Mi
Tiên Vấn Ðáp
(Milinda Panha)
Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm
(Maha Thera Thita Silo)
Tỳ kheo Giới
Ðức hiệu đính, ấn bản 2003
SỰ CHUẨN BỊ CỦA ĐỨC VUA VỀ NHỮNG CÂU HỎI MENDAKA
Khi đại đức Na-tiên
trở về chùa rồi, đức vua Mi-lan-đà tìm chỗ thanh vắng, suy nghĩ rằng: "Ta
có những câu hỏi Mendaka rất thù thắng, rất vi diệu, rất sâu kín; trong
tam giới này không ai có thể đáp được, ngoài các vị Bồ Tát. Những câu hỏi
này, nếu không được giải đáp thỏa đáng, sẽ phát sanh nhiều hoài nghi to
lớn; và nó sẽ là nguyên nhân cho mọi cuộc tranh luận, tranh chấp bởi các
hàng học Phật thời hậu lai! Nhưng trước khi đặt những câu hỏi Mendaka này
để đại đức Na-tiên trả lời rõ ràng từng điểm một, ta phải chuẩn bị tâm,
chuẩn bị trí cho thanh tịnh và sáng suốt."
Hừng sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ửng
hồng ở phương đông, khi các loài chim vừa rời khỏi tổ bay liệng giữa hư
không, khi các thầy bà-là-môn đang tụng kinh điều thắng hạnh; khi các âm
thanh như kèn, đàn, sáo... cùng những sinh hoạt nhân gian bắt đầu rộn ràng
thì đức vua Mi-lan-đà đã tắm rửa vệ sinh thân thể, súc miệng bằng nước
thơm tinh khiết, ngự ra chỗ yên tĩnh nhất của vườn ngự. Ngồi thiền định
một lát, giữ hơi thở điều hòa, đức vua xả ly mọi vướng bận, vắng lặng dục
và sân, chắp tay lên đỉnh đầu niệm ân đức của Chư Phật quá khứ, hiện tại,
vị lai. Rồi ngài nghĩ rằng: "Ta sẽ
bàn giao quốc sự cho các vị đại thần trong vòng bảy ngày. Bảy ngày ấy ta
sẽ thọ trì tám pháp lành. Tám pháp lành ấy có công năng thiêu hủy ác pháp
và những trần cấu dơ uế. Khi nội tâm đã đầy đủ, sung mãn tám pháp lành ấy,
ta sẽ tìm đến đại đức Na-tiên để đặt những câu hỏi Mendaka."
Sau khi công việc triều chánh đã được bàn
giao, đức vua cởi vương bào cùng châu báu ngọc ngà; mặc chiếc y màu hoại
sắc như các đạo sĩ, quấn chiếc khăn thô lên đầu như hình chiếc nhẫn; rời
khỏi long ngai, ngự lên lầu cao, trú trong một căn phòng thoáng đãng và
tịch mịch.
Suốt bảy ngày ấy, đức vua thành tựu được
tám pháp lành sau đây:
Một là, không suy nghĩ, vướng bận hoặc
bàn chuyện quốc sự.
Hai là, không để cho tâm ái dục, luyến
ái chi phối.
Ba là, không có sân niệm nào đối với bất
kỳ một ai.
Bốn là, không có hành động nào do mê
tối, lầm lạc, si mê.
Năm là, không một điều tiếng nào dù hận,
dù tức, dù khó chịu đối với mọi người, quan lại, kẻ hầu, chánh hậu, thứ
phi, hoàng tử hoặc cung nga thể nữ...
Sáu là, thân không sát sanh, trộm cắp,
tà hạnh, đánh đập người; khẩu không nói dối, ác khẩu, lời hung dữ v.v...
Bảy là, hoàn toàn thu thúc lục căn. Sáu
cửa đều được thanh tịnh.
Tám là, trú từ bi tâm.
Ngày thứ tám, đức vua Mi-lan-đà thọ thực
sớm, với hỷ và an, với từ bi tâm tỏa mát ở khí sắc, ngài đi chào hỏi mọi
người với những lời vui vẻ đầy từ ái. Sau đo, với oai nghi đỉnh đạc và
trầm tịnh, với ý được thu liễm, với tâm đầy hoan hỷ, với trí trong sáng và
rỗng rang; đức vua đi bộ thanh thản đến chùa gặp đại đức Na-tiên, hai tay
chấp lại đặt lên giữa đỉnh đầu, rồi bạch như sau:
- Đại đức Na-tiên tôn kính! Hôm nay trẫm
muốn hội diện với ngài để hỏi về những câu hỏi có ý nghĩa sâu kín. Như mặt
đất bí mật thường ẩn chứa của báu, như khu rừng thanh vắng thường để dành
cho các sa môn tĩnh tu; những câu hỏi mà trẫm sẽ hỏi ngài đây cũng phải
được tìm chỗ thích hợp, phải tránh xa tám điều cấm kị, nếu không, cuộc
diện đàm của chúng ta sẽ bị hư hỏng.
- Đại vương cứ nói.
- Thứ nhất là phải tìm chỗ bằng phẳng,
tránh chỗ gồ ghề, lồi lõm, chỗ chông chênh, chỗ có khe vực nguy hiểm. Thứ
hai là tránh chỗ sẽ phát sanh nhiều sợ hãi. Thứ ba là tránh chỗ có gió
mạnh, gió dữ, gió độc, gió lạnh. Thứ tư, tránh chỗ quá kín đáo như mật
thất hoặc hang động. Thứ năm là tránh chỗ người ta hay đến để cúng vái cầu
khấn chư thiên hoặc thọ thần. Thứ sáu, tránh chỗ gần đường cái quan, gần
lối đi mà bộ hành thường qua lại. Thứ bảy, tránh chỗ gần thị thành, chợ
búa. Thứ tám là tránh chỗ gần bến nước, giếng nước. Đó là 8 chỗ không
thích hợp cho những câu hỏi về Mendaka, thưa đại đức.
- Bần tăng đã hiểu lý do, nhưng đại vương
hãy cứ giải thích một cách rộng rãi theo ý mình.
- Vâng. Chỗ bằng phẳng chỉ đơn giản là để
dễ dàng thay đổi oai nghi mà không ngại vấp té vô ích. Chỗ không có thú dữ
như cọp, beo, rắn độc để khỏi phát sanh sợ hãi. Chỗ có các loại gió dữ,
gió mạnh, ác phong, hàn phong sẽ khiến dễ bị nhiễm cảm, nhức đầu, sổ mũi.
Không tới chỗ quá kín đáo để tránh sự tò mò, dòm ngó, nghi vấn của nhiều
người. Còn tránh bốn chỗ sau là tránh sự đông đúc của bá tánh, tránh ồn
ào, huyên náo, hỗn tạp dễ bị phân tâm, không chuyên nhất cho sự suy nghĩ
tế vi và sâu kín. Ý nghĩa, lý do của tám điều cấm kỵ là vậy, thưa đại đức!
- Hay lắm - đại đức Na-tiên gật đầu tán
thán - đại vương quả là người chu đáo nhất thế gian này.
- Không dám. Tránh tám chỗ cấm kỵ ấy không
thôi thì cũng chưa đáng được gọi là chu đáo đâu, thưa đại đức!
- Xin cho bần tăng được nghe cao kiến?
- Còn tám hạng người nữa sẽ không được dự
nghe những câu hỏi và đáp của chúng ta, vì tám hạng người ấy không đủ
trình độ tâm, trình độ trí, sẽ phát sanh nghi ngờ vô ích. Có họ thì các
câu hỏi Mendaka sẽ bị chúng làm cho hư hoại.
- Xin đại vương cứ trình bày.
- Thứ nhất là hạng người nặng về luyến ái,
thiên về luyến ái. Thứ hai là hạng người nhiều sân hận, nóng nảy, hung dữ.
Thứ ba là hạng người si mê, đần độn. Thứ tư là hạng người nhiều ngã chấp,
kiêu căng, kiêu mạn. Thứ năm là hạng người thấp thỏi, hèn hạ, ti tiểu. Thứ
sáu là hạng người ương lười, biếng nhác, dễ duôi. Thứ bảy là hạng người
chỉ thấy cái bụng của mình, nhìn không xa hơn cái bụng hoặc hay suy bụng
ta ra bụng người. Thứ tám là người ngu, kém hiểu biết không chịu thấy ra
cái ngu của mình!
- Vậy là quá chu đáo rồi.
- Chưa đâu, thưa đại đức.
- Còn gì nữa, hở đại vương?
- Thưa, cũng còn phải tránh chín hạng
người nữa. Thứ nhất là người đắm đuối, ái luyến đã thành quen, thành nề.
Thứ hai là người nóng nảy, hung dữ, sân hận đã thành tâm, thành tánh. Thứ
ba là người si mê, đần độn đã biến thành bản chất...
Đến đây, đại đức Na-tiên chợt hỏi:
- Ở trên cũng tham, sân, si; dưới cũng
tham, sân, si nhưng một bên là mới "nặng về", "nghiêng về",
còn một bên là tham, sân, si đã gắn chặt, kết dính kiên cố... Phải
chăng đấy là điều khác nhau, thưa đại vương?
- Vâng. Đúng là vậy.
- Xin cho nghe sáu hạng người kế tiếp.
- Thứ tư là người nhiều lo âu, sợ hãi. Thứ
năm là người ham mê danh lợi. Thứ sáu là người uống rượu. Thứ bảy là người
thích trang sức, trang điểm, nước hoa, dầu thơm. Thứ tám là đàn bà, thứ
chín là trẻ con...
- Hay lắm! Đại vương không cần phải giải
thích thêm nữa. Tuy nhiên, bần tăng chỉ muốn hỏi thử đại vương về hạng
người thứ tám và thứ chín thôi, tại sao họ không có khả năng tiếp thu
những câu hỏi và đáp về Mendaka?
- Thưa, đàn bà và trẻ con thời Đức Phật có
rất nhiều người có căn cơ lớn, trí tuệ lớn; họ có khả năng giác ngộ giáo
pháp, nhưng bây giờ thì hết rồi. Giáo hội tỳ kheo ni Đức Thế Tôn đã không
cho phép duy trì, kế thừa nữa. Và trẻ con thì chẳng có ai bảy tuổi mà đắc
quả A- la- hán cả!
- Vâng, thật là chính xác! Đại vương có gì
trao đổi nữa chăng?
- Thưa, còn! Tất cả hạng người kể trên đều
không được dự nghe. Còn người đặt câu hỏi và được dự nghe như trẫm đây
phải hội đủ một số điều kiện, bằng không, các câu hỏi Mendaka cũng
sẽ bị hủy hoại.
- Các điều kiện ấy là gì, đại vương?
- Thưa, thứ nhất là tuổi tác đã trưởng
thành. Thứ hai là không ham mê chức phận. Thứ ba là phải siêng năng học
hỏi. Thứ tư là không thân cận với kẻ ngoại đạo. Thứ năm là luôn khởi tâm
hướng đến cái chân thực, cái như thực (yonisomanasikàra = như lý tác ý).
Thứ sáu là thích luận đạo, vấn đạo để phát triển trí tuệ. Thứ bảy là ưa
thích trong pháp và ý nghĩa của giáo pháp. Thứ tám là nơi quốc độ thích
hợp (ở trú xứ thích hợp).
