Mi
Tiên Vấn Ðáp
(Milinda Panha)
Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm
(Maha Thera Thita Silo)
Tỳ kheo Giới
Ðức hiệu đính, ấn bản 2003
I. PHẦN DẪN NHẬP
1. Ngoại thuyết (Bàhirakathà)
Sau khi Đức Thế Tôn tuyên bố sắp nhập Niết
bàn, ngài cùng với một số đông tỳ khưu Tăng đến thành Kusinàra thuộc quốc
độ Malla. Đến khu rừng mát mẻ, dừng lại dưới hai cội cây sàla tươi đẹp với
bốn nhánh vươn cao và tỏa rộng, hoa nở rực rỡ và ngạt ngào hương, ngài bảo
tôn giả Ananda xếp y tăng-già-lê rồi nói:
- Như Lai sẽ Niết bàn ở đây!
Thế rồi, Đức Thế Tôn nằm nghiêng lưng trên
tảng đá bằng phẳng, đầu quay về phía bắc, mặt quay về phía tây. Chư tỳ
khưu Tăng ngồi vòng quanh yên lặng như một rừng thiền định. Giữa tiếng
chim ríu rít, vài cánh hoa rơi khẽ, bài pháp sau đây đã được Đấng Giác ngộ
thuyết lên:
-"Này các thầy tỳ khưu! Như Lai nhắc nhở
và căn dặn các thầy như vầy: tất cả pháp hữu vi đều không chắc thật, không
bền vững. Tất cả các pháp hữu vi dầu thô thiển hay vi tế đều bị sự tác
động của vô thường, biến hoại, đổi khác.
Tất cả pháp hữu vi, nếu là thiện pháp, là
phước tạo tác (punnàbhi sankhàra), cấu tạo nên thân tâm của người và trời;
nói cách khác, là nhân sanh sáu cảnh trời dục giới hoặc được làm người có
phước báu sắc thân xinh đẹp, ít bệnh tật, ít khổ đau, nhưng nó cũng chẳng
thường còn như ý nguyện mãi thế đâu!
Tất cả pháp hữu vi, nếu là ác pháp, là tội
tạo tác (appunnàbhi sankhàra), cấu tạo nên thân tâm và cảnh giới trong bốn
đường dữ là: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la. Vậy các thầy hãy cố
gắng gìn giữ thân khẩu ý, ngăn giữ ác hạnh để khỏi chịu quả báo đau khổ về
sau.
Tất cả pháp hữu vi, nếu là thiện pháp thù
thắng, là vô ký hay bất động tạo tác (ananjabhi sankhàra); là nhân của
tầng trời sắc giới và vô sắc giới của các bậc tu hành đã đắc tứ thiền hay
tứ không; cấu tạo nên thân tâm cõi trời phạm thiên hữu sắc và phạm thiên
vô sắc. Tuổi thọ ở đấy thì vô lượng nhưng hết phước báu thiền định cũng
phải bị đọa lạc như thường.
Vậy này các thầy tỳ khưu! Hãy tinh tấn
chuyên niệm, chớ quên, chớ phóng dật, chớ giải đãi. Tử sinh là việc lớn.
Hãy rèn luyện thân khẩu ý cho thanh tịnh. Hãy làm cho sung mãn tứ vô lượng
tâm. Hãy qua khỏi bờ kia, chẳng nên cam chịu hoài cảnh trầm luân khổ đau
sinh diệt nữa!"
Lúc Đấng Thập Lực (Dassapàlannana)
dùng lời tối hậu huấn thị tỳ khưu Tăng với tâm bi mẫn như thế, biết là
ngài sắp Tịch diệt Niết bàn, có một số sa môn tâm hãy còn phàm, đã không
ngăn được sự ưu sầu, luyến tiếc đối với Đức Đạo sư, họ đã chảy nước mắt
khóc than vô cùng bi lụy.
Đức Tòan Thắng Ma lại ân cần nói thêm rằng:
-"Này các thầy tỳ khưu! Hình như các thầy
tưởng rằng khi Như Lai diệt độ rồi, sẽ không còn ai là thầy dạy dỗ các
thầy nữa chăng? Không phải thế đâu!
Này các thầy tỳ khưu! Pháp và Luật rất đầy
đủ, Như Lai đã giáo giới đến các thầy rồi. Ba-la-đề-mộc-xoa (patimo-kkha)
dành cho Tăng và Ni, Như Lai đã chỉ dạy cặn kẽ trong bộ Lưỡng phân biệt
(ubhatovibhanga) rồi. Nhân có tội và nhân vô tội Như Lai cũng đã từng
thuyết minh chi li, rõ ràng rồi.
Thinh Văn ba-la-mật tuệ, Như Lai cũng đã
nói rồi.
Tuệ Đến-bờ-kia cho bậc Độc Giác và bậc
Chánh Đẳng Giác, Như Lai cũng đã từng tán dương rồi. Và nào là Tứ diệu đế,
Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như y túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi,
Bát chánh đạo,Thất quả, Bát định, Cửu định.. . Như Lai cũng đã nhiều lần
tuyên thuyết bằng những thời pháp, đoản ngôn, kệ ngôn, ví dụ, so sánh,
giảng giải, phân tích ... khác nhau.
Vậy này các thầy tỳ khưu! Người nào thông
hiểu pháp ấy, chứng ngộ pháp ấy được gọi là Thinh Văn đệ tử của Như Lai;
là người có căn cơ mẫn tiệp, lanh lẹ, kiến trú vững chắc, tâm giải thóat,
tuệ giải thóat không xao động.
Này các thầy tỳ khưu! Dầu Như Lai có diệt
độ, nhưng Pháp và Luật ấy chính là thầy của các thầy, còn ở bên các thầy,
làm nơi nương tựa và dẫn lối cho các thầy. Thế thì sầu thương, bi lụy có
ích gì khi các pháp dẫu nhỏ nhiệm như mảnh lân hư trần, to lớn như Tu-di
sơn cũng đều phải bị vô thường biến hoại?
Lại nữa, khi Như Lai Niết bàn rồi, ông Đại
Ca-diếp sẽ mở hội kết tập lần đầu, trùng tuyên lại Pháp và Luật cho đầy
đủ, tỏ rạng lên hầu nhắc nhở và mở mắt cho những tỳ khưu hư hỏng, phóng
túng như ông Subhadda cùng những hoa ngôn, lộng ngữ, xuyên tạc Chánh pháp
của chúng ngoại đạo.
