114. Tại sao chư Tăng không được cúng dường nhục thân Như Lai?
- Thưa đại đức! Có phải trước khi nhập
diệt, ở Kusinàrà, dưới hai cây song thọ, Đức Thế Tôn có dạy ngài Ànanda
rằng: "Các ngươi không nên mất công
tốn sức, phí thì giờ tìm kiếm lễ vật để cúng dường nhục thân của Như Lai;
cho chí xá-lợi của Như Lai sau này, các ngươi cũng không nên quan tâm quá
đáng vào việc lễ bái, cúng dường..."
?
- Đúng là Đức Thế Tôn có thuyết như thế,
tâu đại vương!
- Rồi sau đó, Đức Tôn Sư lại thuyết rằng:
"Này Ànanda! Nếu các hàng cận sự
nam nữ trong cõi người hoặc chư thiên trong các cõi trời, biết lễ bái,
cúng dường nhục thân Như Lai hay xá-lợi của Như Lai thì họ sẽ có được
nhiều phước báu, nhất là được thiện sanh vào các cõi trời an vui, hạnh
phúc." Phải thế không, đại đức?
- Thưa vâng! Đó chính là lời Đức Tôn Sư
thuyết.
- Vậy thì hai Phật ngôn ấy có gì ngược
nhau không? Một bên thì ngăn không cho tìm kiếm lễ phẩm cúng dường, một
đằng thì khuyến khích, sách tấn lễ bái, cúng dường? Hay Đức Đại Giác huấn
thị như vậy là có lý do khác?
- Tâu đại vương! Lý do ấy rất là chính
đáng, hợp với giáo pháp, hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi nhóm thành
viên đệ tử của Đức Tôn Sư!
- Xin đại đức bi mẫn giảng cho trẫm nghe.
- Thưa vâng, điều ấy giản dị, dễ hiểu
thôi! Các hàng xuất gia tu tập theo Giới, Định, và Tuệ. Tu tập theo Giới,
Định, Tuệ là bổn phận, là chức năng, là nhiệm vụ của người xuất gia. Vậy
thì các hàng xuất gia phải sống đời giới hạnh trang nghiêm, biết thu thúc
lục căn, biết quán tưởng vật thực, biết tu Tứ niệm xứ để thấy rõ vô
thường, vô ngã của pháp, phải thành tựu tuệ vô lậu để giải thoát khổ đau,
phiền não. Việc làm ấy của bậc xuất gia là bổn phận thích đáng, xứng với
phẩm hạnh của mình. Ngoài ra, các công việc khác dẫu là trọng đại, tôn
quý... như việc cung kính, lễ bái, cúng dường nhục thân hoặc xá lợi của
Đức Thế Tôn - cũng không nên làm!
Còn các hàng cư sĩ tại gia, chư thiên và
nhân loại, họ tu tập theo bố thí, trì giới, tham thiền. Tu tập theo bố
thí, trì giới, tham thiền là bổn phận, là chức năng, là nhiệm vụ của hàng
cư sĩ tại gia! Vậy thì các hàng tại gia muốn tạo trữ phước báu, muốn tích
lũy công đức, muốn hưởng quả hạnh phúc, an vui ở cõi người và trời - họ
phải tu tập, bố thí, cúng dường. Việc các hàng cư sĩ tại gia lễ bái, cúng
dường lễ phẩm, hương hoa đến nhục thân hoặc xá lợi của Đức Thế Tôn là bổn
phận thích đáng, xứng với chức năng của họ. Ai có công việc nấy, đừng xen
vào công việc của nhau - nói rõ là như thế, tâu đại vương!
- Trẫm không đồng ý với luận điểm của đại
đức, mặc dầu mới nghe qua thì rất hợp lí. Nếu các bậc xuất gia mà tu tập
thêm bố thí, cúng dường, không tốt hơn sao? Khi mà được phước báu hỗ trợ,
có lẽ họ sẽ dễ dàng, thuận duyên hơn cho việc tu tập của mình, phải thế
chăng, đại đức?
- Bần tăng cũng vậy, luận điểm của đại
vương nghe rất hữu lí nhưng bần tăng vẫn thấy không thuận tai! Tại sao
vậy? Ví như đại vương có một hoàng tử kế vị, muốn cho hoàng tử ấy sau này
trở thành một bậc minh quân trị vì thiên hạ, oai danh bốn biển, vang lừng
sử sách thì đại vương sẽ có một chương trình học tập cho hoàng tử như thế
nào?
- Thưa đại đức, thì cũng như chương trình
học tập của trẫm thuở nhỏ vậy thôi, nghĩa là phải trang bị cho hoàng tử
những kiến thức hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Hoàng tử phải thành
thục, thông thuộc binh pháp, binh thư, võ nghệ; phải biết cưỡi voi, cưỡi
xe, cưỡi ngựa, biết sử dụng mọi loại binh khí để chiến đấu trên sa trường.
Nói gọn, là hoàng tử phải có tài làm tướng. Ngoài ra, hoàng tử phải học
cách trị thiên hạ, đòi hỏi nhiều kiến thức uyên bác; ví dụ triết học, toán
học, thiên văn, địa lý, âm nhạc, y khoa, khảo cổ, lịch sửu, vật lý, văn
học, thi ca v.v... Ngay cả thần chú, chiêm tinh, tử vi, bói toán; một vị
hoàng tử cũng phải rành rẽ để sử dụng khi hữu sự, để khỏi bị các quan và
dân chúng lừa bịp!...
Đại đức Na-tiên mỉm cười hỏi tiếp:
- Thế các việc như làm ruộng, làm vườn,
buôn bán, nghề mộc, nuôi tằm, ươm tơ, chăn nuôi gia súc v.v..., vị hoàng
tử không học sao?
- Không, hoàng tử sẽ không học, không đi
sâu vào các nghề của dân chúng. Hoàng tử chỉ nghiên cứu thoáng qua cho
biết vậy thôi. Bởi, ai có việc nấy, xen vào việc của nhau thì còn ra thể
thống gì nữa? Hoàng tử mà đi học cày, còn nông phu thì học cách trị nước,
nghe lọt tai sao được, đại đức?
- Cảm ơn đại vương đã trả lời câu hỏi của
chính đại vương! Thật là còn "thể thống" gì nữa cho giáo pháp, khi
mà bậc xuất gia thì đi làm cái việc của người cư sĩ, còn người cư sĩ lại
đi làm cái việc của bậc xuất gia!
Đức vua Mi-lan-đà cười ha hả:
- Hay lắm! Thật chẳng có câu nói nào xác
đáng hơn!
- Còn nữa, đại vương! Ví như một con trai
gia chủ bà-la-môn, muốn trở thành một bà-la-môn hữu danh trong tương lai
thì cần phải học những thứ gì cho thật sự thích hợp và thật sự lợi ích?
- Thưa đại đức! Họ cần học nhiều thứ lắm,
những điều hữu ích và kể cả những điều dường như vô ích... Họ phải thông
thuộc Tam-phệ-đà, biết phúng tụng, lễ nghi, đàn tế. Biết xem tướng, biết
hướng ngồi ăn cơm và hướng đại tiểu tiện. Biết xem hướng nhà, xem hướng
đất. Biết rành về các loại gỗ. Biết từ nguyên, cú pháp, văn phạm. Biết
tiếng kêu của thú. Biết ngọn ngành, chi tiết của sáu nghề chính trong xã
hội. Biết hướng mặt trời, mặt trăng chỗ nào là tốt xấu. Biết rõ lúc nào là
nhật thực, nguyệt thực. Biết sao nào sanh ra chư thiên, sanh ra chiến
tranh. Biết lúc nào sao chổi rơi. Biết tia lửa từ hư không rơi xuống rồi
lại bay lên khỏi mặt đất sẽ báo điềm xấu gì. Biết xem khi nào trái đất xảy
ra tai biến. Biết rõ mặt trời đỏ là hướng này hạnh phúc, hướng kia bất
hạnh, tai họa. Biết rõ tất cả những bộ sách đời (thế học). Biết rõ phép
bói "mitta cakkam"! Biết đoán chiêm bao, biết rõ tướng bí ẩn. Biết
đoán mộng cát, hung. Biết đoán những hiện tượng tốt xấu xảy ra chung
quanh. Biết xem và trị bệnh mắt. Nghe tiếng chim biết chuyện lành, dữ
v.v...
Thưa đại đức! Những con trai gia chủ
bà-la-môn hữu danh phải siêng năng học tập, nghiên cứu rành rẽ rất nhiều
môn học, như thế mới xứng đáng ở trong tập cấp ấy.
- Vâng, còn người dân dã hạ tầng thì không
thể học tập như vậy, phải không đại vương?
- Đúng thế, các tập cấp dưới chỉ thích hợp
với các nghề bán buôn, làm ruộng, lập vườn, chăn nuôi trâu bò và các công
nghệ khác.
- Cũng vậy, phận sự của các vị sa môn là
thọ trì những điều học, phải tinh cần, chuyên tâm tu niệm, hành minh sát
tuệ để giác ngộ, giải thoát. Còn phận sự của các hàng cư sĩ là lễ bái, bố
thí, cúng dường... Vì lẽ ấy, Đức Thế Tôn ngăn cấm các vị xuất gia làm công
việc của hàng tại gia... Các bậc xuất gia phải thực hành bổn phận mình,
tức là tiến tu, chỉ tịnh, quán minh thì tốt hơn; nếu không muốn nói đấy là
cách cúng dường quý báu, cao thượng hơn hết thảy: cúng dường tinh thần hay
là cúng dường Pháp Bảo! Còn việc cúng dường vật chất hãy để dành cho các
hàng tại gia. Có như vậy, Tăng Bảo mới duy trì Giáo Pháp lâu dài trên thế
gian; và cư sĩ nam nữ lại hộ trì, hộ độ Tăng Bảo... thì đấy là lợi ích thù
thắng mà Đức Tôn Sư muốn giáo giới, tâu đại vương!
