Chẳng bao lâu" nhưng theo Kinh sớ, Lại Tra Hòa La
phải mất 12 năm mới đắc quả A la hán.
Ðiều này có vẻ đúng khi ta xét sự
kiện rằng thân phụ không nhận ra ông khi ông vừa trở về.
3. àbhidosikam kummàsam, Nanamoli dịch kummàsam là bánh
mì, nhưng ở đây rõ ràng nó có chỉ
một thức ăn thuộc chất lỏng. Theo Kinh sớ,
thức ăn này làm bằng lúa mạch.
4. Người cha muốn nói: Này con thân yêu, chúng ta có tài sản, không
phải là những kẻ bần cùng; vậy mà con lại ngồi
ăn cháo thiu tại đây một nơi như thế này.
Tuy nhiên vì quá đau buồn ông ta không thể
nói hết câu.
5. Bài kệ rõ ràng ám chỉ những bà vợ cũ trang sức xinh
đẹp để dụ tôn giả hoàn tục. Một
điều lạ là trước khi ông xuất gia,
kinh không nói gì đến những bà vợ.
6. Kinh sớ: Nhắc đến tôn giả, vua
thường ca tụng ngài với đình
thần rằng, thanh niên ấy đã làm việc
khó làm, là từ bỏ một tài sản lớn mà ra đi,
không ngoái lui cũng không nhìn hai bên.
7. upanìyati loko addhuvo. Kinh sớ: Thế giới bị cuốn phăng
về hướng già chết.
8. attàno loko anabhissaro. Kinh sớ: không ai có thể cho nó
một chỗ trú hay an ủi nó với một chỗ ẩn nấp. Lời này dĩ nhiên không phủ
nhận một chỗ nương tựa thoát khỏi thế tục, tức là cái mà diệu pháp
đem lại.
9. assako loko sabbam pahàya gamanìyam. Không có gì của mình,
phải từ bỏ tất cả để đi tới.
10. uno loko atitto tanhàdàso.
IV. PHÁP SỐ
4 sự suy vong: thân suy, tài suy, lão suy, bệnh suy;
4 điểm thuyết giáo: vô thường, vô ngã,
khổ và không.
Năm dục tăng trưởng.
V. KỆ TỤNG
Thanh niên con nhà giàu
Tên Ratthapàla
Xin theo Phật xuất gia
Cha mẹ không cho phép.
Chàng thanh niên tuyệt thực
Với ý định thiết tha
Sẽ chết hoặc xuất gia
Cha mẹ đành đồng ý.
Xuất gia thọ đại giới
Chẳng bao lâu chứng quả
Thành vị A la hán
Ông xin về thăm nhà.
Khi trở về làng cũ
Tuần tự đi khất thực
Ông đến nhà cha mẹ
Người cha không nhận ra
Bị mắng nhiếc xua đuổi
Tôn giả bèn bỏ đi
Lại gặp người nữ tì
Ðem cháo thiu đi đổ.
Hãy trút bỏ cháo ấy
Vào bát của bần tăng
Khi nữ tỳ tiến lại
Liền nhận ra chủ nhân.
Nghe nữ tỳ hô hoán
Ông bà vội chạy ra
- Ồ con, nhà con đấy
Tại sao không vào nhà?
"Bần tăng không nhà cửa
Có đến để xin ăn
Nhưng không được đồ ăn
Chỉ được lời nguyền rủa."
Cha mẹ mời tôn giả
Hôm sau đến dùng cơm
Và trở vào chuẩn bị
Dụ con về cố hương.
Ông chất vàng thành đống
Che khuất sau tấm màn
Và bảo các con dâu
Trang sức để đón chàng.
Khi tôn giả vào nhà
Người cha khuyên hoàn tục
- Tất cả tài sản này
Tha hồ con làm phúc
"Nếu gia chủ cho tôi
Hãy đổ xuống sống Hằng
Vì đấy là nguồn gốc
Của sầu khổ đau thương"
Các bà vợ bước ra
Khóc ôm chân tôn giả
- Phải chăng vì thiên nữ
Mà chàng bỏ đi tu.
"Thưa này các bà chị
Bần tăng đi xuất gia
Không phải vì mục đích
Ðược tái sinh thiên giới."
Các bà vợ lăn khóc
- Ối giời, làng nước ơi
Chồng chúng ta dở hơi
Gọi chúng ta bằng chị.
Tôn giả thưa cha mẹ:
"Thưa gia chủ nếu muốn
Hãy bố thí đồ ăn
Chớ phiền nhiễu bần tăng."
Sau khi đã ăn xong
Tôn giả đọc bài kệ
Nói thực chất thân xác
Bất tịnh, khổ, vô thường
Dù điểm phấn tô son
Chỉ kẻ ngu sa lưới.
Rồi ngài đi vào rừng
Vừa khi vua đi tới.
Vua đến gặp tôn giả
Và nói: - Người ở đời
Thường từ bỏ thế tục
Vì bốn sự suy vong:
Có người vì già yếu
Có kẻ lắm bệnh tật
Người vì hết tiền bạc
Kẻ vì mất người thân.
Lão, bệnh, tài, thân suy
Cả bốn thứ suy vong
Nơi tôn giả đều không
Cớ gì bỏ thế tục?
"Tôi từ bỏ thế tục
Vì bốn điểm thuyết giáo
Của đấng đại đạo sư
Mà tôi thấy chân thực.
Một, thế gian vô thường
Hai, vô hộ vô chủ
Ba là vô sở hữu,
Bốn thiếu thốn khát khao
Thân này là vô thường
Ðang đi đến hủy diệt
Khi thấy biết như vậy
Từ bỏ không vấn vương
Khi thân bị bệnh khổ
Có tài sản, huyết thống
Cũng không bớt đớn đau:
Thân vô hộ vô chủ.
Dù tiền của dẫy đầy
Chết đâu mang theo được
Ra đi bàn tay trắng
Vô sở hữu, thân này.
Người ở địa vị nào
Cũng nô lệ tham ái
Luôn thiếu thốn khát khao
Vì lòng tham không đáy.
Thực chứng lời Phật dạy
Thấy nguy dục tăng trưởng
Tôi xuất gia tu hành
Hạnh sa môn tối thượng."
Nghe bốn điểm thuyết giáo
Của bậc thầy trời, người
Ðược tôn giả triển khai
Vua vô cùng hoan hỉ.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 83
Makhàdeva
I. TOÁT YẾU
Makhàdeva Sutta - King Makhàdeva.
The story of an ancient lineage of kings and how their virtuous
tradition was broken due to negligence.
Vua Makhàdeva.
Chuyện về một dòng vua ngày xưa, truyền thống tu hành của họ
đã do phóng dật mà bị gián
đoạn như thế nào.
II. TÓM TẮT
Khi đến Mithila [1], Phật kể lại cho A
nan xưa kia đây là lãnh thổ của vua Makhadeva [2]. Vua trị vì
đúng pháp, sống an lập trong chính pháp
[3], giữ trai giới vào các ngày bố tát [4]. Sau nhiều trăm
ngàn năm, vua dặn thợ cạo khi thấy
tóc bạc xuất hiện trên đầu [5] thì
báo cho vua biết. Vua nhường ngôi cho con
để xuất gia, dặn con trai phải trị vì
đúng pháp, và khi thấy tóc bạc xuất
hiện, nên biết đó là thiên sứ [6]
báo hiệu sắp lên trời để hưởng thiên
lạc. Khi ấy hãy trao lại ngai vàng cho con
để xuất gia tu tập bốn phạm trú, mạng chung sinh lên Phạm thiên
giới. Truyền thống này trải qua nhiều đời
không gián đoạn cho đến đời vua Nemi.
Vua này, sau khi được chư thiên
cõi trời 33 mời cỡi thiên xa theo Matàli đi
thăm hai con đường [7] quả báo thiện ác, trở về cũng trao ngai vàng
và dặn lại con trai, rồi xuất gia tu tập bốn phạm trú. Sau khi chết vua
được sinh vào cõi Phạm thiên như các
vua đời trước mình. Nhưng con của
vua Nemi không theo lời vua cha dặn, đã
cắt đứt truyền thống tốt đẹp ấy.