- Lý do của tám điều kiện ấy là gì, tâu
đại vương?
- Thưa, có tám điều kiện ấy mới có trí
tuệ, trí tuệ mới phát triển được, thưa đại đức.
- Quả đúng như thế.
- Thưa đại đức! trẫm là người học trò có
đầy đủ tám điều kiện để phát sanh trí tuệ như đã kể ở trên, thật cũng khó
kiếm trên cõi Diêm phù đề này. Nhưng một bậc thầy A-xà-lê như đại đức,
muốn được xứng danh, chơn chính, chơn thực là một bậc A-xà-lê trọn vẹn,
tuyệt hảo...thì có lẽ lại càng hy hữu hơn...
- Tại sao lại hiếm có bậc A-xà-lê như thế?
Hãy cho nghe, tâu đại vương!
- Thưa, vì trẫm chỉ có tám điều kiện,
nhưng một bậc A-xà-lê sư như đại đức thì phải hội đủ hai mươi lăm điều
kiện, thưa đại đức!
- Đại vương hãy nói đi!
- Vâng. Hai mươi lăm đức tính của một bậc
A-xà-lê sư như sau:
Thứ nhất, thầy luôn luôn hộ trì, thương
yêu, bi mẫn đối với đệ tử.
Thứ hai, thầy biết rõ đệ tử này cần gần gũi, đệ tử kia không nên gần gũi.
Thứ ba, thầy biết rõ đệ tử này phóng dật, giải đãi, dễ duôi, đệ tử kia thì
không.
Thứ tư, Thầy phải biết rằng lúc này nên cho người đệ tử nằm và nghỉ, lúc
khác thì không.
Thứ năm, thầy phải biết đệ tử này đau ốm, đệ tử kia khỏe mạnh.
Thứ sáu, thầy phải lưu ý người đệ tử này
đầy đủ vật thực, đệ tử kia thiếu thốn.
Thứ bảy, thầy phải hiểu rõ từng đức tính, từng cá tính của từng đệ tử.
Thứ tám, thầy phải biết chia sớt phần vật thực của mình nếu đệ tử không đủ
no.
Thứ chín, thầy phải tìm cách trấn an giúp người đệ tử giải thoát mọi nỗi
lo âu, sợ hãi.
Thứ mười, thầy phải theo dõi, theo sát pháp hành của người đệ tử để biết
cách hướng dẫn người đệ tử tu tập mau tiến bộ.
Mười một, thầy phải biết rõ tất cả các
pháp và người nên thân cận, gần gũi để giáo huấn đệ tử.
Mười hai, thầy phải biết chùa chiền nào, tăng lữ nào là nên thân cận, gần
gũi để chỉ bày cho đệ tử.
Mười ba, thầy không nên để cho đệ tử cười đùa, nô giỡn một cách vô ích.
Mười bốn, thầy biết đệ tử có tội, phải ngăn cấm tội ấy và sẵn sàng xá tội
cho đệ tử.
Mười lăm, thầy phải luôn luôn nhu
thuận, nhu nhuyến với đệ tử.
Mười sáu, thầy luôn luôn nhắc nhở không
cho đệ tử bỏ bê pháp học và pháp hành.
Mười bảy, thầy không được dấu diếm những ý nghĩa sâu xa của giáo pháp đối
với đệ tử.
Mười tám, thầy không nên để sót lại dầu một chút ít những pháp sâu xa mà
không dạy cho đệ tử.
Mười chín, thầy cần cho đệ tử biết lần hồi sức tài, sức học của mình.
Hai mươi, thầy thường xuyên nâng đỡ đừng cho đệ tử hư hỏng, phải giúp cho
đệ tử tiến bộ.
Hai mươi mốt, thầy luôn luôn nghĩ rằng,
phải làm sao cho đệ tử học tập đến nơi đến chốn.
Hai mươi hai, thầy luôn có tâm từ với đệ tử.
Hai mươi ba, thầy không được bỏ đệ tử trong lúc đệ tử bị tai ương, hoạn
nạn, rủi ro, tai hại.
Hai mươi bốn, thầy không được thờ ơ trong bổn phận và trách nhiệm đối với
đệ tử.
Hai mươi lăm, thầy phải chỉ ra những chỗ mà đệ tử đã học sai và phải giải
thích cho rõ ràng.
Sau khi đức vua Mi-lan-đà nói ra đầy đủ
hai mươi lăm đức tính của một bậc làm thầy, đại đức Na-tiên lại một lần
nữa tán thán:
- Quả thật là vi diệu! Nhưng không biết
trên thế gian này có bậc thầy nào hội đủ các đức tính ấy chăng?
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Ngài quá khiêm tốn. Trẫm cảm nhận ra
rằng đại đức là bậc A-xà-lê sư ấy. Khi có người đệ tử như Trẫm đây hội đủ
tám điều kiện; và khi có bậc thầy hội đủ hai mươi lăm đức tính như đại đức
- thì chúng ta hãy tìm chỗ tránh xa tám điều cấm kỵ, xa lánh mười bảy hạng
người. Và ở đấy, các câu hỏi về Mendaka sẽ được bắt đầu.
- Lành thay! - Đại đức Na-tiên nói - Nhưng
vẫn chưa đủ, tâu đại vương! Đại vương đã chấp nhận mình là một người đệ
tử, vậy đại vương có thông thuộc mười đức tính phải có của một người cận
sự nam, cận sự nữ chăng?
- Xin cho nghe!
- Vâng. Điều thứ nhất là một người cận sự
nam (hay nữ) phải biết chia vui, chung khổ với tỳ khưu Tăng. Điều thứ hai
là thân khẩu phải thanh hạnh, lìa xa trược hạnh. Thứ ba là phải biết lấy
pháp làm chủ, pháp là mục đích. Thứ tư là thường hoan hỷ, xả ly, bố thí.
Thứ năm là phải chăm chuyên, tinh tấn học, suy nghĩ để hiểu cho thấu đáo
lời dạy của Đức Thế Tôn. Thứ sáu là phải biết rời xa những niềm vui huyên
náo và rỗng không bên ngoài Phật giáo, dù có mất sanh mạng cũng không nhận
ngoại đạo làm thầy. Thứ bảy là phải có chánh kiến kiên cố, bất động. Thứ
tám là vui thích trong việc làm cho Tăng được hòa hợp, cận sự nam nữ hai
hàng đoàn kết, hoan hỷ làm phước sự. Thứ chín không được thực hành hạnh
giả dối, thấp hèn. Thứ mười là phải lấy Tam Bảo làm chỗ quy hướng, nương
nhờ.
Tâu đại vương! Mười đức tính ấy cần phải
có và đầy đủ ở trong tâm của đại vương. Ngoài ra, đại vương biết nguyên
nhân nào làm cho Phật giáo suy vong, tiêu hoại thì phải ngăn ngừa, dập tắt
nguyên nhân ấy. Phải hộ trì cho Phật giáo được hưng thịnh dài lâu vì hạnh
phúc và an vui cho đại vương cũng như cho chư thiên và loài người. Đại
vương có làm được như thế chăng?
- Thưa, trẫm làm được. Và mười đức tính ấy
của một cận sự nam trẫm cũng có đầy đủ.
- Lành thay! Vậy chúng ta hãy tìm nơi
thích hợp, và đại vương hãy tùy nghi đặt bất cứ câu hỏi nào về
Mendaka.
- Vâng, mọi nhân, mọi duyên điều viên mãn,
chúng ta hãy bắt đầu hỏi và đáp.
- Thưa vâng!
* * *
90. Lễ bái, cúng dường Xá lợi, Kim thân Phật, cây Bồ-đề... không có
phước báu!
Khi tìm được chỗ thích hợp, đức vua
Mi-lan-đà đê đầu xuống sát chân đại đức Na-tiên, thành kính đảnh lễ rồi
thưa rằng:
- Bạch đại đức! Chúng ngoại đạo thấy Phật
tử cung kính lễ bái, cúng dường xá lợi, cây bồ đề, kim thân Phật, chúng đã
nói rằng: "khi Đức Phật còn tại
tiền, các Phật tử cung kính, lễ bái, cúng dường ngài cũng phải lẽ. Nay
ngài đã nhập diệt rồi, các ngươi dẫu có lễ bái cúng dường bao nhiêu chăng
nữa thì Đức Phật cũng đâu có hoan hỷ? Mà không hoan hỷ tất không có phước
báu. Không có phước báu tất sẽ có tội. Coi chừng các ngươi làm vậy là rơi
vào tà kiến đấy!"
Thưa đại đức! Sự nhận xét ấy của ngoại đạo
đúng hay sai? Là chánh kiến hay tà kiến? Những mong đại đức với tâm bi
mẫn, với tuệ chân thật hãy phá nghi cho những người học Phật thời hậu lai.
- Tâu đại vương! Đại vương hãy nghe đây,
bần tăng sẽ giảng giải. Nhưng trước khi giảng giải, bần tăng xin hỏi đại
vương: thuở Phật còn tại tiền, khi nhận được sự lễ bái, cung kính, cúng
dường của cận sự nam nữ hai hàng, Đức Phật có hoan hỷ không?
- Dĩ nhiên là có hoan hỷ.
- Chẳng phải thế, tâu đại vương! tâm hoan
hỷ là tâm thô lậu, nó chính là cấu uế đối với các vị tu tập thiền quán,
huống chi đối với Đức Phật là bậc ở ngoài ba cõi? Khi nhận sự lễ bái, cúng
dường của Phật tử, Đức Thế Tôn trú tâm giải thoát chớ không phải tâm hoan
hỷ đâu, tâu đại vương!
- Vâng, đúng vậy!
- Đức Thế Tôn đã hoàn toàn vắng lặng và
siêu thoát từ cội cây bô-đề sau khi thành đạo quả Chánh Đẳng Giác; nghĩa
là ngài không còn thỏa thích, hoan hỷ với bất cứ lợi lộc, phẩm vật cúng
dường nào của chư thiên hoặc loài người. Và dĩ nhiên, Đức Phật giờ đã Niết
bàn rồi thì Ngài không còn hoan hỷ với những lễ phẩm cúng dường cũng là
điều chắc thật. Ngoại đạo nói vậy là đúng, nhưng lời chỉ trích của chúng
đã phản tác dụng, vô tình đã nói lên sự thực về Đức Đạo Sư. Vì Đức pháp
chủ Xá-lợi phất đã từng thuyết như sau: "Đức
Thế Tôn không có sự hoan hỷ với những phẩm vật cúng dường của chư thiên và
nhân loại, nên những ai cúng dường đến ngài sẽ được quả báu nhiều vô số
kể." Tâu đại vương, vậy thì luận
điểm tuyên truyền của ngoại đạo rằng là "không hoan hỷ tất không có
phước báu, không có phước báu tất là có tội" chính là tà kiến, là sự
thấy biết lầm lạc không phù hợp với chân lý!