- Trẫm rất hoan hỷ những lời giải đáp ấy,
thưa đại đức!
* * *
115. Quả đất dường như có tâm thức?
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn ngự đến một
quốc độ nào, một xứ sở nào - thì ở đấy mặt đất dường như có tâm thức? Chỗ
nào đất thấp, khuyết lõm... tự dưng lại đầy bằng, dường như có ai đó mới
đổ đất thêm! Chỗ nào gò cao, gồ lên thì chợt dưng phẳng lại như mặt trống
lớn, tựa như ai mới cào bằng hoặc lấy đất đi! Chuyện ấy không biết có thực
không, hay chỉ là giai thoại, là hư truyền, thưa đại đức?
- Điều ấy có thật, tâu đại vương!
- Nếu vậy thì trẫm rất hoài nghi. Trẫm
hoài nghi rằng, đất thuộc đại địa, đá cũng thuộc đại địa; vậy sao đất
dường như có tâm thức, mà đá lại không có tâm thức khi Đức Thế Tôn ngự
đến, hở đại đức?
- Ý đại vương muốn nói gì?
- Vâng, ý trẫm muốn nói là, tại sao cục đá
chạm vào chân Đức Tôn Sư lại không có tâm thức? Nếu nó có tâm thức thì
phải như đất kia, gồ cao hoặc lõm xuống, phải tự biết để làm cho phẳng
lại. Cũng vậy, lẽ ra cục đá ấy phải biết tránh né hoặc thụt lùi trở lại
chỗ cũ của mình. Vậy, đại đức có lầm lẫn chăng khi bảo đại địa dường như
có tâm thức ở trong trường hợp sau?
- Đất hay đá đều không có tâm thức, tâu
đại vương! Sở dĩ đất chỗ khuyết lõm thì đầy lên, chỗ gò nỗng thì bằng
phẳng xuống - không phải do đại địa có tâm thức mà bởi năng lực ba la mật
bất khả tư nghì của Đức Thế Tôn, tâu đại vương!
- Có thể trẫm tin năng lực ba la mật phi
thường của Đức Đại Giác đã làm cho mặt đất phẳng lại. Thế còn chuyện cục
đá chạm chân làm Đức Tôn Sư chảy máu thì sao? Làm thế nào để giải thích về
chuyện cục đá khó hiểu ấy?
Đại đức Na-tiên chợt mỉm cười:
- Thế đại vương không nhớ là Đề-bà-đạt-đa
đã khởi tâm hung ác muốn hại Phật đó sao?
- Thưa, nhớ chứ!
- Ông ta đã tự kết oan trái với Đức Tôn Sư
trước đây đã trăm nghìn kiếp rồi, tâu đại vương! Vì tham vọng mù quáng
muốn thay Đức Tôn Sư lãnh đạo Giáo hội mà Đề-bà-đạt-đa đã lăn một tảng đá
rất lớn từ sườn núi cheo leo, cốt ý là để giết Phật.
- Thưa, thế thì năng lực ba la mật của Đức
Tôn Sư khi ấy ở đâu mà không đến để bảo vệ ngài?
- Có chứ, tâu đại vương! Khi tảng đá lớn
từ sườn núi rơi xuống, thì năng lực ba la mật của Đức Tôn Sư làm cho hai
tảng đá khác, lớn hơn, vụt trồi khỏi mặt đất, ngăn chặn và đỡ lấy tảng đá
kia. Hai tảng đá ấy dường như có tâm thức, đỡ lấy và làm cho dính chặt
tảng đá của Đề-bà-đạt-đa như dây leo quấn chặt cây! Không vậy thì như long
vương đang lội trong biển, chợt nổi lên phùng mang, há miệng đớp lấy tảng
đá của Đề-bà-đạt-đa! Hai tảng đá ấy do nhờ năng lực ba la mật nên dũng cảm
như sư tử, làm cho tảng đá của Đề-bà-đạt-đa phải sợ oai, thu mình bẹp dí
không dám động cựa nữa. Hoặc như bà mẹ khi thấy con mình sắp ngã, đã nhanh
nhẹn một tay nắm cánh tay con, một tay xách hỏng thân con lên! Nếu không
vậy thì như bạn bè sinh tử có nhau, khi bạn bị hoạn nạn không nỡ rời bỏ mà
thường cận kề một bên để giúp đỡ, hộ trì bạn! Hoặc giống như một viên quan
mẫu mực, trung thành; luôn túc trực sẵn sàng bên cạnh đức vua để tiếp
rước, hộ giá, phụng sự bất kể ngày hay đêm. Cũng có thể giống như chư
thiên chưng lọng vàng, lọng xanh, tràng hoa, thiên nhạc... để cung nghinh
trời Đế Thích. Nếu không thế thì như các vị trời phạm thiên cao quý, hành
trình trong thiền để đến chầu hầu đức Đại Phạm Thiên tôn quý, v.v...
Tâu đại vương! Hai tảng đá lớn do năng lực
ba la mật của Đức Tôn Sư vụt hiện lên, chặn đứng tảng đá của Đề-bà-đạt-đa,
cốt bảo vệ cho Đức Tôn Sư cũng như những ví dụ nêu trên vậy!
- Trẫm có thể tin như thế lắm! Nhưng nghe
nói rằng, tảng đá của Đề-bà-đạt-đa to bằng cái nhà, còn hai tảng đá do
năng lực ba la mật của Đức Tôn Sư thì to bằng hai quả núi nhỏ. Như vậy thì
tại sao hai tảng đá như hai quả núi nhỏ kia, vốn đã ngăn được tảng đá to
như cái nhà, lại không ngăn được mảnh đá nhỏ làm chân Phật chảy máu? Kỳ lạ
không chứ?
- Có gì kỳ lạ đâu đại vương! Đấy là chuyện
bình thường thôi! Ví như người ta dùng bàn tay để hứng nước, nước sẽ lọt
qua kẽ tay. Ví như người ta dùng bàn tay để vốc cát, một số ít cát sẽ lọt
qua kẽ hở. Ví như dùng tay mà vốc một nắm cơm rời, thì sẽ có một số ít hạt
sẽ rơi vãi. Hai tảng đá to chặn được tảng đá nhỏ, do sự va chạm, hàng chục
mảnh nhỏ vỡ ra, có mảnh lọt qua kẽ hở và trúng nhằm chân Đức Tôn Sư! Chắc
đại vương hiểu rồi chứ ạ?
- Vâng, hiểu! Nhưng do năng lực ba la mật
của Đức Tôn Sư - thì dường như cả đại địa đều có tâm khi ngài ngự đến. Thế
tại sao hai tảng đá lớn lại có tâm, biết nâng đỡ tảng đá nhỏ để bảo vệ cho
Đức Tôn Sư, còn mảnh đá nhỏ lại không có tâm, không biết cung kính tránh
xa bàn chân của Đức Tôn Sư, hở đại đức?
- Nói có tâm chỉ là cách nói - còn
đất đá vô tri làm sao lại có tâm được, đại vương! Đất đá không có tâm thì
làm sao nói đến chuyện không biết cung kính Đức Tôn Sư được, đại vương!
Không biết cung kính Đức Tôn Sư, trên thế gian này có mười hai loại người,
tức là không phải đất đá vô tri, vô giác - thưa đại vương!
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Vâng, mười hai loại người ấy là:
người quá nhiều tham luyến,
người quá nhiều sân hận,
người quá nhiều si mê,
người quá kiêu căng, ngã chấp,
người không có đức hạnh cao quý,
người quá cứng cỏi, không biết nhu thuận,
người xấu xa, hèn hạ, đê tiện,
người chuyên làm việc tội lỗi,
người nhiều tâm ác,
người nhiều hận thù,
người bị ham muốn đê hèn chi phối,
người quá tham lợi.
Đấy mới đúng là mười hai hạng người không biết cung kính, còn mảnh đá
vô tri đụng vào chân Phật chỉ là năng lực tự nhiên thôi. Ví như một ngọn
gió thổi mạnh cuốn hút lá khô, tung vào không gian, lá khô kia không biết
sẽ rơi vào hướng nào; cũng như thế ấy, những mảnh đá nhỏ do năng lực va
chạm cũng không biết là nó sẽ rơi vào đâu, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức! Trẫm sẽ không thắc mắc
về điều ấy nữa.
* * *
116. Đức Phật thuyết về bố thí là để nhận được lợi lộc cúng dường?
- Thưa đại đức! Có lần Đức Thế Tôn thuyết
về đề tài "Như Lai cũng cày ruộng" để độ cho ông bà-la-môn Bhàradvàja, sau
đó, Đức Thế Tôn đã không thọ nhận vật thực do người bà-la-môn ấy dâng
cúng. Ngài cấm chế điều học rằng: "Vật
thực phát sanh do thuyết kệ ngôn, thầy tỳ khưu không được thọ nhận".
Điều ấy có đúng chăng, đại đức?
- Thưa, đúng ạ!
- Thế tại sao khi thuyết cho hàng cư sĩ
tại gia, ở đâu, Đức Thế Tôn cũng tuần tự nói về bố thí, về phước quả của
sự bố thí, cúng dường, sau đó mới nói về trì giới... Chư thiên và loài
người khi nghe Đức Thế Tôn thuyết về phước báu của sự bố thí, họ phát tâm
hoan hỷ, ùn ùn kéo đến bố thí tứ sự cho Đức Thế Tôn. Rồi Chư Tăng đệ tử
của Đức Tôn Sư cũng thuyết về bố thí, trì giới... do vậy, đời sống của Đức
Phật và Chư Tăng thường thịnh mãn về y áo, vật thực, chỗ ở, thuốc men...
