TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG
GIỚI NGHIÊM
(THITASÌLA MAHATHERA)
(1921 - 1984)
Nguyên:
- Tăng Thống Giáo Hội Tăng
Già Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravàda) Việt Nam.
- Thành viên Hội Đồng Chứng Minh Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam.
- Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
- Phó Chủ Tịch Hội Hữu Nghị Việt Nam - Campuchia.
Hòa thượng Giới Nghiêm (Thitasìlamahathera),
thế danh Nguyễn Đình Trấn, sinh ngày
5/5/1921 tại làng Giạ Lê Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Ngài xuất thân trong một gia đình có
truyền thống đạo đức lâu đời, tại một quê
hương nghèo khổ, nhưng lại phát tích rất nhiều tu sĩ và cao tăng
thuộc cả hai truyền thừa Nam Bắc tôn. Chỉ riêng trong gia
đình, bác của Ngài - Hòa thượng
Thích Phước Duyên - và chú của Ngài đều là
bậc xuất gia. Còn vị thân sinh - Hòa thượng Thích Quang Diệu (Nguyễn
Đình Tải) - sau nửa cuộc
đời lập gia đình với mẹ của Ngài là cụ
bà Huỳnh Thị Thành, cũng xuất gia, sống đời
phạm hạnh.
Lớn
lên trong truyền thống gia đình như
vậy, nên năm chín tuổi, Ngài
đã tìm
đến một ngôi chùa hẻo lánh, nổi tiếng nhiều thú dữ, ma thiêng nước
độc, thuộc địa phận làng Bãng Lãng,
để tu học. Ngài thọ giới Sa-di ở
đây.
Đến năm 1940, vì quê nhà chiến tranh loạn lạc, sự tu hành bị trở
ngại, Ngài đã vào
Đà Nẵng, xin ở chùa Phổ
Đà, sau
đó thọ Đại Giới đàn Tỳ kheo, thuộc hệ phái Bắc truyền.
Bấy giờ, Phật giáo Nam tông (Theravàda) bắt
đầu du nhập vào Việt Nam, nhờ vậy Ngài
có cơ hội nghiên cứu giáo lý Nguyên Thủy. Vốn tâm cơ linh mẫn, bén nhạy,
và do túc duyên của nhiều đời nhiều kiếp, Ngài
cảm thấy đây mới thật đúng là Chánh
Pháp, là giáo lý chơn truyền chưa hề bị pha trộn, xen tạp các tư tưởng của
các đạo giáo khác.
Duyên may đã
đến. Năm 1944, Ngài
được thiện hữu trí thức giới thiệu và
giúp đỡ sang du học tại Phnôm-pênh,
Campuchia. Năm 1947, Hòa thượng
Niếp-Tích truyền giới Tỳ-kheo (Bhikkhu) theo truyền thống Phật Giáo
Nam Tông (Theravàda) cho Ngài. Ngài lại còn
được kỳ duyên học
đạo với Đức Vua Sãi Campuchia, là
Trưởng lão Hòa thượng Chuon-Natch.
Do nhu cầu trí tuệ, hiếu học, hiếu tu; từ Campuchia, Ngài tiếp tục sang
Thái Lan và Miến Điện để tầm sư học đạo. Rời
Pháp học, Ngài quay sang Pháp hành; và ở tại Miến
Điện, Ngài
được học Thiền Tứ-niệm-xứ với Hòa
thượng Thiền sư Mahasì Sayàdaw.
Thế là sau hơn mười năm bôn ba xứ người
tầm cầu Chánh Pháp, Ngài hồi hương với chí nguyện, mang giáo lý
nguyên thủy rất cũ xưa mà cũng rất mới mẻ về Việt Nam
để quảng bá, hoằng truyền sâu rộng trong mọi
tầng lớp tín đồ.