Đức vua Mi-lan-đà nói:
- Nghe thì có lý nhưng sự y cứ của đại đức
không đáng tin cậy. Tại sao vậy? Ngài Xá-lợi phất thì biện minh cho Đức
Thế Tôn, đại đức thì dựa vào ngài Xá-lợi phất thì có khác nào cha con khen
ngợi và tâng bốc lẫn nhau? Chính đại đức phải tự giải thích, phân tích sao
cho đúng pháp, đúng với chánh lý để giải trừ những tà kiến nguy hại kia
chứ không phải là trích dẫn những câu có sẵn!
- Đúng như thế, tâu đại vương! Những người
cận sự nam nữ họ đều cung kính, lễ bái, cúng dường Xá-lợi, cây bồ-đề, kim
thân Phật...; mặc dầu biết rằng Đức Phật đã nhập diệt, ngài không có thỏa
thích hoan hỷ gì trong những lễ phẩm ấy; nhưng nhờ vậy, họ tưởng nhớ đến
Đức Thế Tôn, tưởng nhớ đến những pháp lớn, pháp nhỏ mà Đức Thế Tôn đã từng
dạy bảo để tu tập. Nếu như sự tu tập ấy được kiên trì, với nhiếp tâm, với
tinh cần thì họ có thể được thiện sanh làm người, làm trời, cao hơn là
chứng đắc bốn đạo quả và Niết bàn không, hở đại vương!
- Có thể là như vậy, nhưng trẫm muốn nghe
bằng ví dụ cụ thể, dễ hiểu kìa!
- Vâng, người ta hay dùng lửa để đốt cháy
cỏ khô, cây khô hoặc những vật uế tạp. Khi cỏ khô, cây khô hoặc những vật
uế tạp đã được thiêu hủy rồi thì lửa ấy có còn chăng, đại vương?
- Dĩ nhiên, khi không còn vật dẫn cháy thì
lửa cũng tắt theo.
- Vậy khi muốn dùng lửa trở lại, người ta
làm sao để có lửa, đại vương?
- Người ta lấy cây khô cọ xát với cây khô,
đặt bùi nhùi là vật dẫn cháy thì sẽ có lửa.
- Trí tuệ được ví như lửa vậy, tâu đại
vương! Đức Phật đã Niết bàn rồi, trí tuệ ngài không còn nữa, nhưng những
đệ tử của ngài đã theo lời dạy của ngài, tu tập theo những pháp lớn, pháp
nhỏ của ngài; cũng dùng cây khô cọ xát với cây khô, cũng đặt bùi nhùi dẫn
cháy để phát sanh trí tuệ. Như vậy, Đức Phật thuở tại tiền không hoan hỷ
lễ phẩm cúng dường, khi Niết bàn cũng không hoan hỷ lễ phẩm cúng dường;
nhưng những người Phật tử cung kính, lễ bái, cúng dường xá lợi, cây bồ-đề,
kim thân Phật; đã hằng ngày tự mình nhắc nhở, hằng ngày tự mình hành
thiền, hằng ngày đã dùng phương pháp lấy lửa để thành tựu trí tuệ; nên kết
quả của việc làm ấy được phước báu vô lượng vô biên, là chứng đắc ba thứ
đạo quả: quả người, quả trời và quả Niết bàn, tâu đại vương!
- Thật là thông đạt, nhưng trẫm muốn nghe
thêm ví dụ?
- Vâng, ví như một ngày mùa hạ khí trời oi
bức, một cơn gió mát mẻ thổi qua làm cho mọi người đều khoan khoái. Nhưng
khi cơn gió qua rồi, lúc nóng nực, người ta không biết làm sao để chống
nóng, phải không đại vương?
- Người ta có thể làm gió được, thưa đại
đức! Người ta dùng lá thốt nốt và tre kết thành một tấm lớn đặt trên trần
nhà, có dây kéo, thế là có thể có gió quạt mát cho cả nhà. Cũng có thể
dùng nan tre, dán giấy để cầm tay quạt mát cho từng người, thưa đại đức!
- Gió qua rồi nhưng người ta có thể làm
gió được, ấy là từ miệng đại vương nói ra. Đức Phật với giác ngộ, với trí
tuệ, với từ bi hỷ xả... có mặt trên thế gian này, quả là một cơn gió lớn,
thanh lương và mát mẻ vô cùng. Cơn gió ấy đã thổi vẹt vô minh và si mê
trên trần thế. Cơn gió ấy đã xua tan biết bao sân hận, hung dữ, bạo tàn,
ác độc... của con người. Cơn gió ấy đã làm cho hằng sa thế giới chấn động,
ma vương sợ hãi và chúng sanh thì được tẩm mát, được an lạc và thanh bình.
Làn gió của Đức Thế Tôn đến như vậy, an trú như vậy và ra đi như vậy - nói
hoan hỷ hoặc không hoan hỷ đều không đúng - nhưng rõ ràng là ích dụng và
lợi lạc cho vô số chúng sanh. Đức Thế Tôn nhập diệt rồi, gió ấy đã qua
rồi, nhưng người ta có thể làm gió được, bằng nổ lực cá nhân, bằng lá thốt
nốt, nan tre và giấy; bằng sự cung kính, lễ bái cúng dường xá lợi, cây
bồ-đề, kim thân Phật... để quạt mát, đem lợi lạc, hạnh phúc, an vui đến
cho mình và mọi người, tâu đại vương!
- Ví dụ ấy cũng khá chính xác, nhưng trẫm
muốn nghe thêm ví dụ khác để hiểu thêm về nhiều mặt của một vấn đề!
- Vâng! khi muốn nghe tiếng trống, đại
vương phải làm sao?
- Trẫm sai lực sĩ đánh. Đánh mạnh thì âm
thanh lớn vang xa, đánh nhẹ thì âm thanh nhỏ vang gần.
- Vậy khi không đánh thì âm thanh kia đi
đâu?
- Nó diệt rồi!
- À, té ra âm thanh đã mất hẳn, không còn
nữa!
- Không, nó diệt chứ không mất! Đại đức
nghĩ thế là sai rồi! Bởi khi cần âm thanh, ta sẽ có cách làm cho âm thanh
có mặt trở lại!
- Phải làm sao?
- Trẫm sai lực sĩ đánh trống! Đại đức nên
nhớ rằng cái trống chỉ là nhân, cái trống không tự nó phát ra âm thanh,
một nhân không thể thành quả. Nhân phải có hỗ trợ duyên, một duyên hay
nhiều duyên mới trổ thành quả. Cũng vậy, cái trống cần phải có dùi trống,
người đánh trống trợ duyên mới phát ra âm thanh được.
- Vậy là chính đại vương đã giải tan những
nghi vấn của đại vương! Đức Phật gióng lên Tiếng Trống Bất Tử ở
giữa đời, Đức Phật nhập diệt rồi nhưng tiếng trống không hẳn đã mất đi
vĩnh viễn. Cái trống còn đó, Pháp bảo còn đó; nếu có người đánh trống thì
âm thanh kia vẫn vang lên như thường.
- Xin thưa, đồng ý Pháp bảo dụ như cái
trống, nhưng cây bồ-đề, xá lợi, kim thân Phật đâu phải là Pháp bảo? Vậy
cung kính lễ bái, cúng dường những hình tượng ấy có thể nào lại vang lên
âm thanh của Pháp bảo?
- Rất là chính xác. Tuy nhiên, tâu đại
vương, cái trống tự nó không phát ra âm thanh mặc dầu có người đánh trống;
[*] cũng vậy, Pháp bảo và người gióng trống Pháp bảo không cũng chưa đủ,
nó phải cần có nhiều duyên hỗ trợ. Cúng dường, lễ bái xá lợi, kim thân
Phật nó chính là trợ duyên cho chúng sanh nhớ tưởng đến ân đức, trí hạnh
của Đức Phật mà tu tập, phải thế không đại vương?
[*] Vì còn thiếu dùi trống
- Hay lắm!
- Lúc Đức Thế Tôn diệt độ, ngài dạy rằng:
"Khi Như Lai Niết bàn rồi, pháp và luật là thầy của các ngươi."
Pháp và luật chính là tam tạng, chính là Pháp bảo, chính là giới định tuệ,
chính là 37 trợ đạo phẩm. Vậy thì cái trống Pháp bảo luôn còn ở đấy, chỉ
thiếu người đánh trống và dùi trống nữa mà thôi. Khi nào có dùi trống, có
người đánh trống, gióng lên tiếng trống Pháp bảo thì chắc hẳn rằng đức
tin, phước báu, từ bi, trí tuệ, giác ngộ, giải thoát sẽ có mặt ở đời này,
phải thế không đại vương?
- Phải vậy!
- Thế thì lời nói của ngoại đạo là ngoa
ngôn, xảo ngôn, là hư ngụy, là không thật, là tà kiến...; chính chúng muốn
cho các hàng Phật tử không có nơi nương tựa, không có nơi hướng về, không
có nơi tôn kính, không có nơi lễ bái...; làm cho Phật tử hoang mang, sợ
hãi, đức tin bị lung lay... Đại vương có thấy thế không?
- Đúng vậy! Nhưng còn sự hoan hỷ và không
hoan hỷ?
- Đức Phật đã nhập diệt rồi, đặt vấn đề
hoan hỷ và không hoan hỷ chỉ là trò chơi của sự lập ngôn! Chính sự khởi
tâm khi thành kính, lễ bái, cúng dường... đã thành tựu phước báu rồi!
Tiếng trống có hoan hỷ và không hoan hỷ cũng là trò hý lộng ngôn ngữ! Âm
thanh của tiếng trống là tùy thuộc vào sức yếu mạnh của người lực sĩ. Pháp
bảo được giác ngộ sâu cạn là tùy căn cơ, trình độ, sự lãnh hội cùng túc
duyên của người tu Phật. Người tu theo đức tin, người theo tinh tấn, người
theo trí tuệ cũng do từ kho tàng Pháp bảo cùng căn cơ trình độ mà ra, từ
cá biệt duyên của mỗi người mà ra!
- Trẫm đã thông suốt, đã tỏ tường, tuy
nhiên, trẫm còn muốn nghe thêm về sự hoan hỷ!
- Được thôi! Trên quả đất rộng lớn này
biết bao nhiêu là kỳ hoa, dị thảo; biết bao nhiêu là giống cây cùng nứt
hạt, nẩy mầm và lớn lên làm cho xanh tươi, mát mẻ, đẹp đẽ và phong phú!
Tâu đại vương, quả đất có hoan hỷ không, mà cây cối, muôn hoa nẩy nở và
phát triển như thế?
- Chúng hoan hỷ gì đâu! Chúng nương nhờ từ
đất, đón nhận nước, không khí, ánh sáng mà trở nên sum suê, tươi xanh đấy
chứ!
- Cũng vậy, Đức Thế Tôn còn sống hay đã
Niết bàn, ngài cũng chẳng hoan hỷ gì cả; nhưng tứ chúng, chư thiên và nhân
loại nương nhờ nơi ngài, đón nhận giáo pháp của ngài; tạo phước báu, tu
tập từ bi, hỷ xả, tu tập để đắc các tầng Thánh quả. Nói cách khác, đức
tin và nghe pháp là hạt giống, giới là gốc rễ, định
là thân cây, tuệ là lá hoa và giác ngộ, giải thoát các tầng
Thánh là quả, tâu đại vương!