Thưa đại đức! Ở trên thì ngăn vật thực sau
khi thuyết pháp, ở dưới thì thuyết pháp để nhận sự cúng dường? Hai đằng
sao lại mâu thuẫn nhau đến vậy? Rồi, sự cố ý thuyết về bố thí để cho hai
hàng cư sĩ tại gia bố thí cho mình, dường như là đã rơi vào phi pháp, vào
tà mạng, không đúng với việc làm của một giáo hội cao cả! Trẫm hoài nghi
và khó hiểu điều ấy lắm, mong đại đức bi mẫn chỉ giáo cho!
- Vâng, câu hỏi của đại vương hay lắm. Có
lẽ nhờ câu hỏi của đại vương mà bần tăng sẽ phá nghi cho tất thảy người
học Phật thời hậu lai!
Tâu đại vương! Pháp bao giờ cũng phải được
thuyết tuần tự, thứ lớp; ấy là thông lệ của chư Phật từ quá khứ chứ không
riêng gì Phật Thích Ca. Khi quán nguyên nhân đau khổ của chúng sanh, chư
Phật thấy rõ rằng, có những đau khổ thô thiển do thiếu thốn vật chất mà
sinh nghèo nàn, đói khổ, thiếu cơm, rách áo...! Lại có những đau khổ vi tế
thuộc về lãnh vực tinh thần như giận ghét, bực bội, bỏn xẻn, tham muốn,
hận thù v.v...
Chư Phật thấy phần đông nhân loại đau khổ
do thiếu thốn vật chất, vì rất nhiều kiếp họ không biết bố thí, xả ly mà
là sống bỏn xẻn, keo kiệt, rít róng,tư lợi, ích kỷ v.v... Muốn giúp họ có
một đời sống khá hơn, đầy đủ vật chất hơn, được làm người, làm trời, an
vui, hạnh phúc hơn - nên chư Phật phải thuyết về bố thí, rồi sau mới
thuyết về trì giới. Tại sao vậy? Vì sự hỗ trợ phước báu rất cần thiết cho
chúng sanh, là món quà tặng mà chúng sanh thường rất yêu thích. Ví như đứa
trẻ thích chơi đồ chơi, an vui, sung sướng vì đồ chơi ấy - nên cha mẹ
chúng phải cho chúng đồ chơi! Chư Phật dạy cho chúng sanh bố thí để có
nhiều phước báu, cũng giống như mua sắm cho đứa trẻ cái cày nhỏ, cái nồi
cơm nhỏ, con búp bê, chén bát nho nhỏ và những cái đồ dùng nho nhỏ xinh
xinh! Lại còn mua sắm thêm những đồ chơi như cái ná, cái xe v.v..., cốt ý
cho trẻ ham vui mà đừng khóc. Khi đứa trẻ lớn lên một tí, các đồ chơi kia
chúng không yêu thích nữa thì cha mẹ mới dạy cho chúng cách học ăn, học
nói, học lễ phép, học chữ nghĩa v.v... Cũng vậy, sau khi dạy chúng sanh bố
thí, chư Phật sẽ thuyết về trì giới, nghĩa là thọ năm giới rồi tám giới.
Khi chúng sanh căn cơ đã khá hơn, chư Phật mới dạy về tham thiền!
Ví như một vị lương y chữa bệnh cho một
bệnh nhân khí huyết suy kiệt. Nếu bệnh nhân khí huyết suy kiệt mà cho uống
thuốc trị liệu, bệnh nhân sẽ chết ngay. Phải cần cho bệnh nhân uống thuốc
bổ khí, bổ huyết trước đã rồi mới cho thuốc trị bệnh. Cũng vậy, chư Phật
thấy chúng sanh đau khổ trầm kha nên phải bốc vài thang thuốc bổ cho chúng
sanh thọ hưởng chút ít an lạc, hạnh phúc, bằng cách thuyết về bố thí, cúng
dường rồi sau đó mới thuyết về ngũ giới, bát giới; như những phương thuốc
trị liệu vậy.
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Vấn đề ấy có thể tạm ổn, nhưng việc ngăn
vật thực thì sao, trẫm vẫn chưa hiểu.
- Vâng, sở dĩ Đức Thế Tôn không thọ vật
thực sau khi thuyết kệ ngôn là để ngăn ngừa những tệ trạng có thể xảy ra
trong hàng Tăng lữ sau này, tâu đại vương!
- Ý đại đức nói là chư phàm Tăng có thể
sinh ra tà mạng, làm hoen ố cộng đồng Tăng lữ?
- Vâng, vì vậy cho nên ngài đã thuyết
giảng rằng thân cử động
có hai, đó là: thân cử động có tội
và thân cử động vô tội!
- Thế nào là thân
cử động có tội?
- Tâu đại vương! Có một số phàm Tăng ôm
bát đến nhà cư sĩ, họ không hề để ý giờ nào nên đến, đường nào nên đi, chỗ
nào nên đứng. Họ đã làm mất thể thống oai nghi, có thể làm cho hàng cư sĩ
chê cười. Nhận vật thực để thọ dụng trong trường hợp ấy là
thân cử động có tội!
Nuôi mạng như vậy thật đáng bị chê trách, khinh bỉ, không đáng được kính
trọng, không xứng gọi là tỳ kheo trong giáo pháp của Đức Thế Tôn!
- Còn thế nào là
thân cử động vô tội?
- Là cung cách ôm bát đi khất thực của các
bậc thánh nhân hoặc của những vị tỳ kheo nghiêm túc, đoan trang về giới
hạnh. Họ cũng cử động thân, cũng đi đường lớn, đường nhỏ, cũng đứng trước
cửa mọi nhà; nhưng bao giờ lục căn cũng thu thúc, bao giờ cũng chánh niệm,
tỉnh giác, giữ oai nghi, tác phong phải lẽ. Đấy gọi là
thân cử động không tội,
tâu đại vương! Sự nuôi mạng như vậy đáng được cung kính, quý trọng, đáng
được hoan hỷ, tán dương, đáng được khen ngợi, đấy là cách nuôi mạng của
bậc thánh.
Còn về sự ngăn ngừa tà mạng trong tương
lai thì Đức Thế Tôn không những quy định sau khi thuyết kệ ngôn mà còn quy
định để ngăn ngừa bất kỳ sự cử động nào của khẩu, trong điều học
được gọi là khẩu cử động có tội và
khẩu cử động vô tội, tâu đại
vương!
- Thế nào là
khẩu cử động có tội?
- Ở đây nói về những vị tỳ kheo đi vào nhà
các cư sĩ rồi "mở miệng" xin các vật dụng khác nhau, ví dụ: y bát, sàng
tọa, thuốc men! hoặc nói ướm cách này cách kia để người ta dâng cúng vật
thực vừa lòng! Khẩu cử động vì tà mạng như vậy không hợp giới luật của bậc
thánh, là phi pháp, đáng bị khiển trách, chê bai; là gây nhân tội lỗi, nên
gọi là khẩu cử động có tội,
tâu đại vương!
- Về khẩu chỉ có bấy nhiêu thôi ư?
- Không, còn nữa, nó rộng rãi hơn nhiều.
Ví dụ như thầy tỳ khưu mà cố ý xem bói để được lợi lộc, được nhiều vật
thực. Hoặc nói tốt cho người để người hoan hỷ mà cúng dường. Hoặc nói xấu,
dữ khiến người ta sợ hãi mà phải làm phước để hồi hướng, để tiêu trừ ách
nạn. Hoặc xem hướng nhà, hướng cửa, chỗ đất... để đoán kiết, hung v.v...
Tất thảy "sự mở miệng" ấy đều được nằm trong điều học
khẩu cử động có tội,
tâu đại vương!
- Trẫm đã hiểu.
- Còn nữa, các bậc thánh, dầu "mở miệng vô
tình" mà có được vật thực, các ngài cũng không thọ dụng. Ví như bậc Tướng
Quân Chánh Pháp, một lần nọ bị bệnh đau bụng dữ dội, Ngài Mục-kiền-liên
thấy vậy bèn hỏi: "Thuở còn làm
người tại gia, mỗi lần lên cơn đau cường liệt như vậy, tôn huynh thường sử
dụng thuốc gì?" Đức Xá-lợi-phất
đáp: "Mỗi lần lên cơn đau như thế,
mẹ tội thường dùng cơm nấu với sữa tươi không có lẫn nước, uống vào là
bệnh dứt ngay". Chư thiên nghe
được lời nói vô tình của Ngài, nên khi Ngài Mục-kiền-liên đi bát, chư
thiên đã ngầm mách thí chủ đặt món ăn như vậy vào bát cho Ngài. Khi Đức
Mục-kiền-liên mang món ăn cơm sữa đến, Đức Xá-lợi-phất biết rằng, thuốc
trị bệnh này đã do mình "mở miệng" mà có, là tà mạng nên không thọ dụng...
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Đúng là giới luật của bậc thánh, dầu mở
miệng vô tình chứ không cố ý mà cũng không thọ dụng! Thuốc trị bệnh mà
cũng ngăn huống hồ là vật thực, huống hồ là vật thực có được sau khi cố ý
thuyết kệ ngôn! Trẫm đã hiểu điều ấy rồi, thưa đại đức! Còn thế nào là
khẩu cử động không tội?
- Khi thí chủ yêu cầu Chư Tăng cho biết
những nhu cầu về tứ sự, ví dụ: các ngài cần thuốc men gì, vật thực gì
v.v..., trường hợp ấy gọi là thọ dụng do yêu cầu của thí chủ - thì không
có tội! Tỳ khưu đau ốm thực sự, mở miệng xin thuốc men ở chỗ thí chủ hoan
hỷ và sẵn sàng dâng cúng - cũng là
khẩu cử động vô tội, tâu đại
vương.
Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ một lát:
- Trẫm còn một hoài nghi, là khi Đức Thế
Tôn quán căn duyên của bà-la-môn Bhàradvàja, xét thấy là ông bà-la-môn ấy
có thể độ được - nên Đức Phật mới ôm bát đến gần thửa ruộng của ông ta. Ý
của trẫm muốn nói rằng, cái tâm của Đức Thế Tôn lúc ấy là muốn độ người
chứ đâu phải là vì vật thực mà Ngài lại ngăn vật thực? Vả lại, biết đâu
sau thời Pháp, ông bà-la-môn hoan hỷ cúng dường thì sao? Lẽ nào Đức Thế
Tôn lại ngăn luôn sự hoan hỷ của chúng sanh?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Câu hỏi ấy vi tế, sâu sắc lắm đấy! Nhưng
thưa đại vương, nếu không ngăn thì sau này hàng trăm, hàng ngàn vị tỳ kheo
còn phàm, ham muốn lợi dưỡng - nhân cớ ấy để đi từ nhà này sang nhà khác,
mở miệng thuyết pháp, đọc kệ ngôn để kiếm tìm lợi lộc, đầy đủ tứ sự cho
riêng mình. Họ sẽ không "mở miệng" xin vật dụng, vật thực nữa - mà họ được
dịp mở miệng đúng Pháp - là mở miệng để dạy đạo, dạy Pháp cho người! Điều
ấy không nguy hại cho Giáo Hội sao?
- Thưa vâng! Thế còn việc ngăn "hoan hỷ"
thì sao?
- Biết đâu, ngăn hoan hỷ lúc ấy mà tín
tâm, trí tuệ sau này của người bà-la-môn được tăng trưởng, được thành tựu
vững chắc thì sao, hở đại vương?
- Vâng, có thể như vậy! Còn chư thiên họ
dâng vật thực cho Đức Thế Tôn thì có liên hệ gì về thân, khẩu cử động
không? Và họ chỉ dâng một lần khi Đức Thế Tôn thọ thực món thịt heo rừng
của người thợ rèn Cunda, hay đã dâng nhiều lần như thế?
- Chư thiên họ dâng vật thực cho Đức Thế
Tôn trong suốt cả bốn mươi lăm năm ngài hoằng Pháp, dâng tất cả những bữa
ăn. Chư Thiên họ dâng không liên hệ gì về thân, khẩu cử động cả; họ tự ý
làm, và làm một cách chăm chuyên, cần mẫn... rất khác với loài người, tâu
đại vương!
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Vâng, họ không dâng một lần mà họ để vật
thực vào trong mỗi miếng ăn của Đức Thế Tôn. Ví như đại vương có người hầu
bếp tận tụy, trung thành. Khi đại vương ngự dụng, người hầu bếp gắp bỏ cho
đại vương từng miếng ăn ngon, chờ cho đại vương ăn xong miếng này, người
hầu bếp bỏ thêm món khác. Chư Thiên hầu hạ, phục vụ từng bữa ăn cho Đức
Thế Tôn cũng như thế ấy, với tất cả tấm lòng như đứa con hiếu thảo đối với
cha mẹ vậy. Vào hạ thứ mười hai, lúc Đức Thế Tôn an cư mùa mưa tại
Veranjà, nhằm khi đói kém, ngài phải dùng vật thực của ngựa; nhưng chư
thiên cũng đem trộn vật thực của cõi trời vào trong đấy, nên kim thân của
Đức Thế Tôn lúc nào cũng tươi nhuận, hồng hào...
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Thật là kỳ diệu. Nhờ đại đức mà trẫm
được mở rộng kiến văn.
* * *
117. Tại sao Đức Thế Tôn không muốn thuyết pháp sau khi đắc đạo?
Đức vua Mi-lan-đà hỏi tiếp rằng:
- Đức Thế Tôn đã trải qua bốn A-tăng-kỳ và
một trăm ngàn kiếp tu tập công hạnh Ba-la-mật - là do động cơ nào thúc
đẩy, thưa đại đức?
- Vì thấy chúng sanh chịu mọi đau khổ
trong ba cõi, sáu đường - nên Đức Thế Tôn phát tâm bi mẫn tìm phương thuốc
để cứu độ chúng sanh, tâu đại vương!
- Nếu vì tâm đại bi muốn cứu độ chúng sanh
là chính đáng, là nguyên động lực thúc đẩy - thì tại sao sau khi chứng ngộ
đạo quả vô thượng dưới cội bồ đề, Đức Thế Tôn lại ngần ngừ không
muốn Chuyển Pháp Luân? Có phải tâm Đức Thế Tôn đã chùn lại, chẳng
còn hăng hái như thuở mới phát nguyện? Hay ngài đã quên hẳn nguyện lớn từ
xưa? Hoặc Đức Thế Tôn đã trở nên tiêu cực, muốn an hưởng quả
vị giải thoát Niết bàn cho khỏe?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Cái gọi là ngần ngừ, chùn lại, không còn
hăng hái, quên nguyện lớn từ xưa hoặc tiêu cực, thụ động v.v... làm sao
lại có thể có mặt trong tâm và tuệ của một đấng Đại Giác được, tâu đại
vương!
- Thế tại sao ngài lại do dự, không chịu
chuyển bánh xe Pháp để cứu độ chúng sanh? Ví như một công dân muốn phụng
sự tổ quốc, y đã bỏ hết quãng đời niên trẻ, bôn ba tìm thầy học nghề cung
nỏ. Khi thành tài, người công dân kia ứng thí và đỗ đầu chức võ quan. Trẫm
tin cậy viên võ quan thiện xạ ấy lắm. Nhưng khi lâm trận, gặp địch, viên
võ quan tài giỏi ấy có cái tâm chùn lại, có cái tâm tiêu cực, hãi sợ, rụt
rè... không dám giương cung để cự địch. Thái độ của Đức Thế Tôn cũng giống
như thái độ của viên võ quan ấy chứ nào có khác gì?
Lại ví như người học võ, ngày đêm tập
luyện không mệt mỏi với nguyện vọng ngày kia sẽ vô địch trên các võ đài.
Nhưng khi lên võ đài gặp đối thủ, người kia sợ hãi đến xanh mặt, cái tay
chùn lại, cái chân run rẩy, quả tim trống đánh đổ hồi... rồi vì khiếp sợ
mà y đã thối chí, không dám đương cự với địch thủ nữa; và ước muốn trở
thành vô địch, ý chí quyết thắng ban đầu chợt tiêu tan như mây khói. Đức
Thế Tôn với bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp tu tập bằng chí nguyện sắt
đá, thành tựu công hạnh Ba-la-mật, đem ánh sáng trí tuệ soi đường chỉ lối
cho chúng sanh đang bị vô minh che phủ trong đêm trường tăm tối...; nhưng
khi thành tựu đạo lớn rồi, ngài lại thối chí, ngã lòng - chẳng khác gì
người học võ ở ví dụ trên? Nếu vậy thì Đức Thế Tôn tu tập để làm gì? Thành
tựu mười Ba-la-mật để làm gì? Ngài bố thí vật ngoại thân là tài sản, của
cải, ngọc ngà, châu báu... là để làm gì? Lại còn bố thí cả vật nội thân
như con mắt, quả tim, tay, chân... và luôn cả đầu, cổ, cả sanh mạng... là
để làm gì mới được chứ?
Thưa đại đức! Đấy là những vấn nạn của
trẫm, những vấn nạn nhức đau, khó hiểu, có ẩn bóng tối; mà chúng ngoại đạo
dễ phanh ra để đàm tiếu, để bôi nhọ phẩm hạnh của Đức Đạo Sư, tâm và tuệ
của ngài. Mong đại đức bi mẫn thương tưởng đến trẫm cùng những người học
Phật thời hậu lai mà ra tay vén mở cho thì trẫm cám ơn lắm vậy!
- Tâu đại vương - đại đức Na-tiên chậm rãi
nói - Xin đại vương hãy nhẫn nại, bình tĩnh, đâu còn có đó; rồi những nghi
vấn của đại vương sẽ lần hồi được sáng tỏ, đại vương hãy từ từ mà nghe
đây.
- Thưa vâng!
- Lời đầu tiên bần tăng muốn xác định là
tâm Đức Thế Tôn vẫn khắng khít với
lời phát nguyện ban đầu, nghĩa là
tâm bi mẫn muốn cứu độ chúng sanh vẫn không suy giảm. Sở dĩ Đức Thế Tôn do
dự không muốn thuyết pháp độ đời, là vì giáo pháp mà ngài vừa đại ngộ cao
sâu quá, nhiệm mầu quá, vi tế quá, chỉ ngại chúng sanh vì vô minh, ái dục,
vì chấp kiến quá sâu dày mà khó biết, khó thấy thôi!
- Dù sao, Đức Thế Tôn cũng đã do dự!
- Vâng, do dự và phân vân nữa! Nhưng là
một sự do dự và phân vân hữu lý, vì ngài không ngờ rằng "sự thực"
mà ngài chứng ngộ khác xa với dự tưởng thuở ngài còn là bồ tát!
- Vậy là có khác rồi, thay đổi rồi!
- Vâng, không khác, không thay đổi sao
được, khi bồ tát thì còn vô minh mà bậc Chánh Đẳng Giác đã diệt tận vô
minh? Tâm và tuệ của bồ tát khác xa với tâm và tuệ của vị Phật, tâu đại
vương!
- Xin đại đức giảng rộng cho nghe.
- Thưa vâng, có thể trong thời gian trải
qua bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, bồ tát tu tạo công hạnh ba-la-mật
với ý nghĩ rằng: sau khi thành
Phật, ta sẽ cứu độ tất thảy chúng sanh!