Tại Sài Gòn - Gia Định, năm 1957, Ngài
cùng với các vị trưởng lão cao tăng, thạc đức
khác, như: hòa thượng Hộ Tông, hòa thượng Bửu Chơn, hòa thượng
Thiện Luật, hòa thượng Tối Thắng, hòa thượng Giác Quang, hòa thượng Kim
Quang, pháp sư Thông-Kham vận động thành
lập Giáo hội Tăng già Phật giáo Nguyên
thủy (Theravàda) Việt Nam.
Năm 1963, trong lúc tranh đấu chống chế độ
độc tài gia đình trị của Ngô
triều, Ngài bị bắt ở Sơn Trà - Đà
Nẵng. Sau khi gia đình họ Ngô sụp
đổ, Ngài
được bầu làm Tăng thống Giáo hội Tăng
già Nguyên thủy Việt Nam liên tiếp trong bốn nhiệm ky, từ năm
1964 đến năm 1974.
Năm 1966, Hòa thượng phát
động phong trào chống chế
độ lao tù tại các nhà giam Mỹ Thị,
Đà Nẵng và Gành Ráng, Qui Nhơn.
Năm 1975, Ngài tham gia vào Ban
liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh, giữ chức vụ Phó chủ
tịch.
Năm 1979, Ngài tái
đắc cử Tăng thống Giáo hội Tăng già
Nguyên thủy Việt Nam. Cũng trong năm này,
Ngài được thỉnh tham gia phái đoàn cấp
lãnh đạo Phật giáo Nguyên thủy Việt
Nam, đi Campuchia để làm thầy tế
độ cho các sư sãi ở quốc
độ này, đã
bị Pôn-Pốt, lêng-Xê-ri bắt hoàn tục. Từ đó,
Phật Giáo Campuchia được hồi sinh và thắt chặt tình
đoàn kết Việt Nam - Campuchia.
Năm 1980, Ban vận động Thống nhất Phật
giáo Việt Nam được thành lập, Ngài tham gia vào tổ chức này với tư
cách là Phó trưởng ban.
Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra
đời, thống nhất Phật giáo Nam - Bắc, thống nhất các hệ phái; Ngài
được thỉnh vào Hội
đồng Chứng minh và
được đề cử làm Phó chủ tịch Hội
đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Ngoài ra, Ngài còn tham dự nhiều Hội nghị Quốc tế về Phật giáo,
đặc biệt là Hội nghị kết tập Tam Tạng
lần thứ sáu tại Rangoon, thủ đô nước Mianma.
Trong suốt hơn năm mươi năm xuất gia hành
đạo, hoằng pháp và phục vụ xã hội,
Ngài đã
để lại cho hậu thế nhiều công đức và nhiều công trình Phật sự to
lớn.
Ngài đã mở một Phật học viện Sơ cấp
tại chùa Tam Bảo, Đà Nẵng. Và tại ngôi
Chùa Tháp tôn nghiêm hùng vĩ này, nhiều khóa thiền
đã được
khai giảng để hướng dẫn cho các hành giả là Chư Tăng,
Tu Nữ và các hàng Phật tử.
Tại Núi Lớn, Vũng Tàu, Ngài khai sơn một rừng thiền giữa thiên nhiên
khoảng khoát, rợp bóng mát cây xanh, dành cho những hành giả chuyên tu
Tứ-niệm-xứ. Nơi đây gồm có hàng trăm
cốc liêu rải rác giữa các sườn đồi,
dưới những tàn cổ thụ lâu đời; là
nơi mà Chư Tăng, Tu Nữ, Phật tử mười phương
thường vân tập về vào mỗi độ an cư để
theo học những khóa thiền ba tháng hoặc bảy tháng. Tại Tam Bảo thiền viện
này, có rất nhiều hành giả đạt kết quả
pháp hành tốt đẹp, khả dĩ làm
hành trang tư lương cho mình suốt cuộc đời tu
tập.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, Quận Tân Bình, Ngài mở Phật học viện Trung
đẳng tại chùa Phật Bảo, nơi Ngài làm
Viện chủ và tiến sĩ Thiện Giới làm Giám đốc
Phật học viện. Nơi đây đã đào
tạo nhiều Tăng tài cho Hệ phái Nam
tông.