- Đúng là không cần có sự hoan hỷ mà chính
do tâm tạo thiện nghiệp, học hỏi giáo pháp và tu tập. Phước báu phát sanh
ở đó.
- Còn nữa, ví như những loại vi trùng sống
nhờ nơi thân, trong bụng chúng sanh như voi, ngựa, trâu, bò, dê, lừa, lạc
đà...; các loài động vật ấy chúng không hề hoan hỷ, thỏa thích các loài vi
trùng ấy, nhưng vi trùng vẫn lớn lên, sinh con đẻ cháu hàng hàng lớp lớp.
- Vâng, quả vậy. Trường hợp này có lẽ là
do nghiệp duy trì, nuôi dưỡng.
- Đúng thế! Ví như con người thường phát
sanh chứng bệnh channavuti. Dẫu con người có hoan hỷ hay không hoan
hỷ thì bệnh channavuti vẫn phát sanh, tồn tại và hành hạ con người.
Tại sao như thế, đại vương?
- Dĩ nhiên là do nhiều nguyên nhân, nhưng
nói ngắn gọn là do ác nghiệp sanh ra.
- Lại ví như dạ xoa Nanda có tâm ác độc,
đánh mạnh vào đầu đức pháp chủ Xá lợi phất, sau đó dạ xoa Nanda bị quả đất
rút. Đại vương nghĩ như thế nào, đức pháp chủ có hoan hỷ khi dạ xoa Nanda
bị ác báo ấy không?
- Dẫu cõi trời, cõi người có tiêu hoại đi,
mặt trời, mặt trăng có bị rơi xuống đất, núi Tu di bị vỡ tan tành... đức
pháp chủ Xá lợi phất cũng không có tâm địa ấy đâu!
- Vậy dạ xoa Nanda bị quả đất rút do
nguyên nhân nào?
- Do năng lực của nghiệp mà dạ xoa kia đã
làm.
- Đúng vậy! Còn bốn người nữa làm hại Đức
Phật bị quả đất rút là nàng Cincà, Đức vua Suppabuddha, ông Devadatta, kẻ
trộm Udameyyaka... thì đại vương nghĩ như thế nào, Đức Phật có hoan hỷ về
điều đó không?
- Đức pháp chủ không có tâm địa ấy thì dĩ
nhiên Đức Phật cũng hoàn toàn không! Chính chúng gây nhân ác thì bị ác
báo.
- Vâng! Gây nhân thiện thì quả báo lành,
tốt, gây nhân ác thì bị quả báo dữ, xấu. Đấy là định luật. Đức Phật dẫu đã
Niết bàn rồi, không có hoan hỷ về việc Phật tử cung kính, cúng dường, lễ
bái xá lợi, cây bồ-đề, kim thân Phật; nhưng lạc báo, thiện báo, phước quả
sẽ trổ sanh cho người ấy, do thiện tâm của người ấy. Trái lại, Đức Phật,
đức pháp chủ Xá lợi phất không có hoan hỷ về việc những người làm hại mình
bị quả đất rút nhưng khổ báo, ác báo, tội báo vẫn lôi những kẻ ấy vào địa
ngục a-tỳ như thường. Như vậy, lời nói của ngoại đạo là rỗng không, không
có y cứ vào định luật nhân quả, không thấy không biết sự vận hành của nhân
quả; không biết rằng tác ý là nghiệp...! Luận cứ của chúng là tà kiến,
không đúng với chân lý. Đại vương là bậc có trí, hãy từ đó mà suy gẫm
thêm!
Đức vua Mi-lan-đà vô cùng hoan hỷ, hết lời tán dương trí tuệ phá nghi
của đại đức Na-tiên, rồi kết luận:
- Lời xuyên tạc, phá hoại của chúng ngoại
đạo từ nay đã tiêu tan, vô hiệu quả, nhờ tuệ đức của ngài vậy.
* * *
91. Đức Phật có toàn giác không?
[Hơi khác với câu hỏi 60]
- Bạch đại đức! trẫm có một mối nghi rất
to lớn, là Đức Thế Tôn không phải là bậc Toàn Giác!
- Tại sao?
- Thưa, đọc trong kinh, trẫm thấy rằng, có
rất nhiều trường hợp Đức Thế Tôn "hướng tâm" đến mới biết, không
hướng tâm đến thì không biết. Như vậy, sao gọi là "toàn giác" được?
- Tâu đại vương! Đức Thế Tôn đúng là bậc
Toàn Giác, ngài biết rõ tất cả các loại tâm. Duy nhất chỉ có Đức Thế Tôn
mới thông suốt, mới biết rõ sự hiện hữu và sự vận hành các tướng tâm
ấy!
- Các tướng tâm ấy như thế nào?
- Thứ nhất là tướng tâm tham dục, sân hận,
si mê, thường dính mắc bởi ái luyến và phiền não. Cái tâm ấy gọi là trì
độn, chậm chạp, không có tu tập, tức là loại
tâm chưa được tiến hóa.
Cái tâm ấy được ví như một cây tre chằng chịt từ đầu đến ngọn bởi những
mắc, những gai nè phức tạp, vô phương tháo gỡ, tâu đại vương!
- Đấy là tâm của tất cả chúng sanh, nhất
là những chúng sanh đang lặn hụp, đau khổ trong bốn đường dữ, phải thế
không đại đức?
- Vâng, loại tướng tâm thứ hai là tâm của
những chúng sanh đã ra khỏi bốn ác đạo ấy. Đấy là tâm của những vị Thánh
Tu-đà-huờn, kẻ đã cắt đứt ba sợi dây ràng buộc là thân kiến, hoài nghi,
giới cấm thủ. Loại tướng tâm này đã vượt khỏi trì độn, đã bước vào dòng
tiến hóa, đã thật sự có tu tập, đã có đức tin chơn chánh vào
con đường
và giáo pháp diệt khổ của Đức Thế Tôn,
tâu đại vương!
- Xin cho nghe ví dụ.
- Ví như cây tre có mười đốt chằng chịt
gai nè của chúng sanh ở tướng tâm thứ nhất, đã được trẩy sạch ba mắc cùng
những gai nè dính mắc, ràng buộc ở nơi ba mắt ấy. Cây tre như vậy là đã
được tháo gỡ và kéo ra được một đoạn ba đốt, tâu đại vương. Ấy là tướng
tâm thứ hai.
- Vâng, trẫm đã hiểu, còn tướng tâm thứ
ba?
- Là tâm của vị Thánh Tư-đà-hàm, kẻ đã làm
nhẹ bớt thêm hai sợi dây ràng buộc là tham dục và sân hận. Ví như cây tre
có mười đốt ở trên, sau khi đã trẩy sạch ba mắc cùng với gai nè, vị này đã
trẩy thêm được một ít gai nè ở hai mắc kế nữa, tâu đại vương!
- Thế là tướng tâm thứ ba, chưa trẩy sạch
hẳn tất cả gai nè trên năm mắc, năm đốt ấy?
- Vâng, đến tướng tâm thứ tư, tâm của vị
Thánh A-na-hàm mới trẩy sạch trọn vẹn, trơn tru cả năm mắc, năm đốt, tâu
đại vương.
- Xin cho trẫm nghe tướng tâm thứ năm?
- Là tướng tâm của vị A-la-hán, bậc đã cắt
đứt luôn năm sợi dây ràng buộc còn lại là sắc ái; vô sắc ái, ngã mạn,
phóng tâm và vô minh, tâu đại vương. Ví như năm đốt cùng với gai nè còn
lại trên cây tre, vị này đã trẩy sạch, cây tre đã dễ dàng lấy ra, không
còn vướng mắc gì nữa. Đây gọi là bậc vô sanh, vô lậu, giải thoát,
tâu đại vương! Còn tướng tâm thứ sáu là tâm của vị Độc Gíac Phật, là bậc
tự tu, tự chứng, tự mình giác ngộ, giải thoát.
- Có gì khác nhau giữa tâm giải thoát, tuệ
giải thoát của một vị A-la-hán và một vị Độc Giác Phật, thưa đại đức?
- Về giải thoát, vô lậu ấy thì giống nhau
nhưng về sự sâu cạn của tâm, của tuệ thì khác nhau. Ví như, vị Độc Giác
Phật có thể biết tâm của vị A-la-hán, còn vị A-la-hán không biết tâm của
vị Độc Giác Phật.
- Vâng, còn về tâm thứ bảy, có lẽ đó là
tâm của vị Phật Toàn Giác. Thưa, tâm và tuệ của ngài khác với vị Độc Giác
Phật như thế nào?
- Ví như một người đàn ông dũng cảm có thể
dễ dàng bơi qua sông lớn lúc nửa đêm, nhưng khi đối diện với biển cả, ông
ta lại cảm thấy sợ hãi, thiếu tự tin. Một vị Độc Giác Phật so sánh với
đấng Toàn Giác cũng y như thế. Đức Toàn Giác thường có đầy đủ bốn tuệ và
mười tám pháp (Buddha dhamma) vô ngại, vô lượng, bất khả tư nghì.
Chẳng ai so sánh được. Đó là thấy mọi việc quá khứ, hiện tại, vị lai, khả
năng tư duy, ngôn ngữ, trí nhớ, trực giác, thiền định, ý chí, nghị lực,
giải thoát, thắng tuệ, tự do, thanh tịnh, định tĩnh, chú ý, tĩnh thức,
quan tâm đến người khác. Nhờ có đầy đủ 18 pháp ấy nên Đức Thế Tôn rất dễ
dàng thấy biết tâm của chúng sanh, dễ dàng thấy biết mọi việc để hóa độ
chúng sanh, tâu đại vương!
- Sự dễ dàng ấy như thế nào, thưa đại đức?
- Ví như một tay xạ thủ thiện xảo, có mũi
tên tốt, cái cung tốt, nhắm bắn vào một tấm vải được căng sẵn. Đại vương
nghĩ thế nào, mũi tên kia sẽ được xuyên suốt qua tấm vải có dễ dàng không?
- Thưa, rất dễ dàng.
- Đức Toàn Giác dễ dàng và mau chóng quán
xét sự việc gì cần biết như ý muốn, còn nhanh hơn người đàn ông cầm một
vật gì từ bàn tay phải đặt sang tay trái, dễ dàng hơn viên lực sĩ co duỗi
cánh tay, tâu đại vương.
- Thưa đại đức, trẫm vẫn còn nghi ngờ Đức
Thế Tôn không phải là bậc Toàn Giác. Vì sao vậy? Vì còn quán tâm, còn
hướng tâm thì rõ ràng còn tìm kiếm. Còn tìm kiếm thì nhất định còn điều
chưa thấy, chưa biết - thì sao được gọi là "biết hoàn toàn" được ?
- Đại vương! Ví như có nhà phú hộ giàu có
muôn kho, đầy ắp tài sản, của cải, ngũ cốc, mật ong, đường, sữa v.v... Nếu
như có người muốn xin một nắm gạo để nấu cháo, thì cháo ấy có sẵn ngay hay
không?
- Cháo ấy không thể có sẵn để ăn ngay.
Phải vào lấy gạo trong kho, bỏ vào nồi nước và đun nấu một thời gian nào
đó, thưa đại đức.