Nhưng khi thành Phật rồi, tâm và tuệ của ngài không còn giống với trình độ
tâm và tuệ thuở còn là bồ tát - mà nó sâu sắc hơn, vi tế hơn, lợi thắng
hơn. Nghĩa là Đức Phật có những khả năng mà bồ tát không có! Ngài có những
sự thấy biết mà bồ tát khó thấy biết. Ví dụ như Đức Phật thấy, biết rằng:
"Chúng sanh có những căn cơ sai
khác dị, đồng rất khó mà giáo hóa; trình độ chúng sanh đa phần ngu si, tăm
tối... khó mà cho chúng thấy được Giáo Pháp cao siêu mầu nhiệm ấy"!
Tâu đại vương, điều mà bần tăng vừa trình bày đó nghe có hữu lý không?
- Có thể là hữu lý! Ý đại đức nói rằng,
thuở còn là bồ tát thì tưởng là dễ độ chúng sanh; nhưng khi thành Phật,
chứng ngộ Pháp rồi - thì thấy rằng Pháp ấy không dễ gì mà mang ra cho tất
thảy chúng sanh cùng thấy, cùng biết được.
- Vâng!
- Nếu quả như vậy thì sự phân vân, do dự
của Đức Thế Tôn là sự phân vân, do dự của bậc đại trí - trẫm hiểu rồi!
- Ví như một lương y đại tài thường không
cau mày trước bất kỳ một bệnh nào. Nhưng hôm kia, vị lương y gặp phải một
căn bệnh kỳ quái, hiểm nghèo mà suốt đời vị ấy chưa từng biết qua. Trường
hợp ấy, vị lương y đại tài kia phân vân, do dự - có hữu lý không hở đại
vương?
- Thưa, hoàn toàn hữu lý.
- Cũng giống như thế ấy, khi còn vô minh,
còn tu tập mười công hạnh ba-la-mật, bồ tát nghĩ rằng có thể cứu độ tất
thảy chúng sanh. Nhưng khi thành Phật rồi, hết vô minh rồi - ngài lại ngần
ngừ, do dự trước những căn bệnh trầm kha của chúng sanh đấy, tâu đại
vương!
- Hoàn toàn chính xác!
- Ví như có một vị hoàng tử trẻ tuổi, tài
cao, chí lớn, thường suy nghĩ rằng: "Sau
này làm vua, ta sẽ là một đấng minh quân. Ta sẽ trừng trị những tay gian
thần, nịnh thần. Ta sẽ nghiêm khắc với chính mình, đối xử chừng mực, phải
lẽ với hoàng hậu, thứ phi, cung nga, thể nữ. Ta sẽ ban thưởng trọng hậu
cho các quan thanh liêm, chính trực, những bề tôi lương đống và kẻ có
công. Ta sẽ thương dân như con. Ta sẽ bảo ban sau trước tất cả mọi công
việc, chăm lo làm sao cho dân giàu, nước mạnh v.v..."
Nhưng khi lên làm vua rồi, vị vua trẻ mới thấy rằng, không dễ gì thực hiện
những ý nghĩ thuở còn hoàng tử được. Và không dễ gì trong một lúc mà làm
hết các công việc như dự kiến ban đầu. Muốn làm đấng minh quân đâu phải
chỉ trong một sớm, một chiều? Việc gì cũng phải cẩn thận, dè dặt, vì mỗi
người là mỗi tâm, mỗi tánh, sở thích, tham muốn... khác nhau! Tâu đại
vương, sự phân vân, cẩn thận, dè dặt của vị vua trẻ kia có hữu lý không?
- Thưa, rất hữu lý.
- Sự phân vân, do dự của Đức Thế Tôn sau
khi đạt quả vị cũng như thế ấy.
- Vâng, trẫm đã thông suốt lắm rồi! Nhưng
sau đó, tại sao phải đợi đến lúc vị Đại Phạm thiên thưa thỉnh ba lần, Đức
Thế Tôn mới xuống núi độ đời, lăn bánh xe Pháp? Chuyện ấy có ý nghĩa gì
không, thưa đại đức?
- Có ý nghĩa chứ, tâu đại vương! Một bậc
Chánh Đẳng Chánh Giác làm việc gì cũng đều quán căn, cơ, duyên... của
chúng sanh cả! Đại Phạm thiên thưa thỉnh ba lần, đây là thông lệ của chư
Phật quá khứ, tâu đại vương!
- Xin đại đức tuần tự mở thông lỗ tai cho
trẫm.
- Thưa vâng! Sở dĩ chư Phật đợi đến lúc
Đại Phạm thiên thưa thỉnh mới chuyển Pháp luân, là vì Đại Phạm thiên là
bậc Tối Thượng Tôn, là bậc có quyền năng vô hạn theo truyền thuyết nhân
gian và theo cả tín ngưỡng, lòng tin cổ truyền của người theo Bà-la-môn
giáo. Không những loài người, mà cho chí chư thiên và các vị phạm thiên
đều quy ngưỡng, kính trọng bậc Đại Phạm thiên. Vậy khi mà bậc Đại Phạm
thiên ấy đến quỳ năm vóc sát đất, quy ngưỡng và cung thỉnh Đức Thế Tôn
xuống núi độ đời, thì chắc hẳn sự lợi lạc cho Giáo Pháp, tăng tưởng lòng
tin cho chư thiên và loài người như thế nào, chắc là đại vương có thể hiểu
được rồi!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Đúng vậy, khi ông vua mà quy phục rồi
thì bọn bề tôi dưới trướng phải nhất mực tuân theo. Lại nữa, khi mà ông
vua cung thỉnh thuyết pháp, thì pháp ấy chắc hẳn phải tốt đẹp, phải lợi
ích cho cả chư thiên và loài người, thưa đại đức!
- Lại nữa, tâu đại vương! Khi mà vị Đại
Phạm thiên thưa thỉnh ba lần hợp pháp rồi, Đức Thế Tôn mới quán căn duyên
của chúng sanh. Ngài thấy rằng, như hoa sen nở ở trong hồ, cái đang còn
chìm ẩn trong bùn, cái đang còn chìm dưới nước, cái đã trồi ngang mặt
nước, cái thì đã vươn lên khỏi mặt nước để đón nhận ánh sáng mặt trời, phô
thắm sắc và tỏa ngát hương. Cũng vậy, chúng sanh ngu trí khác nhau. Có
loại chúng sanh đang bị chìm sâu trong bùn dơ ngũ dục. Có loại chúng sanh
tuy đã ra khỏi bùn nhưng còn chìm trong nước. Có loại chúng sanh đã trồi
ngang mặt nước. Có loại chúng sanh căn cơ thượng đẳng, đã vươn lên khỏi
mặt nước. Loại chúng sanh này ít bụi cát trong mắt, có thể phủi sạch để
thấy được Giáo Pháp mầu nhiệm cao siêu, đón nhận được ánh sáng tuệ giác để
giải thoát sinh tử trầm luân!
Tâu đại vương! Ý nghĩa thưa thỉnh ba lần
của vị Đại Phạm thiên có duyên cớ và ý nghĩa thù thắng như thế, thì kẻ
nhiều bụi cát trong mắt làm sao biết được, hiểu được, phải không đại
vương?
- Vâng, vâng! Trước thì đầu óc trẫm rất
nặng, đại đức đã làm cho nhẹ đi! Trước thì nghi kiến của trẫm rất rối ren,
đại đức đã tháo gỡ cho từng dây, từng mối. Trẫm rất tịnh tín với đại đức,
đại đức có biết thế không?
- Cảm ơn đại vương.
* * *
118. Ai là thầy của Đức Thế Tôn?
Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi:
- Thưa đại đức! Trẫm nhớ không lầm là sau
khi thành đạo, trên đường về vườn Lộc giả, Đức Phật có tuyên bố với một
đạo sĩ thuộc phái Ni-kiền-tử rằng: "Như
Lai không có ai là thầy tổ. Khắp trên thế gian này, Như Lai không thấy ai,
dầu trong hàng chư thiên, ma vương hay phạm thiên, hay giữa loài người như
sa môn, bà-la-môn... lại có thể sánh với Như Lai, hoặc là có ai đó có thể
ngang bằng với Như Lai...!"
Rồi sau này, lúc thuyết pháp đến Chư Tăng
ở đâu đó, Đức Thế Tôn lại nói rằng: "Này
các thầy tỳ khưu, đạo sĩ Àlàrà thuộc dòng Kàlàma là người có học vấn,
thông minh, là bậc thiện trí thức, là thầy của Như Lai"!
Thưa đại đức! Tại sao Đức Tôn Sư lại
thuyết hai lưỡi? Nếu không thuyết hai lưỡi thì là thuyết hai lời đối chọi
nhau? Nếu câu này đúng thì câu kia sai, và nếu thế thì làm sao biết được
lời nào là đúng sự thật?
Đại đức Na-tiên đáp:
- Chỉ một hiểu lầm nhỏ thôi mà sinh ra
vậy. Nghĩa là sau khi thành Phật rồi, Đức Thế Tôn không có ai là thầy;
nhưng khi còn là Bồ Tát, chưa thành Phật, Ngài vẫn có nhiều vị thầy chứ,
tâu đại vương!
- À ra thế! Chỉ đơn giản vậy thôi! Trẫm
hiểu rồi.
- Cuộc đời Đức Tôn Sư từ nhỏ đến khi thành
đạo, Ngài có năm vị thầy tất cả, tâu đại vương!
- Xin đại đức hãy kể cho trẫm nghe.
- Vâng, khi Ngài vừa đản sanh, tám vị thầy
bà-la-môn đến làm lễ phúc chúc rồi đoán tướng cho Ngài, đó là những vị
thầy đầu tiên. Đến khi tuổi vừa đi học, người bà-la-môn thông thái tên là
Sabbanimitta dạy cho Ngài ba bộ kinh Phệ-đà cùng những môn học khác, đó là
vị thầy thứ hai. Khi Bồ tát dạo chơi bốn cửa thành, chư thiên hiện hình
làm người già, bệnh, chết và vị sa môn trong phẩm mạo xuất gia cao thượng,
đó là những vị thầy thứ ba. Đạo sĩ Alàrà thuộc dòng Kàlàma hướng dẫn Bồ
tát đắc thiền vô sở hữu là vị thầy thứ tư. Và cuối cùng, đạo sĩ Uddaka con
dòng Ràma hướng dẫn Bồ tát thiền chứng phi phi tưởng là vị thầy thứ năm!