Sau năm 1975, Ngài tiếp tục mở
nhiều khóa thiền tại chùa Phật Bảo; và thường hay lui tới các chùa
để nhắc nhở, khuyến hóa, sách tấn tứ chúng
môn đồ tinh tấn tu niệm.
Về sự nghiệp xây dựng chùa chiền: từ miền Nam
đến Cao nguyên, rồi ra miền Trung,
đâu đâu cũng có bàn tay và dấu chân
của Ngài trong sứ mạng khai sáng Giáo Pháp chơn truyền của
Đức Từ Phụ.
Ngài đã xây dựng hoặc
đứng ra chủ trì xây dựng tất cả mười
sáu ngôi chùa sau đây:
Huế: Định Quang Tự ở Giạ Lê;
Tăng Quang Tự ở Gia Hội.
Đà Nẵng: Tam Bảo Tự, tổ
đình Phật giáo Nam tông miền
Trung.
Hội An: Nam Quang Tự.
Quảng Ngãi: Tăng Bảo Tự.
Quy Nhơn: Huệ Quang Tự ở Qui Nhơn; Phước Quang Tự ở Bình
Định.
Nha Trang: Như Ý Tự.
Phan Thiết: Bình Long Tự.
Đà Lạt: Bửu Sơn Tự; Pháp
Quân Tự.
Mỹ Tho: Pháp Bảo Tự.
Biên Hòa: Phước Sơn Tự.
Bà Rịa - Vũng Tàu: Tam Bảo Thiền Viện.
Thành phố Hồ Chí Minh: Phật Bảo Tự; Diệu Quang Tự (Dành cho
Tu nữ).
Về sự nghiệp phiên dịch kinh điển của Ngài,
gồm có:
NHỮNG TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:
Hạnh phúc kinh.
Tiểu sử Phật Thích Ca.
Giải về kiếp.
Thiền Tứ Niệm Xứ.
Giải về bạn.
Mi Tiên Vấn Đáp (Quyển I, II, III)
SẮP XUẤT BẢN:
Pháp Đoàn kết.
Giải thoát giáo.
Giải về cõi trời.
Phật bổn sanh.
Giải về lửa.
Dạ Xoa hỏi Phật.
Nhà của Tâm.
Vô Ấn Tượng Pháp.
Kinh Ổ Mối.
Vi Diệu Pháp vấn đáp.
Ba mươi bảy Pháp trợ Bồ-đề.
Pháp Số giảng giải.
Vi Diệu Pháp vắn tắt.
Tam Tạng, quyển 1, 2, 3, 4.
Tam Tạng, quyển 40, 41.
Ngoài những sự nghiệp vĩ đại ấy, Ngài
lại còn có số đệ tử xuất gia đông đảo nhất
của Phật giáo Nam tông. Một số du học ở nước ngoài,
đã thành tài,
đã trở nên cao tăng,
danh tăng đang hoằng pháp ở Mỹ và ở Pháp, như Hòa thượng Tiến sĩ
Pháp Nhẫn, Thượng tọa Tịnh Đức, Thượng tọa
Chơn Trí, Thượng tọa Đức Minh v.v... Ở trong nước hiện nay, nhiều đệ tử do
Ngài tế độ hoặc hướng dẫn đã
trở nên những bậc trưởng lão cho tứ chúng y chỉ, hoặc
đạo cao đức trọng, hoặc tài
đức uyên thâm, hoặc thâm niên cao
hạ... như Hòa thượng Hộ Nhẫn ở Huế, cố Hòa thượng Pháp Tri ở Sài Gòn,
Thượng tọa Viên Minh ở Bửu Long, Thượng tọa Tâm Hỷ, Thượng tọa Hộ Chơn
v.v...
Như vậy, cuộc đời Ngài
đi qua trần gian không dài, nhưng
đã làm việc hết sức mình cho chánh
pháp, cho xã hội, cho môn đồ.