- Trí giác của Đức Thế Tôn cũng giàu có,
thịnh mãn như vị phú hộ kia; muốn sử dụng thứ gì, thuộc "cái biết"
nào thì phải vào kho mà lấy ra, cũng y như thế! Tuy nhiên, ví dụ cái kho
của ông phú hộ là hữu hạn, là giới hạn; ví dụ vào kho để lấy gạo rồi nấu
cháo để ăn là phải tốn một thời gian. Cái kho hiểu biết của Đức Thế Tôn là
vô hạn định, vô hạn lượng; và muốn biết việc gì, điều gì ngài chỉ cần
hướng tâm đến là biết ngay tức khắc với thời gian còn nhanh hơn cái chớp
mắt, với thời gian chỉ có một niệm, tâu đại vương!
- Thưa, cái niệm ấy như thế nào?
- Ví như đức vua Chuyển luân Thánh vương
vừa nghĩ đến xe báu thì tức khắc xe báu hiện ra. Một niệm là một móng tâm,
một khởi tâm, một hướng tâm, một ý nghĩ, tâu đại vương!
- Bây giờ thì trẫm không còn lý do gì để
nghi nan nữa. Đức Thế Tôn đích thực là đấng Toàn Giác vậy.
* * *
92. Đức Thế Tôn có tâm Đại bi hay không?
- Thưa đại đức, Đức Thế Tôn hằng đem lại
điều lợi ích cho chư thiên và nhân loại; ngài có tâm đại bi, hằng tế độ
cho chúng sanh trời, người, nam, nữ... là điều chắc thật đấy chứ ạ?
- Quả đúng vậy.
- Đề-bà-đạt-đa chính do Đức Thế Tôn cho
xuất gia?
- Phải rồi, Đề-bà-đạt-đa được Đức Phật cho
xuất gia một lần cùng với năm vị khác trong hoàng tộc là Bhaddiyà,
Anuruddha, Ànanda, Bhagu, Kimabila! Có thêm người thợ hớt tóc Upàli nữa là
bảy người, tâu đại vương!
- Thưa đại đức, Đức Thế Tôn là bậc Toàn
Giác, không có việc gì trên thế gian mà ngài hướng tâm đến lại không biết;
thế khi Đức Thế Tôn cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia, ngài có biết rằng sau này
Đề-bà-đạt-đa âm mưu chia rẽ tăng chăng?
- Đức Thế Tôn có biết rõ như vậy, tâu đại
vương!
- Trẫm có nghe rằng, trong pháp và
luật của Đức Thế Tôn, là tỳ khưu ni, sa di hoặc sa di ni đều không
thể chia rẽ Tăng được, chỉ có tỳ khưu mới chia rẽ tăng được, có phải vậy
chăng?
- Đúng vậy! Chỉ có tỳ khưu cùng cộng trú,
cùng làm lễ phát lồ mới hội đủ điều kiện chia rẽ Tăng. Không phải
là tỳ khưu không thể chia rẽ Tăng được. Đại vương hiểu rất chính xác.
- Người chia rẽ Tăng thì ác nghiệp, tội
báo sẽ như thế nào, thưa đại đức?
- Bị đọa địa ngục chịu thống khổ chừng một
kiếp.
- Đức Thế Tôn cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia
làm tỳ khưu, Đức Thế Tôn lại rõ biết sau này vị tỳ khưu ấy chia rẽ Tăng.
Thế Đức Thế Tôn có biết là sau khi tạo ác nghiệp chia rẽ Tăng rồi,
Đề-bà-đạt-đa sẽ bị đốt cháy trong địa ngục a-tỳ lâu chừng một kiếp chăng?
- Đức Thế Tôn càng biết rõ điều ấy.
- Thưa đại đức! Chính đại đức đã xác định
rằng Đức Thế Tôn cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia, xuất gia rồi ông ta sẽ chia rẽ
Tăng, chia rẽ Tăng ông ấy tạo ác nghiệp chịu quả báo bị thiêu đốt ở địa
ngục a-tỳ lâu chừng một kiếp. Ở đây, vấn đề này sẽ nẩy sinh hai khía cạnh
mà ngoại đạo sẽ đem ra dị luận, có hại cho Đức Thế Tôn. Thứ nhất, nếu Đức
Thế Tôn chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra cho Đề-bà-đạt-đa trong tương lai -
thì rõ Đức Thế Tôn không phải là "bậc Toàn Giác". Thứ hai, nếu Đức
Thế Tôn biết rõ quả báo thống khổ mai sau của Đề-bà-đạt-đa thì Đức Thế Tôn
tuy là bậc Toàn Giác nhưng ngài lại thiếu tâm đại bi. Vậy cái gọi là Đức
Phật có mặt ở đời hằng đem đến hạnh phúc và an vui cho chư thiên và loài
người, là điều hoàn toàn cần phải xét lại! Xin đại đức hãy vì người học
Phật trong mai hậu, dùng trí tuệ mà đem đèn sáng đặt vào bóng tối để xóa
tan mọi nghi nan của trẫm thì trẫm tri ân lắm vậy!
- Đại vương, những nghi nan của đại vương
là có cơ sở, tuy nhiên, vì Đức Thế Tôn là bậc Toàn Giác, ngài có sự thấy
biết về quá khứ, vị lai là bất khả tư nghì. Ngài thấy biết rằng, nếu
Đề-bà-đạt-đa mà sống đời tại gia thì y sẽ tạo ác nghiệp với khổ báo không
thể nghĩ lường. Đề-bà-đạt-đa xuất gia, được gieo duyên với giáo pháp, được
phước báu thanh tịnh hỗ trợ; nên khi bị trả quả chia rẽ Tăng, ông ta chỉ
thọ báo quả địa ngục a-tỳ lâu chừng một kiếp, sau đó ông ta sẽ đắc quả Độc
Giác Phật hiệu là Atthisara. Trái lại, nếu Đề-bà-đạt-đa không tu tỳ kheo
thì ông ta sẽ bị thiêu, bị nấu từ địa ngục này sang địa nguc khác; hết khổ
địa ngục, ông ta rơi vào hàng trăm kiếp làm ngạ quỉ, rồi làm a-tu-la với
thời gian không đếm được. Và do đó, được thiện báo thọ sanh làm người đã
khó khăn huống hồ chứng quả Phật Thánh. Đại vương nghĩ thế nào, vậy bậc
Toàn Giác là bậc đại bi hay không phải đại bi?
- Quả đúng vậy, nếu sự thật như thế thì
tâm đại bi của Đức Thế Tôn là bất khả tư lường. Tuy nhiên, ngoại đạo cũng
có cách nói của họ mà sự hữu lý xem ra ta chẳng nên xem thường...
- Đại vương cứ nói!
- Vâng, ngoại đạo sẽ châm biếm, mỉa mai
rằng: "Ông Phật Tổ Cồ đàm khéo
thật! Ông đánh Đề-bà-đạt-đa sưng mày sưng mặt rồi ông kêu lại, dịu dàng
đấm bóp, xoa dầu cho! Ổng xô Đề-bà-đạt đa té sấp, té ngữa rồi đến dỗ dành,
ẵm bồng ra chiều từ ái. Ổng giết Đề-bà-đạt-đa chết rồi cho tái sanh làm
người mới! Ổng để cho Đề-bà-đạt-đa thọ khổ chán chê rồi sau đó mới cho
hưởng hạnh phúc, an vui!" Đại đức
sẽ trả lời thế nào về điều ấy?
- Dễ dàng thôi, tâu đại vương! Cứ lý ấy
của ngoại đạo sẽ bị tác dụng ngược lại khi ta chỉ cần đặt cho họ vài câu
hỏi.
- Vâng, trẫm đang chú tâm lắng nghe đây.
- Đại vương hãy hỏi họ rằng: khi người mẹ
dùng roi đánh đứa con một của mình - thì do bà ấy thương con hay ghét con?
- Thưa, người mẹ nào lại không thương con,
nhất là đứa con một thì tình thương kia lại càng dạt dào, vô lượng. Sở dĩ
bà phải đánh con là mong nó chừa bỏ một vài tật hư, tánh xấu nào đó; chỉ
mong nó trở nên người lành, người tốt mà thôi!
- Tâm đại bi của Đức Thế Tôn đối với chúng
sanh, đối với Đề-bà-đạt-đa cũng như người mẹ đối với con một của mình đấy,
tâu đại vương!
- Hay lắm! Đại đức hãy cho nghe thêm ví dụ
nữa.
- Vâng, ví như đại vương là bậc minh quân
của thiên hạ, trí bi gồm đủ; xử phạt, khen thưởng đều nghiêm minh, công
bằng; tình lý đều cân phân, trọn vẹn. Bần tăng có nghe rằng, trong các
khung hình phạt của đại vương đặt ra, có một tội ác được gọi là "tội
nên cảnh cáo, tội nhằm để ngăn ngừa",
bần tăng không rõ lý do làm sao mà đại vương đặt ra khung hình phạt ấy?
- Thưa, đấy là phạt tội nhẹ để ngăn ngừa
tội nặng, ví như cắt xẻ một cái ung nhỏ, thà đau đớn chút ít nhưng ngăn
ngừa được cái bệnh chết người trong mai hậu!
- Cũng vậy là Đức Phật cho phép
Đề-bà-đạt-đa xuất gia, biết chia rẽ Tăng sẽ đọa địa ngục. Thà để cho
Đề-bà-đạt-đa chịu đau khổ chút ít mà ngăn ngừa được khổ báo nặng nề nếu
ông ta sống đời tại gia, tâu đại vương! Giới và định trong thời gian
Đề-bà-đạt-đa xuất gia sẽ giúp cho ông ta sớm thoát khỏi khổ ách và sẽ
thành Phật Độc Giác trong ngày vị lai.
- Đại đức còn ví dụ nào về điều ấy nữa
không?
- Có chứ! Ví như có một tội nhân thụ án
phải bị chặt đầu. Khi ấy có một vị quan thân tín của đại vương, được đại
vương sủng ái, tin cậy, thường được đại vương ban cho nhiều đặc ân; tỏ vẻ
tội nghiệp cho tội nhân ấy, bèn xin đại vương tha cho tội xử trảm, chỉ
chặt một tay của người ấy thôi. Tâu đại vương! Theo ý đại vương thì vị
quan ấy có thiện tâm hay ác tâm? Có tội lỗi hay không có tội lỗi?
- Y là người tốt sao gọi rằng có tội được!
- Đức Thế Tôn cũng ví như vị quan ấy, vì
không nỡ để Đề-bà-đạt-đa thọ khổ lâu dài, tội báo kinh khiếp nên ngài tạo
hoàn cảnh cho ông ta chỉ trả quả đau khổ chút ít. Vị quan là người tốt, có
lòng từ thì Đức Thế Tôn quả là có tâm đại bi, tâu đại vương!
- Thật ra, ví dụ là để hiểu rõ thêm vấn đề
thôi, chứ theo định luật nhân quả thì ai làm người ấy chịu, có phải thế
không, đại đức?