Lại một trăm năm sau nữa, có vị trưởng lão
A-la-hán có tên Yassa Kananda, vì hủy trừ lời nói của tỳ khưu Vajjiputtaka
mà mở đại hội kết tập lần thứ nhì, trùng tuyên trọn vẹn Tam tạng Thánh
điển.
Thế rồi, hai trăm mười tám năm sau kể từ
khi Như Lai diệt độ, có tôn giả Moggaliputtatissa kết tập lần thứ ba, loại
bỏ tất cả tư tưởng lai tạp của ngoại giáo, giữ nguyên lời dạy chơn truyền
của Như Lai y như lần thứ nhất và lần thứ nhì. Sau đó nữa, tỳ khưu
Mahinda, một vị Thánh Tăng, vốn là hoàng tử con của vua A-dục, đã đem ba
tạng kinh truyền Chánh pháp vào xứ Tích-lan (Jampànidìpa).
Và khỏang chừng năm trăm năm sau kể từ hôm
nay, có một đức vua tên là Mi-lan-đà, có nhiều phước duyên thù thắng
(abhinihàra) đã tạo trữ từ xưa, dùng những câu hỏi rất cao siêu, vi tế,
sắc bén bởi năng lực trí tuệ của mình để vấn đạo, bức bách các sa-môn,
bà-la-môn trong toàn cõi Diêm-phù này, làm cho họ phải trốn vào rừng sâu.
Khi ấy, có một vị tỳ khưu tên là Na-tiên,
có trí tuệ siêu phàm, đã giải đáp dễ dàng những câu hỏi, phá nghi những
nạn vấn cho đức vua Mi-lan-đà bằng nhiều cách phân tích thiện xảo, nhiều
ví dụ sinh động, cụ thể làm cho bậc minh quân vô cùng hài lòng. Nhờ vậy,
Pháp và Luật của Như Lai đã không lu mơ, mà trái lại, càng thêm tỏ rạng,
được trân trọng bảo lưu, truyền thừa trên thế gian tròn đủ 5.000 năm."
Như thế, vua Mi-lan-đà và đại đức Na-tiên
với những câu hỏi đáp giữa họ đã được Đức Thế Tôn tiên tri sẵn trước khi
ngài nhập diệt.
Người ta nói rằng nước của năm con sông
lớn của xứ Ấn-độ tuôn chảy về biển bao nhiêu lượng nước thì những câu hỏi
của vua Mi-lan-đà cũng tuôn chảy liên miên, dồn dập không ngưng nghỉ như
vậy. Tuy nhiên, nước của năm con sông lớn ra đến biển thì nằm yên trong
biển, hòa tan trong biển, được biển kết nạp, dung chứa một cách bình thản
như chẳng có vấn đề gì phải bận tâm. Cũng vậy, biển cả được ví như trí tuệ
siêu phàm, vô lượng của đại đức Na-tiên. Do vậy, những câu hỏi dù khúc
mắc, dù đặt bẫy, dù sâu rộng, dù vi tế thế nào của vua Mi-lan-đà, đều được
ngài Na-tiên sẵn sàng giải đáp rành rẽ, khúc chiết bằng nhiều cách khác
nhau. Một ngọn đèn cực lớn, ánh sáng quang minh chiếu diệu soi tỏ vào các
chỗ tối tăm, hang hóc sâu kín như thế nào thì trí tuệ của đại đức Na-tiên
cũng soi tỏ vào bóng tối hoài nghi, kiến thức đa diện của đức vua
Mi-lan-đà y như thế ấy.
Quả thật, cuộc vấn đáp của hai bậc tài đức
đã chứa chan sự thật, triết lý, tư tưởng và cả những ý nghĩa nhiệm mầu;
khả dĩ nối được ngọn đèn Pháp Bảo giữa cõi mê đồ, vọng tưởng. Sự tranh
biện và lập luận minh bạch, khúc chiết của hai ngài có sức hấp dẫn phi
thường, làm cho người nghe, người đọc phát sanh phỉ lạc chưa từng có.
2. Câu chuyện liên quan trong tiền kiếp (Pubbapa yoga)
Vào thời Đức Phật Ca-diếp (Kassapa), có
đức vua tên là Vijjitàvì trị vì một vương quốc giàu mạnh, kinh đô đặt tại
xứ Sàgala xinh đẹp. Đức vua là một cư sĩ có giới và có trí, cai trị quốc
độ bằng mười vương pháp, sống với thần dân bằng bốn pháp tế độ.
Tại kinh đô ven sông, đức vua cho xây dựng
một ngôi chùa lớn rồi dâng cúng đến các vị trưởng lão đạo cao đức trọng,
suốt thông Tam tạng. Ngài hộ độ Chư tăng đầy đủ về tứ sự, hết tuổi thọ,
hóa sanh làm Thiên chủ cõi Đao-lợi, gọi là Đế thích Thiên vương.
Ở ngôi chùa do đức vua bảo trợ này, chư tỳ
khưu Tăng rất đông đúc, duy trì pháp học và pháp hành một cách nghiêm túc
và không gián đoạn. Trong chúng, có vị tỳ khưu giới hạnh trong sạch, hằng
ngày tu tập thiền quán. Mỗi sáng, ngài thường thức dậy sớm, lễ bái Tam
Bảo, quán tưởng ân đức Tam Bảo, tọa thiền, kinh hành rồi đi quét dọn xung
quanh chùa. Công việc ấy ngài làm một cách lặng lẽ và chuyên cần.
Hôm kia, vị tỳ khưu quét lá quanh Bảo
tháp, gom lại thành đống rồi gọi chú sa di phụ việc hốt đem đổ đi.Chú sa
di ngày thường rất ngoan ngoãn, nhưng hôm ấy lại sanh tâm lười biếng, giả
vờ không nghe. Gọi đến lần thứ ba, thấy chú sa di vẫn cứng đầu, vị tỳ khưu
bèn bước tới, đánh cho chú mấy cán chổi khá đau. Thế là chú sa di vừa khóc
vừa hốt rác, lòng ấm ức vô cùng. Công việc xong xuôi, chú sa di phát lời
nguyện rằng:
-"Với
phước báu đổ rác này, nếu chưa đắc được Niết bàn, dù sanh vào cảnh giới
nào, cũng xin cho tôi có đầy đủ quyền cao, chức trọng mà oai lực của tôi
sẽ thù thắng hơn tất cả mọi người, như mặt trời vĩ đại ở giữa hư không kia
vậy."
