TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 11
Tiểu kinh sư tử hống
I. TOÁT YẾU
Cùlasìhanàda Sutta - The shorter discourse on the Lion's roar.
The Buddha declares that only in his Dispensation can the four grades
of noble individuals be found, explaining how his teaching can be
distinguished from other creeds through its unique rejection of all
doctrines of self.
Bài kinh ngắn nói về tiếng rống sư tử.
Phật tuyên bố, chỉ trong Giáo pháp Ngài mới có thể tìm thấy bốn cấp
bực thánh chúng, và giải thích giáo lý Ngài khác với các tôn giáo khác ở
chỗ độc đáo phủ nhận tất cả kiến chấp về
bản ngã như thế nào.
II. TÓM TẮT
Phật bày cho các đệ tử đối đáp với ngoại
đạo khi bị chất vấn lý do lời tuyên bố "chỉ có trong
đạo Phật mới có bốn thánh quả sa môn, tức
bốn đôi tám vị". Trả lời: "Vì chúng tôi có bốn pháp là: tin
đấng Đạo sư, tin Pháp, viên mãn Giới
luật và có những pháp hữu tại gia xuất gia mà chúng tôi thương mến."
Nếu ngoại đạo vặn lại, tôn giáo nào
cũng có bốn pháp ấy, đạo Phật có gì
khác? Nên hỏi lại họ: - "Cứu cánh là một hay nhiều?" Nếu trả lời chân
chính, họ phải nói chỉ có một.
- "Cứu cánh ấy dành cho người có tham hay không tham?" Họ cũng phải
đáp là cho người vô tham.
Hỏi tiếp như trên về sân, si, ái, chấp thủ, vô trí, có phản ứng thuận
nghịch, ưa hý luận, thì họ đều buộc phải
trả lời chân chính rằng "cứu cánh ấy là cho người không tham,
không sân, không si, không ái nhiễm, không chấp thủ, có trí, không
có phản ứng thuận nghịch, không ưa hý luận."
Có hai loại tri kiến hay quan điểm: hữu
kiến và phi hữu kiến. Người cố chấp hữu kiến thì bị chướng ngại
bởi phi hữu kiến, và ngược lại. Người nào không như thật tuệ tri sự tập
khởi và đoạn diệt của hai loại kiến ấy, vị
ngọt, nguy hiểm và sự xuất ly khỏi chúng, chính là người có tham,
sân, si, ái, chấp thủ, vô trí, có phản ứng thuận nghịch, ưa hý luận, do
vậy không thoát khỏi sinh, già chết, khổ
đau. Ai như thật tuệ tri những điều trên, là người không còn tham
sân si ái, không chấp thủ, có trí, hết phản ứng thuận nghịch, hết ưa hý
luận. Người ấy giải thoát khỏi sinh, già, chết, khổ sầu.
Có bốn chấp thủ là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Có
những sa môn bà la môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, song chỉ hiển
thị hoặc một thủ, hoặc hai hoặc ba thủ, trừ ngã luận thủ; nên tri
kiến họ còn thiếu sót. Trong giáo pháp thiếu sót như vậy, dù có lòng tin
bậc đạo sư, tin giáo pháp, thành tựu
các giới luật, thương mến các bạn đạo, lòng
tin ấy, sự thành tựu ấy, lòng thương mến ấy
được xem là không hoàn toàn. Vì giáo pháp ấy không
được khéo thuyết giảng, không hướng thượng,
không đưa đến tịch tịnh niết bàn. Ngược lại, khi Phật tự xưng
liễu tri tất cả thủ, Ngài chân chính hiển thị sự liễu tri dục thủ, kiến
thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Trong một giáo pháp như vậy, nếu có
tịnh tín đối với bậc Đạo sư, với Pháp và
Tăng, thành tựu viên mãn Giới,
thương mến bạn đạo, thì sự tịnh tín
ấy, sự thành tựu và thương mến ấy được xem
là hoàn toàn. Vì giáo pháp ấy dẫn
đến tịch tịnh niết bàn, được bậc
Chính Đẳng giác hiển thị.
Kế đến Phật phân tích nguồn gốc phát
sinh 4 loại chấp thủ theo 12 chi duyên khởi, bắt nguồn từ vô
minh. Tỳ kheo đã
đoạn trừ vô minh thì không chấp thủ,
nhờ không chấp thủ nên không tháo động, tự
thân chứng niết bàn.
III. CHÚ GIẢI
Phản ứng thuận nghịch: Thuận là bị tham chi phối; nghịch là bị
sân chi phối. Hý luận là tâm hành còn bị
điều động bởi ái và kiến.
Hữu kiến, bhavaditthi là thường luận, hay "chấp thường",
tin bản ngã là trường cửu. Phi hữu kiến, vibhavaditthi là
đoạn diệt luận hay "chấp đoạn" nghĩa là
cho con người chết rồi là hết, không có tái sinh
để chịu quả báo các hành vi thiện
ác. Sự cố chấp hữu kiến kéo theo sự phản
đối phi hữu kiến, điều này liên quan
đến câu nói ở trước "cứu cánh (niết bàn) là dành cho người nào
không có phản ứng thuận nghịch."
Về "sự tập khởi" - samudaya - của hai loại kiến chấp, Sớ giải kể
ra tám yếu tố làm nhân duyên: năm uẩn, vô
minh, xúc, tưởng, tư, phi như lý tác ý, bạn xấu, và tiếng nói của
một người khác. Sự biến mất hai loại ấy - attangama - là Dự lưu
đạo, ở đấy tất cả quan điểm đều bị nhổ bật
gốc. Vị ngọt của chúng - assàda - là sự thỏa mãn nhu cầu tâm lý
mà chúng đem lại; nguy hiểm -
àdìnava - sự trói buộc liên tục mà chúng gây ra; sự xuất ly khỏi chúng
là niết bàn.
Trong bốn thủ, dục thủ - bao gồm tất cả ham muốn vi tế nhất - chỉ
đoạn tận ở A la hán đạo; ba thủ còn
lại ở Dự lưu đạo đã trừ
được. "Tuệ tri" đây có nghĩa là vượt
qua, thắng lướt được nhờ hiểu rõ.
Đoạn này cho thấy yếu tố cao
điểm phân biệt lời Phật dạy khác với tất cả
tôn giáo triết học khác, đó là Phật "liễu tri sự chấp thủ vào chủ
trương có ngã" hay ngã luận thủ. Điều này
cũng có nghĩa, duy chỉ Phật mới có thể chỉ dạy cách vượt qua tất cả kiến
chấp về ngã, bằng cách thâm nhập chân lý vô ngã. Các bậc thầy khác thiếu
tuệ tri này về vô ngã, cho nên lời tuyên bố của họ tự cho
đã liễu tri ba thủ kia cũng khả
nghi.
IV. PHÁP SỐ
Hai loại tri kiến: Hữu kiến, phi hữu kiến.
Ba điều cần biết về các pháp:
Vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly.
Bốn quả sa môn
Bốn pháp quyết định: tin
Phật, tin Pháp, tin Tăng, và tin
Giới.
Bốn thủ
Mười hai nhân duyên.
V. KỆ TỤNG
Chỉ trong giáo pháp này
Có bốn quả sa môn
Dự lưu và Nhất lai
Bất hoàn, A la hán.
Vì đức tin đặt đúng
Vào bốn chỗ đáng tin:
Phật, Pháp, Tăng và Giới
Được lợi lạc vô biên.
Có hai loại tri kiến
Chấp hữu và chấp vô
Cả hai đều chướng ngại
Không thoát khỏi sầu ưu.
Ai tuệ tri vị ngọt
Nguy hiểm và xuất ly
Của hai loại kiến chấp
Liền giải thoát khổ sầu.