- Đúng thế, tâu đại vương! Tuy nhiên,
những hỗ trợ duyên bên ngoài cũng tác động và quyết định cho nhân kia được
thành quả hay không được thành quả; có quả lớn hoặc quả nhỏ, quả được tăng
trưởng hay quả bị hủy hoại! Kẻ tội phạm kia theo lẽ bị chặt đầu nhưng do
nghịch duyên, có vị quan kia can thiệp nên quả trổ bị nhẹ đi. Đề-bà-đạt-đa
đáng lẽ ra phải bị tội báo nặng hơn, nhưng nhờ giới định một thời hỗ trợ;
vào phút cuối cùng lại có tâm hướng thiện hồi đầu, niệm ân đức của Đức
Phật, đặt đức tin nơi Đức Phật; do vậy, thiện quả sẽ trổ sanh trong ngày
vị lai cũng không lạ lùng gì. Sự vận hành ấy đúng với định luật nhân,
duyên và quả cả vậy. Đại vương có nghi ngờ gì nữa chăng? Và
ngoại đạo còn có thể dùng lý lẽ gì để xuyên tạc nữa chăng?
- Về câu hỏi này thế là đã được giải đáp
một cách trọn vẹn, thưa đại đức. Bọn ngoại đạo thật không còn kẻ hở nào để
chúng thò lý luận của chúng vào đấy được nữa!
* * *
93. Nghi vấn về sự Bố thí ba-la-mật
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết
rằng, quả địa cầu này bị rung chuyển, chấn động do tám nhân và
tám duyên, có phải thế chăng?
- Đúng vậy.
- Ở một chỗ khác, khi nói đến sự bố thí
ba-la-mật của bồ tát Vessantara, Đức Thế Tôn lại nói rằng: "Quả
địa cầu rung chuyển và chấn động ở ngoài tám nhân và tám duyên ấy";
tức là một hiện tượng phi thường, đặc biệt, không nằm trong các điều kiện
tự nhiên, bình thường!
- Quả đúng vậy!
- Thế thì trẫm không hiểu tại sao Đức Thế
Tôn thuyết trước sau không như một?
- Đại vương! Vì tâm bố thí của bồ tát
Vessantara là một sự kiện hy hữu, có năng lực vĩ đại làm cho quả địa cầu
chấn động bảy lần; điều ấy vượt ngoài tầm hiểu biết của phàm phu, ở ngoài
hiện tượng bình thường thuộc tám nhân và tám duyên, chớ có gì phải nghi
vấn đâu!
- Vậy thì đó có phải là một sự kiện phi
thời? Đại đức có thể cho nghe ví dụ được chăng?
- Được thôi! Ví như mỗi năm có 3 mùa: mùa
nắng, mùa mưa và mùa lạnh. Mùa nắng thì trời nắng, mùa mưa thì trời mưa,
mùa lạnh thì có tuyết rơi. Ấy là chuyện bình thường. Nhưng giả dụ không
phải là mùa lạnh mà tuyết lại rơi, ấy là chuyện bình thường hay bất thường
hở đại vương?
- Là bất thường.
- Vậy hiện tượng tuyết rơi bất thường ấy
là đúng thời hay phi thời?
- Thưa, là phi thời!
- Cũng như thế ấy là chuyện bồ tát
Vessantara, ngài bố thí ba-la-mật làm cho quả đất chấn động bảy lần là một
hiện tượng phi thời ở ngoài tám nhân và tám duyên ấy, tâu đại vương!
- Đại đức cho nghe ví dụ nữa!
- Vâng, đại vương có biết chừng bao nhiêu
sông to, sông nhỏ, sông đầy, sông cạn... phát xuất từ Hy-mã-lạp-sơn?
- Thưa, chừng năm trăm con sông như thế.
- Nhưng thật sự thì có chừng bao nhiêu con
sông được gọi là sông?
- Thưa, có mười con sông được gọi là sông,
đó là các sông Gangà, Yamunà, Aciravati, Sarabhù, Mahì, Sinadhu,
Sarasavati, Etabhavatì, Itamsà, Chandabhàgà!
- Tại sao chỉ mười con sông ấy được gọi là
sông?
- Vì mười con sông ấy có nước chảy thường
xuyên, còn các sông còn lại, nước chảy không thường xuyên, thưa đại đức.
- Đại vương! Vì không thường xuyên nên gọi
là phi thời. Bồ tát Vessantara với tâm đại thí cũng là hiện tượng phi thời
nên ở ngoài tám nhân và tám duyên!
- Tức là không được liệt vào tám nhân và
tám duyên bình thường ấy?
- Đúng thế.
- Đại đức cho nghe thêm ví dụ nữa.
- Vâng, bần tăng xin hỏi thử đại vương:
một vị Chuyển luân Thánh vương thường có chừng bao nhiêu quan lại?
- Thưa, không nhất định, có thể là hai
trăm, có thể là ba trăm!
- Trong số ấy có bao nhiêu vị được gọi là
quan đại thần?
- Chỉ có sáu thôi. Đó là vị giữ bảo kiếm,
vị giữ cái lọng, vị giữ kho, vị thanh tra, giám sát, vị chính trị, quốc
phòng, vị tướng lãnh cầm binh!
- Đại vương! Ngoài sáu vị quan đại thần
đặc biệt ấy, các vị quan còn lại không được liệt vào chức danh đại thần
như thế nào - thì việc quả đất rung chuyển bảy lần cũng thuộc loại đặc
biệt, không được ghép vào tám nhân, tám duyên ấy. Sáu vị quan đại thần là
sáu vị quan hy hữu, không phải là quan lại bình thường thì tâm đại thí của
bồ tát Vessantara cũng thuộc loại hy hữu, phi thường! Bây giờ đại vương đã
thông suốt chưa?
- Trẫm đã hiểu, nhưng còn muốn nghe thêm
ví dụ về cái gọi là phi thời, đặc biệt và phi thường ấy.
- Vâng, ví dụ một người bố thí, cúng
dường, được phước báu nhãn tiền, được kể là đặc biệt hay không đặc biệt?
- Dĩ nhiên đấy là cái gì thật phi thường.
- Đại vương có nhớ trong thời Phật, có
những ai bố thí, cúng dường mà được phước báu nhãn tiền không?
- Thưa, có nhớ, chỉ có bảy người. Đó là
người trồng hoa tên là Sumana, ông bà-la-môn Ekasàdaka dâng cái choàng
tắm, hai người giúp việc là Punna và Punna, bà hoàng hậu Mallika, bà
Gopala Màtadevi và bà cận sự nữ Suppiyà, thưa đại đức!
- Tại sao bảy người ấy có được phước báu
đặc biệt, thù thắng như thế?
- Có lẽ là do tâm cúng dường của họ quá
cao thượng chăng?
- Đúng vậy! Tâm đại thí của bồ tát
Vessantara còn đặc biệt và thù thắng hơn cả bảy người kia, tâu đại vương!
Cái tâm ấy có một năng lực phi thường, tạo một tác động mãnh liệt làm cho
quả địa cầu phải bị chấn động. Ví như cái xe chở quá nặng; quá với sức tải
của nó thì gọng và căm xe sẽ bị gãy, bánh sẽ bị cong và khung, sườn sẽ bị
lệch đi. Ví như mưa quá nhiều và gió bão quá lớn thì bầu khí quyển sẽ có
những âm thanh vang động. Đấy là một loại định luật ở ngoài các định luật
thường nhiên, tâu đại vương!
- Cái tâm kia được tạo bởi cái gì mà tựu
thành các năng lực phi thường như thế?
- Thưa, vì cái tâm ấy ở ngoài mọi sự chi
phối của các thế lực. Cái tâm ấy không dẫn đến thế lực của tham ái, sân
hận, si mê ngã chấp, tà kiến. Cái tâm ấy không nghĩ đến thỏa thích, an lạc
cho riêng mình; chỉ cầu mong sự hoan hỷ vui tươi đến cho kẻ khác, tức là
những người nhận được vật thí.
Thứ đến, cái tâm ấy lại được trưởng dưỡng,
nung đúc, huân tập, tựu thành bởi các công đức và các thiện pháp sau đây:
sự tự chủ, sự chế ngự, đức nhẫn
nhục, sự thu thúc, sự kiểm soát, không sân hận, không hủy hoại, chơn thật,
tinh khiết, có lòng từ.
Lại nữa, cái tâm ấy không miệt mài tìm
kiếm ái dục, không thỏa thích tử sanh luân hồi, không còn mê đắm dục giới,
sắc giới, vố sắc giới. Cái tâm ấy lại còn cầu mong cho chúng sanh hãy có
lòng từ với nhau, đừng làm khổ lẫn nhau, có tài sản, được trường thọ. Khi
bồ-tát Vessantara đại thí, ngài không mong lợi ích cho riêng mình, chẳng
mong kết quả đời sau, chẳng tìm kiếm thêm của cải, lợi lộc, danh vọng,
tiếng tăm, lời khen, được sức mạnh, chức phận, con cái, sanh mạng...! Đúng
như Phật ngôn: "Này các thầy tỳ
khưu! Khi Như Lai làm bồ tát Vessantara, bố thí hai con là Jàli và Kanhà
cùng vợ Madalì tuyệt đỉnh thương yêu; Như Lai chẳng nghĩ đến kết quả Đế
thích, Phạm thiên hoặc các pháp hữu vi nào khác. Sự thành tựu
bồ đề tuệ là nguyện vọng duy nhất của Như
Lai."
Nói tóm lại, bồ tát Vessantara thắng kẻ
sân hận bằng không sân hận, thắng kẻ bất tịnh bằng thanh tịnh; thắng người
keo kiệt, bỏn xẻn bằng xả ly, bố thí; thắng người giả dối bằng sự chân
thật, thắng người ác bằng những pháp lành cao thượng...
Bởi tất cả cớ ấy, tất cả nguyên nhân ấy,
tất cả pháp cao cả ấy phát sanh năng lực vĩ đại tác động giữa không gian
tạo nên gió bão lớn. Gió bão lớn nên có âm ba vang động, làm cho sóng nước
trong bốn biển dâng cao, mặt đất rung chuyển như địa chấn. Các loài động
vật sống trên đất sợ hãi, ngơ ngác. Mèo buông chuột, rắn không cắn mồi,
muông thú không còn có tâm cấu xé ăn nuốt lẫn nhau. Các loài thủy tộc cũng
trong tình trạng y như thế...
Đại vương! Ví như người ta đun lửa nấu cơm, nước trong nồi sôi lên, sủi
bọt như thế nào; thì bồ tát đại thí với tâm ba-la-mật cũng làm cho đất,
nước, lửa, gió sôi lên và sủi bọt y như thế. Cả tứ đại đều chao động, chấn
động.
Ví như tất cả các loài ngọc quí trên thế
gian như ngọc Indanila, ngọc Mahànila, ngọc Jotirrassa, ngọc Bidùraya,
ngọc Ummàra Pupphà, ngọc Manoharà, ngọc Sùriyakanda, ngọc Candakanda, ngọc
Vajìra, ngọc hoàng thạch Pusarà, ngọc có vân, ngọc xích châu v.v... đều
không quý bằng ngọc màni của Chuyển luân Thánh vương, tất cả sự bố thí của
mọi người đều không bằng sự bố thí của bồ tát Vessantara. Sự bố thí ấy là
vô lượng, vô biên, cao cả, thù thắng, vĩ đại, làm cho quả đất chuyển động
bảy lần, ở ngoài tám nhân, tám duyên bình thường, ở trên sự hiểu biết, tư
lường của trí óc phàm phu, tâu đại vương! Vậy ngài còn nghi ngờ gì điều ấy
nữa không?