Phật dạy, vua Makhadeva thời ấy chính là Như lai bây giờ. Ngài
đã lập truyền thống ấy, nhưng nó
không đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt,
tịch tịnh, thượng trí, giác ngộ, niết bàn.
Bây giờ Ngài thiết lập một truyền thống tốt
đẹp hơn, đưa đến yểm ly, giác ngộ, niết bàn,
ấy là thánh đạo tám ngành: chánh tri
kiến cho đến chánh định. Phật dạy các tỳ
kheo hãy tiếp tục duy trì, chớ làm cho mình trở thành người tối
hậu [8], nghĩa là người làm đứt đoạn truyền
thống ấy.
III. CHÚ GIẢI
1. Xem truyện Bản Sinh số 9 và 54. Vua Makhàdeva và vua Mithila
đều là tiền thân của Phật Thích Ca.
2. Rừng này trước kia do Makhàdeva trồng nên vẫn còn mang tên ông.
3. Luận: Vị ấy được an lập trong 10
thiện hành.
4. Lễ Bố tát là ngày trai giới của xứ Ấn
độ xưa, về sau Phật giáo cũng áp dụng.
5. Theo vũ trụ quan Phật giáo, thọ mạng con người thay
đổi từ tối thiểu là 10 năm
cho đến 10.000 năm. Makhàdeva sống vào thời mà con người có thọ
mạng dài nhất.
6. Về các thiên sứ, hay những điềm báo
già bệnh chết, xem kinh 130.
7. Màtali dẫn ông đi qua các địa ngục,
rồi quay lui đưa ông đến các cõi trời.
8. Kinh sớ: Sự thực hành diệu pháp bị phá hủy bởi một tỳ kheo có giới
khi vị ấy nghĩ mình không thể đắc quả A la
hán, và do đó không nỗ lực. Sự thực
hành ấy đang được tiếp tục bởi bậc
hữu học, và đã
được tiếp tục bởi vị A la hán.
IV. PHÁP SỐ
4 phạm trú, thánh đạo 8 ngành, 10
thiện nghiệp.
V. KỆ TỤNG
Khi đến Mithila,
Phật bảo thầy A nan
Xưa đây là lãnh thổ
Vua Ma-kha-de-va.
Vua trị vì đúng pháp
Sống đúng theo chánh pháp
Trai giới ngày bố tát
Sống lâu nhiều ngàn năm
Vua dặn người thợ cạo
Khi nào thấy trên đầu
Tóc bạc đã xuất hiện
Hãy báo cho vua biết.
Khi tóc bạc xuất hiện
Vua nhường ngôi cho con
Xuất gia tu phạm trú
Dặn trị vì đúng pháp.
Và hãy làm như cha
Khi tóc bắt đầu bạc
Nên biết là thiên sứ
Báo về hưởng thiên lạc.
Hãy trao lại ngai vàng
Và xuất gia tu tập
Chớ để truyền thống này
Gián đoạn do phóng dật.
Trải qua nhiều đời vua
Truyền thống ấy tiếp tục
Ðến đời vua Nemi
Cũng làm như vua trước.
Ông trao lại ngai vàng
Và dặn dò con trai
Rồi xuất gia tu tập
Chết sinh Phạm thiên giới.
Nhưng con vua Nemi
Không theo lời cha dặn
Dứt truyền thống tốt đẹp
Sống phóng dật đến cùng.
Và Phật bảo A nan:
Vua Makhadeva
Chính là tiền thân ta
Thiết lập truyền thống ấy.
Dù nó rất tốt đẹp
Không đưa đến yểm ly
Ly tham và đoạn diệt
Ðến giác ngộ niết bàn.
Nay ta lập truyền thống
Vô vàn tốt đẹp hơn
Là thánh đạo tám ngành
Ðến ly tham, giác ngộ.
Hãy tiếp tục duy trì
Chớ thành người tối hậu,
Nghĩa là người đoạn dứt
Truyền thống tối thượng này.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 84
Madhura
I. TOÁT YẾU
Madhurà Sutta - At Madhurà.
The venerable Mahà Kaccàna examines the brahmin claim that brahmins
are the highest caste.
Tại Madhurà.
Tôn giả Ðại Ca Chiên Diên xét lại lời công bố của bà la môn rằng chỉ
có giai cấp của họ là tối thượng.
II. TÓM TẮT
Vua xứ Madhura đi đến tôn giả Ca Chiên
Diên đang ở rừng Gundà [1] hỏi Ngài
có ý kiến gì về chủ trương của các bà la môn: chỉ có bà la môn là dòng
giống tối thượng, các dòng giống khác đều
hạ liệt. Chỉ có bà la môn mới là con chính tông của Phạm thiên,
sinh ra từ miệng Ngài. Tôn giả Ca Chiên Diên nói
đấy chỉ là âm thanh suông không có
giá trị gì, và đưa ra các lý do:
1. Người thuộc bất cứ giai cấp nào [2] khi có nhiều tài sản,
đều có thể thuê mướn người thuộc
ba giai cấp kia hầu hạ.
2. Người thuộc cả 4 giai cấp nếu phạm vào mười bất thiện
đều bị đọa không phân biệt: đồng đẳng
trong sự thọ lãnh ác báo.
3. Người thuộc cả bốn giai cấp đều
sinh thiên giới nếu thực hành mười lành, từ bỏ mười ác:
đồng đẳng trong sự thọ hưởng quả báo của
nghiệp lành.
4. Trên đời, bất cứ người thuộc giai
cấp nào phạm tội đều bị phạt: bình
đẳng trước pháp luật.
5. Bất cứ người thuộc giai cấp nào khi xuất gia nghiêm trì giới
luật, đều được cung kính lễ bái và
đều được gọi là sa môn không phân
biệt giai cấp thế tục: bình đẳng trên
phương diện giải thoát.
Vua Madhura hoan hỷ với lời giải thích của tôn giả và xin quy y,
nhưng tôn giả bảo vua hãy quy y Phật, mặc dù lúc ấy Phật
đã nhập niết bàn.
III. CHÚ GIẢI
1. Tôn giả Ca Chiên Diên được Phật xem là
xuất sắc trong sự triển khai ý nghĩa một lời pháp vắn tắt. Kinh số 133
và 138 cũng do ngài diễn lời Phật dạy.
2. Từ đoạn kinh này, ta thấy mặc
dù còn nặng tính phân biệt, hệ thống giai cấp ở Ấn lúc bấy giờ cũng còn
khá linh động hơn hệ thống thế cấp được
triển khai về sau.
IV. PHÁP SỐ
3 nghiệp, 4 giai cấp hay chủng tánh theo Bà la môn giáo. 4 vật dụng (ăn,
mặc, ở, bệnh), 10 ác nghiệp, 10 thiện nghiệp.
V. KỆ TỤNG
Vua xứ Madhura
Bạch ngài Ca Chiên Diên
- Những người bà la môn
Xem dòng khác hạ liệt.
Chỉ có bà la môn
Mới thực là cao thượng
Con chính thống của trời
Sinh ra từ miệng Ngài.
Tôn giả nghĩ thế nào?
"Ðấy là âm thanh suông
Không chút nào giá trị
Vì những lý do sau:
Người thuộc giai cấp nào
Khi có nhiều tài sản,
Ðều có thể thuê mướn
Kẻ hầu từ mọi dòng.
Người thuộc mọi giai cấp
Ðều phải bị đọa lạc
Khi phạm mười bất thiện:
Ðồng đẳng thọ ác báo.
Người thuộc giai cấp nào
Cũng được sinh thiên giới
Nếu bỏ ác làm lành:
Ðồng đẳng hưởng quả vui.
Người thuộc giai cấp nào
Bất kể thấp hay cao
Phạm tội đều bị phạt:
Bình đẳng trước pháp luật
Người thuộc mọi giai cấp
Khi từ bỏ gia đình
Xuất gia trì giới luật
Ðều được người kính lễ
Ðều được gọi sa môn
Không kể dòng quý tiện
Như trăm sông về biển:
Bình đẳng trong giải thoát."