Có bốn sự vướng mắc
Hoặc vướng vào sắc dục
Hoặc vướng vào quan điểm
Hoặc vướng vào lễ tục
Hoặc vướng các ngã luận
- lý thuyết chấp có "tôi" -
Riêng ngã luận thủ này
Chỉ Như lai từ bỏ.
Các ngoại đạo sư khác
Thuyết giảng ba thủ kia
Trừ ngã luận thủ này
Họ chưa từng đề cập.
Ba thủ họ "tuệ tri"
Kể cũng thực khả nghi:
Giáo pháp ấy bất toàn
Vì còn có chấp ngã.
Trong pháp luật bất toàn
Dù có tin đạo sư
Tin pháp đạo sư dạy,
Dù có viên mãn giới
Thương yêu đồng đạo mình
Thì lòng tin kính ấy
Chỉ luống công nhọc xác
Vì đức tin sai chỗ.
Bậc đạo sư tối thượng
Lìa tất cả kiến chấp
Tuệ tri cả bốn thủ
Theo nguyên lý duyên sinh
Từ Ái, có chấp Thủ
Đưa đến Hữu và Sinh
Già chết sầu bi khổ
Nguồn gốc từ Vô minh.
Trong giáo pháp toàn hảo
Ai có được niềm tin
Đức tin ấy toàn vẹn
Vì Đạo sư toàn giác
Vì Pháp được khéo giảng
Giới luật đáng viên mãn
Và có các bạn lành
Bốn pháp ấy toàn hảo.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 12
Đại kinh Sư tử hống
I. TOÁT YẾU
Mahàsìhanàda Sutta - The greater discourse on the lion's roar.
The Buddha expounds the ten powers of a Tathàgata, his four kinds of
intrepidity, and other superior qualities which entitle Him to "roar his
lion's roar in the assemblies".
Bài kinh dài nói về tiếng rống sư tử.
Phật giảng về Mười lực của một đức Như
lai, Bốn vô úy và những đức thù
thắng khác; nhờ đó Ngài
đủ tư cách "rống tiếng rống sư tử" trong
các hội chúng.
II. TÓM TẮT
Tôn giả Xá lợi phất đi khất thực, về
bạch lại với Phật lời rêu rao của Sunakkhatta vừa mới bỏ tu: "Sa
môn Gotama không có tri kiến thù thắng, thuyết pháp do mình tạo ra sau
khi suy luận, trắc nghiệm. Pháp ấy nhắm đến
một mục tiêu đặc biệt, có khả năng
hướng thượng, có thể dẫn người thực hành
đến chỗ đoạn tận khổ đau." Phật mỉm cười
dạy: "Kẻ ngu ấy vì phẫn nộ muốn chỉ trích mà lại hóa ra ca tụng
Như lai." Phần còn lại của Kinh này cho thấy sự chỉ trích của
Sunakkhatta là sai lạc. Những ai có lòng tin tuyệt
đối sẽ thấy ngược lại, Phật là
đấng có mười lực, bốn vô úy và nhiều
năng lực khác.
A. Tùy pháp về Như lai:
1. Phật đủ mười hiệu là
Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, vân
vân.
2. Ngài đã chứng các thần
thông như biến hóa, thiên nhĩ thông, tha tâm thông...
3. Nhờ đã thành tựu mười lực và
bốn vô úy, mà Như lai tự nhận địa vị Ngưu
vương, rống tiếng rống sư tử giữa các hội chúng và chuyển bánh
xe Pháp.
B. Những pháp Ngài đã tuệ tri:
như bốn sinh, năm thú và con
đường đưa đến đấy; niết bàn và
đường đưa đến niết bàn.
C. Phật kể lại những khổ hạnh Ngài đã
tu tập: như hành hạ thân xác, hạnh bần uế, hạnh yểm ly, hạnh
độc cư; trong cả 4 hạnh ấy không ai sánh
được với Ngài, nhưng cuối cùng Ngài từ bỏ vì chúng không
đưa đến chứng đắc trí tuệ.
D. Cuối cùng, Ngài bác bỏ những chủ trương sai lầm của ngoại
đạo: như chủ trương chúng
sinh đạt thanh tịnh nhờ luân hồi, nhờ tái
sinh, nhờ an trú (trong một loại tái sinh nào
đó), nhờ tế tự, nhờ thờ lửa. Phật cho biết
không có cõi luân hồi nào ở đấy Ngài
đã không trải qua một thời gian khá
dài, không có cõi nào Ngài chưa từng tái sinh, an trú, chỉ trừ cõi trời
Tịnh cư. Nếu Ngài tái sinh vào cõi Tịnh cư thì Ngài
đã không trở lại thế gian này. Ngài
cũng đã làm tất cả những việc tế tự,
thờ lửa trong một thời gian dài lúc còn làm vua dòng Sát
đế lợi, hay làm Bà la môn giàu có
[nhưng không ích lợi gì].
Ngoại đạo cho rằng khi còn trẻ
tuổi, người ta có trí tuệ, biện tài, nhưng về già thì lú lẫn. Ở trong
giáo pháp của Phật thì không thế, Ngài có bốn
đệ tử đã trên trăm
tuổi mà vẫn đầy đủ trí tuệ biện tài.
Và bản thân Ngài cũng thế, dù tuổi đã
tám mươi, Ngài vẫn thừa sức giảng dạy cho những vị trí tuệ biện tài bậc
nhất, và trí tuệ Ngài không sút giảm dù có phải bị gánh trên giường
đi chỗ này chỗ kia (khi
đã quá già yếu). Ai nói về
đức Như lai một cách chân chính sẽ nói
rằng: "Ngài là vị hữu tình không còn si ám, sinh ra
đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho
chúng sinh, vì an lạc cho chư thiên và loài người." Một
điểm lý thú là kết luận kinh này.
Tôn giả Nagasamala lúc ấy đang đứng sau
lưng Phật mà quạt cho Ngài. Sau khi nghe Phật kể về thời gian tu
khổ hạnh, về những gì Phật đã thành
tựu, tôn giả cả cảm khái đến rởn ốc, và
bạch Phật: "Thật vi diệu thay, bạch Thế tôn. Sau khi nghe kinh này, lông
tóc con dựng ngược. Bạch Thế tôn, kinh này tên gì?" Phật dạy, "Thế thì
hãy gọi là kinh Lông tóc dựng ngược."
III. CHÚ GIẢI
Sunakkhata, Phật giảng dạy vị này trong Kinh Sunakkhata, Trung bộ
kinh 105, có lẽ trước khi ông gia nhập tăng
đoàn. Việc thối thất của ông được
nói trong Kinh Pàtika thuộc trường bộ 24. Ông bất mãn bỏ về vì
Phật không biểu diễn thần thông cho ông xem, cũng không giải
đáp cho ông về khởi nguyên các pháp.
Cốt lõi lời chỉ trích của Sunakkhata là Phật
đắc đạo nhờ tư duy chứ không phải nhờ trí
tuệ siêu việt; và theo ông ta, mục
đích diệt tận đau khổ không bằng có được các loại thần thông.
Tạp nhiễm, sankilesa - là dự phần vào thối giảm, "thanh tịnh"
vodàna, là dự phần vào tăng tiến; "xuất
khởi" - vutthàna - vừa có nghĩa tịnh hóa vừa có nghĩa ra khỏi một
thiền chứng.
Mười danh hiệu Phật: Như lai, A la hán, Chính
đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế
gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật
Thế tôn.
Mười lực là:
1. Trí biết thị xứ phi xứ [do thấy rõ tương quan nhân quả, nên biết
được cái gì có thể xảy
đến, không thể xảy đến.]
2. Trí biết nghiệp báo trong cả ba thời quá, hiện, vị lai.
3. Biết con đường đưa đến các cảnh giới.
4. Biết tất cả yếu tố tạo thành thế gian [nói rõ trong kinh Trung
bộ 115.]
5. Biết chí hướng sai biệt của các loại hữu tình; biết các hạng chúng
sinh thượng, trung, hạ, chúng thu hút lẫn nhau do luật
đồng thanh đồng khí.