Nguyện xong, hể hả và vui sướng, chú sa di
đi xuống sông tắm. Khi bơi lội nhởn nhơ trong nước, thân tâm mát mẻ, chú
sa di cảm thấy hối hận, tự nghĩ:
-"Thầy
tỳ khưu bảo ta hốt rác, đấy chẳng phải là phận sự bắt buộc, chẳng phải là
việc riêng của ngài; cũng chẳng phải là lợi ích cho các thầy A-xà-lê, cũng
không phải nhằm phục vụ cho các vị thượng tọa, hòa thượng của ngài. Vậy
đích thị ngài đánh ta là muốn tế độ ta, muốn đánh vào cái tính lười biếng
và cứng đầu của ta! Ôi! Vì u mê mà ta tự làm hại ta rồi."
Vẫn còn ngâm mình dưới sông, nhìn những
lượn sóng như vô tận đuổi nhau đến tận bờ xa, chú sa di tâm cơ máy động,
phát lời đại nguyện:
-"Vì
thiếu trí tuệ mới sinh lười biếng, cứng đầu, sinh những nhận thức sai lầm,
nông nổi. Vậy thì với tất cả những phước đức tu tập của tôi, phước đức đổ
rác bấy lâu nay, phước đức thấy mình lầm lỗi, xin nguyện rằng: nếu chưa
đắc quả Niết bàn, hãy cho tôi được trí tuệ nhiều vô biên vô lượng như
những làn sóng vô tận của con sông này."
Đang trên bến, cũng định xuống sông tắm, vị tỳ khưu nghe được lời phát
nguyện đầy quyết tâm vững chắc của chú sa di, chột dạ, nghĩ thầm: "Không
kể chút lầm lỗi sáng nay, chú sa di này từ lâu tu tập rất tốt, có hạnh
kiểm và có trí. Vậy với lời nguyện sắt đá này, chú sa di hẳn sẽ thành tựu
dễ dàng." Trầm ngâm hồi lâu, vị tỳ
khưu nghĩ tiếp:"Trong lời nguyện
của chú sa di, vừa có cái gì đó như phục thiện mà
cũng vừa có cái gì đó như đối chọi
lại với ta? Nhưng bản chất của chú sa di này ngủ ngầm sự cứng đầu, kiêu
căng, ngã mạn. Vậy nếu lời nguyện kia mà thành tựu thì trên thế gian này
có ai đủ khả năng trí tuệ để kềm bớt trí tuệ của y?".
Vì thế, vị tỳ khưu cũng chấp tay lên đầu,
hướng giữa thinh không, phát lời đại nguyện:
-"Với
tất cả mọi công đức tu tập của tôi, công đức quét rác bao nhiêu năm, nếu
tôi chưa đắc quả Niết bàn, xin cho tôi được thành tựu trí tuệ bất khả tư
nghì. Trí tuệ ấy phải đầy đủ năm tính chất sau đây:
- Nhiều như sóng của con sông đại Hằng.
- Vững chắc và kiên định như hai bờ của
con sông này.
- Thấy rõ gốc ngọn tất cả các pháp.
- Quang minh, sáng sủa.
- Quảng bác, thâm sâu, sắc bén.
Mong nhờ trí tuệ bất khả tư nghì ấy, có
thể kiềm chế, phá nghi, soi rọi, dẫn dắt chú sa di đi đến nơi giác ngộ,
giải thóat."
Cả hai vị tỳ khưu và sa di, với lời nguyền
ấy, sau khi tan rã ngũ uẩn, họ đều được sanh làm người, làm trời trọn thời
gian giữa hai vị Phật. Đến lúc Phật Thích-ca Niết bàn gần năm trăm năm, vị
tỳ khưu thuở xưa từ cõi trời giáng hạ làm Na-tiên tỳ khưu; vị sa di sanh
làm vua Mi-lan-đà ở kinh thành Sàgala đúng với lời nguyện của họ.
2.1. Chuyện về ĐỨC VUA MI-LAN-ĐÀ
Ông người gốc Hy-lạp, là một viên đại
tướng lừng danh, vô địch, theo đoàn quân viễn chinh xâm lăng Ấn-độ. Sau
khi đã đặt nền thống trị trên một đế quốc rộng lớn, viên thủ lĩnh bị giặc
giết, ông lên kế vị làm vua, đóng đô tại Sàgala.
Sàgala là vùng đất nằm ở thượng lưu năm
con sông, dưới chân Hy-mã-lạp-sơn, với núi non hùng vĩ bao quanh, sông dài
uốn khúc tạo nên một khung cảnh xinh tươi trù phú và thạnh mậu.
Xuất thân là một tướng lãnh thao lược,
bách chiến bách thắng, bá quyền từ lưu vực sông Hằng đến các bờ cõi miền
đông, từ cửa sông miền nam giáp biển đến tận chân Hy-mã-lạp-sơn, nhưng đức
vua ấy luôn phòng thủ không một chút lơ là. Hoàng cung được bảo vệ với
những thành trì kiên cố, vững chắc, được đào hào sâu rộng bao bọc xung
quanh, những cổng thành bằng đá to lớn luôn luôn được đội quân uy nghi với
gươm đao, cung nỏ túc trực sẵn. Nhờ vậy, không một kẻ thù nào dám quấy
nhiễu, không một kẻ nghịch nào dám manh tâm thoán đoạt.
Giữ yên bên ngoài, nhà vua lo việc bên
trong, chăm lo đến cơm no áo ấm cho muôn dân. Kế hoạch phát triển đất
nước, nhà vua chú trọng nông nghiệp, có chính sách khuyến nông đúng đắn và
hữu hiệu. Các ngành nghề lao động, thủ công đều được tuyên truyền, vận
động, cổ súy nâng cao. Không bao lâu sau, đất nước này sống đời thái bình
và thịnh trị, giàu mạnh và hùng cường.