Tâu đại vương! Năm vị thầy ấy thuộc về thế
gian. Dầu hai đạo sĩ sau cùng dạy Bồ tát chứng đắc thiền định cõi vô sắc
giới thì cũng còn nằm trong tam giới. Còn pháp siêu thế, xuất thế gian là
tự Đức Thế Tôn chứng nghiệm, tìm ra, quả thật không có ai là thầy Ngài cả.
Đại vương đã tỏ tường chưa?
- Vâng! Trẫm đã tỏ tường!
* * *
119. Thế nào gọi là Sa-môn?
- Thưa đại đức! Có phải Đức Tôn Sư có
thuyết rằng: "Bậc Thánh nhơn là
người đã diệt tận phiền não, người diệt tận phiền não được gọi là sa-môn"?
- Thưa, đúng vậy!
- Ở nơi khác, Đức Thế Tôn lại thuyết rằng:
"Này các thầy tỳ khưu! Người nào có đầy đủ bốn pháp:
- có sự nhẫn nhục,
- biết tri túc về vật thực,
- dứt bỏ sự đam mê,
- không vướng bận,
thì Như Lai gọi là sa-môn!"
Thưa đại đức! Ở trên thì diệt tận phiền
não gọi là sa-môn; còn ở dưới, chỉ đầy đủ bốn pháp nêu trên cũng được gọi
là sa-môn? Đầy đủ bốn pháp ấy thì một phàm tăng có tâm tu học, chưa chứng
Thánh quả cũng có thể thành tựu được! Vậy thì biết tin định nghĩa nào là
đúng, thưa đại đức?
- Định nghĩa nào cũng đúng cả, tâu đại
vương!
- Thưa, không thể như vậy được. Một bên là
diệt tận phiền não, một bên thì còn phiền não - sao đều cùng chung một tên
gọi cao quý là sa-môn? Trẫm không đồng ý như thế!
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Tâu đại vương! Trong các loài hoa có mặt
trong quốc độ của đại vương, theo ý đại vương thì loài hoa nào quý báu hơn
cả?
- Thưa, có lẽ bạch liên hoa là quý phái,
sang trọng, tinh khiết và quý báu nhất!
- Quý báu, sang trọng nhất - cũng chỉ được
gọi tên là hoa như các loài hoa tầm thường khác thôi sao, đại
vương?
- Đấy là tên gọi gom chung lại, có tính
tổng quát, thưa đại đức!
- Cũng như thế, sa-môn chỉ là tên
gọi gom chung lại, có tính tổng quát như tên gọi hoa vậy, tâu đại vương!
Cứu cánh của sa-môn hạnh là diệt tận phiền não, nên những ai diệt tận
phiền não thì được gọi là sa-môn. Nhưng những vị tỳ khưu đang đi trên con
đường ấy, kẻ thành tựu được bốn pháp, kẻ đang và sẽ thành tựu bốn pháp -
đều được gọi là sa-môn cả thảy.
Nếu như trong loài hoa, bạch liên hoa là
cao quý nhất, thì cũng thế, trong hàng sa-môn, các sa-môn diệt tận phiền
não rồi - là cao quý nhất!
- Trẫm đã hiểu.
- Ví như trong quốc độ của đại vương có
rất nhiều loại gạo, nhưng gạo Sàli ngon nhất, thơm nhất, quý báu nhất.
Cũng vậy, bậc hữu học sa-môn đang tu tập bốn pháp để diệt phiền não
không cao quý bằng bậc vô lậu sa-môn đã diệt tận phiền não - nhưng
họ đều có tên chung là sa-môn cả, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức.
* * *
120. Có nên hoan hỷ không khi người ta tán dương Tam Bảo?
Đức vua Mi-lan-đà hỏi tiếp:
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết ở
trong nhiều kinh, nhất là kinh Brahmajàla (Phạm võng), lúc Ngài ngự
giữa thành Vương Xá và xứ Na-lan-đà, cố ý dạy cho Chư tỳ khưu Tăng, rằng:
"Này các thầy, nếu có ai đó tán
dương, khen ngợi Như Lai hoặc khen ngợi và tán dương Pháp và Tăng, các
thầy đừng có hoan hỷ, thỏa thích, đừng để tâm rung động, xao động, bởi
những lời khen ngợi ấy. Vì sao vậy? Bởi vì nếu các thầy hoan hỷ, thỏa
thích, đắm trước vào những sự tán dương, khen ngợi, tâng bốc của người đời
- thì tâm các thầy sẽ lao xao, rối loạn; và như thế các thầy khó an trú
tâm, khó đắc định, khó chứng ngộ những pháp cao siêu là các đạo và các
quả." Điều ấy có đúng không, đại
đức?
- Tâu, đúng là lời của Đức Tôn Sư!
- Thưa, nếu đúng là lời của Đức Tôn Sư,
thì lại càng khó hiểu khi Đức Thế Tôn lại tự tán dương, khen ngợi mình, có
vẻ khoe khoang quá đáng trước mặt người ngoại đạo là bà-la-môn Sela rằng:
"Giữa chốn chư thiên, ma vương,
phạm thiên và loài người, Như Lai là bậc Tối Thượng Tôn, là bậc pháp vương
cao quý. Không có ai có công đức bằng Như Lai. Như Lai đã chuyển Pháp luân
toàn hảo ở chặng đầu, toàn hỏa ở chặng giữa và toàn hảo ở chặng cuối để
cứu độ tất thảy chúng sanh, trời và người. Không ai có thể so sánh tương
tợ với Như Lai, huống nữa là ngang bằng với Như Lai!"
Thưa đại đức! Một đằng thì Đức Thế Tôn cấm
Chư tỳ khưu Tăng không được hoan hỷ, thỏa thích bởi những lời tán dương,
khen ngợi. Đằng khác, Đức Thế Tôn lại tự khen ngợi, tự tán dương mình!
Trẫm nghi lắm. Trẫm nghi rằng có cái gì đó rất mâu thuẫn, không được thích
đáng cho lắm ở ngôn và hành của Đức Đạo Sư!
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Lý do tại sao Đức Thế Tôn giáo giới
không cho Chư tỳ khưu Tăng hoan hỷ, thỏa thích trước những lời khen ngợi,
tán dương - đại vương có biết chăng?
- Thưa, vì ngại tâm Chư tỳ khưu bị xao
động, khó an trú tâm, khó đắc định và khó đắc đạo quả!
- Đúng vậy! Còn đối với những người đã
khéo an trú tâm, đã đắc định, đã chứng đắc Thánh quả - thì Đức Thế Tôn có
cần thiết giáo giới như thế không?
- Dĩ nhiên là không cần thiết, thưa đại
đức! Ví như kiêng cử không nên ăn món này, không nên ăn món kia và uống
thuốc để chữa bệnh, nhưng bệnh lành rồi thì uống thuốc và kiêng cử làm gì
nữa, đại đức?
- Vâng, Đức Thế Tôn cũng thế. Ngài đã an
trú tâm, đã đắc định và đã đắc quả vị Chánh Đẳng Giác - thì lời khen,
tiếng chê có ảnh hưởng gì đến tâm Ngài đâu, đại vương!
- À, đúng thế!
- Lại nữa, Đức Thế Tôn thuyết không phải
mong được kẻ khác tôn trọng, không phải thuyết để tìm kiếm lợi lộc, danh
vọng; không phải thuyết để tìm kiếm kẻ tùy tùng, đệ tử. Ngài thuyết chỉ vì
lợi ích cho chúng sanh.
Đại vương! Đại vương có biết rằng, sau thời pháp mà đại vương bảo là
Đức Thế Tôn tự khen ngợi và tự tán dương mình
ấy, bà-la-môn Sela đã tăng trưởng đức tin, pháp nhãn phát sanh và chứng
ngộ Sự Thật. Và ba trăm người nữa có mặt hôm ấy cũng chứng đắc đạo quả cao
siêu! Đại vương nghĩ thế nào, thời pháp ấy là thù thắng hay không thù
thắng?
- Thưa, rất vi diệu.
Đại đức Na-tiên nhấn mạnh:
- Đức Thế Tôn có "khoe
khoang quá đáng" như lời đại vương
khiển trách - thì mục đích cũng nhắm vào căn cơ của người đối thoại, nhắm
vào lợi ích của chúng sanh thôi, tâu đại vương!
- Trẫm không dám nói thế nữa đâu!
* * *
121. Sao Đức Thế Tôn lại dùng lời ác khẩu, ác ngữ?
Đức vua Mi-lan-đà hỏi:
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn thường thuyết
rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các
thầy phải có tâm bi mẫn đối với chúng sanh, nên nói lời từ hòa, mát mẻ,
phải thương xót chúng sanh mới xứng giữ phẩm hạnh cao thượng trong giáo
pháp của Như Lai."
Một chỗ khác, Đức Thế Tôn lại thuyết: "Này
các thầy tỳ khưu! Trong thế gian này cái gì đáng bị ngược đãi thì Như Lai
ngược đãi, cái gì đáng được cất nhắc thì Như Lai cất nhắc! Cái gì đáng bị
cắt tay, cắt chân thì Như Lai cắt tay, cắt chân! Cái gì đáng bị trói buộc
thì Như Lai cho trói buộc! Cái gì đáng giết thì Như Lai bảo giết!"