- Hoàn toàn thông suốt, tri ân đại đức.
* * *
94. Bố thí hai mắt lại được thiên nhãn
- Thưa đại đức! Trẫm nghe Đức Thế Tôn có
thuyết rằng, đức vua Sìvi do móc hai mắt của mình bố thí cho người đến xin
nên có được thiên nhãn! Điều này trẫm nghi ngờ lắm! Móc đi hai mắt, nghĩa
là không còn tròng mắt, chẳng có con ngươi, thì không rõ thiên nhãn phát
sanh chỗ nào?
- Đại vương! Đây là loại câu hỏi vượt
ngoài tầm mức của lý trí, ở ngoài các định luật tự nhiên, không rõ đại
vương có đầy đủ đức tin để lãnh hội chăng?
- Đại đức cứ nói.
- Vâng, có hai ba-la-mật là chân thật (sacca)
và nguyện lực (adthitthàna) ở trong mười ba-la-mật, đại vương có
biết chăng?
- Thưa, có biết.
- Nếu hai ba-la-mật này được kết hợp thành
một khối nhất như, gọi là "nguyện lực chân thật" thì bất cứ chuyện
gì trên thế gian này cũng đều được thành tựu như ý muốn, thưa đại vương!
- Xin đại đức nói cụ thể hơn một chút.
- Khi trời không có mưa thì với "nguyện
lực chân thật" này, cầu cho trời có mưa, tức khắc mưa rơi xuống. Như
lửa đang cháy, với “nguyện lực chân thật" cầu cho lửa tắt thì lửa
sẽ tắt. Thậm chí bị chất độc họa hại sinh mạng, với “nguyện lực chân
thật" thì chất độc cũng không còn. Nếu một dòng sông chảy xuôi, với "nguyện
lực chân thật", nước có thể chảy ngược dòng! Điều ấy quả là khó tin
phải không đại vương?
- Với mọi người thì khó tin, nhưng trẫm
thì trẫm tin.
- Hay lắm! Đức vua Sìvì cũng như thế đó,
tâu đại vương! Với “nguyện lực chân thật" nó tạo ra một năng lực
siêu nhiên, năng lực siêu nhiên ấy làm cho đức vua phát sanh thiên nhãn.
Chuyện khó tin nhưng có thật đấy, tâu đại vương!
Suy nghĩ một lát, đức vua lại hỏi:
- Những chuyện mà đại đức vừa nói, như mưa
rơi xuống, lửa tắt, tiêu tan chất độc, dòng sông chảy ngược... Nói tóm lại
là do nhân gì, duyên gì?
- Chính "nguyện lực chân thật" ấy
là nhân, cũng chính "nguyện lực chân thật" ấy là duyên, tâu đại
vương!
- Trong kinh có trường hợp nào cụ thể phát
sanh năng lực siêu nhiên bởi nhân duyên "nguyện lực chân thật" ấy
chăng, thưa đại đức?
- Thưa có! Đức vua danh hiệu là Cina, trị
vì xứ Cina, có tâm mong muốn được dong xe ngựa ngao du trên biển cả, ngài
bèn phát nguyện "nguyện lực chân thật" ròng rã bốn tháng trường như
thế với tâm kiên trú bất thối. Hôm kia, bằng vào một niềm tin không lay
động, đức vua dong ra biển trên một cổ xe có bốn ngựa kéo. Đức vua xứ Cina
rất lấy làm thỏa thích, kể lại rằng, cỗ xe bốn ngựa ngao du trên biển xa
chừng một do tuần, các làn sóng tạt lên gọng xe như nước tạt trên lá sen
mà thôi. Đó là một chuyện, tâu đại vương.
- Trẫm muốn nghe thêm ví dụ cụ thể nữa.
- Đức vua Dhammasoka, hôm nọ, cùng với
quân hầu ngự ra khỏi hoàng thành, thấy con sông nước chảy cuồn cuộn, chợt
khởi lên ý nghĩ lạ thường rồi nói với quân hầu rằng:"Này
các khanh, các khanh có thấy hoặc có biết ai trên thế gian này có khả năng
làm cho con sông này nước chảy ngược lại chăng?"
Lúc ấy, ở bên sông có người kỹ nữ nghe
được, cô ta bèn phát ngôn bằng "nguyện lực chân thật" như vầy: "Tôi
đây làm nghề kỹ nữ, bốn mùa bán thân nuôi miệng, sở dĩ như vậy là vì tôi
chỉ muốn duy trì mạng sống chứ không có lý do nào khác. Điều ấy là hoàn
toàn chân thật. Nếu lời tôi nói đây là chân thật thì xin dòng sông này
chảy ngược ngay bây giờ, ngay trước mặt cho đức vua Dhammasoka trông thấy!"
Lời cô kỹ nữ vừa dứt, dòng sông tức khắc chảy ngược, đức vua kinh ngạc quá
đổi, không rõ nguyên nhân tại sao!
Khi biết rõ dòng sông chảy ngược là bởi do
cô kỹ nữ, đức vua kêu lại phán hỏi: "Cô là dạ xoa hay long vương mà có
oai lực như thế?" Cô kỹ nữ kính cẩn thưa: "Đấy
là do sức mạnh của sự nói thật, chứ không phải do oai lực của một phi nhân
nào cả, tâu đại vương!" Đức vua
không tin, bảo rằng: "Có gì ở nơi ngươi, mà ngươi bảo rằng "chơn ngôn"
(lời nói chân thật)? Ngươi là
người không có trí tuệ, bốn mùa chơi bời, dâm ô, không có nết hạnh! Ngươi
chỉ biết cám dỗ tình dục mọi người, làm cho bao nhiêu đàn ông hư hỏng phải
mê đắm, tan cửa nát nhà! Vậy có gì là đạo đức, hiền thiện ở nơi ngươi đâu
mà dám bảo là "nguyện lực chân thật". Hãy nói cho trẫm nghe xem!"
Cô kỹ nữ bèn đáp: "Tâu đại vương!
Chính do tiện nữ nói thật nên "nguyện lực chân thật" kia mới tựu thành
năng lực phi thường như thế!"
Nghe xong câu chuyện, đức vua Mi-lan-đà
trầm ngâm:
- Qua các ví dụ của đại đức, bây giờ trẫm
đã tin là đức vua Sìvi quả có phát sanh thiên nhãn do bố thí hai mắt bằng
"nguyện lực chân thật" của mình. Thật là kỳ diệu vậy!
* * *
95. Hoài nghi về sự thụ thai
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết
rằng: “Tất cả chúng sanh, ví dụ là
người nữ, muốn thụ thai phải hội đủ ba yếu tố: cha mẹ giao hợp, đến kỳ bà
mẹ có kinh nguyệt và chúng sanh đầu thai nương gá. Thiếu một trong ba yếu
tố ấy thì không thể thụ thai." Có
phải vậy chăng?
- Đúng vậy.
- Nếu thế thì trẫm nghi lắm. Cũng trong
kinh, có kể trường hợp thụ sanh của đạo sĩ Singa và đạo sĩ Sankicca. Mẹ
của hai đạo sĩ ấy là một con nai cái, do vì ăn cỏ có dính tinh từ nước
tiểu của một đạo sĩ ẩn tu mà có thai rồi sinh ra. Trường hợp này thì có
hai yếu tố sau, thiếu yếu tố đầu tiên, thế sao việc thụ thai vẫn xảy ra?
- Cha mẹ giao hợp là để có tinh xuất,
nhưng trường hợp nai cái ăn cỏ có dính tinh cũng kể vào yếu tố thứ nhất
ấy, tâu đại vương!
- Thưa, nai ăn cỏ có dính tinh, tinh ấy
vào dạ dày, tiêu hóa theo đường ruột thì đâu có liên hệ gì ở bộ phận cấu
sanh của phôi thai? Điều ấy trẫm không hiểu!
- Bần tăng cũng không hiểu. Nhưng bần tăng
nghĩ rằng đây là trường hợp cá biệt, có thể có một sự cấu tạo đặc biệt nào
đó ở cơ thể của nai cái chăng? Điều ấy không phải là không thể xảy ra, tuy
nhiên, có tinh, được kể là yếu tố thứ nhất, tâu đại vương!
- Tạm thời trẫm đồng ý như vậy. Và đấy có
phải cũng tương tự như trường hợp thọ sanh của ngài Ca diếp đồng tử (Kumàra
kassapa)?
- Đúng vậy! Tỳ khưu Udàyi vì thấy dung sắc
của một vị tỳ khưu ni, phát tâm luyến ái, thỏa thích làm cho tinh xuất,
dính vào y ca-sa. Tỳ khưu ni ấy lại lấy tinh nhét vào tử cung, nhét vào
miệng vô cùng khoái lạc nên đã thụ thai, hạ sanh trẻ Kassapa mà sau này
được tôn xưng là ngài Ca diếp đồng tử. Trường hợp ấy cũng xem như hội đủ
ba yếu tố đấy, tâu đại vương!
- Thế còn chuyện đạo sĩ Màtanga chỉ rờ rẫm
nơi bụng một nữ bà-la-môn mà làm cho nữ bà-la-môn kia mang thai, sanh con,
đặt tên là Mandabya thì sao?
- Trường hợp này cũng như trường hợp đạo
sĩ Dukala sờ vào bụng nữ đạo sĩ Pàrikà mà thụ thai, sinh ra đức Sàma không
khác. Cả hai trường hợp trên đều hội đủ ba yếu tố, nhưng chúng ta phải
hiểu là còn có thêm năng lực bên ngoài hỗ trợ nữa.
- Xin đại đức kể cho nghe trường hợp ấy.
- Vâng! Chuyện khá dài đấy, không rõ đại
vương nghe có mệt chăng?
- Không sao, nghe giáo pháp vừa là "thức
thực" vừa còn có hỷ lạc nữa đấy, thưa đại đức.
- Đạo sĩ Dukala và đạo sĩ Pàrika vốn là
hai vợ chồng nhưng họ tình nguyện rời bỏ ngũ dục vào rừng sâu kết cỏ làm
nhà, xuất gia phạm hạnh. Họ ở mỗi người mỗi mơi riêng biệt, giữ giới luật
nghiêm túc, tinh cần thiền định. Vua trời Đế thích với thiên nhãn của
mình, thấy đời sống tịnh tu của họ, ngài vô cùng ái mộ, sớm chiều thường
hiện xuống cung kính hầu hạ. Hôm kia, trời Đế thích quán xét biết rằng,
trong tương lai cả hai vị đạo sĩ tôn kính này sẽ bị mù lòa, do vậy việc
kiếm tìm trái cây nuôi mạng sẽ vô cùng khó khăn. Với tâm bi mẫn và lòng từ
vô lượng, trời Đế thích cung thỉnh hai đạo sĩ nên sinh một đứa con để làm
chỗ nương tựa cho tuổi già mai hậu. Hai vị đạo sĩ kiên quyết giữ phạm hạnh
không chịu phá giới. Lần thứ hai, trời Đế thích ân cần thưa thỉnh, tiết lộ
hoàn cảnh tương lai khó khăn của hai người, nếu không con thì hòan cảnh sẽ
khốn đốn. Hai vị đạo sĩ khăng khăng chối từ. Lần thứ ba, trời Đế thích đã
mất công vô ích mà còn được hai vị đạo sĩ phân trần về chí nguyện của họ.