Kinh thành Sàgala đặc biệt rất huy hoàng
và tráng lệ. Các lối đi đều được lát đá. Nam nữ có lối đi riêng. Ven đường
có nhà mát, nhà nghỉ, có cây to bóng mát. Điểm xuyết đó đây rất nhiều ao
hồ, rất nhiều vườn cây. Ao hồ thì nuôi đủ thứ cá sắc màu đẹp đẽ. Vườn cây
trồng kỳ hoa dị thảo, nuôi muôn chim, muôn thú hiền lành. Ngoài ra, dinh
thự, đền đài, phố xá, cầu kỳ, đại hí trường, tiểu hí trường được xây dựng,
kiến thiết cao sang và mỹ lệ. Từ Hoàng cung, ánh đèn chói sáng trăm màu
rực rỡ, nhạc ca, vũ điệu dặt dìu ngày đêm hoan lạc. Hoàng gia ăn vận như
thiên tướng, thiên nữ cõi trời, với xe hai ngựa, bốn ngựa, kiệu... qua lại
tấp nập. Các vị sa môn, bà la môn, đạo sĩ thong dong lui tới đó đây, hoàn
toàn được tự do, được tôn trọng, lễ bái, cúng dường... Dân chúng ăn mặc
đẹp đẽ, trang trí vòng hoa, trân châu, lũ lượt tới các điểm giải trí, vui
chơi ở các nơi công cộng và hí trường.
Đây là thời đại cực thịnh của kinh đô Sàgala.
Hoàng cung có nhiều kho vàng, kho bạc, kho
đồng, kho gạo, kho vải vóc, lương thực, giáo mác, cung tên, thuốc nổ
v.v.., những loại ngọc cực qúi như ngọc mànì, nhà vua cũng có rất nhiều.
Các loại vải, gấm, lụa trứ danh như kasila, udubara, koseyya... là
thứ dùng hằng ngày của hoàng gia.
Kinh thành của đức vua Mi-lan-đà hưởng
phước cực kỳ sung sướng, được ví như Bắc-cu-lưu-châu hoặc như huê viên
Alakam Manda ở cõi trời cũng không ngoa vậy.
Về quốc độ thì như thế, còn về cá nhân thì
ngài có sức học uyên thâm, tài cao chí lớn, lại là người rất đạo đức nên
được quần chúng tôn sùng, ngưỡng mộ. Tài liệu sử sách còn ghi lại đầy đủ
về con người của vị vua ấy như sau:
- Đệ nhất về của cải, tài sản.
- Đệ nhất về quân binh như voi, ngựa, xe...
- Đệ nhất về trí tuệ.
- Đệ nhất về học giả.
- Đệ nhất về thông minh.
- Đệ nhất về sức mạnh, quyền uy.
- Đệ nhất về giọng nói trầm hùng, êm dịu.
- Đệ nhất về hiểu biết các tôn giáo, nhất là Phật giáo.
- Đệ nhất làm chủ trí thức và cảm xúc của mình.
- Đệ nhất về bác học.
Đã vậy, đức vua còn thông suốt 18 môn học nghệ:
1. Học tiếng muôn thú để đoán định tốt
xấu, lành dữ.
2. Học về đất đai, núi non, thảo mộc.
3. Toán học.
4. Biết rõ tất cả các nghề thợ.
5. Võ học.
6. Triết học, thắng luận.
7. Thiên văn.
8. Âm nhạc
9. Y khoa.
10. Nghệ thuật bắn cung.
11. Khảo cổ học.
12. Lịch sử, truyện tích, khẩu ngữ.
13. Khoa tử vi.
14. Rành rẽ về phân kim (biết vàng ngọc thật, giả).
15. Học về vật lý.
16. Học về chăn nuôi, nông nghiệp, làm vườn.
17. Binh pháp.
18. Văn học: sử truyện nhân gian, cú pháp, thể luật, văn thơ...
Toàn cõi châu Diêm-phù-đề khó tìm ra một
nhân vật trí tài như vậy.
* * *
Hôm kia, sau công việc triều chính mệt
mỏi, đức vua cùng đoàn quân ngự giá ra khỏi hoàng thành du ngoạn. Đến một
chỗ phong cảnh tươi thắm, hữu tình, đức vua ra lịnh dừng lại, xuống xe,
ngài thong dong cất bước đi dạo.
Ngồi nghỉ chân nơi một tảng đá, dưới tàn
đại thụ mát mẻ, đức vua ngước nhìn lên trời cao. Giữa bầu trời xanh biếc
dịu dàng, một vầng thái dương rực rỡ, huy hoàng, ngự trị giữa hư không
lồng lộng. Đức vua nhìn mặt trời rất lâu, đoạn nói chuyện với viên tướng
hộ giá:
- Này khanh! khanh có thấy mặt trời kia
không?
- Tâu, có thấy!
- Nó trấn ngự giữa hư không một cách đầy
uy lực, bất khả xâm phạm, khanh có cảm nghĩ thế chăng?
- Dạ, thưa có, tâu Đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà vỗ vai viên tướng một cách thân mật, cảm thán nói
rằng:
- Mặt trời rực rỡ kia là chúa tể của hư
không. Trí tuệ quang minh là chúa tể của chúng sanh các loài trong tam
giới. Khanh đã từng tòng chinh theo trẫm đi đây đi đó nhiều nơi; khanh
cũng đã từng mang lệnh của trẫm đi khắp kinh thành cùng các biên trấn xa
xôi. Vậy khanh hãy cố nhớ cho thật kỹ, xem có vị sa môn, bà-la-môn nào là
bậc đại trí thức, thống hiểu kinh pháp, làu thông kinh pháp; hoặc là người
đã tự mình tuyên bố, rằng là, đã đắc quả A-la-hán, đắc quả Phật? Trẫm muốn
diện kiến họ, đối thoại với họ hầu tăng trưởng kiến thức và trí tuệ. Nào,
khanh hãy cố nhớ lại xem?
Quả là thầy nào trò nấy, đức vua kiến thức
uyên thâm thì viên tướng hộ giá thân tín kiến thức cũng uyên thâm. Sau một
hồi suy nghĩ chín chắn, viên tướng tâu:
- Trước đây rất lâu xa, khi theo hầu chân
ngựa của bệ hạ đi vào xứ sở tôn giáo huyền bí này, hạ thần có nghiên cứu
qua sử sách tôn giáo của dân bản địa. Mấy ngàn năm trước đây, tu sĩ
bà-la-môn thọ trì và phụng hành theo kinh điển Phệ-đà; và có thể nói rằng,
tôn giáo này đã nắm độc quyền toàn bộ sinh hoạt tinh thần của xã hội Ấn.
Nhưng cách đây gần năm trăm năm, bộ tộc Sakya, dòng dõi Thái dương anh
hùng, đã xuất sanh được một vị Phật tên hiệu Sĩ-đạt-ta Cù-đàm, thì truyền
thống ngàn đời của bà-la-môn bị lung lay đến tận nền móng. Hiện tại ở xứ
sở này còn tồn tại đạo Phật ấy, đồng thời, tồn tại sáu tông phái ở trong
và ngoài truyền thống Phệ-đà...