Năm 1984, đến khi lâm trọng bệnh, mặc dù
đã được
hội đồng y - bác sĩ bệnh viện Chợ Rẫy hết sức cứu chữa cùng với sự
quan tâm giúp đỡ của Giáo hội, của các cấp
chính quyền, nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Ngài
đã an nhiên thị tịch lúc 10h30' ngày
13 tháng 7 năm Giáp Tý, tức ngày
9/8/1984 tại chùa Phật Bảo, hưởng thọ 63 tuổi.
Hàng năm, vào mùa Vu Lan Báo Hiếu,
toàn thể Tăng tín đồ Phật giáo Nam tông và
Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm lễ tưởng niệm cố Hòa thượng, một vị trưởng
lão sáng lập Hệ phái Tăng già Nguyên
thủy Việt Nam, một thiền sư đạo hạnh nghiêm
minh, một bậc thầy từ hòa khả kính, một cao tăng
nhiệt tình trong hàng Giáo phẩm tôn túc của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam.
Trước sự mất mát to lớn ấy, các hàng đệ tử
đã đóng góp tịnh tài và công
sức xây dựng ngôi Bảo tháp tại chùa Phật Bảo, tôn trí di cốt của Ngài
để tưởng niệm công đức và thể hiện
hạnh tri ân, quanh năm trầm hoa kính viếng,
chiêm bái, phụng thờ.
Dẫu Ngài đã
đi vào cõi vĩnh hằng nhưng bóng mát
của tàn đại thụ mãi còn che phủ các
ngôi già -lam, nơi Ngài đã dày công
kiến tạo và giáo huấn môn đồ suốt một đời
không mệt mỏi.
Cầu nguyện cho công hạnh ba-la-mật của Ngài sớm
được tựu thành viên mãn.
Đệ tử,
Tỳ-khưu Chánh Niệm,
(Nguyễn Đình Pháp)
Trụ trì chùa Phật Bảo, cẩn bút.
* * *
Lời nói
đầu
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm
trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn
độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội
dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua
Milinda và tỳ kheo Nàgasena. Những câu hỏi thì
đa trí, sắc bén mà lời giải
đáp lại thâm sâu, quảng kiến, lợi tuệ; nhiều
khi chỉ là những ví dụ cụ thể, bình dân, giản dị, rất bổ ích cho
các nhà học giả, người nghiên cứu, kẻ đa nghi
cũng như sự học Phật của các hàng hậu tấn.
Đi sâu vào những lời đối thoại,
người nắm giáo nghĩa của Phật giáo Nguyên Thủy (Theravàda)
dễ nhận ra rằng, những vấn đề được đề cập hoàn
toàn là tinh yếu của Tam Tạng Pàli văn, chưa
hề pha tạp tư tưởng và kiến giải của các bộ phái phát triển sau
này. Do vậy, không lạ gì Phật giáo Miến điện
xếp bộ kinh Milindapanha vào Thánh
điển, và Phật giáo Tích lan
đặt chung với năm bộ Nikàya
để tôn thờ và phụng hành.
Chúng ta cần biết rằng, các bộ phái Bắc truyền cũng có phổ biến kinh
này do người Trung hoa phiên dịch vào các thế kỷ sau T.L kỷ nguyên. Và
hiện tại có vài bản tiếng Việt đang lưu hành
rộng rãi lấy tên là "Na-tiên tỳ-kheo kinh" như bản của
Đoàn trung Còn, và bản của Cao hữu
Đính, xuất bản vào năm
1971.
So sánh giữa Milindapanha và
Na-tiên tỳ-kheo kinh của Cao
hữu Đính, chúng ta thấy rằng bản dịch sau đã
giản lược chưa bằng một phần ba so với bộ kinh trước; nhưng có nhiều ưu
điểm là: cách phân câu, cú pháp, hành
văn rõ ràng, mạch lạc, sáng sủa hơn.