Họ nói rằng:”Này bạn, không những
bạn khuyên chúng tôi làm một việc không có lợi ích mà còn tai họa đến phạm
hạnh của chúng tôi nữa. Bạn biết không, cái gì đến thì nó cứ tự đến, chúng
tôi không hề sợ hãi tránh né bao giờ, dù là tổn nguy đến sanh mạng. Lòng
từ ái của bạn là rất tốt nhưng quả thật nó đã được đặt không nhằm chỗ. Mặt
trời, mặt trăng kia có thể rơi xuống, quả đất này có thể sụp đi, núi Tu di
kia có thể tan vỡ như hạt bụi - nhưng phạm hạnh của chúng tôi thì chẳng ai
có thể phá hủy được. Chúng tôi rất cảm ơn bạn, nhưng xin bạn hãy đi đi, ở
đây không phải là nơi để bạn lui tới nói những lời trống không, phù phiếm
như thế."
Biết không lay chuyển được chí nguyện sắt
đá của hai vị đạo sĩ, trời Đế thích bèn hiện ra thân tướng trang nghiêm,
chói sáng, uy nghi rồi thú thật mình chính là Đế thích Thiên vương. Hai vị
đạo sĩ vô cùng kinh ngạc. Đế thích cũng chẳng dấu diếm gì nữa, nói rằng,
ngài có khả năng biết chuyện quá khứ, vị lai; biết rằng trong nay mai cả
hai vị đạo sĩ sẽ bị mù cả hai mắt, thật không dễ gì kiếm vật thực nuôi
mạng. Thiện chí của ngài hoàn toàn không phải vì mục đích phá hủy phạm
hạnh của họ, chỉ mong họ có người để nương tựa lúc tuổi già mù lòa sức yếu
mà thôi. Lời chí tình của Đế thích cũng không thể làm cho hai vị đạo sĩ
lay động tâm. Cuối cùng, Đế thích phải năn nỉ, rằng chỉ cần đạo sĩ Dukala
đặt tay lên bụng của nữ đạo sĩ Pàrikà vào kỳ kinh nguyệt - thì ngài có khả
năng làm cho họ được sinh con! Thấy một vị Thiên vương chí tôn mà phải hạ
mình cầu khẩn chí tình như thế, đạo sĩ Dukala không nỡ chối từ nữa, nghĩ
rằng chỉ cần đặt tay lên bụng, phạm hạnh dẫu có bị hoen ố nhưng chưa phải
là hoàn toàn bị phá hủy, nên nhận lời...
Đức vua Mi-lan-đà hỏi:
- Rồi sau đó, bồ tát Sàma của chúng ta
giáng sanh ư ?
- Thưa, chẳng phải đơn giản như thế. Được
sự ưng thuận của hai vị đạo sĩ rồi, Đế thích trở lại thiên cung, dùng
thiên nhãn quán xét xem thử vị trời nào có nhiều công đức ba-la-mật, nhiều
trí tuệ mà tuổi thọ sắp mãn, có khả năng lai sanh bất cứ nơi nào... Chỉ
gặp được một vị trời hội đủ nhiều yếu tố như thế, Đế thích lại một phen
nữa lao đao vất vả đến mời thỉnh vị thiên tử ấy giáng phàm...
- Và đấy chính là đức Sàma!
- Phải rồi! Nhờ lúc ấy bồ tát Sàma biết
tuổi thọ mình sắp mãn, đang quan sát trong bốn châu thiên hạ xem có chỗ
nào nên hạ sanh. Đế thích trình bày hoàn cảnh của hai đạo sĩ mù nay mai
trong rừng sâu, rồi thỉnh nguyện Bồ tát thai sinh để bổ túc ba-la-mật của
mình. Bồ tát Sàma nhận lời. Và sau khi hẹn ngày, nữ đạo sĩ Pàrikà có kỳ
kinh nguyệt, đạo sĩ Dukala đưa tay sờ vào bụng, tức khắc bồ tát Sàma đầu
thai cấu sanh. Như vậy, thai sinh ấy vẫn hội đủ ba yếu tố, nhưng ở đây có
năng lực hỗ trợ của trời Đế thích, tâu đại vương!
- Vậy thì trẫm hiểu rồi! Nếu không có năng
lực thần kỳ của trời Đế thích thì làm sao mà giải thích cho kẻ phàm phu
hiểu được. Nhưng ngoài nguyên nhân ấy còn có nguyên nhân nào về sự đầu
thai của chúng sanh nữa chăng?
- Thưa, tất cả chỉ có bốn nguyên nhân, tâu
đại vương! Ây là nguyên nhân do sức tác động của nghiệp, do cách sanh và
chỗ sanh khác nhau, do chủng loại, dòng họ khác nhau, và thứ tư là do được
thỉnh mời.
- Thế nào là do sự tác động của nghiệp,
thưa đại đức?
- Dĩ nhiên, nghiệp quyết định tất cả các
cảnh thú tái sanh trong sáu đường, nhưng ở đây chỉ muốn nói đến hạng chúng
sanh có thiện căn, tích trữ nhiều phước báu; họ có khả năng đến chỗ nào y
như ước muốn, y như quyết tâm mong mỏi, tâu đại vương! Ví dụ họ muốn hóa
sanh lên các cõi trời, sanh vào dòng vua chúa uy quyền cao sang hay sanh
vào các gia đình bà-la-môn danh vọng, giàu có v.v... đều có thể được,
không trở ngại gì!
- Có thể dễ dàng như thế sao?
- Vâng, rất dễ dàng. Ví như có một người
giàu nứt đố đổ vách, châu báu ngọc ngà, tài sản, kho đụn chẳng biết để đâu
cho hết. Đại vương nghĩ thế nào, nếu người giàu có ấy muốn mua một xóm nhà
lớn, xóm nhà nhỏ, muốn mua tôi trai hoặc tớ gái thì có dễ dàng thỏa nguyện
chăng?
- Dĩ nhiên là được!
- Cũng như thế là người có nhiều công đức,
phước báu, có nhiều thiện pháp; họ muốn sanh xứ chỗ nào, gia tộc nào đều
dễ dàng như ước muốn, tâu đại vương!
- Cái gọi là cách sanh, chỗ sanh là như
thế nào, thưa đại đức?
- Nguyên nhân này kỳ lạ lắm, tâu đại
vương! Chỉ có bậc Toàn Giác mới thấy rõ, biết rõ. Ví như có chúng sanh
được sanh ra từ bụng, từ âm xứ của người nữ, của giống cái; có chúng sanh
- như chư thiên - thì hốt nhiên hóa sanh, kẻ thì từ vườn hoa, kẻ trong bảo
điện, kẻ ở chỗ ngồi, kẻ thì ở xung quanh hoặc từ phòng riêng của vị thiên
tử v.v... Ví như con gà khi cấu sanh phải có sự hỗ trợ của gió. Ví như con
cò, con vạc khi cấu sanh phải có sự hỗ trợ của sấm sét v.v... Thật là
thiên hình vạn trạng, khó biết hết, khó thấy hết. Đại vương cứ thử tưởng
tượng loài người sinh sống trên mặt đất, màu da, sắc phục, hình tướng,
cách trang điểm khác nhau, phong phú như thế nào thì chỗ sanh, cách sanh
cũng phong phú và đa dạng như thế ấy.
- Thế chủng loại, dòng họ là thế nào, thưa
ngài?
- Điều này thì đại vương biết rồi, đấy là
noãn thai, thấp, hóa, tức là được sinh ra từ trứng, từ thai bào, chỗ ẩm
thấp hoặc được sinh ra do hóa mà sanh tức là tự hiện ra. Noãn sanh là như
gà, chim... Thai sanh như người và các loài thú bốn chân: hươu, nai, heo,
bò v.v... Thấp sanh như rệp, rận, quăn v.v... Hóa sanh như chư thiên các
cõi trời... Nếu chúng sanh ở chủng loại, dòng họ nào thì hành tướng, sanh
nghiệp đều thuộc về chủng loại, dòng họ ấy. Ví dụ thuộc loài từ trứng sanh
thì phải có nghiệp, có tướng tương đồng. Các chủng loại, dòng họ khác nhau
cũng y như thế đó, tâu đại vương!
- Cuối cùng là do thỉnh mời, như trường
hợp bồ tát Sàma của chúng ta. Nhưng trẫm không rõ trường hợp nào được
thỉnh mời, có điều kiện nào cho việc thỉnh mời ấy thành tựu? Và cuối cùng
là lợi ích thù thắng của nó ra sao?
- Câu hỏi này rất hay, thưa đại vương!
Trường hợp được thỉnh mời phải đầy đủ ba điều kiện mới thực sự thành tựu
và thực sự đem đến lợi ích lớn. Thứ nhất là người thỉnh mời phải có nhiều
oai lực, nhiều phước báu, nhiều tâm từ. Thứ hai, người được thỉnh mời phải
là vì thiên tử đầy đủ công đức ba-la-mật, nhiều trí tuệ và có nguyện lực
tái sanh độ thế. Thứ ba là gia tộc được chọn lựa để đầu thai phải có giới
đức thanh tịnh, đức tin tròn đủ, đã tu tạo nhiều thiện pháp. Nếu thiếu một
trong ba điều kiện ấy thì việc thỉnh mời sẽ bất thành, tâu đại vương!
- Đại đức có ví dụ cụ thể nào chăng?
- Thưa có, tâu đại vương. Ví như có một
người làm ruộng giỏi giang, biết chăm chuyên cần mẫn, lựa hạt giống tốt,
gieo vào thửa ruộng tốt, phân nước đầy đủ; đến khi gặt hái thì năng suất
lúa sẽ bội thu, có phải thế không, thưa đại vương?
- Đúng vậy.
- Người làm ruộng được ví như trời Đế
thích, hạt giống tốt ví như bồ tát Sàma của chúng ta và thửa ruộng tốt
được ví như đạo sĩ Dukhala và nữ đạo sĩ Pàrikà. Đầy đủ các điều kiện tốt
ấy thì có lợi ích cho chư thiên và nhân loại không, thưa đại vương?
- Dĩ nhiên là quá nhiều phước lành do
duyên kết hợp ấy.
- Phưóc lành do sự kết hợp ấy quả là hy
hữu, tâu đại vương! Từ xưa đến nay, trời Đế thích chỉ thỉnh mời có bốn
người, đấy là đức vua Kusa, đức vua Mahàpahànàda, bồ tát Suvanna Sàma
trong câu chuyện vừa rồi và bồ tát Vessantara là kiếp áp chót của Phật
Thích ca mà thôi!
Đức vua Mi-lan-đà vô cùng hoan hỷ, bèn tán thán:
- Thật là thù thắng làm sao là sự giải đáp
tận tình, cặn kẽ của đại đức! Trẫm rất lấy làm thỏa thích và sung sướng
vậy.