Đức vua Mi-lan-đà khen ngợi và mắng yêu người bề tôi trung tín:
- Khanh thật giỏi, nhưng dài dòng quá.
Chuyện ấy thì trẫm cũng biết. Hãy nói tóm gọn coi nào?
- Dạ - Viên tướng kính cẩn cúi đầu - Sáu
vị giáo chủ ấy là: Pùrana Kassapa, Makkhalìgosàla, Niganthanàtaputta,
Sanjayabelatthaputta, Ajitakesakambala, Bakuddhakaccày- ana. Và hiện nay,
trong kinh thành có mặt môn đệ của sáu danh sư ấy đang triển khai tông
giáo, danh tiếng lẫy lừng, đồ chúng rất đông. Họ đều không phải là người
thiểu trí mà toàn là bậc thầy thiên hạ. Họ được mọi người cung kính, cúng
dường, tôn trọng. Bệ hạ có thể nào đến viếng họ, đáp vấn với họ vài điều
xem thử có chút kiến thức bổ dưỡng nào chăng?
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười hài lòng:
- Được lắm, khanh bàn rất hợp ý trẫm.
Thế rồi, người đầu tiên mà đức vua
Mi-lan-đà đến diện kiến là một vị chân sư, kế thừa giáo chủ Puràna
Kassapa. Sau khi yên vị chủ khách, đức vua kính cẩn hỏi rằng:
- Bạch thầy, chúng sanh đầy khắp trong ba
cõi, có sanh mạng, có y báo, có chánh báo, có đời sống giống nhau, khác
nhau, có sanh, có tử, có xuống, có lên... ở trong một luật tắc nào đó. Vậy
thầy có thể nào cho biết cái gì nuôi dưỡng chúng và hộ trì
chúng?
Vị chân sư mau mắn đáp:
- Tâu đại vương! Đại vương hãy nhìn xem
núi sông, muôn loài và cây cỏ; tất cả chúng có được từ đại địa, lớn lên,
trưởng thành từ đại địa! Vậy rõ ràng chúng sanh được nuôi dưỡng, được hộ
trì bởi đại địa là điều quá hiển nhiên rồi!
Đức vua giả vờ mỉm cười, gật đầu, rồi dường như hỏi sang chuyện khác:
- Cảm ơn thầy! Chẳng hay giáo lý của thầy
có nói đến những chúng sanh thống khổ ở các cõi địa ngục và ngạ quỷ chăng?
- Thưa có, tâu đại vương!
Đức vua bây giờ mới tỏ vẻ giận dữ, phất tay áo
đứng dậy:
- Vậy mà thầy dám bảo quả đất nuôi dưỡng
và hộ trì chúng sanh? Quả đất nuôi dưỡng, hộ trì chúng sanh sao lại để cho
chúng sanh đọa lạc vào các cảnh giới địa ngục và ngạ quỷ đầy thống khổ và
đau thương dường ấy?
Vị chân sư nín lặng.
Đức vua Mi-lan-đà cảm thán: "Chẳng lẽ nào chân sư thiên hạ mà hoang
vu và rỗng không như thế này sao?"
Viên võ tướng thấy vua buồn bã , lựa lời
khôn khéo nói:
- Kinh đô của Đại vương còn nhiều vị danh
sư khác nữa, biết đâu trong số họ sẽ có người làm vừa lòng Đại vương?
Nghe lời, lần này đức vua Mi-lan-đà tới
thăm viếng vị danh sư môn đệ của giáo chủ Makkhalìgosàla. Sau vài câu xã
giao khách sáo, đức vua đi vào đề:
- Bạch thầy, giáo pháp của thầy quan niệm
như thế nào về thiện, ác? Có nhân và có quả của thiện nghiệp và ác nghiệp
chăng?
Vị danh sư trả lời:
- Chẳng có đâu, tâu Đại vương! Chẳng có
thiện nghiệp và ác nghiệp. Quả tốt xấu của thiện nghiệp, ác nghiệp ấy cũng
không. Theo giáo pháp mà bần đạo đã tuyên thuyết thì người nào sanh ra
trong thế gian này được làm vua, khi chết sanh vào nơi khác cũng làm vua y
như thế. Tương tự, nếu đời này là bà-la-môn, thương gia, nông gia, kẻ hạ
tiện candàla, người đói khổ... khi tứ đại rã tan, tái sanh vào cảnh giới
khác cũng sẽ làm bà-la-môn, thương gia, nông gia, kẻ hạ tiện candàla,
người đói khổ giống như vậy. Chẳng có quả phước, quả tội tham dự vào đấy
để tạo nên vui hay khổ cho chúng sanh cả.
Đức vua đã cảm thấy bực mình nhưng vẫn nhẫn nại hỏi tiếp:
- Nếu không có quả phước tội, kiếp này
giống kiếp kia thì chắc hẳn tướng mạo của chúng sanh vẫn không thay đổi?
- Đúng là vậy, tâu Đại vương!
- Ví dụ, tướng mạo một người xấu xí, tật
nguyền hẳn kiếp sau cũng xấu xí, tật nguyền?
- Thưa vâng, tâu đại vương!
- Một tội nhân bị hành hình chặt tay, cưa
chân, bị treo cổ, bị chém đầu; kiếp sau sinh ra cũng phải bị chặt tay, cưa
chân, bị treo cổ và bị chém đầu như thế?
Vị danh sư gục gặc đầu:
- Quả đúng vậy, tâu đại vương!
Vua Mi-lan-đà vẫn trầm tĩnh, chậm rãi nói:
- Vậy muốn cho trẫm chấp nhận luận điệu
ấy, thầy phải bằng mọi cách giảng giải, phân tích, so sánh, ví dụ minh
bạch, cụ thể... cho trẫm nghe với nào?
Vị danh sư im lặng.
Đức vua bèn phản công:
- Thầy không đưa ra được à? Thầy chẳng có
cách gì để bảo vệ cho giáo pháp của mình được à? Thế thì chẳng khác gì
thầy đã nói dối? Đã võ đoán? Chỉ thuần túy là suy luận chứ không dựa trên
một sự thật nào cả?
Vị danh sư cúi đầu bối rối.