Vua vô cùng hoan hỷ
Với lời giải thích này
Xin quy y tôn giả
"Vua hãy quy y Phật."
- Phật bây giờ ở đâu
"Ngài đã nhập niết bàn"
- Con xin quy y Phật
Ðang an trú niết bàn.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 85
Bồ
đề vương tử
I. TOÁT YẾU
Bodhiràjakumàra Sutta - To Prince Bodhi.
The Buddha counters the claim that pleasure is to gained through pain
with an account of his own quest for enlightenment.
Nói cho vương tử Bồ đề.
Phật bác lời tuyên bố rằng lạc có được
nhờ khổ, bằng cách kể lại cuộc tầm cầu giác ngộ của chính Ngài.
II. TÓM TẮT
Ðể khánh thành tòa nhà mới, Bồ đề vương
tử [1] thỉnh Phật thọ trai. Ông trải một cuộn vải mới, thỉnh Phật dẫm lên
cho ông được phước. Phật im lặng [2]. Khi
vương tử thưa đến lần thứ ba, Phật nhìn tôn giả A nan. Tôn giả
thưa vương tử hãy dẹp tấm vải, vì đức Thế
tôn nghĩ đến những thế hệ mai sau [3]. Sau bữa ăn, Vương tử bạch Phật
ông nghĩ rằng lạc có được là nhờ khổ [4].
Phật dạy lúc xưa khi mới xuất gia, Ngài cũng tưởng thế, nên
đã theo hai vị thầy tu khổ hạnh, một
người chứng Vô sở hữu xứ, một người chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Ngài nhanh chóng đạt đến các định chứng này,
được thầy mời ở lại cùng lãnh
đạo. Nhưng Ngài
đã ra
đi để tìm cái tối thượng. Khi đến bên
sông Ni liên thiền Ngài dừng lại tìm một
địa điểm khả ái để ngồi thiền.
Một ví dụ khởi lên cho Ngài lúc ấy là, khúc gỗ khi còn ngâm trong
nước hoặc vừa vớt lên khỏi nước, dù cọ xát cũng không thể bén lửa. Cũng
vậy người không xả ly dục ái, thì dù thình lình cảm thọ khổ khốc liệt,
cũng không thể chứng đắc.
Ngược lại, một khúc gỗ đã khô
nhựa, đặt trên
đất khô thì có thể bén lửa dễ dàng.
Như người xả ly ái dục, nếu thình lình cảm thọ khổ hay không cảm thọ
khổ, cũng có thể chứng đắc hỷ lạc thiền
định.
Bởi vậy sau khi từ bỏ khổ hạnh như đã
từ bỏ dục lạc trước đấy, Ngài ngồi
thiền và đắc đạo. Sau khi đắc đạo, Ngài
nghĩ pháp này sâu kín vi diệu, thật khó cho thế gian
đang chìm
đắm trong dục lạc có thể hiểu thấu. Bởi thế
Ngài định nhập niết bàn. Do
Phạm thiên cầu thỉnh, Ngài ra thuyết pháp,
đầu tiên giảng cho 5 đệ tử về bốn
đế, thánh đạo tám ngành. Nghe xong 5 vị
đắc lậu tận thành A la hán.
Bồ đề vương tử hỏi Phật thời gian cần
thiết để tu đắc đạo. Phật hỏi lại Vương tử, nếu một người muốn học cỡi
voi mà không có lòng tin, nhiều bệnh, gian trá, biếng nhác, u mê
đần độn, thì có thể học
được không? Vương tử trả lời chỉ cần có một
trong năm thói ấy cũng không thể học, huống hồ đủ cả năm. Phật dạy cũng
vậy vị tỳ kheo muốn tu chứng phải có 5 tinh cần chi:
1. Tin Phật;
2. Có sức khỏe, ít bệnh;
3. Trung thực không gian trá;
4. Siêng năng từ bỏ các bất thiện và
tu tập thiện pháp;
5. Có trí tuệ và sự sinh diệt của các pháp.
Vị ấy có thể đắc lậu tận trong bảy năm.
Cũng có thể là sáu, năm, bốn, ba,
hai, một năm, cho đến bảy tháng, sáu, năm, bốn, ba, hai, một, nửa tháng,
cho đến bảy đêm ngày. Lại có thể có người
được giảng dạy buổi sáng thì buổi
chiều đã chứng
đắc.
Khi nghe vậy Bồ đề vương tử thốt lên
"Ôi thật là Phật, Ôi thật là Pháp, Ôi thật là khéo thuyết." Thanh niên
hầu cận vương tử hỏi sao ông không xin quy y. Vương tử Bồ
đề nói khi ông còn trong bụng mẹ,
mẫu thân đã
đến xin Phật quy y cho bào thai. Lần
thứ hai ông được người vú ẵm đến Thế Tôn để
xin quy y. Và nay là lần thứ ba, đối
trước Phật, ông xin quy y, xin Thế Tôn nhận ông làm cư sĩ, từ nay
cho đến mạng chung ông trọn đời quy ngưỡng.
III. CHÚ GIẢI
1. Bồ đề vương tử là con trai vua
Udena xứ Kosambi; mẹ ông là con gái vua Candappajjota xứ Avantì. Một
phần kinh này cũng được tìm thấy
trong luật tạng, duyên khởi chế ra giới luật nói trong ghi chú sau.
2. Theo kinh sớ, vương tử Bồ đề không
con, mong muốn có một con trai. Ông nghe nói cúng Phật thì có thể
thỏa mãn ước nguyện, nên trải một tấm vải trắng và nguyện: nếu Phật dẫm
lên tấm vãi, ta sẽ có con trai. Nếu Phật không dẫm lên tấm vải, ta sẽ
không có con. Phật biết do ác nghiệp quá khứ, ông sẽ suốt
đời không con, nên Ngài không bước
lên trên tấm vải. Nhân đấy Ngài chế
học giới cấm tỳ kheo dẫm lên vải trắng. Về sau Ngài chế lại giới luật
này, cho phép tỳ kheo dẫm lên vải khi cần chúc lành cho gia chủ.
3. Theo kinh sớ, tôn giả A Nan nói lời này vì nghĩ: trong tương lai
người ta sẽ xem việc kính tăng như một
đường lối để thỏa mãn các mong cầu thế tục của họ; và họ sẽ mất
niềm tin ở tăng già nếu cung kính mà
không được thành công như ý muốn.
4. Ðây là giáo điều căn bản của Ni kiền
tử, như trong kinh 14.
IV. PHÁP SỐ
3 thọ, 4 đến, 4 thiền, 4 không, 5 tinh
cần chi: lòng tin, ít bệnh, chân thật, siêng năng,
có trí. Thánh đạo 8 ngành.
V. KỆ TỤNG
Nhân Bồ đề vương tử
Khánh thành tòa lâu đài
Ông mời Phật thọ trai
Lót đường bằng vải mới
- Thỉnh Phật dẫm lên vải
Cho ông được phúc lành
Nhưng Ngài đứng lặng thinh
Không bước lên tấm vải
A nan thưa vương tử
- Hãy cuộn tấm vải này
Thế Tôn không dẫm nó
Vì thương tưởng hậu lai
Sau khi Phật thọ trai
Do vương tử cúng dường
Ông đến bên bạch Phật:
- Có khổ mới được vui.
Phật dạy: Lúc xưa kia
Như Lai cũng tưởng vậy
Nên đã tu khổ hạnh
Chứng Vô sở hữu xứ
Rồi chứng Phi phi tưởng
Ngang hàng hai bậc thầy
Nhưng Ngài lại ra đi
Ðể tìm cái tối thượng
Gặp địa điểm khả ái
Bên bờ sông Ni liên
Ngài khởi sự ngồi thiền
Từ bỏ tu khổ hạnh
Một ví dụ khởi lên:
Khúc gỗ còn ngâm nước
Hoặc vừa mới vớt lên
Không thể nào bén lửa
Cũng thế kẻ tu hành
Nếu chưa xa lìa dục
Dù có cảm thọ khổ
Ðạo quả cũng không thành.