6. Biết căn mạnh hay yếu nơi chúng sinh
- tức 5 căn tín tấn niệm định tuệ.
7. Tuệ tri sự tạp nhiễm, thanh tịnh, sự xuất khởi các thiền chứng về
thiền, giải thoát, định.
8. Trí biết tất cả kiếp trước của bản thân gọi là túc mạng trí.
9. Trí biết sự sống chết của chúng sinh tùy theo nghiệp hay sinh tử
trí.
10. Lậu tận trí, sạch hết tất cả nhiễm ô.
[Hán văn: 1. Tri thị xứ phi xứ lực; 2.
Tri tam thế nghiệp báo lực; 3. Tri nhất thiến đạo trí lực; 4. Tri thế
gian chủng chủng tính lực; 5. Tri tha chúng sinh chủng chủng dục lực;
6. Tri tha chúng sinh chư căn thượng hạ lực; 7. Tri chư thiền tam muội
lực; 8. Túc mạng trí; 9. Sinh tử trí; 10. Lậu tận trí.]
Bốn vô úy:
1. Phật không lo sợ bất cứ ai trên đời
chỉ trích Ngài chưa chứng mà mạo nhận.
2. Không sợ ai chỉ trích Ngài chưa đoạn
trừ lậu hoặc mà tự cho đã
đoạn trừ.
3. Những gì Ngài dạy chướng ngại đạo
chắc chắn là chướng ngại, không sợ ai nói ngược lại.
4. Pháp Ngài dạy chắc chắn dẫn đến đoạn
tận đau khổ, không ai có thể bảo là không.
Nagasamala là thị giả Phật trong 20 năm
đầu sau khi Ngài ra giáo hoá.
IV. PHÁP SỐ
Bốn khổ hạnh: khổ hạnh, bần uế, viễn ly,
độc cư.
Bốn vô úy
Bốn sinh: noãn, thai, thấp, hóa.
Năm thú: năm
chỗ mà sự tái sinh hướng đến, là
trời (gồm a tu la), người, địa ngục, ngạ
quỷ, bàng sinh.
Sáu thông
Tám giải thoát được kể trong các
kinh Trung bộ 77 và 137.
Tám hội chúng: Sát lợi, bà la môn, gia chủ, sa môn, tứ thiên
vương, ma vương và phạm thiên, tam thập tam thiên.
Chín định là 4 thiền, 4 không
và diệt thọ tưởng.
Mười danh hiệu Phật
Mười lực
Mười hai nhân duyên
V. KỆ TỤNG
A. Nguyên nhân thuyết kinh này
Một người từ bỏ Pháp
Tên Su-na-khat-ta
Rêu rao: "Go-ta-ma
Không có thượng nhân pháp
Ngài chỉ có giảng dạy
Một con đường diệt khổ
Chính Ngài đã tỏ ngộ
Khiến tận diệt khổ đau."
Xá lợi phất thuật lại
Phật nghe, chỉ mỉm cười:
"Kẻ ngu muốn chê bai
Trở thành khen Như lai."
B. Mười lực Phật
Đối với kẻ ngu si
Sẽ không có tùy pháp:
"Ngài là đức Như lai
Đầy đủ mười tôn hiệu:
Là bậc A la hán
Là đấng Chính đẳng giác
Là đấng Minh hạnh túc
Thiện thệ, Thế gian giải
Là đấng Vô thượng sĩ
Đấng Điều ngự trượng phu
Đấng Thiên nhân sư, Phật
Thế tôn, quý nhất đời.
Đối với kẻ ngu si
Sẽ không có tùy pháp
Về mười Như lai lực
Phật như thật chứng tri:
Ngài có thần túc thông
Biến hình nhiều thể loại
Ngài đắc thiên nhĩ thông
Nghe đủ tiếng các loài.
Ngài có tha tâm thông
Tự tâm biết tâm khác
Đi sâu vào tâm niệm
Của vô số sinh loài
Với mười Như lai lực
Phật rống tiếng Sư tử
Chuyển xe Pháp thanh tịnh
Thành địa vị Ngưu vương.
"Thị xứ phi xứ lực"
Việc có, không xảy ra
Phật đều biết tỏ tường
Nhờ liễu tri nhân quả.
"Biết nghiệp báo ba đời"
"đường đến các cảnh giới"
"Các căn tính chúng sinh"
Cùng "khuynh hướng mọi loài."
"Biết căn tu mạnh, yếu"
- tinh tấn niệm định tuệ -
"Biết các thiền, giải thoát"
- chư thiền tam muội lực.
Ngài đắc "túc mệnh trí"
biết các đời trước mình
Và đắc "sinh tử trí"
Biết sống chết chúng sinh
Cuối cùng "lậu tận trí"
Là trí sạch ô nhiễm
Như lai đã thân chứng
Thành Vô thượng bồ đề.
Ngài rống tiếng sư tử
Chuyển xe Pháp thanh tịnh
Ở giữa tám hội chúng:
Sát lợi, Bà la môn
Gia chủ và sa môn
Hội chúng Tứ thiên vương
Ma vương và Phạm thiên
Cùng Tam thập tam thiên.
Giữa tám hội chúng ấy
Ngài thuyết pháp vô ngại
Nhờ đắc mười tự tại
Và bốn Không sợ hãi:
C. Bốn vô úy
Không sợ ai chỉ trích
"Chưa chứng nói đã chứng"
Vì Như lai hoàn toàn
Thâm nhập pháp sở chứng.
Không sợ ai chỉ trích
"Chưa đoạn nói đã
đoạn"
Vì Như lai thực sự
Đã trừ sạch nhiễm ô.
Không sợ ai bác bỏ
"Chướng đạo, chướng gì
đâu?"
Vì Như lai biết rõ
Có dục, không giải thoát.
Không sợ ai phản bác
"Pháp Ngài không giải thoát"
Vì Pháp Như lai dạy
Thực tận diệt khổ đau.
D. Bốn sinh, Năm thú
"Trứng sinh" và "thai sinh",
"Thấp sinh" và "hóa sinh"
- Hóa sinh ở nhiều cõi -
Ấy là bốn sinh loài.
Năm cõi là
địa ngục,
Bàng sinh và ngạ quỷ
Loài người và chư thiên,
Đây năm cõi tái sinh.
Như lai biết thấy rõ
Cõi nào đợi nghiệp nào
Ngài cũng tuệ tri được
Niết bàn và hành lộ.
E. Bốn khổ hạnh: khổ, bần uế, độc
cư, yểm ly
Không một khổ hạnh nào
Phật không từng tu tập
Như ngoại đạo đang hành
Và vượt xa hơn chúng.
Không hạnh ở dơ nào
Phật chưa từng sống qua
Như ngoại đạo đang sống
Ngài vượt họ rất xa.
Ngài đã từng
độc cư
Nơi tuyệt dấu người ta
Sống yểm ly, tỉnh giác
Trải tâm từ lan xa.
Ở trong bãi tha ma
Đêm nằm gối xương ngủ
Mục đồng đến khạc nhổ
Trú xả, không kêu ca.
Vì Ngài ăn quá ít
Thân chỉ còn xương, da
Dù khổ hạnh tối đa
Không chứng thượng nhân pháp.
Bởi thế, đây toàn là
Sai lầm của ngoại đạo
Mà Phật đã trải qua
Các đời kiếp lâu xa:
Tái sinh vô số lần,
Tế tự và thờ lửa
Tái sinh cõi này kia
Với hy vọng giải thoát.
Phật chứng lý Trung đạo
Từ bỏ các cực đoan
Hưởng lạc và ép xác
Trường tồn và đoạn diệt
Đạt hoàn toàn giải thoát
Và trí tuệ biện tài
Không tranh chấp cùng ai
Vì không còn thủ trước.