Đức vua dằn mặt:
-Trẫm đã hỏi thầy một cách rất nghiêm túc,
rằng là có nhân quả của các nghiệp thiện ác hay không! Câu hỏi ấy, đáng ra
phải được trả lời rất là dè dặt, cẩn trọng, vì nó ảnh hưởng to lớn đến đạo
đức con người, đến hạnh phúc của toàn xã hội. Thầy là một kẻ vô trách
nhiệm, thiểu trí, không có lương tri, không có trái tim; không thấy, không
biết lại dám đưa ra thuyết thường kiến làm băng hoại nhân luân và
đức lý trần gian! Trẫm tôn trọng sự tự do tín ngưỡng, tôn trọng sự lập
tông, khai giáo, tự do diễn thuyết, tự do ngôn luận và bảo vệ cả những tự
do ấy. Nhưng thầy hãy tự xét lại, suy gẫm lại giáo pháp của thầy có thật
sự hữu ích cho cuộc đời này không? Cái chủ trương của thầy với những quan
kiến phi
đạo đức ấy có phải là tung bóng tối va khổ đau lên cuộc đời vốn đã tối
tăm và đau khổ này không?
Đức vua Mi-lan-đà giận run nhưng vẫn làm chủ được tư tưởng và cảm xúc
của mình, không nói gì nữa, ngài lặng lẽ bỏ về hoàng cung, lòng vô cùng
sầu não.
Ít hôm sau, nỗi buồn lắng xuống, đức vua
lại ẩn nhẫn lặn lội đi đến giáo phái môn đệ của Niganthanàtaputta. Rồi lần
lượt là môn đệ của Sanjavabelatthaputta, môn đệ của Ajitakesakambala, môn
đệ của Pakuddhakaccàyana. Nhưng đức vua hoàn toàn thất vọng. Kẻ với thuyết
hoài nghi, bất khả tri; kẻ với thuyết nguyên tử,
những con số; kẻ với thuyết nhất nguyên vô ngã hay hữu ngã
v.v..., chẳng có giáo chủ, chân sư nào làm cho trí tuệ của đức vua hài
lòng.
Chán nản, đức vua lại quay qua chính sự,
tìm quên trong công việc, đọc kinh sách, suy gẫm, trầm tư; nhưng nhà vua
vẫn không chấm dứt được sự thao thức, xao xuyến và những nghi vấn về cuộc
đời. Có một cái gì đó rất bí mật, rất huyền nhiệm đằng sau sự sống, sự
chết của con người! Hiện tại trong tay đức vua có đầy đủ tất cả mọi quyền
lực. Ngài đã từng là một tướng lãnh bất khả chiến bại, là một vị đế vương
oai hùng chẳng ai dám sánh. Mọi kẻ thù đều cởi giáo quy hàng. Mọi lân bang
đều triều phục. Quốc khố sung mãn châu báu, sung mãn khí giới, vật thực.
Quân binh, voi, ngựa, xe kiêu hùng và vô địch. Danh vọng cao sang phủ trùm
mọi châu lục. Thế nhưng, nhà vua vẫn cảm thấy trống không, cô đơn, vô
nghĩa lý. Những vấn nạn không cơ hóa giải vẫn ngày đêm nhức nhối khối óc
và trái tim của ngài. Có cái gì đó không bao giờ với tới được, chập chờn,
ma mị, khuấy rối cả trong giấc ngủ của vị đế vương.
* * *
Nhân một đêm trăng sáng, đức vua Mi-lan-đà
đi thơ thẩn dạo chơi trong vườn thượng uyển. Một làn gió mát mẻ thoảng
qua, hương thơm vi diệu của nhiều loài hoa cực quý đưa tới. Đức vua cảm
thấy tinh thần thư thái, ngài bước đi lặng lẽ dưới ánh trăng vằng vặc, lại
suy nghĩ:
- "Ôi!
Đêm thanh, trăng tỏ, gió phơi phới mát lành, hương kỳ hoa thơm ngát...!
Vậy đây đâu phải là thời mà ta dạo chơi trống không vô vị như thế này? Đây
là thời phải lẽ nhất để cho ta đi hỏi đạo nơi các bậc thượng sĩ, đạt đức,
cao nhân! Nhưng mà môn đệ của sáu giáo chủ hữu danh nhất trong thiên hạ,
ta đã gặp rồi. Những lời giải đáp của họ không làm cho lỗ tai ta hoan hỷ;
không làm cho trái tim của ta bao dung, dịu dàng; không làm cho trí óc của
ta được cởi mở, khoan khoái. Cái trí tuệ và mớ kiến thức nhạt nhẽo của họ
không xứng đáng để ta mất thì giờ vô ích.
Ôi! Vậy cõi Diêm-phù-đề này còn bậc đại ẩn
sĩ nào chăng? Quốc độ này chẳng lẽ không có một sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ
nào thành đạt trí tuệ cao thượng quả vị A-la-hán, quả vị Phật ... để ta
đến thăm viếng, cung kính, lễ bái, tôn trọng, cúng dường hay sao? Chẳng
còn ai phá nghi cho ta, giảng giải những chỗ uyên áo, tế vi mà ta hằng
thao thức hay sao? "
Hôm kia, sau buổi thiết triều, đức vua ân
cần đem tâm sự trên nói với bá quan, nhưng mọi người chỉ lặng lẽ đưa mắt
nhìn nhau.
Một vị lão thần tâu:
- Ngoài sáu phái hữu danh ở trong và ngoài
truyền thống Phệ-đà, còn có đạo Phật rất thịnh hành, chùa chiền và Tăng lữ
đông đúc, chẳng hay...
Đức vua khoát tay, đứng dậy:
- Khanh đừng nói nữa! Hầu như trẫm đã đi
thăm viếng hết rồi tất cả những ngôi chùa hữu danh, sa môn hữu danh...! Kẻ
thì tinh thông pháp học nhưng không có pháp hành, người thì chuyên về pháp
hành, không biết gì về pháp học. Nhưng những pháp học của họ cũng khả nghi
bởi những kiến thức chắp vá, vay mượn từ nhiều chủ thuyết khác nhau. Đa
phần là hữu danh vô thực hoặc có chút kiến thức chứ không có trí tuệ. Nói
tóm lại, thật là hoang vu và rỗng không trong các tu viện, tự viện, am
thất, chùa chiền... Hầu hết là cái giá áo, túi cơm; xuất gia tu học chỉ để
thừa tự tài lộc, vật thực... mà thôi!
Nói xong, nhà vua thở dài.
Thế rồi, bắt đầu từ dạo ấy, miệng truyền
miệng, tai truyền tai, thủ đô Sàgala vắng bặt không còn một sa môn nào dám
lai vãng. Sáu phái hữu danh lập căn cứ địa mấy trăm năm ở đây cũng "chuồn"
về phương khác. Tất cả chùa chiền, am thất... trống không Tăng lữ, và
thiện nam tín nữ, theo đó chẳng còn ai tới lui.