Tuy nhiên, nếu chịu khó đọc kỹ cả hai bổn, ta
sẽ thấy Na-tiên tỳ kheo kinh đã
bỏ sót trên 150 câu hỏi, lượt bớt câu hỏi, bỏ sót những chi pháp quan
trọng và bỏ sót những ví dụ sống động xoay
quanh một vấn đề, làm giảm sút giá trị của bộ kinh cựu truyền không
ít vậy.
Ngoài ra, thật đáng tiếc hơn,
Na-tiên tỳ kheo kinh lại va vấp nhiều lỗi lầm quan trọng về tinh yếu
của giáo pháp, ví dụ:
* Câu 7: Yoniso manasikàra (như lý tác ý), nghĩa là khởi
tâm đến đối tượng một cách đúng đắn, hợp với
sự thật, mà dịch là "Nhứt tâm"!
* Câu 13: Nàma-rùpa là danh sắc mà dịch là "danh thân"!
Tưởng là giống nhau nhưng "sắc" chính xác hơn nhiều. Thân (kàya)
theo Abhidhamma có hàng chục nghĩa khác nhau, không
đơn thuần là thân tứ
đại. Còn danh thân là thân của các tâm
sở. Danh là phần tâm và tâm sở, sắc là thân xác tứ
đại.
* Câu 22, 23, 24, 25:
- Vedanalakkhana: hành tướng của thọ, mà diễn giảng là: "cảm
thọ vui là tự mình nhận biết và hưởng thọ cái vui ấy"! Xin thưa, "nhận
biết" là thuộc về "tưởng", còn "hưởng" là thuộc về ái dục, nó nằm nơi "hành"!
- Sannàlakkhana: hành tướng của tưởng mà dịch là giác,
không chính xác, dễ lầm lẫn, nên dịch là tri giác: nhận biết
đối tượng một cách tổng quát.
- Cetanàlakkhana: hành tướng của "tư", mà dịch là "sở
niệm"! Lại còn diễn giảng: Sở niệm tức là Tư tưởng! Xin thưa,
tư chính là tư tác, nó tạo nghiệp do tham, sân, si khởi lên, nó chi
phối "hành" trong ngũ uẩn.
- Vinnànalakkhana: Hành tướng của thức, thức ở
đây là thức ghi nhận tiến trình
kinh nghiệm từ sắc thọ, tưởng, hành...thức; mà ở
đây lại nói là "nội
động" thì chẳng ai hiểu ra làm sao
cả! Thế mà còn định nghĩa: nội
động là cái tư tưởng mong cầu xao
xuyến trong nội tâm! Suy diễn như thế thì quả là
đã đi xa
từ và nghĩa nguyên thủy của giáo pháp.
* Câu 26: Bản dịch nói: năm cái
xúc, thọ, giác, sở niệm, nội động một khi "dung hợp" thành "nỗi
lòng" rồi...
Ôi! Sao lại gọi ngũ uẩn là "nỗi lòng"?! Và sao ngũ uẩn lại "dung
hợp" được như các lượng vật chất? Có lẽ
ai cũng hiểu rằng, ngũ uẩn chính là tiến trình sinh diệt của tâm
sinh lý, và ngay chính các trạng thái tâm sinh lý cũng sinh diệt, tiếp nối
tương tục không gián đoạn.
Sai lầm của bản kinh Na-tiên tỳ kheo, đáng
buồn thay không phải chỉ có bấy nhiêu, mà ít nhất là vài chục chỗ
tương tự thế trong số sáu mươi hai câu hỏi của bản kinh này!
Nêu ra như vậy, không phải chúng tôi "cầu toàn trách bị", bới
lông tìm vết; cũng không phải chúng tôi vội quy kết những lỗi lầm trên là
do dịch giả tiếng Việt, dịch giả tiếng Hán hay từ bản gốc bằng tiếng
Pràkrit của phái Nhất thiết hữu bộ kết tập [*]. Chỉ mong nhờ các bậc
học giả lỗi lạc so sánh, đối chiếu để truy
cứu vấn đề cho sáng tỏ hơn mà thôi.