"Không bị si chi phối
Ngài đã sinh ra
đời
Vì hạnh phúc an lạc
Cho tất cả muôn loài
Vì lòng thương tưởng đời
Cả chư thiên, loài người."
Một hữu tình như vậy
Chính là đức Như lai.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 13
Đại kinh Khổ uẩn
I. TOÁT YẾU
Mahàdukkhakkhanda Sutta - The greater discourse on the mass of
suffering.
The Buddha explains the full understanding of sensual pleasures,
material form, and feelings; there is a long section on the dangers in
sensual pleasures.
Bản kinh dài nói về đống khổ.
Phật giải thích sự liễu tri các khoái lạc giác quan, liễu tri sắc và
thọ; có một đoạn rất dài nói về
những nguy hiểm của dục lạc.
II. TÓM TẮT
Các tỳ kheo đến thăm các du sĩ ngoại đạo
và bị chất vấn có gì khác nhau giữa thuyết của Phật với ngoại
đạo về ba vấn đề dục, sắc pháp và
cảm thọ, vì họ cũng như Phật, hiểu biết hoàn toàn về ba pháp ấy. Tỳ kheo
trở về bạch Phật, Phật giảng về sự liễu tri ba pháp ấy trong giáo lý
Ngài, ấy là cần phải liễu tri ba điều: vị
ngọt, nguy hiểm và sự xuất ly khỏi chúng.
A. Trước hết về dục
Vị ngọt là năm pháp tăng trưởng dục: các
sắc, thanh, hương, vị, xúc khả ái do năm giác quan tiếp nhận. Nguy hiểm
là:
1. Vì theo đuổi năm thứ ấy mà
phải vất vả làm lụng đủ thứ nghề nghiệp.
2. Sự đau khổ thất vọng ê chề nếu
sau bao nhiêu nỗ lực theo đuổi mà
vẫn không có được điều mình muốn.
3. Sự mất công gìn giữ, lo sợ mất mát khi
đã có
được.
4. Nỗi đau khổ ghê gớm khi tài
sản đã có bị mất trộm, bị tịch thu,
bị trôi, bị cháy, bị con hư phá tán.
5. Vì các dục, mà chiến tranh xảy ra khắp nơi giữa người với người;
ngay cả trong gia đình, vợ chồng con
cái cũng tranh chấp nhau, đưa đến tử vong
hoặc đau khổ gần chết.
6. Do dục mà con người trở nên hung bạo tán tận lương tâm,
đánh nhau chết bỏ.
7. Do dục mà có cướp bóc giết hại, và có những hình phạt ghê gớm dành
cho tội nhân.
8. Do dục mà con người làm các ác hành về thân, ngữ, ý, chết
đọa vào các cõi dữ.
Đấy là những nguy hiểm của dục. Sự
xuất ly là điều phục lòng tham
đối với sắc thanh hương vị xúc, cho đến
đoạn tận tham dục.
B. Về sắc, ở đây là nữ sắc.
Vị ngọt là vẻ đẹp nơi thiếu nữ, gợi lên
cảm giác hỷ lạc nơi người nhìn. Nguy hiểm là vẻ già xấu, bệnh hoạn nằm
một chỗ, đắm mình trong phân tiểu
của chính mình khi cô ấy đến tuổi thành
bà ngoại. Nguy hiểm nữa là vẻ ghê tởm của xác chết khi bị quăng
bỏ nơi nghĩa địa, cho đến khi chỉ còn là những
đốt xương rời rạc, tan thành tro
bụi. Đó là nguy hiểm của sắc. Sự
xuất ly khỏi sắc là điều phục dục tham đối
với sắc, cho đến đoạn trừ tham dục.
C. Về cảm thọ.
Phật đưa ra hỷ lạc thiền định, để hiển
thị ngay cả lạc thọ vô hại ấy cũng còn có nguy hiểm, huống hồ các
lạc thọ khác. Vị ngọt là hỷ lạc do ly dục ở sơ thiền, hỷ lạc do
định ở nhị thiền, lạc ở tam thiền, xả niệm
thanh tịnh ở tứ thiền. Đấy là vị ngọt tối thượng của cảm thọ, vì
nó vô hại. Nguy hiểm của cảm thọ này là nó cũng vô thường, biến hoại,
nên là khổ. Sự xuất ly các cảm thọ là điều
phục dục tham đối với các cảm thọ, đoạn trừ dục tham.
Người nào như thật tuệ tri được vị ngọt,
nguy hiểm và xuất ly của các dục, sắc, và thọ, thì mới có khả năng
giúp người khác như thật tuệ tri các pháp ấy.
III. CHÚ GIẢI
Liễu tri - parinnà đây có nghĩa là
vượt qua, samatikkhama hay từ bỏ, pahàna. Du sĩ ngoại
đạo cho chứng sơ thiền là liễu tri
dục, chứng các vô sắc là liễu tri sắc, chứng thiền vô tưởng là liễu tri
thọ. Trái lại, Phật dạy ở Bất hoàn đạo mới
liễu tri các dục, ở A la hán đạo mới liễu tri sắc và thọ.
IV. PHÁP SỐ
Ba pháp: vị ngọt, nguy hiểm, sự xuất ly.
Năm dục trưởng dưỡng: sắc,
thanh, hương, vị, xúc.
V. KỆ TỤNG
A. Liễu tri dục
Trong giáo pháp Như lai
Liên hệ dục, sắc, thọ
Liễu tri cũng đồng nghĩa
"Đoạn tận" và "từ bỏ"
Trước hết, liễu tri "dục"
Cần biết rõ ba điều
Vị ngọt và nguy hiểm
Cùng xuất ly khỏi dục.
Đây vị ngọt của dục:
Các sắc đẹp, tiếng hay,
Mùi thơm và vị ngon
Cùng xúc giác êm dịu.
Tất cả những thứ gì
Năm giác quan nhận thức
Đem lại sự mê ly
Là vị ngọt của dục.
Nguy hiểm của năm dục
Thực khó nói cho cùng
Đây chỉ kể sơ lược
Những nguy khổ nói chung
Nào mất công theo đuổi
Chịu bao nỗi nhọc nhằn
Làm đủ thứ nghề nghiệp
Vừa lao lực, lao tâm.
Nếu nỗ lực tinh cần
Mà vẫn không có được
Tài sản mình mong ước
Họ đấm ngực khóc than.
Khi được của vào tay
Họ lo lắng đêm ngày
Lo tịch thu, trộm cướp,
Trôi, cháy, con ăn xài.
Của chưa mất đã khổ
Sợ vạ gió tai bay
Khi mất thực càng khổ
Kêu "Trời, tôi trắng tay."
Lại dục là nguyên do
Có xung đột, đôi co
Đánh nhau đến trí mạng
Người thân hóa kẻ thù.
Dục thú đẩy sát sinh
Tà dâm và trộm cắp
Cùng mọi việc gian ác
Đến tán tận nhân tình.
Do dục, bị tra khảo
Bằng đủ thứ nhục hình
Hiện tại phải tù tội
Còn khổ kiếp lai sinh.
Dục vui ít khổ nhiều
Nguy hiểm lại nhiều hơn
Điều phục, đoạn tận tham
Ấy là xuất ly dục.
B. Liễu tri Sắc
Vị ngọt của sắc pháp
Là sắc đẹp gái trai
Tuổi chưa quá hai mươi
Mùa xuân của đời người.
Nguy hiểm của sắc pháp
Là lúc đã
đến thời
Em gái thành bà ngoại
Còn đâu nhan sắc tươi.
Lưng còng, tóc bạc trắng
Làn da khô nhăn nheo
Già bệnh nằm một chỗ
Còn đâu vẻ mỹ miều.
Vị ngọt đã biến mất
Chỉ còn lại đắng cay
Của mối nguy già, chết
Chờ đợi tấm thân này.
Nguy hiểm của sắc pháp
Là thi thể cô gái
Khi bỏ ngoài nghĩa địa
Loài chim thú rỉa thây.