Suốt mười hai năm ròng rã, nghe đâu có bậc
đại trí là đức vua tìm đến, rồi sau đó lặng lẽ trở về với bước đi nặng nề
hơn, phiền muộn hơn.
Các sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ lần lượt bỏ
kinh đô Sàgala cùng đế quốc của đức vua, tìm chỗ khác trú thân hoặc ẩn
trốn vào non sâu tuyết lãnh.
Ai cũng sợ đức vua Mi-lan-đà tìm đến hỏi
đạo!?
2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN
Trong lúc ấy, tại Hy-mã-lạp-sơn, ở hang
động Rakkhi--ta kỳ vĩ, rộng lớn, xinh đẹp như cõi trời, có mấy chục vị
A-la-hán ngụ cư, họ sống tương ái, tương kính, hòa hợp như nước với sữa,
đang thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả. Hôm kia, sau khi xuất định, vị
đại trưởng lão Assagutta hướng tâm đến thế gian, ngài thấy rõ chuyện đức
vua Mi-lan-đà đã dùng uy lực của trí tuệ, uy lực của kiến thức đa diện áp
đảo sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ trong cõi Diêm-phù-đề. Nếu tình trạng ấy kéo
dài thì Phật pháp chắc sẽ bị lu mờ và tiêu vong.
Hôm kia, đại trưởng lão Assagutta triệu
thỉnh tất cả chư vị A-la-hán tụ tập trên đỉnh núi Yugandhara, kể lại
chuyện vua Mi-lan-đà, tình trạng Chư Tăng, các hàng cận sự nam nữ vắng mặt
trong tất cả chùa chiền, am thất, tu viện, tự viện..rồi kết luận như sau:
- Vậy thì có vị đại đức nào có thể nhiếp
phục đức vua bằng trí tuệ của mình, có thể giải đáp tất cả mọi câu hỏi để
phá nghi cho đức vua; soi rọi, dẫn lối cho đức vua thấy rõ chánh pháp; làm
cho đức vua ấy phát khởi lòng tin để nâng đỡ, hộ trì Phật giáo thì hãy
đứng lên nhận lãnh sứ mạng cam go này?
Đại trưởng lão Assagutta hỏi đến lần thứ ba, hội chúng thánh nhân vẫn
im lặng. Ngài biết rằng chư vị A-la-hán này thành tựu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát nhưng sở học, kiến thức, tuệ phân tích, biện tài, biện
thông...chẳng thể nào so sánh nổi với đức vua Mi-lan-đà, bèn gợi ý:
-Trên cõi trời Đao-lợi có một vị thiên tử
tên là Mahàse--na, ở trong cung vàng Ketumatì, phía trước bảo điện của Đế
thích Thiên chủ. Vị thiên tử Mahàsena ấy có trí tuệ vượt bậc, có thể đàm
luận, tranh biện để giải nghi, giải vấn tất cả mọi thắc mắc cho đức vua
Mi-lan-đà.
Ngài đại trưởng lão vừa nói xong, với tâm
biết tâm, tất cả Thánh chúng A-la-hán đồng từ giã tuyết lãnh, bay lên
Đao-lợi thiên cung với thời gian như viên lực sĩ duỗi cánh tay.
Đức Đế-thích trông thấy chư tỳ khưu Tăng như đám mây lành đồng giáng
hạ, vui mừng đến cung nghinh, đảnh lễ rồi quỳ bên chân đại trưởng lão
Assagutta, bạch rằng:
-Hôm nay, chẳng hay quý ngài có nhân duyên
gì mà đồng vân tập về trú xứ của con? Con đang sẵn sàng nghe lời dạy bảo
của quý ngài.
Đại trưởng lão Assagutta bèn kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà , với nỗi
lo ngại sự suy tàn của giáo pháp, vì trong toàn cõi Diêm-phù-đề chẳng ai
có khả năng đối thoại được với đức vua ấy.
Vua trời Đế thích nghe xong, hỏi rằng:
- Đức vua Mi-lan-đà ở kinh đô Sàgala kia,
phải chăng vừa từ cõi trời Đao-lợi này mà sanh xuống?
- Đúng thế!
Vua trời Đế thích gật đầu:
- Vậy thì đúng rồi! Trí tuệ của đức vua
Mi-lan-đà quả thật thế gian không có người "thứ ba"!
Đại trưởng lão Assagutta mỉm cười:
- Bần tăng cũng biết vậy nên đã đồng quy
tụ về đây, những mong Thiên chủ giúp đỡ triệu thỉnh thiên tử ở trong cung
vàng Ketumatì giáng sanh xuống cõi trần! Chỉ có vị thiên tử ấy may ra mới
có đủ trí tuệ sắc bén để đối thoại, giải vấn cho đức vua Mi-lan-đà mà cứu
nguy cho chánh pháp.
Đế thích Thiên chủ nói:
- Con xin vâng mệnh. Vậy xin cung thỉnh
qúi ngài cùng với con sang cung điện của thiên tử Mahàsena.
Đến nơi, sau khi chào hỏi xong, Đế thích Thiên chủ giới thiệu chư vị
Thánh Tăng từ Tuyết sơn, kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà rồi kết luận
rằng:
- Quý ngài đã không quản tuổi già sức yếu,
cỡi gió đạp mây lên đây với lòng thành thỉnh nguyện thiên tử hạ sanh cõi
trần, ở đấy Phật giáo đang gặp nạn, phải nhờ trí tuệ của thiên tử may ra
mới phục hưng được chánh giáo.
Thiên tử Mahàsena nghe xong, với tâm dửng
dưng nhìn ra xa đáp:
- Tâu Thiên chủ! Hạ thần không còn một mảy
may xúc động tham muốn gì trong việc tái sanh kia nữa. Vả, cõi người
thường bận rộn trong việc nuôi mạng, vui ít khổ nhiều, lại đầy trược hạnh.
Vậy xin Thiên chủ rộng lòng thông cảm, hạ thần đã chán sinh tử, thường
mong hóa sanh vào các cõi tịnh cư, đắc thánh quả rồi Niết bàn luôn ở đấy.