[* Nhiều người lầm tưởng Nhất thiết hữu bộ thuộc Thượng tọa bộ. Không
phải vậy. Nhất thiết hữu bộ là một trong 18 bộ phái
được tách ra khỏi Thượng tọa bộ sau kỳ kết
tập kinh điển lần thứ hai. Các nhà học giả thường gọi
đây là 18 bộ phái Tiểu thừa.]
Nhận thấy tầm mức quan trọng của bộ kinh, ngoài công việc Tam Bảo bề
bộn, chúng tôi phải bỏ thời gian gần hai mươi năm
để phiên dịch, trước sau phân thành ba quyển hầu cống hiến bạn
đọc. Nay tuổi già sức yếu, biết tuổi
thọ không còn mấy năm, chúng tôi ráng dành
thì giờ soạn lại, gộp chung thành một quyển. Lần này cũng khá vất vả vì
dường như chúng tôi phải làm lại từ đầu: viết
lại lời tựa, chỉnh lại văn cú, lược bỏ các đoạn trùng lặp, sắp xếp
lại chương mục, bỏ hết câu, chữ, kệ Pàli không cần thiết, chỉnh lại
đây đó một số nghĩa, số từ cho chính xác hơn.
Làm việc ấy, chúng tôi xem như một bổn phận của mình, những mong
hoàn thành một dịch phẩm ít lỗi lầm so với dịch phẩm trước
đây để đáp đền Tam Bảo thâm ân.
Bộ kinh Milindapanha này, đúng ra
phải dịch là "Mi-lin-đà sở
vấn", nhưng tên gọi cũ đã quen
tai, chúng tôi thấy không cần thiết phải sửa lại.
Về tên gọi của hai ngài, Nàgasena, chúng tôi dùng tên phổ thông là
"Na-tiên tỳ kheo", và Milinda, chúng tôi âm là "Mi-lan-đà".
Các đoạn đối thoại giữa hai vị, chúng tôi ghi
"-" ở đầu dòng cho gọn.
Dẫu đã rất nhiều cố gắng, nghiêm
túc và nhiệt tâm, chúng tôi cũng không sao tránh khỏi những khuyết
điểm sau đây:
* Để hợp với tư duy người Việt, văn Việt nên
đôi chỗ phải phỏng dịch, phóng tác mà
vẫn trung thành với câu chuyện, với giáo pháp.
* Chúng tôi đã tự ý bỏ tất cả các
phẩm, chỉ ghi thứ tự câu hỏi để cho độc giả
tiện theo dõi.
Cốt ý của chúng tôi là muốn phổ biến một tư liệu quý hiếm rất gần với
giáo pháp uyên nguyên; giải đáp, tháo gỡ
những thắc mắc cho kẻ hoài nghi để phá
bỏ sở tri chướng cho người tu Phật. Chỉ chừng ấy thôi thì công năng
diệu dụng của "Mi-tiên-vấn-đáp"
thật là bất khả tư nghì rồi.
Xin các bậc thức giả cao minh hoan hỷ chỉ giáo cho
để lần tái bản được hoàn bị hơn.
Mong thay,
Phật Bảo Tự, Phú Thọ Hòa
Mùa An Cư 1982 - PL.2526
Tỳ Khưu Giới Nghiêm
(Thitasìlo Bhikkhu)
-ooOoo-
Kệ lễ bái TAM BẢO
Đê đầu đảnh lễ
Phật Bảo chí tôn
Oai đức vô lượng
Trí giác vô biên
Tự mình Điều Ngự
Viên mãn công hành
Hữu tình lợi lạc.
Đê
đầu đảnh lễ
Pháp bảo chí tôn
Thiết thực hiện tiền
Khéo bày, khéo giảng
Cứu độ chúng sanh
Pháp học, Pháp hành
Pháp thành viên mãn
Ai dục, vô minh
Tử sinh đoạn tận.
Đê đầu đảnh lễ
Tăng Bảo chí tôn
Đạo quả Thánh nhân
Tròn đầy trí hạnh
Xứng đáng cúng dường
Tán dương, tôn trọng
Vô thượng phước điền
Chư thiên, nhân loại.
|