Nguy hiểm của sắc pháp
Là thi thể cô gái
Khi chỉ còn bộ xương
Và xương thành bột trắng.
Xuất ly khỏi sắc pháp
Là điều phục dục tham
Và đoạn trừ tham dục
Đối với sắc, không ham.
C. Liễu tri thọ
Vị ngọt của cảm thọ
Là hỷ lạc sơ thiền
Do ly dục sinh ra:
Vắng bóng niềm đau khổ.
Và hỷ lạc nhị thiền
Do tập trung sinh ra
Không còn tầm với tứ:
Một cảm thọ ngọt ngào.
Tam thiền thuần lạc thọ
Và xả thọ thanh tịnh
Ở định chứng tứ thiền
Là vị ngọt cảm thọ.
Nguy hiểm của cảm thọ:
Tối thượng vô hại này
Bị vô thường biến hoại
Nên vẫn nằm trong khổ.
Xuất ly các cảm thọ
Là điều phục dục tham
Đoạn trừ hết dục tham
Với tất cả cảm thọ.
Ai như thật tuệ tri
Vị ngọt là vị ngọt
Nguy hiểm là nguy hiểm
Xuất ly là xuất ly
Thì tự mình giải thoát
Khỏi đau khổ sầu bi
Và có thể đưa người
Tuệ tri các cảm thọ.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 14
Tiểu kinh khổ uẩn
I. TOÁT YẾU
Cùladukkhakkhandha Sutta - The shorter discourse on the mass of
suffering.
A variation of the preceding, ending in a discussion with Jain
ascetics on the nature of pleasure and pain.
Bản kinh ngắn về đống khổ.
Một dạng như kinh số 13, kết thúc bằng một cuộc
đàm luận với những người Kỳ na giáo
tu khổ hạnh, về bản chất của lạc và khổ.
II. TÓM TẮT
Màhanàma hỏi Phật, vì nguyên nhân gì thỉnh thoảng ông vẫn bị tham sân
si xâm chiếm mặc dù đã biết
đấy là cấu uế của tâm, và hỏi có
pháp nào trong ông chưa đoạn khiến ông vẫn
bị tham sân si chi phối. Phật dạy, pháp ấy chính là dục. Vì ông
chưa đoạn dục, để cho dục lèo lái
ông nên ông vẫn sống trong gia đình,
thụ hưởng các dục. Phật cho biết dục vui ít, khổ não nhiều, nguy hiểm
lại còn nhiều hơn. Về dục, nên biết rõ vị ngọt, nguy hiểm và sự xuất ly.
Nhưng nếu thấy rõ như vậy với trí tuệ chân chính, mà chưa chứng
được hỷ lạc thiền định hay các pháp thù
thắng hơn, thì vẫn còn bị dục chi phối. Đó
là kinh nghiệm bản thân của Phật.
Kế tiếp, Phật kể cho Mahànàma nghe mẩu
đối thoại của Ngài với những người theo phái Ni kiền tử thực hành
nhiều khổ hạnh, cảm thọ những đau khổ khốc
liệt để chuộc tội lỗi quá khứ, vì tin như vậy sẽ
được giải thoát.
Phật hỏi họ năm điều: Họ có biết được
trong quá khứ họ có hiện hữu hay không? Trong quá khứ, họ có làm
ác nghiệp hay không? Trong quá khứ, họ đã
làm những ác nghiệp gì? Họ có biết đã
trừ được bao nhiêu
đau khổ, còn lại bao nhiêu
đau khổ chưa trừ không? Họ có biết đoạn trừ
ngay trong hiện tại những bất thiện và hoàn thành các thiện pháp
không? Các người đệ tử theo phái khổ hạnh
đều không biết. Nhưng vì họ tin nhân quả nghiệp báo, Phật kết
luận: "Vậy thì những người xuất gia trong Ni kiền tử phải từng là những
kẻ ác ôn ghê gớm" (cho nên mới phải hành thân hoại thể
để chuộc tội).
Nhưng người Ni kiền tử lại nói: "Hạnh phúc thành tựu nhờ
đau khổ. Nếu hạnh phúc thành tựu nhờ
hạnh phúc, thì vua Bình sa (Bimbisara) sẽ hơn tôn giả Gotama, vì vua
đang sống hạnh phúc hơn tôn giả Gotama." Ni
kiền tử lầm lạc khoái lạc giác quan là hạnh phúc, nên khi Phật
hỏi liệu vua Bình sa có thể làm như Ngài, ngồi yên bất
động trong nhiều ngày mà vẫn cảm
thấy thuần túy lạc thọ, thì Ni kiền tử phải công nhận Phật sống hạnh
phúc hơn vua.
III. CHÚ GIẢI
Mahànàma có họ với Phật, ông là anh của Anuruddha và Ananda. Theo
Sớ giải, ông đã chứng quả Bất hoàn,
nghĩa là chỉ có suy giảm tham sân si chứ chưa
đoạn tận. Vì ông lầm tưởng khi vào
đạo lộ Bất hoàn là
đã đoạn
tận tham sân si, nên mới ngạc nhiên khi thấy trong tâm ông thỉnh
thoảng chúng lại sinh khởi.
Phật đưa vào
đây câu chuyện về khổ hạnh cốt để nói, giáo
lý Ngài là Trung đạo, tránh xa hai
cực đoan hưởng thụ và ép xác.
IV. PHÁP SỐ
Ba độc: tham, sân, si.
Ba pháp: vị ngọt, nguy hiểm, xuất ly.
Bốn thiền
V. KỆ TỤNG
A. Nguyên nhân của cấu uế là dục
Từ lâu con đã hiểu
Lời dạy của Thế tôn
Tham sân si cấu uế
Vẫn xâm chiếm tâm con.
"Pháp nào con chưa đoạn
Khiến cấu uế xâm nhập
Và chiếm cứ tâm con
Xin Thế tôn chỉ dạy."
Này Ma-ha-na-ma
Vương tử dòng Thích ca
Dục trong người chưa đoạn
Do đời sống tại gia.
B. Thay dục lạc bằng thiền lạc
"Dục vui ít khổ nhiều
Nguy hiểm càng nhiều hơn
Dù tuệ tri như vậy
Và chí muốn xuất ly
Nhưng chưa chứng thiền lạc
Hoặc pháp thù thắng hơn
Thì dục vẫn chi phối
Và xâm chiếm tâm ngươi."
C. Khổ hạnh vô ích
Phật bác Ni kiền tử
Để hiển thị Trung đạo
Lìa xa hai cực đoan
Hưởng lạc và ép xác.
Ni kiền tử chủ trương
Cần hành hạ thân xác
Chuộc tội lỗi quá khứ
Đời sau được an lạc.
Nhưng vì không thể biết
Đời trước làm tội gì
Đã chuộc
được bao nhiêu
Còn bao nhiêu chưa chuộc.
Nếu thực sự khổ đau
Do ác nghiệp về trước
Thì chắc Ni kiền tử
Đã tạo nhiều phi phước.
"Dù có nói thế nào
Hạnh phúc không thể đạt
Nhờ con đường hưởng lạc
Mà phải nhờ ép xác.
Nếu hiện tại hưởng lạc
Mà tạo được nhiều phúc
Thì Tần bà sa la
Sẽ hạnh phúc hơn Phật."
Phật hỏi Ni kiền tử
"Phải chăng người đã nghĩ
Vua Tần bà sa la
Đang hạnh phúc hơn ta?"
"Thưa Cồ đàm, chính phải
Hay là như thế nào
Thực tình, tôi không rõ
Xin Ngài làm sáng tỏ."
"Này ngươi Ni kiền tử
Vua có ngồi một mình
Với thuần túy lạc thọ
Suốt ngày đêm
được chăng?"
"Không, có lẽ là không."
"Ta có thể nhiều ngày
Im lặng, thân bất động
Vẫn hoàn toàn hạnh phúc."