Sao Đức Tôn Sư lại có thứ ngôn ngữ lạ lùng
như thế? Ngôn ngữ ấy có xứng với phẩm hạnh của bậc Thánh? Đấy chính là ác
khẩu, ác ngữ mà một hiền nhân trong thế gian này cũng không bao giờ sử
dụng, huống nữa là Đức Đại Giác! Xin đại đức hoan hỷ phá nghi điều ấy cho
trẫm!
- Tâu đại vương! Khi Đức Tôn Sư dạy rằng
các thầy tỳ khưu phải có lòng từ, phải có lòng bi mẫn thương xót chúng
sanh, ấy là lúc Ngài dùng thường ngữ, ai cũng có thể hiểu được.
Nhưng khi Đức Tôn Sư dạy rằng, cái gì đáng bị ngược đãi thì Như Lai ngược
đãi, cái gì đáng được cất nhắc thì Như Lai cất nhắc v.v..., ấy là lúc Ngài
dùng Pháp ngữ. Pháp ngữ nghĩa là ngôn ngữ của Pháp! Xin đại vương
hiểu cho như thế để khỏi hiểu lầm Pháp nghĩa mà Đức Tôn Sư muốn gởi gắm!
- Pháp ngữ, Pháp nghĩa ấy là thế nào, hở
đại đức?
- Xin thưa! Ví dụ như chúng sanh hoặc chư
vị tỳ khưu nào có tâm phóng dật, buông lung... thì hãy nên đè nén, ngược
đãi, chế ngự, áp chế tâm ấy. Đó là Pháp ngữ, Pháp nghĩa của câu "Cái
gì đáng bị ngược đãi thì nên ngược đãi (áp bức, đè nén...)".
Ví dụ, chư tỳ khưu hoặc chúng sanh nào có
trạng thái tâm yên tĩnh, không bị lao xao, được vắng lặng thì nên cất
nhắc, làm cho tốt hơn, viên mãn hơn, thanh tịnh hơn. Ấy là Pháp nghĩa,
Pháp ngữ của câu "Cái gì đáng được
cất nhắc thì cho cất nhắc".
Tương tự như thế, các trạng thái tâm bất
thiện thì nên đè nén, áp chế...; các tâm thiện thì được cất nhắc. Khi khởi
tâm đến đối tượng một cách sai lạc, không chân thực, không đúng với chân
lý, sự thật thì nên ngược đãi, đè nén nó. Khi khởi tâm đến đối tượng một
cách trong sáng, chân thật, đúng với chân lý, sự thật thì tâm ấy nên được
cất nhắc, khen ngợi, làm cho phát triển.
Người nào thực hành giáo pháp sai thì nên
đè nén, chế ngự... Người nào thực hành giáo pháp đúng thì nên cất nhắc,
khen ngợi, tán dương, làm cho sung mãn v.v...
Tương tự như thế, kẻ ăn trộm thì cho đè
nén, người không ăn trộm thì được cất nhắc!
Tất cả những điều ấy đều phải hiểu theo
Pháp ngữ, pháp nghĩa cả, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà nhăn mày:
- Thưa, đoạn trên thì trẫm hiểu, nhưng
đoạn dưới, nơi chỗ "ăn trộm" thì trẫm không hiểu tới; "đè
nén kẻ ăn trộm" phải được hiểu như
thế nào, đại đức?
- Tâu, ở đây, phải hiểu thêm lý nhân quả,
tùy tội trạng của tên ăn trộm ấy nữa. Ví như có những tên phạm pháp ăn
trộm, tùy theo mức nặng hay nhẹ mà đại vương xử phạt. Có tội nhẹ thì khiển
trách, tội đáng trói để răn đe thì nên trói để răn đe, tội đáng lưu đày
thì lưu đày, tội đáng giết thì nên giết... Không ăn trộm thì không giết.
Luật pháp thế gian là vậy, còn luật pháp của bậc thánh, khi nói như thế
thì phải được hiểu theo Pháp ngữ, mong đại vương tỏ tường!
- Thưa, "đáng
giết thì nên giết, giết phứt" đúng
là câu nói của Đức Tôn Sư hay câu nói của đại đức?
- Tâu, Đức Thế Tôn không nói, mà bần tăng
cũng không nói thế đâu!
- Vậy chữ "giết" kia do đâu mà có?
- Do nhân quả mà có. Ví dụ người ấy gây
nhân quá nặng, đáng bị trọng hình, đáng bị giết - thì chính người ấy phải
bị quả báo dữ! Chính quả báo dữ giết người ấy, tâu đại vương!
- Thưa, tạm thời trẫm hiểu, nhưng "không
ăn trộm thì không giết" là nghĩa
thế nào?
- Đại vương có khi nào sai lính đi lùng
bắt những người dân lương thiện, những người vô tội... rồi đem về tra
khảo, hành hình không?
Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:
- Có ông vua nào lại làm điều phi lý như
thế!
- Cũng thế, những chúng sanh không làm
điều sai quấy, không làm điều ác, điều dữ... thì quả báo nào lại đi lùng
bắt kẻ ấy, phải thế không đại vương?
- Vâng.
- Tất cả những từ như
đè nén, ngược đãi, cất nhắc, giết, ăn trộm...
chúng ta phải hiểu theo Pháp ngữ, tâu đại vương!
- Trẫm hiểu rồi, cảm ơn đại đức!
* * *
122. Đức Thế Tôn còn bất bình, sân hận!
- Đức Thế Tôn chắc hẳn không còn sân hận,
bất bình, phải không đại đức?
- Tâu, vâng!
- Thế sao có lần khi Đức Xá-lợi-phất và
Đức Mục-kiền-liên dẫn năm trăm đệ tử đến hầu thăm Đức Thế Tôn; vì nhóm đệ
tử ấy vừa mới xuất gia, thân khẩu ý chưa được kiểm soát, còn rất thô tháo
nên đã tạo nên sự ồn ào, huyên náo... Đang độc cư thiền định, nghe thế,
Đức Thế Tôn đã không chịu nổi, bảo Ngài Ànanda đuổi họ đi! Hành động ấy
không phải do bất bình, sân hận là gì? Đuổi mà đuổi cả hai vị đại đệ tử,
hai bậc thượng thủ của giáo hội thì đâu phải là chuyện bình thường? Đâu
phải chuyện nói mà chơi? Đâu phải đuổi thế mà bảo là không bất
bình, nổi sân một chút nào? Hay là Đức Thế Tôn đã đuổi bằng tâm từ ái,
hoan hỷ? Có lẽ vậy mới phải lý, phải lẽ, phải nhân, phải quả chăng?
- Tâu đại vương! Có khi nào đại vương thấy
quả đất có tâm bất bình, sân hận? Hoặc giả quả đất có tâm thương yêu hay
thù oán chăng?
- Dĩ nhiên là không thể có.
- Vậy, ví như có người đi trên đất, bị té
trên đất, gặp đá bị sưng đầu, vỡ trán - thì do người ấy bất cẩn hay do đất
tạo tội hở đại vương?
- Chỉ tại người ấy chứ quả đất nào có tội
gì!
- Tâm Đức Thế Tôn cũng an nhiên, bình
lặng, không hoan hỷ, không thù oán, không bất bình, không hận, không
thương, không ghét - ví như quả đất vậy. Người kia bất cẩn bị té sưng đầu,
vỡ trán như thế nào thì năm trăm tỳ khưu có tội bị Đức Phật đuổi đi cũng
như thế ấy, tâu đại vương!
- Ví dụ ấy không tương hợp rồi, thưa đại
đức! Quả đất không khởi tâm, Đức Phật có khởi tâm, làm sao có thể giống
nhau được?
- Tâu đại vương! Ngài phải hiểu rằng Đức
Thế Tôn thường trú tâm xả. Tâm xả ấy thường bình lặng và an nhiên
như quả đất vậy. Còn khi mà Đức Thế Tôn có khởi tâm - là khởi tâm muốn tế
độ chúng sanh. Ngài đuổi họ là vì lợi ích cho họ chứ đâu phải do sân hận
hoặc bất bình?
Ví như biển lớn không bao giờ dung chứa tử
thi dù hàng trăm hằng ngàn tử thi bồng bềnh trôi nổi giữa đại dương, sóng
cũng tìm cách đánh dạt những tử thi ấy vào bờ cho bằng được! Biển không hề
có tâm hận, tâm hỷ, thương hoặc ghét như thế nào - thì Đức Thế Tôn khi
đuổi năm trăm tỳ khưu vì hạnh động sái quấy của họ - cũng y như thế ấy.
- Vâng, nhưng nghe nói rằng, sau đó, Phạm
thiên Sahampati và những người Thích tử đã đến qùy lạy xin Đức Thế Tôn
đừng đuổi họ nữa.
- Quả vậy, nhờ thế, sau đó họ biết chăm
chú nghe Pháp, tinh tấn thiền quán và năm trăm tỳ khưu kia đã đắc Thánh
quả cả.
- Ồ! Hy hữu vậy thay. Còn trường hợp hai
vị thượng thủ thì sao?
- Hai ngài Đại Đệ tử từ rày phải ý thức
thêm trách nhiệm của mình: là phải tìm cách giáo giới nghiêm túc những kẻ
sơ tu hơn nữa!
- Vâng, vậy thì trẫm không còn ngờ oan về
tâm sân của Đức Thế Tôn nữa. Nhưng như vậy không có nghĩa là không còn mối
nghi khác trong câu chuyện này.
Đại đức Na-tiên nói:
- Thôi được rồi, hẹn đại vương hôm khác.
* * *
123. Phải chăng Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn?
Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi tiếp:
- Đồng ý là Đức Thế Tôn không có tâm sân
hận, bất bình rồi; nhưng người ta có thể nghĩ rằng Ngài không có tâm bi
mẫn, thưa đại đức.
- Tại sao đại vương lại nói thế?