Như khúc gỗ khô nhựa
Sẽ bén lửa dễ dàng
Người xả ly ái dục
Ðắc đạo không khó khăn.
Theo con đường Trung đạo
Tránh xa hai cực đoan
Ngài chứng đắc thiền lạc
Do ly dục phát sinh.
Khi đã thành đạo quả
Ngài thấy người đắm say
Trong 5 thứ dục lạc
Khó hiểu được pháp này.
Nói pháp không ai hiểu
Chỉ luống công nhọc sức
Với ý nghĩ như vậy
Phật toan nhập niết bàn
Phạm thiên cầu thỉnh Phật
Chuyển tứ đế pháp luân
Năm người nghe chứng quả
Ðược pháp nhãn ly trần.
Bồ đề vương tử hỏi
- Người muốn học pháp Ngài
Cần thời gian bao lâu
Ðể tu hành đắc đạo?
Phật hỏi lại Vương tử:
"Như ông huấn luyện nài
Nếu một người theo học
Mà không tin tưởng thầy
Lại có nhiều bệnh tật
Gian trá và biếng nhác
Thêm u mê đần độn
Thì có học được không?"
- Thưa không, bạch Thế tôn
Dù chỉ có một thói
Cũng không thể học hỏi
Huống hồ đủ cả năm.
"Cũng vậy, vị tỳ kheo
Nếu không đủ năm đức
Là năm tinh cần chi
Thì không thể chứng đắc
Trước hết là lòng tin
Sức khỏe và chân thật
Siêng năng với thiện pháp
Có trí về sinh diệt.
Ðủ năm đức tính ấy
Bảy năm tu viên thành
Có thể thời gian tu
Chỉ gồm trong bảy tháng
Có người tu nửa tháng
Hoặc chỉ bảy ngày đêm
Và lại cũng có em
Sáng nghe chiều đã chứng.
Vương tử thốt lên lời
- Ôi thật là đức Phật
Ôi, Pháp thật khéo giảng.
Con xin quy y Ngài.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 86
Angulimala
I. TOÁT YẾU
Angulimàla Sutta - On Angulimàla.
The story of how the Buddha subdued the notorious criminal Angulimàla
and led him to the attainment of arahanship.
Về Chuỗi Ngón Tay.
Kể chuyện Phật hàng phục Chuỗi ngón tay, tên tội phạm nổi tiếng, và
đưa ông ta đến chứng đắc A la hán quả.
II. TÓM TẮT
Trong lãnh thổ vua Ba tư nặc, có kẻ cướp giết người tên Chuỗi ngón
tay, vì ông đeo một xâu chuỗi làm
bằng ngón tay người [1]. Một hôm Phật đi trên
con đường gặp Chuỗi ngón tay, mặc dù
nhiều người can ngăn. Chuỗi ngón tay chạy
theo bảo Ngài đứng lại, Ngài
bảo: "Ta đã vĩnh viễn
đứng lại, chỉ có ngươi chưa đứng, vì
ngươi không thể tự kềm chế mình." Nghe lời ấy ông liền
được cảm hóa, biết Phật đã vì ông mà
vào rừng [2], và xin xuất gia. Phật dạy: "Lại
đây, tỳ kheo [3]."
Sau khi xuất gia Chuỗi ngón tay tu khổ hạnh
ăn ngày một bữa, tinh cần tinh tấn.
Vua Ba tư nặc một hôm đến viếng Phật với
nét mặt lo âu vì chưa giết được tên
cướp giết người nổi tiếng. Khi biết Chuỗi ngón tay
đã xuất gia theo Phật, vua vô cùng
thán phục Phật vì đã nhiếp phục một
người mà với khí giới và binh lính, vua đã
không nhiếp phục được.
Tôn giả Chuỗi ngón tay đi khất thực gặp
một sản phụ đẻ khó đang lăn lộn giữa đường. Quá thương tâm, tôn giả trở
về bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, thật đau khổ thay các chúng sinh."
Phật bảo ông hãy đến gần sản phụ mà
nói: "Từ khi cha mẹ sinh ra, tôi chưa hề cố ý giết hại mạng sống của
chúng sinh, mong rằng với sự thật này, bà chị sinh nở an toàn." Tôn giả
bạch Phật, nếu nói như vậy thì thật là cố ý nói láo, vì ông
đã cố giết hại mạng sống rất nhiều
chúng sinh rồi.
Phật dạy: Vậy ông hãy nói: "Từ khi được
thánh sanh tôi chưa hề cố ý giết hại mạng sống …" Tôn giả vâng lời, đến
bên người sản phụ và nói: "Thưa chị, từ khi
được thánh sanh tôi chưa hề cố ý giết hại
mạng sống, mong với sự thật này chị sinh nở
được an toàn [4]." Và quả nhiên,
người sản phụ liền sinh nở được an toàn.
Tôn giả sống một mình, viễn ly, nhiệt tâm, không phóng dật, không bao
lâu tự thân chứng đắc và an trú ngay
hiện tại, mục đích của phạm hạnh. Vị ấy
biết sanh đã tận phạm hạnh đã
thành, những gì nên làm đã làm,
không còn trở lui đời này nữa. Tôn
giả thành một bậc A la hán. Một hôm, vào thành khất thực, tôn giả bị
nhiều người ném đất, đá, sỏi, gậy gộc lên
mình, lỗ đầu máu chảy, bát vỡ y rách. Tôn
giả trở về bên Phật. Phật an ủi ông hãy kham nhẫn, vì ông
đang gặt hái trong hiện tại, quả báo của
nghiệp mà đáng lẽ ông phải chịu địa
ngục nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm
[5].
Trong khi sống độc cư tôn giả cảm thọ
được giải thoát lạc và nói lên bài kệ [6]:
Ai trước phóng dật sau không phóng dật
Sáng chói đời này như trăng
thoát mây
Ai làm ác nghiệp, nhờ thiện ngăn
lại
Sáng chói đời này như trăng thoát
mây…
Ta tên Vô hại, trước ta sát hại [7]
Nay được chính danh, vì chẳng hại
ai
Ta làm ác nghiệp đáng đọa cõi dữ
Quả trả xong rồi, không nợ ta ăn [8].
III. CHÚ GIẢI
1. Chuỗi ngón tay là con trai của bà la môn Bhaggava, một cận thần
của vua Ba Tư Nặc, xứ Câu Tát La. Ông có tên là Vô Não nghĩa là người
không làm hại. Ông học với một vị thầy ở thành phố Takkasila, trở thành
một học trò được thầy yêu chuộng.
Các bạn bè do ganh tị, đã thưa với
vị thầy rằng Vô Não ngoại tình với vợ thầy. Vị thầy cố hại Vô Não bằng
cách ra lệnh cho ông đem về cho mình
một ngàn ngón tay phải của người bị giết
để làm lễ mãn khóa. Vô Não đến khu
rừng Jàlini, tấn công những người đi
đường, cắt mỗi người một ngón tay xâu thành chuỗi
đeo cổ. Kinh này mở
đầu vào lúc ông ta
đã giết gần
đủ ngàn người chỉ thiếu một, và
quyết định sẽ giết người mình sắp
gặp. Phật biết Vô Não sắp giết mẹ, và quán ông
đủ duyên
để chứng quả A La Hán, nên Ngài
đã xen vào trước khi bà mẹ
đến.
2. Theo Kinh sớ, Vô Não nhận ra vị Tỳ kheo trước mặt ông chính là
Phật, và Ngài đã
đến khu rừng cốt để cải hóa ông.
3. Theo Kinh sớ, do công đức nhiều đời
trước, Vô Não được y bát do thần lực
Phật biến hóa, vừa khi Ngài thốt lên: "Lại
đây, Tỳ kheo."
4. Ngay cả ngày nay, câu này cũng thường
được các tỳ kheo tụng đọc như một thần chú hộ mạng cho các sản phụ gần
đến kỳ sinh nở.