Ni kiền tử kết luận
"Nếu sự tình là vậy
Thì Thế tôn hạnh phúc
Hơn Tần bà sa la."
Và Ma-ha-na-ma
Tin nhận lời Thế tôn
Rằng hỷ lạc thiền định
Thù thắng hơn dục lạc.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 15
Tư lượng
I. TOÁT YẾU
Anumàna Sutta - Inference.
The venerable Mahàmoggallàna enumerates the qualities that make a
bhikkhu difficult to admonish and teaches how one should examine oneself
to remove the defects in onés character.
Suy diễn.
Tôn giả Mục kiền liên kể ra những đặc
tính làm cho một tỳ kheo trở thành kẻ khó nói, và dạy người ta
nên tự xét như thế nào để tẩy trừ những
khuyết điểm trong nhân cách mình.
II. TÓM TẮT
Tôn giả Mục kiền liên dạy các tỳ kheo, có 16 tật xấu nơi một tỳ kheo
làm cho vị ấy trở thành kẻ "khó nói", không
được các vị đồng phạm hạnh giáo huấn, tin tưởng.
16 tật xấu là :
- ác dục, khen mình chê người, phẫn nộ, hiềm hận;
- cố chấp, thốt lời giận dữ, chống đối,
chỉ trích;
- chất vấn, nói lãng, không giải thích, hư ngụy não hại;
- xan tham tật đố, lừa đảo, ngã
mạn, khó xả.
Ngược lại, tỳ kheo không có 16 thói ấy là người dễ nói,
được các đồng phạm hạnh tin tưởng, giáo
giới.
Khi thấy người khác có những thói như trên mà mình không ưa, tỳ kheo
nên tự xét mình [tư lượng] để phát tâm
tránh những thói ấy. Nếu xét thấy mình có những thói như vậy, thì
phải tinh tấn đoạn trừ. Nếu xét thấy mình
không có, hãy hoan hỷ ngày đêm tu
học các thiện pháp.
III. CHÚ GIẢI
Cổ đức đã gọi kinh này là Biệt
giải thoát giới của tỳ kheo. Một tỳ kheo mỗi ngày nên có ba lần tự
xét theo trong kinh dạy. Nếu không được ba
lần thì hai lần, hay ít nhất một lần.
Ác dục là có những "thầm mong" bất chính như nói trong kinh số 5.
"Hiềm hận" là thù dai; "cố chấp" là ngoan cố do phẫn nộ; "chống
đối" là cãi lại mỗi khi bị buộc tội;
"chỉ trích" là chỉ trích lại người buộc tội mình.
IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG
Tỳ kheo cần tự xét
Tránh mười sáu lỗi lầm
Của một kẻ "khó nói"
Khiến người khác không ưa :
Là khen mình chê người
Ác dục và phẫn nộ
Hiềm hận và ngoan cố
Thốt ra lời giận dữ
Chống đối và chỉ trích
Chất vấn và nói lãng
Được hỏi không giải thích
Hư ngụy và não hại
Xan tham và tật đố
Lừa đảo và ngã mạn
Cố chấp khó hành xả.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 16
Tâm hoang vu
I. TOÁT YẾU
Cetokhila Sutta - the wilderness in the heart.
The Buddha explains to the bhikkhus the five "wilderness in the
heart" and the five "shackles in the heart".
Rừng hoang trong tâm.
Phật giảng cho các tỳ kheo "năm hoang dã
trong tâm" và "năm xiềng xích trong tâm".
II. TÓM TẮT
Phật dạy, tỳ kheo nào chưa đoạn trừ 5
tâm hoang vu và 5 tâm triền phược thì không thể lớn mạnh
trong pháp luật Ngài.
Năm tâm hoang vu là nghi ngờ,
không có tịnh tín đối với: Phật, Pháp,
Tăng, các học giới, và thứ năm là
phẫn nộ với bạn đồng tu.
Năm tâm trói buộc là: tham khoái
lạc giác quan, tham tự thân, tham các sắc pháp, tham
ăn ngủ, tham cõi trời (chỉ tu
để cầu lên trời).
Tỳ kheo nào không có 10 sự trên, tâm hướng về nỗ lực tinh tấn thì có
thể lớn mạnh trong pháp luật này. Vị ấy tu tập thiền
định với bốn như ý túc là dục (nhiệt
tâm, hăng hái), tinh tấn, tâm [purity of
mind, tâm thanh tịnh], tư duy [tức trạch pháp, investigation], cùng
với nỗ lực (tinh cần hành) là thứ năm.
Tỳ kheo nào đầy đủ 15 pháp là
đoạn trừ 5 tâm hoang vu, 5 tâm phiền trược
và tu 5 pháp nói trên, thì đủ khả
năng đạt thành vô thượng an ổn khỏi các khổ ách. Cũng như gà mái
ấp trứng, nếu khéo ấp ủ trứng thì dù không khởi lên ước muốn mong cho gà
con mổ vỏ trứng chui ra, khi đến thời, vẫn
có gà con thoát ra khỏi quả trứng.
III. CHÚ GIẢI
Tâm hoang vu là sự cứng cỏi trong tâm, "tâm phiền trược" là những
pháp trói buộc tâm. Năm tâm hoang vu gồm
bốn thuộc nghi (si) và một thuộc sân. Năm
tâm triền phược là năm hình
thức tham.
Vô thượng an ổn khỏi các khổ ách là chứng quả A la hán. Ví dụ ấp
trứng được nói lại trong kinh Trung bộ 53,
trong đó vị đệ tử như gà con phá ba lớp vỏ trứng, chứng ba minh.
IV. PHÁP SỐ
Bốn như ý túc: dục, tinh tấn, nhất tâm, trạch pháp.
Năm tâm hoang vu: nghi Phật,
Pháp, Tăng, Giới, và phẫn nộ với
đồng tu.
Năm tâm triền phược: tham
khoái lạc giác quan, tham thân, tham sắc, tham
ăn ngủ, tham cõi trời.
V. KỆ TỤNG
A. Mười pháp cần đoạn
Tu sĩ muốn lớn mạnh
Trong Pháp và Luật này
Cần đoạn trừ mười tâm
Cứng cỏi và ràng buộc
Có năm tâm hoang vu
Và năm tâm phiền trược
Thì không thể nỗ lực
Và chuyên cần tiến tu.
Nghi ngờ bậc Đạo sư
Nghi ngờ Pháp, Tăng, Giới
Phẫn nộ với đồng tu
Là năm tâm hoang vu.
Tham tự thân, dục lạc,
Tham sắc, ham ăn ngủ
Cầu được sinh thiên giới
Là năm tâm triền phược.
B. Năm pháp cần tu tập
Đoạn trừ mười tâm ấy
Thì có thể nỗ lực
Tinh tấn tu thiền định
Lớn mạnh trong Pháp này.
Nhiệt tâm và tinh tấn
Nhất tâm và trạch pháp
Nỗ lực là thứ năm
Thiền định mau chứng đắc.
Ai đủ mười lăm pháp
Thì có đủ khả năng
Đập vỡ vỏ vô minh
An ổn khỏi ách phược.
Như gà mẹ khéo ấp
Trứng không bị thối hư
Dù không khởi mong ước
Gà con vẫn chui ra.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 17
Khu rừng
I. TOÁT YẾU
Vanapattha Sutta - jungle thickets.
A discourse on the conditions under which a meditative monk should
remain living in a jungle thicket and the conditions under which he
should go elsewhere.
Một bài giảng về những điều kiện nào
một tỳ kheo thiền định nên tiếp tục
sống tại một khu rừng, điều kiện nào
nên bỏ đi chỗ khác.