- Có chứng cớ hẳn hòi, thưa đại đức. Trẫm
còn nhớ, khi Đức Thế Tôn đuổi hai vị thượng thủ cùng năm trăm vị tỷ kheo,
thì đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma đã lần lượt đến quỳ
bên chân Đức Đạo Sư để năn nỉ, xin xỏ cho họ được ở lại. Họ đã nói rằng,
năm trăm tỳ kheo ấy còn non dại,
chưa biết gì, thật là tội nghiệp.
Họ đã ví von rằng, như hạt mầm non
trẻ, nếu thiếu nước, thiếu ánh sáng, thiếu đất tốt thì nó sẽ dần dần bị
tiêu hoại; như những con nghé con, nếu thiếu bú mớm, thiếu chăm sóc, nuôi
dưỡng thì những nghé con kia sẽ chết; và cũng vậy, năm trăm tỳ kheo kia
mới sơ tu, họ cần phải được yết kiến Đức Thế Tôn, cần được nghe Pháp, dạy
dỗ..., may ra họ mới được trưởng thành, lớn khôn trong Giáo Pháp của bậc
Thánh! Sau đó, họ xin Đức Thế Tôn
khởi lòng bi mẫn xót thương cho năm trăm vị tỷ kheo. Thưa đại đức, điều ấy
chứng tỏ gì? Chứng tỏ rằng Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn, mà
chính vị đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma mới có
tâm bi mẫn!
- Tâu đại vương! Đức Thế Tôn là bậc Chánh
Đẳng Chánh Giác, Ngài là thầy của chư thiên và loài người, Ngài đã
dạy giáo pháp cho chư thiên và loài người. Vậy thì cái tâm bi mẫn
của phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma, họ học được từ đâu?
- Dĩ nhiên là họ học được từ Đức Thế Tôn.
- Đúng vậy. Họ học được tâm bi mẫn của Đức
Thế Tôn, thế sao đại vương dám bảo Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn?
- Khi ấy có lẽ Đức Thế Tôn đã quên tâm bi
mẫn của mình, đợi đến khi Đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử Càtuna
nhắc lại, Ngài mới nhớ chăng?
Đại đức Na-tiên bèn đưa ra ví dụ:
- Ví như có một người chồng vì thương vợ,
bèn sắm đầy đủ các loại ngọc quý cho vợ trang sức. Lâu lâu, người vợ muốn
làm vui lòng chồng, lấy đồ trang sức ấy trang điểm cho mình. Thấy vậy,
người chồng có vui tươi, hoan hỷ không hở đại vương?
- Dĩ nhiên là phải vui chứ!
- Cũng như thế đó, đại vương! Tâm bi mẫn
ấy do Đức Thế Tôn giáo huấn, dạy dỗ; và rất nhiều pháp khác nữa, Đại phạm
thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma học được từ Đức Thế Tôn. Lâu lâu,
họ lấy giáo pháp ấy nói lại, trang điểm cho mình, làm cho Đức Thế Tôn cũng
hoan hỷ, Ngài phải thốt lên rằng: "Sàdhu, lành thay!".
- Hay lắm!
- Lại nữa, ví như có người cận thần thân
tín của đức vua, vào kho của đức vua lấy những ngọc ngà châu báu, những
vòng kim cương, lưu ly để trang điểm ngai vàng cho đức vua, những mong cho
đức vua thỏa thích, vừa dạ. Đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở
Càtuma cũng lấy giáo pháp của Đức Thế Tôn, những đoản ngôn, những ví dụ
của Đức Thế Tôn... để nói lại - thì đâu có khác gì vị cận thần thân tín
kia của đức vua?
- Vâng, hay lắm!
- Lại nữa, ví như có người học trò hầu hạ
một vị hòa thượng, thường đem những lời hay ý đẹp mà vị hòa thượng ấy từng
dạy bảo, nói lại cho hòa thượng nghe, làm cho vị hòa thượng vô cùng hoan
hỷ, đẹp dạ. Đức Thế Tôn nghe lại giáo pháp của ngài do từ miệng của Đại
phạm thiên Sahampati và các Thích tử thì cũng vừa lòng đẹp dạ như vậy đó,
tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà bất giác mỉm cười:
- Đại đức bênh vực cho Đức Đạo Sư thật là
hùng hồn; biết là có cái gì đó không được đúng lắm, nhưng trẫm cũng không
biết y cứ từ kẻ hở nào mà tranh luận!
Đại đức Na-tiên cũng mỉm cười:
- Khi mà đấng Minh quân đã nói vậy thì rõ
là không có chỗ nào sai sự thật rồi!
- Có lẽ vậy, cảm ơn đại đức!
* * *
124. Phẩm mạo xuất gia cao siêu đến cỡ nào?
Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi:
- Thưa đại đức! Trước đây trẫm có cơ duyên
hầu chuyện với trưởng lão Àyupala, được biết rằng, bậc xuất gia hay người
tại gia đều có thể đắc quả cao thượng giống nhau. Mà chính Đức Tôn Sư cũng
có thuyết như thế. Điều này trẫm còn có chỗ hoài nghi.
- Xin đại vương cứ nói.
- Thưa, người tại gia thọ dụng ái dục, ăn
mặc bằng những y phục màu trắng có thêu hoa, nằm ngủ với vợ, mưu sinh bằng
đủ mọi cách để nuôi vợ con; họ nhồi phấn, thoa vật thơm, trang sức, trang
điểm mỹ lệ, chải chuốt mái tóc cho láng lẩy, gom góp tài vật đủ loại...
Nghĩa là họ hưởng thụ dục lạc một cách đầy đủ, thỏa mãn...
Còn các bậc xuất gia phải cạo bỏ râu tóc,
mặc những thứ vải thô, xấu, lại còn phải nhuộm nước chát cho ố màu đi. Họ
còn phải thọ trì nghiêm khắc hai trăm hai mươi bảy giáo điều, mười ba pháp
đầu đà khổ hạnh... Nghĩa là họ phải có một đời sống cơ cực, thiếu thốn đủ
mọi bề...
Đại đức Na-tiên nói:
- Đúng như thế. Nhưng đại vương nghi ở chỗ
nào?
- Thưa, thứ nhất là ai thực hành giáo pháp
tốt cũng đắc đạo quả cao siêu. Vậy thì dại gì đi tu cho khổ, cho cơ cực,
thà ở nhà hưởng thọ ngũ dục còn hơn vậy?
- Tâu đại vương! Sự thật là thế, nhưng
người tại gia thực hành giáo pháp khó khăn hơn nhiều. Có thể nào một người
cư sĩ thọ dụng ngũ dục, sống giữa cõi trần luôn luôn bị lửa tham sân thiêu
đốt lại có thể chứng ngộ giáo pháp ly dục cao siêu được, hở đại vương?
- À ra thế!
- Còn các bậc xuất gia, do nhờ ghép mình
vào các điều học, thọ mười ba pháp đầu đà, thu thúc lục căn thanh tịnh;
nghĩa là luôn luôn sống đời lánh xa ngũ trần, tham sân ít có cơ hội thiêu
đốt; nên bao giờ cũng dễ dàng chứng ngộ được giáo pháp ly dục, tâu đại
vương!
- Vâng, vâng!
- Tuy nhiên, dẫu là xuất gia, nhưng họ
buông lung phóng dật, không chịu thực hành những đề mục chỉ tịnh, quán
minh - thì làm sao mà thấy được đạo quả hở đại vương?
- Vâng, vâng!
- Do vậy, phẩm mạo xuất gia hay tại gia
quan trọng ở chỗ thực hành và không thực hành, tâu đại vương!
- Vâng! Và như vậy rõ ràng là bậc xuất gia
vẫn cao thượng hơn tại gia! Nhưng trẫm không rõ là nó cao thượng đến cỡ
nào?
- Không ai có thể định giá được ngọc
ma-ni, tức ngọc như ý như thế nào, thì sự cao thượng của phẩm mạo xuất gia
cũng y như thế, cái đức của bậc xuất gia cũng dường thế ấy!
- Các vị tỳ kheo trong giáo hội của đại
đức thường giáo giới đến cận sự nam nữ hai hàng rằng đức của Chư Tăng
như biển lớn, là ý đó chăng?
- Vâng, vì rằng biển rộng và sâu đến chừng
nào thì chưa có ai đo lường được; thì sự cao thượng, cao siêu của phẩm mạo
xuất gia cũng như biển vậy, khó lượng, khó dò!
- Thưa, vậy thì do đâu mà có được cái đức
ấy, sự cao siêu, cao thượng ấy?
Đại đức Na-tiên nói:
- Dường như do đâu thì đại vương đã hiểu
rồi.
- Xin đại đức cứ nói lại, có phải là do
nhờ đời sống ghép mình vào giới hạnh?
- Vâng, sự thành tựu cao siêu ấy, thành
tựu các đức lớn ấy là do đời sống viễn ly của chư tỳ khưu, chẳng hạn:
- Thiểu dục (ít ham muốn),
- Tri túc,
- Ưa thích nơi thanh vắng,
- Không thích đám đông, phe nhóm,
- Không chất chứa, không luyến tiếc,
- Sống đời vô trú,
- Đầy đủ giới hạnh,
- Biết rành rẽ giá trị, sự lợi ích trong việc thực hành các pháp đầu đà,
v.v...
Tâu đại vương! Khi mà bậc xuất gia thực
hành nghiêm túc các điều như đã kể ở trên, họ sẽ thành tựu đạo quả cao
siêu rất dễ dàng, mau lẹ...; cũng giống như người kia xuống sông tắm, dễ
dàng và mau lẹ kỳ cọ thân thể mình cho sạch sẽ vậy.
- Thật là rõ ràng, trẫm hiểu được do đâu
mà cao thượng rồi.
-ooOoo-
Ðầu trang |
00 | 00.1|
01| 02 |
03 | 04 |
05 | 06 |
07 | 08 |
09 | 10 |
11 | 12 |
13 | 14 |
15 | 16 |
17 | 18
|