5. Kinh sớ nói một hành vi cố ý, hay nghiệp, có thể
đem lại ba loại quả báo: hiện báo
hay quả báo được cảm thọ ngay hiện tại,
trong đời sống mà hành vi ấy được làm;
sinh báo là quả báo cảm thọ trong hiện hữu kế tiếp; và hậu báo
là quả báo được cảm thọ trong bất cứ đời
sống nào về sau, khi dòng sinh tử còn tiếp tục. Vì
đã đắc
quả A la hán, Chuỗi Ngón Tay giải thoát hai loại quả báo sau, nhưng
không thoát khỏi quả báo đầu, vì A la Hán cũng phải chịu những
quả báo của ác nghiệp trong đời hiện tại
sau khi chứng quả.
6. Những bài kệ tiếp theo cũng xuất hiện trong kinh Pháp cú. Những
bài kệ của Chuỗi Ngón Tay được tìm
thấy trong Trưởng Lão Kệ 866-91.
7. Mặc dù Kinh sớ Trung Bộ nói Chuỗi Ngón Tay có tên là Vô Não, Luận
Trưởng Lão Kệ lại nói ông vốn tên là Não Hại.
8. Trong khi tỳ kheo trì giới mà chưa chứng quả A La Hán
ăn đồ khất thực như thừa hưởng gia tài
của Phật, vị A La Hán ăn không nợ nần, vì
đã tự làm cho mình hoàn toàn xứng
đáng nhận của cúng dường. Xem Thanh tịnh
đạo 1.
IV. PHÁP SỐ
4 sự cúng dường, 10 thiện nghiệp.
V. KỆ TỤNG
Xứ vua Ba tư nặc
Có kẻ cướp giết người
Mệnh danh Chuỗi ngón tay
Vì đeo xâu chuỗi ấy
Phật đi trên con đường
Ðến sào huyệt tên cướp
Nhiều người theo can Ngài
Phật ung dung tiến bước.
Tên cướp đuổi theo Ngài
Nhưng chạy hết tốc lực
Không đuổi kịp, cướp hô:
- Sa môn kia, đứng lại.
Phật ôn tồn dạy bảo:
"Ta đã đứng từ lâu
Chỉ có ngươi chưa dừng
Vì không tự kềm chế."
Năng lực đấng từ bi
Cảm hóa ngay tên cướp
Ăng gu li ma la
Xin theo Phật xuất gia.
"Lại đây, hỡi tỳ kheo"
Phật vừa thốt nên lời
Y bát liền đầy đủ
Do thần lực biến ra.
Sau khi được xuất gia
Chuỗi ngón tay khổ hạnh
Ăn một bữa, tinh cần
Trong giáo pháp bậc thánh.
Quốc vương Ba tư nặc
Một hôm viếng Thế tôn
Với nét mặt lo buồn
Chưa trừ được tên cướp
Khi biết Chuỗi ngón tay
Ðã xuất gia đầu Phật
Vua vô cùng thán phục
Ðức nhiếp hóa của Ngài.
Tỳ kheo Chuỗi ngón tay
Khất thực thấy sản phụ
Lăn lộn ở bên
đường
Tôn giả kêu khổ thay
Và lui về bạch Phật:
- Khổ thay các chúng sinh.
"Này ngươi Chuỗi ngón tay
Hãy đến gần sản phụ
Hãy thốt lên lời này:
"Từ khi cha mẹ sinh
Tôi chưa hề cố ý
Hại mạng sống chúng sinh
Mong nhờ sự thật này
Sẽ làm cho bà chị
An toàn khi sinh nở."
Chuỗi ngón tay buồn bã:
- Nếu con nói lời ấy
Thành nói láo cố tình
Vì con đã cố giết
Rất nhiều mạng chúng sinh.
Thế thì này tỳ kheo
Ông hãy nói lời rằng:
- Từ khi được thánh sanh
Tôi chưa hề cố giết
Tôn giả vâng lời Phật
Ðến bảo người sản phụ
"Từ khi được thánh sanh
Tôi chưa hề cố giết.
Mong với sự thật này
Chị an toàn sinh nở."
Và tức thì quả nhiên
Sản phụ sinh được liền.
Tôn giả sống một mình
Viễn ly không phóng dật
Không bao lâu chứng đắc
Mục đích đời tu hành.
Vị ấy biết sanh tận
Phạm hạnh đã viên thành
Việc nên làm đã làm
Không còn đời nào khác.
Một hôm đi khất thực
Tôn giả bị hành hung
Bát vỡ y rách nát
Thân tàn về bên Phật.
"Tỳ kheo hãy kham nhẫn
Ðược gặt ngay hiện báo
Thay vì sa địa ngục
Nhiều trăm năm, ngàn năm."
Tôn giả sống viễn ly
Cảm thọ giải thoát lạc
Và cảm hứng nên lời
Ghi trong Trưởng lão kệ:
Ai trước từng phóng dật
Sau không còn phóng dật
Sáng chói trên đời này
Như trăng thoát mây che.
Ai đã làm ác nghiệp
Nhờ thiện hành ngăn lại
Sáng chói trên đời này
Như trăng thoát mây che…
Ta tuy tên Vô hại,
Nhưng đã từng sát hại
Nay mới được chính danh
Vì chẳng còn hại ai
Xưa ta làm ác nghiệp
Ðáng bị đọa cõi dữ
Quả báo trả xong rồi
Nay không nợ, ta ăn.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 87
Ái Sanh
I. TOÁT YẾU
Piyajàtika Sutta - Born from Those who are dear.
Why the Buddha teaches that sorrow and grief arise from those who are
dear.
Do người thân mà phát sinh.
Vì sao Phật dạy sầu ưu khởi lên từ những người thân ái.
II. TÓM TẮT
Một gia chủ có con chết, đau khổ không còn
muốn làm gì, đi khắp nơi mà than
khóc. "Con ở đâu, đứa con một của ta đâu?"
Ông đi đến Phật kể lể như trên. Phật dạy: "Sầu bi khổ ưu do
Ái
sinh, hiện hữu từ nơi Ái."
Gia chủ nói ngược lại, hỷ lạc từ Ái sinh, hiện hữu từ nơi Ái. Ông bất
mãn bỏ đi, gặp một nhóm người đang chơi cờ
bạc, ông thuật lại lời Phật dạy: Sầu bi khổ não do Ái sinh (yêu
là khổ). Những người đánh bạc đồng ý với
ông rằng trái lại, yêu là vui.
Câu chuyện ấy truyền đến nội cung. Vua
Ba tư nặc gọi hoàng hậu, nói lại cho bà nghe lời Phật dạy "yêu là
đau khổ." Hoàng hậu nói Phật
đã dạy thì tất nhiên là
đúng. Vua Ba tư nặc bất mãn bảo,
chính vì bà quá hâm mộ Gotama nên cái gì Sa môn nói, hoàng hậu cũng cho
là phải.
Hoàng hậu sai người hầu đến yết kiến
Phật để hỏi lại cho chắc có phải Ngài
đã dạy như vậy không. Phật dạy
đúng như thế. Xưa nay có nhiều người đã
than khóc người thân chết: con trai con gái khóc cha mẹ, cha mẹ khóc con
trai con gái, vợ khóc chồng, chồng khóc vợ, anh chị khóc em trai em gái,
em trai em gái khóc anh chị… Vì quá thương mà phát
điên cuồng, tâm tư bấn loạn, họ
đi từ ngã tư
đường này qua ngã tư
đường khác và nói: "Có ai thấy cha
tôi không, thấy mẹ tôi không, thấy vợ, chồng, con trai, con gái, anh,
chị, em… của tôi không." Do vậy nên biết, sầu bi khổ ưu não từ ái mà
sinh ra. Xưa có người phụ nữ có chồng bị bà con ép gả cho người khác.
Người chồng đã chặt bà làm
đôi rồi tự tử, nói: Hai chúng ta sẽ gặp
nhau trong đời sau. Do vậy nên biết sầu bi khổ ưu não do Ái sinh.