II. TÓM TẮT
Chỗ tỳ kheo nên cư trú trọn đời (dù
đấy là khu rừng, làng mạc, thị trấn,
quốc gia, hay gần một người nào) phải hội
đủ hai điều kiện, tinh thần và vật chất. Về tinh thần, phải tăng
trưởng niệm, định, tuệ (niệm chưa an trú được an trú; tâm chưa định tĩnh
được định tĩnh; lậu hoặc chưa đoạn trừ được đoạn trừ khiến tỳ kheo được
vô thượng an ổn khỏi các khổ ách - tức chứng quả A la hán). Về vật chất,
dễ kiếm bốn nhu yếu về ăn mặc ở bệnh. Nếu được cả hai, nên nương
ở trọn đời. Nếu chỉ được điều kiện tinh
thần, đời sống vật chất khó khăn, tỳ kheo cũng nên ở với ý niệm
rằng mình xuất gia không phải để mưu cầu
vật chất.
Nếu ở nơi nào (khu rừng, làng mạc, ... hay gần người nào) mà tinh
thần thiếu - không tăng trưởng niệm định
tuệ - mặc dù vật chất đầy đủ, tỳ
kheo nên bỏ đi chỗ khác sau khi nghĩ
rằng xuất gia không để mưu cầu vật chất. Nếu ở nơi nào thiếu cả
hai điều kiện, tỳ kheo nên bỏ
đi ngay lập tức.
III. CHÚ GIẢI
Có thể tóm gọn bốn trường hợp, hai đi và
hai ở như sau:
Tu không tiến, tứ sự hiếm: --> đi;
Tu không tiến, tứ sự dồi dào: -->
đi;
Tu tiến, tứ sự hiếm: --> ở;
Tu tiến, tứ sựdồi dào: --> ở.
IV. PHÁP SỐ
Ba pháp cần tăng trưởng là:
niệm, định, tuệ (diệt trừ lậu hoặc).
Bốn vật dụng
V. KỆ TỤNG
Tỳ kheo ở nơi nào
Hay gần một người nào
Cần phải thành tựu được
Những điều kiện như sau.
Về tinh thần có ba:
Niệm phải được an trú
Tâm phải được định tĩnh
Ô nhiễm được đoạn trừ,
Về vật chất có bốn:
Y phục và ẩm thực
Chỗ ở và dược phẩm
Bốn sự không thiếu thốn.
Nếu ở một nơi nào
Cả tinh thần vật chất
Điều thiếu thốn mọi đường
Bỏ ngay không vấn vương.
Nếu vật chất đầy đủ
Mà tinh thần không tiến
Hãy từ bỏ nơi ấy
Đừng vì tham, lưu luyến.
Tỳ kheo ở nơi nào
Tu tiến, vật chất hiếm
Hãy ở với tâm niệm
Ta vì cơm áo sao?
Tỳ kheo ở một nơi
Tu hành đã dễ tiến
Vật chất không khó kiếm
Hãy nương ở trọn đời.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 18
Mật hoàn
I. TOÁT YẾU
Madhupinkika Sutta - the honey ball.
The Buddha utters a deep but enigmatic statement about "the source
through which perceptions and notions tinged by mental proliferation
beset a man." This statement is elucidated by the venerable Mahakaccàna,
whose explanation is praised by the Buddha.
Viên mật.
Phật thốt lên một lời phát biểu sâu sắc nhưng khó hiểu về "cái nguồn
gốc từ đấy các nhận thức và quan
niệm đầy thiên kiến ám ảnh một con
người." Lời phát biểu ấy được tôn giả Đại
Ca chiên diên làm sáng tỏ, và sự giải thích của tôn giả
được Phật khen ngợi.
II. TÓM TẮT
Gậy cầm tay, một người dòng Sakka, đến
hỏi Phật có quan điểm thế nào, giảng thuyết những gì. Phật dạy,
Ngài giảng cái thuyết "không tranh luận với bất cứ ai, vì các tưởng
(nhận thức) không còn ám ảnh vị bà la môn sống không có tham dục, hoài
nghi, trạo hối, không có tham ái đối với
hữu hay phi hữu."
Khi nghe vậy, người kia không hiểu, tỏ vẻ bất mãn bỏ về. Các tỳ kheo
xin Phật giải thích, Ngài dạy thêm: "Nếu một người không có thái
độ hoan hỷ, đón mừng, chấp trước đối với
những hý luận vọng tưởng, thì đấy là
đoạn tận các tùy miên tham, sân,
nghi, kiến, mạn, hữu tham, đoạn tận đấu
tranh bằng lời, bằng gươm giáo; đoạn tận ly gián ngữ, vọng ngữ. Các bất
thiện ấy được tiêu diệt không có dư tàn".
Tôn giả Ca chiên diên triển khai lời dạy vắn tắt của Phật như sau:
Do xúc - sự gặp gỡ giữa căn, trần, thức
- có thọ; do thọ có tưởng; do tưởng có suy tầm; do suy tầm có hý luận
khởi lên. Nhân hý luận ấy, một số vọng tưởng ám ảnh con người.
Nếu không có xúc thì không có thọ; không có thọ thì không tưởng; không
tưởng thì không suy tầm; không suy tầm thì không hý luận vọng tưởng.
Không hý luận vọng tưởng thì không có đấu
tranh, và các ác bất thiện pháp [tham, sân, si, mạn, nghi, kiến,
hữu tham] được tiêu diệt không dư
tàn.
III. CHÚ GIẢI
Gậy cầm tay Dandapàni, có tên như vậy vì ông ta thường cầm gậy
bịt vàng đi khắp nơi với vẻ tự cao. Ông
theo cánh của Đề bà đạt đa, người
phá tăng. Câu hỏi của ông có vẻ khiêu khích, câu trả lời của Phật
phần đầu là
để đối lại thái độ khiêu khích ấy.
Bà la môn nói trong câu này chỉ A la hán, hoặc chính bản thân
Phật.
Hý luận vọng tưởng, papanca - sannà - sankhà,
được dịch là "mental proliferation",
thiên kiến. Luận giải nguồn gốc của hý luận vọng tưởng là tham (đối
với sắc pháp), mạn ("tôi là") và kiến (chấp thường), qua
đó tâm thức "trau chuốt" kinh nghiệm bằng
cách giảng giải nó theo tiêu chuẩn "tôi" và "của tôi".
Tóm lại, Kinh này cốt hiển thị vòng sinh tử là 12 xứ - sáu căn
tiếp xúc sáu trần. Nếu căn trần đừng ráp lại, thì hết sinh tử.
IV. PHÁP SỐ
Năm pháp: Nguồn gốc hý luận
vọng tưởng là Xúc (căn trần thức gặp
gỡ), thọ, tưởng, tầm, hý luận.
Sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý.
Sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
Bảy tùy miên: tham, sân, kiến, nghi, mạn, hữu tham, vô minh.
Mười hai xứ: sáu căn và sáu
trần.
Mười tám giới: 6 căn, 6 trần, 6
thức.
V. KỆ TỤNG
A. Đoạn trừ tham, sân, nghi, trạo hối
Giáo lý của Phật dạy
Là không tranh với ai
Vị thánh đệ tử sống
Các tưởng không ám ảnh
Không bị dục trói buộc
Không nghi ngờ do dự
Mọi hối quá đoạn diệt
Không tham hữu, phi hữu.
B. Không chấp trước
Với hý luận vọng tưởng
Không đón mừng, hoan hỷ
Đoạn được các tùy miên
Tham, sân, kiến, nghi, mạn
Đoạn tham ưa các cõi
Và vô minh tùy miên
Cùng các bất thiện khác
Tiêu diệt không dư tàn.
C. Tôn giả Ca chiên diên khai diễn
Căn trần thức gặp gỡ
Sự gặp gỡ là xúc
Do xúc nên có thọ
Có thọ nên có tưởng
Tưởng đưa đến suy tầm
Suy tầm sinh "hý luận"
Hý luận sinh vọng tưởng
Ám ảnh tâm con người.
[Sinh tử vẫn dài dài
Vì căn trần xúc đối
Hai thứ đừng xáp lại
Sẽ chấm dứt luân hồi.]