Nghe những lời ấy, Mạt lợi phu nhân đi
đến vua Ba tư nặc, hỏi: "Vua có thương công chúa Vajirì không, có
thương hoàng hậu Vasabha, tướng quân Vidùdabha [1], có thương chính bà
và dân chúng Kàsi, Kosala không." Vua nói có, hoàng hậu lại hỏi: "Nếu có
sự biến dịch [2] đổi thay gì xảy
đến cho những người ấy, vua có buồn khổ
không?" Vua đáp đương nhiên là có. Phu nhân bảo, chính vì thế mà
Phật dạy sầu bi khổ ưu não do Ái sinh.
Sau khi nghe hoàng hậu trình bày, vua Ba tư nặc
đứng dậy sửa y phục, bảo phu nhân đưa cho
vua nước phép [3] rồi hướng về Phật mà
đảnh lễ.
III. CHÚ GIẢI
1. Vidudabha là con trai của vua về sau
đã lật đổ vua. Kàsi và Câu
Tát La là các lãnh thổ vua trị vì.
2. Từ ngữ này thường dùng để chỉ bệnh
nặng và chết.
3. Theo kinh sớ, ông ta dùng nước này để
rửa tay chân và súc miệng trước khi chào Phật.
IV. PHÁP SỐ
Không có.
V. KỆ TỤNG
Một người vì con chết
Nỗi đau buồn không vơi
Ði khắp nơi than khóc
Con của ta đâu rồi.
Ông đến Phật thổ lộ
Phật dạy nên hiểu rõ:
"Sầu khổ do Ái sinh,
hiện hữu từ nơi Ái."
- Sa môn nói ngược đời
Có yêu mới thật vui
Hỷ lạc từ Ái sinh
Do Ái, có hỷ lạc
Ðến bọn người đánh bạc
Ông được họ tán đồng
"Thương yêu là hỉ lạc"
Chuyện truyền vào nội cung.
Quốc vương Ba tư nặc
Bảo Mạt lợi phu nhân
Phật dạy "yêu là khổ"
Bà nghĩ có đúng không
- Phật đã dạy điều nào
Tất nhiên điều ấy đúng
- Cái gì Cồ đàm nói
Ðệ tử cũng hùa theo.
Phu nhân sai người hầu
Ði đến yết kiến Phật
Phật giải thích thế nào
Nhớ kỹ về thuật lại.
"Sầu khổ do Ái sinh
Hiện hữu từ nơi Ái
Không ái, không lo sầu
Ðúng lời Ngài đã dạy.
Xưa nay đã lắm kẻ
Vì yêu nên khổ sầu
Nào con khóc cha mẹ
Nào chồng vợ khóc nhau
Vì yêu, chúng phát cuồng
Lang thang khắp nẻo đường
Với tâm tư bấn loạn
Mong tìm thấy người thương.
Vì quá đỗi yêu nhau
Có người chồng giết vợ
Rồi chính chàng tự tử
Hẹn tái ngộ kiếp sau."
Phu nhân nghe lời ấy
Liền đến hỏi vua rằng:
- Công chúa và thái tử
Vua thương nhiều, phải chăng
Nếu người vua yêu mến
Bỗng dưng gặp tai biến
Vua cảm thấy thế nào?
- Ta sẽ rất sầu đau.
- Chính bởi vì lẽ ấy
Nên Phật mới dạy rằng
Sầu bi khổ ưu não
Là do Ái phát sinh.
Nghe phu nhân nói xong
Nhà vua chỉnh y phục
Hướng về nơi Phật ngự
Ðảnh lễ đức Thế tôn.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 88
Bahitika
I. TOÁT YẾU
Bàhitika Sutta - The Cloak.
The venerable Ànanda answers King Pasenadi’s questions on the
Buddha’s behaviour.
Cái áo choàng.
Tôn giả A nan trả lời những câu hỏi của vua Ba tư nặc về hạnh của
Phật.
II. TÓM TẮT
Vua Ba tư nặc hỏi Anan, đức Thế tôn có
bao giờ làm một thân hành có thể khiến người trí quở trách không
[1]. Tôn giả đáp không. Về ngữ và ý
hành cũng vậy.
Rồi vua hỏi thế nào là thân, ngữ, ý hành bị người trí quở trách. Tôn
giả Anan trả lời, đó là những thân,
ngữ, ý hành bất thiện. Bất thiện nghĩa là có tội, có hại, có khổ báo,
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, và
làm cho bất thiện tăng trưởng, thiện pháp
giảm thiểu [2].
Vua hỏi có phải Phật chỉ khen ngợi sự từ bỏ tất cả bất thiện. Tôn giả
đáp, đức Như Lai đã từ bỏ tất cả bất
thiện, và thành tựu những thiện pháp [3].
Vua hỏi thế nào là thân, khẩu, ý hành không bị người trí quở trách;
và tôn giả đáp đó là thiện thân
hành, thiện ngữ hành, và thiện ý hành. Và thiện nghĩa là không có tội,
không có hại, có lạc báo.
Sau cuộc đàm luận, vua muốn cúng
dường tôn giả voi ngựa, hoặc cả một khu làng ân tứ, nhưng biết Tôn giả
không được phép nhận những thứ này,
nên xin cúng dường một cuộn hàng ngoại [4], quà tặng của vua A xà thế,
để may y. Tôn giả từ chối vì
đã có
đủ 3 y. Vua năn nỉ tôn giả nhận 3 y mới, rồi tặng ba y cũ cho các vị tỳ
kheo khác. Như vậy sự bố thí sẽ được lan rộng, như cơn mưa lớn làm
nước sông chảy tràn lên bờ.
Tôn giả về thuật lại với Phật. Phật dạy thật hạnh phúc thay cho vua
Ba tư nặc đã
được yết kiến và
được cúng dường tôn giả Anan.
III. CHÚ GIẢI
1. Kinh sớ nói, vua hỏi câu này là ám chỉ trường hợp nữ du sĩ Tôn Ðà
Lợi lúc ấy đang được truy tầm. Vì
muốn bôi nhọ Phật, một số du sĩ khổ hạnh thuyết phục Tôn Ðà Lợi
đến viếng vườn Kỳ Ðà vào ban
đêm để
cho người ta thấy mình trở về lúc bình minh, làm cho mọi người
nghi ngờ. Sau một thời gian, họ sai người ám sát bà ấy và chôn xác gần
vườn Kỳ Ðà. Khi người ta tìm thấy xác, họ lên án
đức Phật. Một tuần sau sự vu cáo được tỏ rõ,
khi những thám tử của vua tìm ra sự thật
đằng sau vụ ám sát.
2. Nói ngắn gọn, đoạn này
đưa ra năm tiêu chuẩn của nghiệp ác:
nó là hành động thiếu lành mạnh
và có hậu quả thiếu lành mạnh trên tâm thức; nó
đáng quở trách vì bản chất
xấu về phương diện đạo đức; nó đem
lại khổ báo; nó có động lực bất
thiện và đem lại những
hậu quả tai hại lâu dài cho cả mình lẫn người. Thiện nghiệp thì
ngược lại.
3. Câu trả lời của tôn giả A Nan vượt xa câu hỏi, vì Ngài cho thấy
không những Phật tán dương sự từ bỏ tất cả bất thiện pháp, mà Ngài còn
hành động phù hợp với lời nói của
mình, nghĩa là đã từ bỏ tất cả bất
thiện.
4. Kinh sớ giải thích nhan đề kinh này
là một cái áo choàng được sản xuất ở nước
khác.
IV. PHÁP SỐ
3 hành, 3 nghiệp, 3 y.
V. KỆ TỤNG
Quốc vương Ba tư nặc
Hỏi tôn giả Anan
- Phật có bao giờ làm
Thân hành đáng quở trách
Tôn giả đáp rằng: "không,
Cũng thế về ngữ, ý
Tất cả bất thiện hành
Phật đều đã từ bỏ."
- Thế nào là thân hành
Bị người trí quở trách?
"Những thân hành bất thiện
Cũng vậy, ngữ ý hành.
Bất thiện là có tội
Có hại, có khổ báo
Ðưa đến hại mình, người
Khiến ác tăng, thiện giảm.
- Phải chăng Phật chỉ khen
Sự từ bỏ bất thiện?
"Ngài từ bỏ bất thiện
Và thành tựu thiện pháp."
- Thế nào là hành vi
Người trí không quở trách?
"Ðó là thiện thân hành
Thiện ngữ, thiện ý hành.
- Thế nào gọi là thiện?
"Thiện là bất cứ gì
Không có tội, vô hại
Có quả báo an vui."
Vua cúng dường cho Ngài
Một cuộn hàng ngoại hóa
Nhưng tôn giả từ chối:
"Tôi đã
đủ ba y."
- Xin hãy nhận hàng này
Ðể may ba y mới
Rồi tặng ba y cũ
Cho các vị cần dùng
Như vậy sự bố thí
Sẽ được lan khắp cùng.
Ví như khi mưa lớn
Nước tràn ngập bờ sông.
Phật khi biết câu chuyện
Ðã dạy: Hạnh phúc thay
Cho vua Ba tư nặc
Ðược cúng dường tôn giả.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 89
Pháp trang nghiêm
I. TOÁT YẾU
Dhammacetiya Sutta - Monuments to the Dhamma.
King Pasenadi offers ten reasons why he shows such deep veneration to
the Buddha.
Ðiện thờ Chính pháp.
Vua Ba tư nặc đưa ra mười lý do ông bày
tỏ lòng kính mộ sâu xa đối với Phật.
II. TÓM TẮT
Trong lúc dạo chơi vườn ngự, trông thấy những gốc cây khả ái, mát mẻ
thích hợp để ngồi thiền, vua Ba tư nặc nhớ
đến Phật. Ðược người cận vệ Kàràyana [1] cho biết Phật ở cách
không xa, chỉ chừng 3 do tuần [2], vua bèn sai thắng cỗ xe
đi yết kiến Thế Tôn.
Ðến nơi vua đi bộ, cởi bỏ binh khí và
vành khăn bịt đầu trao cho người cận vệ để
vào yết kiến Phật. Người cận vệ nghĩ, chắc vua muốn mật bàn
chuyện gì đây, nên
để ta ở lại [3]. Khi được gặp Phật, vua
đảnh lễ, sờ chân Ngài và tự xưng tên. Phật hỏi do
đâu mà vua có cử chỉ hạ mình tột bực
như vậy. Vua kể những lý do sau đây:
1. Tỳ kheo sống phạm hạnh trọn đời không
như các sa môn bà la môn ngoại đạo
chỉ tu một thời gian rồi trở về hưởng dục. Do đấy vua nghĩ: Pháp được
Thế Tôn khéo giảng, chư tăng đệ tử khéo hành trì.
2. Trong tất cả các gia đình
đoàn thể hội chúng,
đều có tranh chấp [4], cãi lộn. Trái
lại chúng tỳ kheo của Phật sống hòa thuận, không cãi lộn, nhìn nhau với
cặp mắt ái kính.
3. Các sa môn bà la môn ngoại đạo có vẻ
bạc nhược, da xấu, gầy mòn khốn khổ, dường như họ không
được hoan hỷ trong đời sống phạm hạnh hoặc
có những ác hành được dấu kín. Khi
vua hỏi họ tại sao có vẻ bạc nhược thì họ trả lời chúng tôi bị
bệnh gia truyền. Ngược lại đệ tử Phật luôn
luôn vui vẻ, các căn tịch tịnh.
4. Tuy làm vua, mỗi khi phát biểu ông vẫn thường bị các cận thần ngắt
lời. Còn khi Thế Tôn thuyết pháp [5], không ai dám ho. Vua nghĩ không có
một đồ chúng nào khéo
được huấn luyện như vậy.
5. Nhiều học giả có trí sắp đặt câu hỏi
sắc bén [6] để chất vấn Phật nhưng khi đến nơi Ngài, họ
đều được Ngài cảm hóa thành
đệ tử.
6. Cũng vậy, Phật cảm hóa được nhiều bà
la môn có trí.
7. Cảm hóa được các gia chủ có trí.
8. Cảm hóa được cá sa môn có trí.
9. Vua có hai quan giữ ngựa [7] ăn lộc
vua, sống nhờ vua, nhưng không kính vua bằng kính Phật. Một hôm nhân lúc
hành quân cùng ở với vua trong một ngôi nhà chật, trước khi nằm
xuống ngủ họ trở chân nơi vua, hướng đầu về
phía mà họ biết Phật đang ngự. Vua
nghĩ, thật sự phải có một cái gì tuyệt diệu trong giáo lý này nên
các đệ tử mới có thái độ như thế.
10. Phật cùng thuộc dòng dõi chiến sĩ, cùng quê hương, cùng tuổi 80
như vua [8], nên ông sẵn sàng hạ mình tột bực
để biểu lộ tình thân ái. Trình bày
xong những lý do trên, vua đứng dậy đảnh
lễ, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra
đi [9].
Sau khi vua đi khỏi, Phật gọi các tỳ
kheo và dạy: hãy thọ trì các pháp trang nghiêm [10] các pháp này
liên hệ đến mục tiêu, và là căn
bản của phạm hạnh.
III. CHÚ GIẢI
1. Kàràyana là tổng tư lệnh quân đội vua
Ba Tư Nặc. Ông là cháu của người tộc trưởng Mallas. Người tộc
trưởng này trước kia là bạn vua Ba Tư Nặc, bị vua xử tử cùng với 32
người con trai vì đã âm mưu với
đình thần thối nát. Kàràyana cũng âm
mưu với thái tử con vua Ba Tư Nặc để giúp
thái tử đoạt ngôi cha.
2. Ba do tuần tương đương khoảng 20 dặm
Anh.
3. Kinh sớ nói ông ta nghĩ rằng: "Trước
đây, sau khi bí mật hỏi ý kiến sa môn Cồ Ðàm, vua
đã bắt ông chú của ta cùng với 32
con trai của chú. Có lẽ lần này vua sẽ bắt ta." Ấn tín vua ban cho ông
bao gồm cái quạt, lọng, và đôi hài.
Ông vội vàng trở về kinh cùng với ấn tín ấy
để phong vương cho thái tử.
4. Trong kinh Trung bộ 13, những tranh chấp này
được nói là khởi lên do dục.
5. Như trong kinh 77.
6. Như trong kinh 27.
7. Isidatta và Puràna. Khi họ chết,
đức Phật công bố cả hai đều chứng quả Bất
hoàn. Xem Tăng chi 6.
8. Lời này cho thấy kinh này được thuyết
vào năm cuối cùng trong
đời đức Phật.
9. Khi vua Ba Tư Nặc trở về nơi địa điểm
ông đã từ giã Kàràyana, thì chỉ còn người nữ tỳ kể lại tin tức.
Vua vội vàng đến thành Vương xá
để cầu viện cháu mình là vua A Xà
Thế. Nhưng vì vua đến quá trễ nên
cổng thành đã
đóng. Kiệt sức vì cuộc hành trình,
vua nằm nghỉ trong một cái nhà bên ngoài thành và chết trong
đêm ấy.
10. Kinh sớ nói Dhammacetiya hay "điện
thờ pháp" là danh từ biểu lộ sự tôn kính pháp. Mỗi khi biểu lộ sự
tôn kính đối với một ngôi báu tức là
cũng biểu lộ sự tôn kính cả 3 ngôi.
IV. PHÁP SỐ
10 lý do vua kính nể Phật.
V. KỆ TỤNG
Quốc vương Ba tư nặc
Ðang dạo chơi vườn ngự
Bỗng nhớ đến đức Phật
Khi nhìn những gốc cây.
Vua hỏi quan hầu cận:
- Này Ka-ra-ya-na
Thế tôn Chánh đẳng giác
Hiện trú tại nơi nào?
Tâu đại vương, không xa
Ở Mê la đum pa
Có thể đi đến đấy
Và về nội trong ngày.
Hãy thắng các cỗ xe
Ta muốn yết kiến Ngài.
Rồi vua với tùy tùng
Ðến nơi Phật lưu trú.