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 19
Song tầm
I. TOÁT YẾU
Dvedhàvitakka Sutta - two kinds of thought.
With reference to his own struggle for enlightenment, the Buddha
explains the way to overcome unwholesome thoughts and replace them by
wholesome thoughts.
Hai loại tư duy.
Nhắc lại thời Ngài còn phấn đấu để đạt
giác ngộ, Phật giải thích cách vượt qua những tư duy bất thiện và
thay thế chúng bằng những tư tưởng tốt lành.
II. TÓM TẮT
Lúc còn tu tập, Phật phân loại các tư tưởng khởi lên thành hai nhóm.
Một nhóm đưa đến hại mình, hại
người, hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não:
đó là những tư duy liên hệ
đến dục, sân và hại. Khi tuệ tri như
vậy, các tư duy ấy được Ngài từ bỏ,
đoạn tận. Một nhóm không đưa đến hại mình,
hại người, hại cả hai; tăng trưởng trí tuệ,
không dự phần vào phiền não, đưa đến
niết bàn: đó là những tư duy
liên hệ đến ly dục, vô sân và bất
hại. Khi an trú với những tầm này, dù cả ngày
đêm Ngài cũng không thấy sợ hãi. Nhờ
Ngài dũng mãnh tinh tấn như vậy, nên được
định tĩnh nhất tâm, chứng bốn thiền cho đến ba minh, thành Phật.
III. CHÚ GIẢI
Sự chia hai suy tầm này chỉ xảy ra trong thời gian Bồ tát tu
tập sáu năm khổ hạnh.
Vô sân và bất hại cũng có thể hiểu là từ và bi.
IV. PHÁP SỐ
Ba pháp dự phần vào phiền não: dục, sân và hại.
Ba pháp đưa đến an tịnh: ly
dục, vô sân, bất hại.
Ba minh
Bốn thiền
Tám chính đạo
V. KỆ TỤNG
A. Hai loại tư duy
Lúc hãy còn tu tập
Sống nhiệt tâm, tinh cần
Phật phân loại tư duy
Gồm có hai thành phần:
Một phần những tư duy
Liên hệ dục, sân, hại
Phần kia ly dục tầm
Vô sân, bất hại tầm.
Biết rõ tầm tư duy
Liên hệ dục, sân, hại
Làm hại cả mình, người
Các tầm ấy tan biến.
Các tư duy ngược lại
Không làm hại mình người
Nhờ tuệ tri như trên
Đoạn tận dục, sân, hại.
Tâm khinh an, định tĩnh
Ngài tinh tấn thiền định
Chứng bốn thiền, ba minh
Đạt vô thượng an ổn.
B. Ví dụ bầy nai
Bên hồ nước sâu rộng
Có bầy nai tung tăng
Một người ác đến gần
Đặt mồi cái mồi đực
Đóng con đường an ổn
Mở con đường hiểm nguy
Đàn nai gặp ách nạn
Càng ngày càng suy vi.
Lại có một người khác
Thương tưởng đến đàn nai
Mong hạnh phúc cho chúng
Mong chúng thoát nạn tai
Người ấy đến nơi này
Hủy mồi cái mồi đực
Mở con đường an toàn
Đóng con đường nguy nan.
"Hồ nước" chỉ các đục
"Đàn nai" dụ hữu tình
Ác ma "người muốn hại"
"Mồi cái" chỉ vô minh
"Mồi đực" là tham ái
"Đường hiểm" tức tám tà
Ác ma luôn mời mọc
Và đặt các con mồi.
"Đường an" là tám chính
Được Như lai mở ra
Cùng hủy các con mồi
Vô minh và tham ái.
-ooOoo-
TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 20
An trú tầm
I. TOÁT YẾU
Vitakkasanthàna Sutta - the removal of distracting thoughts.
The Buddha teaches five methods for dealing with the unwholesome
thoughts that may arise in the course of meditation.
Sự tẩy trừ loạn tưởng.
Phật dạy năm phương pháp để đối trị
những bất thiện tầm có thể khởi lên trong khi thiền
định.
II. TÓM TẮT
Phật dạy muốn tuy tăng thượng tâm, có
năm phương pháp như sau để diệt trừ các tư tưởng khởi lên liên hệ
đến dục, sân, si:
1. Nghĩ đến một tư tưởng khác, liên
hệ đến ly dục, vô sân, vô si. Như thợ mộc dùng
một cái nêm để đánh bật một cái nêm
khác.
2. Quán sát nguy hiểm của những bất thiện tầm khi chúng khởi lên, khi
ấy tư tưởng xấu kia được trừ diệt. Như một
người trẻ tuổi ưa trang sức mà bị quàng vào cổ một cái xác rắn
hay xác chó, người ấy phải ghê tởm.
3. Tảng lờ đừng để ý đến chúng. Như
người không muốn thấy một vật trước mắt, bèn nhắm mắt hoặc nhìn
chỗ khác.
4. Quan sát sự sinh diệt của những tư tuởng ấy, khiến nó giảm tốc
độ và dần dần biến mất.
5. Quyết tâm dùng tâm chế ngự tâm [dùng một tư tưởng thiện
để áp đảo một tư tưởng bất thiện].
Nhờ áp dụng năm phương pháp ấy, các ác
bất thiện tầm liên hệ đến dục, sân,
si được trừ diệt, nội tâm được an trú. Tỳ kheo ấy đoạn trừ khát ái, giải
thoát các kết sử, chinh phục kiêu mạn, chấm dứt khổ
đau.
III. CHÚ GIẢI
Tăng thượng tâm, adhicitta,
là tâm trong tám thiền chứng - bốn thiền bốn
định, làm căn
bản cho tuệ. Được gọi là "tăng
thượng" vì nó thù thắng hơn mười thiện tâm thông thường - bất sát
bất đạo bất dâm...
Năm tướng có thể hiểu là năm
phương pháp trừ tán loạn. Hành giả chỉ nên xử dụng các phương
pháp này khi sự tán loạn có vẻ dai dẳng. Bình thường, chỉ cần bám sát
đề mục thiền của mình.
Tác ý một tướng khác, ví dục khi tham dục khởi lên liên hệ
đến hữu tình, thì tướng khác là "bất
tịnh"; liên hệ đến vô tình, thì
tướng khác là "vô thường". Vô sân khởi lên liên hệ
đến hữu tình, thì tướng khác là tâm
từ; liên hệ đến vô tình, thì tướng
khác là bốn đại. Cách chữa trị những tư
tưởng liên hệ si ám là gần một bậc thầy, nghe pháp và học pháp,
quán sát ý nghĩa, tra tầm nguyên nhân.
Quán sát nguy hiểm của những tư duy bất thiện sẽ phát sinh tàm và
quý, sự sợ hãi điều quấy.
IV. PHÁP SỐ
Ba độc: dục, sân, si.
Năm phương pháp trừ vọng
tưởng, an trú tâm.
V. KỆ TỤNG
Có năm phương pháp này
Để tu tăng thượng tâm
Làm tịnh chỉ các tầm
Liên hệ dục, sân, hại.
[1] Như thợ mộc dùng nêm
Đánh bật một cái nêm.
Hãy khởi một tâm tốt
Tâm xấu sẽ tiêu tan.
[2] Thấy dục, sân nguy hiểm
Dục sân tự tiêu tan
Như người muốn điểm trang
Lại bị quàng xác rắn.
[3] Không ức niệm dục sân
Dục sân sẽ biến mất
Như chán nhìn vật gì
Mắt nhìn đi chỗ khác.
[4] Hoặc theo dõi tướng trạng
Dục sân tầm biến mất
Như người tự ý thức
Từ bỏ hành vi thô.
[5] Như lực sĩ đánh bại
Một kẻ thù ốm yếu
Với nghị lực quyết tâm
Chế ngự dục, hại, sân.