Ðến gần, vua bỏ kiếm
Bước nhẹ vào hương thất
Ðảnh lễ dưới chân Phật
Lấy tay sờ chân Ngài
Phật hỏi lý do nào
Khiến vua của cả nước
Lại hạ mình tột bực
Khi ở trước thân này.
- Như Lai chính đẳng giác
Pháp được Ngài khéo giảng
Chư tăng khéo hành trì
Do đây con kính lễ.
Tỳ kheo đệ tử Phật
Sống phạm hạnh trọn đời
Không như các ngoại đạo
Tu hành chỉ một thời.
Trong các hội chúng khác
Có tranh chấp xô xát
Tỳ kheo đệ tử Phật
Sống hòa thuận thương nhau.
Tu sĩ của ngoại đạo
Trông gầy mòn khốn khổ
Dường như không được vui
Có ác hành che giấu.
Ngược lại đệ tử Phật
Không có vẻ bạc nhược
Nét mặt luôn vui hòa
Với các căn tịch tịnh.
Mỗi khi vua phát biểu
Thường vẫn bị ngắt lời
Nhưng khi Phật thuyết pháp
Không kẻ nào dám ho.
Nhiều học giả có trí
Lúc đầu muốn bắt bí
Ðến chất vấn Thế tôn
Rốt cùng thành đệ tử.
Cũng vậy, các sa môn
Bà la môn, gia chủ
Khi yết kiến Thế tôn
Tất cả đều quy phục.
Có hai quan giữ ngựa
Ăn lộc, sống nhờ vua
Nhưng lại không kính vua
Cho bằng ngưỡng mộ Phật.
Một hôm lúc hành quân
Ở trong ngôi nhà chật
Họ trở chân nơi vua
Quay đầu về hướng Phật.
Thấy vậy vua ngẫm nghĩ
Pháp và luật Thế tôn
Có lẽ còn vi diệu
Vượt ân sủng vua ban.
Lại nữa, Phật với vua
Cùng quê, cùng đẳng cấp
Và cùng tuổi tám mươi
Nên tỏ tình thân ái.
Phật dạy các tỳ kheo
"Ðây là pháp trang nghiêm
Căn bản của phạm hạnh
Các ngươi nên thọ trì."
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 90
Kannakatthala
I. TOÁT YẾU
Kannakatthala Sutta - At Kannakatthala.
King Pasenadi questions the Buddha on omnisscience, on cast
distinctions, and on the gods.
Ở Kannakatthala.
Vua Ba tư nặc hỏi Phật về toàn tri, về phân biệt giai cấp, và về chư
thiên.
II. TÓM TẮT
Vua Ba tư nặc đến viếng Phật, sau khi
đảnh lễ Ngài, ông chuyển lời vấn an của hai chị em Somà và Sakulà
[1]. Phật hỏi sao họ không nhờ người nào khác
đưa tin mà phải phiền
đến nhà vua. Vua thưa chính vì họ
nghe vua sắp đi yết kiến Phật. Vua hỏi có
phải Phật đã tuyên bố: Không một sa môn bà la môn nào toàn tri
toàn kiến, chứng được tri kiến viên
mãn [2]. Lời ấy có đúng của Phật không, hay
là xuyên tạc. Phật dạy đó là
lời xuyên tạc.
Lời Phật dạy là: Không có sa môn bà la môn nào có thể biết và thấy
mọi sự trong cùng một lúc.
Vua lại hỏi có gì khác nhau giữa bốn giai cấp. Phật trả lời có giai
cấp được tôn sùng, có giai cấp bị
chà đạp.
Khi ấy vua xác minh rằng ông không hỏi về hiện tại, mà ông hỏi về
tương lai [3]. Phật dạy có 5 tinh cần chi [4] là lòng tin, ít bệnh,
siêng năng, thành thực, và trí tuệ
về sinh diệt của các pháp. Ai đủ những yếu
tố ấy thì đều có thể đoạn tận khổ,
bất luận thuộc giai cấp nào. Như những ngọn lửa cháy bằng các
nhiên liệu khác nhau thì vẫn là lửa, không có gì khác giữa ánh sáng và
tác dụng của chúng.
Kế đến vua hỏi chư thiên có sinh
trở lại trong cõi người hay không. Phật đáp
chư thiên nào còn tâm não hại thì còn sinh trở lại, hết tâm não
hại thì không còn sinh trở lại [5].
Khi ấy thái tử Vidudabha hỏi, chư thiên sinh trở lại có thể
đánh đuổi chư thiên không sinh trở
lại hay không. Tôn giả A nan thay Phật trả lời bằng cách hỏi lại: Vua có
thể trục xuất người tu hành tại các lãnh thổ không thuộc quyền của vua
hay không. Thái tử nói không.
Tôn giả nói chư thiên có não hại tâm còn không thể thấy
được chư thiên không não hại, làm
sao đánh đuổi được. Vua hoan hỷ với những
câu trả lời ấy, và xin cáo từ.
III. CHÚ GIẢI
1. Hai chị em này là vợ của vua.
2. Không người nào có thể đồng lúc,
trong một tâm duy nhất, biết tất cả mọi sự quá khứ hiện tại vị lai. Về
vấn đề Nhất thiết trí mà truyền thống Thượng Tọa Bộ gán cho Phật,
xem chú thích số 3 kinh 71.
3. Có nghĩa là ông ta không hỏi về địa
vị xã hội mà về triển vọng tiến bộ tâm linh của họ.
4. Như trong kinh số 85.
5. Kinh sớ: câu trả lời này ngụ ý hạng chư thiên
đầu là những bậc Bất Hoàn, hạng sau
chưa chứng quả Bất Hoàn. Cũng vậy câu hỏi về các Phạm Thiên. Hai danh từ
then chốt phân biệt hai hạng chư thiên là có não hại và không
não hại, cũng có thể dịch là còn sân hận và hết sân hận. Kinh sớ chú
thích hạng đầu chưa từ bỏ đoạn tận khổ ưu,
hạng sau đã tận trừ ưu khổ. Vì cả hai cách hiểu
đều có thể áp dụng cho những bậc Bất hoàn
nên không khác gì nhau.
IV. PHÁP SỐ
4 giai cấp, 5 tinh cần chi.
V. KỆ TỤNG
Khi viếng thăm Thế tôn
Vua Ba tư nặc hỏi
Con có nghe lời đồn
Phải chăng Ngài đã nói:
Không một sa môn nào
Là toàn tri toàn kiến
Chứng tri kiến viên mãn?
- Ðó là lời xuyên tạc.
Lời Phật dạy như sau:
"Không có sa môn nào
Thấy biết hết mọi sự
Trong một lúc khởi tâm."
Lại hỏi bốn giai cấp
Có điểm gì khác nhau?
"Cấp dưới được tôn sùng
Cấp dưới bị chà đạp."
- Không nói về hiện tại
Con muốn biết tương lai.
"Năm tinh cần chi này
Làm nên bậc tối thượng:
Lòng tin và ít bệnh
Siêng năng và thành thực
Có trí về sinh diệt
Của tất cả các pháp.
Ai đủ năm pháp ấy
Ðều đoạn tận khổ đau
Bất luận giai cấp nào
Ở đây đều đồng đẳng.
Như những ngọn lửa cháy
Bằng nhiên liệu khác nhau
Bản chất lửa vẫn một
Là ánh sáng, hơi nóng."
- Chư thiên và Phạm thiên
Có sinh lại cõi này?
"Còn có tâm não hại
Thì còn sinh trở lại.
Chư thiên hết não hại
Thì không còn tái sinh."
- Chư thiên sinh trở lại
Có đuổi vị không sinh?
Tôn giả A nan nghĩ
Nãy giờ vua hỏi Phật
Nay con vua xen vào
Ta sẽ đáp ông ấy.
Ngài hỏi lại thái tử:
- Có những người tu hành
Ở ngoài lãnh thổ vua
Vua trục xuất được chăng?
Thái tử thưa không được
- Chư thiên còn não hại
Không thấy những vị kia
Làm sao đánh đuổi được.
Vua hỏi tên người đáp
Ðược biết Ananda
Vua hoan hỷ tán thán
Rồi đảnh lễ cáo từ.