Đại trưởng lão Assagutta lên tiếng thuyết phục:
- Thiên tử nói rất đúng! Tử sinh đáng
chán, phiền não nên lìa. Hơn một trăm năm qua, bần tăng ở nơi hoang sơ
cùng cốc, chuyện thế gian thật không còn dính một hạt bụi, đáng ra là phải
Niết bàn lâu rồi, nhưng còn cố duy trì thọ mạng là vì một chút nhân duyên
với chánh pháp. Phật tổ xuống trần cũng vì sự khổ đau của sanh loại. Lẽ
nào thiên tử lại làm ngơ trước cảnh Chư Tăng phải trốn vào rừng sâu? Bao
nhiêu am thất, chùa chiền, tu viện, tự viện hoang vắng? Hằng vạn cận sự
nam nữ không có chỗ nhờ nương? Lẽ ra thiên tử phải phát tâm bi mẫn mới
đúng! Lại nữa, Ngũ tịnh cư thiên là nơi thọ hưởng về quả của định tứ
thiền, chẳng phải là nơi có thể tu tập sung mãn về phước, về tuệ, để đến
chỗ giải thoát; ngoại trừ một số vị chứng quả Bất lai, không tu tập mà
dòng tâm vẫn trôi chảy về Niết bàn. Sự thật ấy thiên tử nên hiểu cho chính
xác. Chính ở cõi người có khổ, có vui, có vô thường, vô ngã, v.v... thiên
tử mới dễ tu tập, mới dễ hiện quán để chứng ngộ đạo quả tối hậu là sở
nguyện đã muôn triệu năm của thiên tử vậy.
Lời nói đầy đủ tình lý, kinh cảm từ tâm,
mở phơi chánh đạo, làm cho thiên tử Mahàsena vô cùng phấn khích, ngài qùy
xuống dưới chân đại trưởng lão Assagutta, kính cẩn nói rằng:
- Vậy là ngài đã mở mắt và soi tỏ con
đường cho con đi, ân đức ấy con chẳng thể nào đáp đền được; con nguyện
thực thi theo lời dạy bảo của ngài hạ sanh xuống cõi trần vì lợi ích cho
bao người mà cũng vì lợi ích cho con để con đầy đủ khả năng tuệ giác hầu
nhiếp phục đức vua Mi-lan-đà và chấn hưng giáo pháp.
Chư vị Thánh Tăng cùng Thiên chủ Đế thích
vô cùng hân hoan. Thế rồi, mỗi vị A-la-hán chia phước trí theo cách riêng
của mình, từ giã cõi Đao-lợi bay về tuyết lãnh Hymalaya.
Khi Chư Tăng đã quy hội đầy đủ trên đỉnh
núi Yuga-ndhara, ngài Assagutta chợt hỏi:
- Thưa chư đại đức! Trong cuộc hội họp vừa
rồi, có ngài tỳ khưu nào vắng mặt chăng?
Một vị tâu:
- Kính bạch tôn giả! Đại đức Rohana đang
nhập đại định bảy ngày trong hang động là không đến hội họp.
- Vậy phiền hiền giả cho mời đại đức ấy
đến đây.
Trong lúc ấy, tỳ khưu Rohana vừa xả diệt
định, hướng tâm đến, biết đại hội Thánh nhân A-la-hán đang cho triệu thỉnh
mình, bèn tức khắc rời hang động, hiện diện ngay trước mặt Chư Tăng. Sau
khi đảnh lễ chư vị trưởng lão, đại đức Rohana ngồi qua một bên.
Các vị trưởng lão hỏi rằng:
- Này hiền giả Rohana! Trước khi nhập định
diệt, thọ tưởng bảy ngày, hiền giả có hướng tâm quán xét việc gì sẽ xảy ra
trong bảy ngày ấy không?
Đại đức Rohana bước ra, quỳ bạch:
- Thưa quý ngài trưởng lão, vì không quán
xét nên con không biết.
Chư vị trưởng lão ngồi im lặng.
Một vị trưởng lão nói rằng:
- Vì không biết cho nên không cố ý, không
cố tình; không cố ý, không cố tình vậy không có tội.
Đại đức trưởng lão Assagutta nhè nhẹ gật đầu.
Một vị trưởng lão lại nói:
- Trong lúc chánh giáo đang gặp đại nạn,
bần tăng đề nghị từ nay trước khi thọ hưởng hạnh phúc giải thoát, dầu thời
hạn 3 ngày, qúi ngài cũng nên quán xét việc gì sẽ xảy ra trong thời gian
ấy.
Chư Tăng đồng ý ý kiến ấy bằng cách làm
thinh.
Đại đức Rohana tâu:
- Thưa qúy ngài trưởng lão, con có phạm
tội, tội gây ra dù không cố ý; vậy con xin nhận hình phạt do Tăng quyết
định, hành phạt tương đương với tội "không cố ý" ấy!
Chư Tăng đồng nở nụ cười hàm tiếu, im
lặng.
Đại trưởng lão Assagutta hỏi:
- Này hiền giả Rohana! Trong mười pháp
ba-la-mật, hiền giả thành tựu chưa được thuần thục, viên mãn là ba-la-mật
nào?
- Thưa tôn giả kính mến! Ba-la-mật kém
nhất của con là tinh tấn và nhẫn nại.
Đại trưởng lão Assagutta hội ý với các vị trưởng lão một lát rồi nói
với đại chúng rằng:
- Ở xứ Katangala, phía xa dưới chân ngọn
tuyết lãnh này, có người bà-la-môn tên là Sonuttara, sẽ sanh hạ một đứa
con tên là Na-tiên, hậu thân của thiên tử Mahàsena. Vậy cảm phiền đại đức
Rohana hãy dùng hạnh ba-la-mật tinh tấn và nhẫn nại ấy đi gieo duyên, trì
bình khất thực nơi nhà bà-la-môn ấy, cho đủ kỳ hạn bảy năm và mười tháng.
Sau đó tìm cách độ cho trẻ Na-tiên xuất gia. Đấy chính là hình phạt cao
thượng mà tôi đề nghị dành cho ngài Rohana, chẳng hay Chư Tăng có chuẩn y
không?
Chư Thánh Tăng thảy đều im lặng chấp
thuận.
Đại đức Rohana qùy bạch:
- Hình phạt ấy con rất hoan hỷ, nhờ vậy,
con sẽ bổ sung được công hạnh ba-la-mật của chính con.
* * *
Đấy là thời mà thiên tử Mahàsena rời khỏi thiên cung, gá vào thai bà vợ
của ông bà-la-môn Sonuttara, là hương trưởng của xứ Katagala. Ngay lúc ấy,
thế gian xuất hiện ba hiện tượng lạ thường:
- Tất cả khí giới phát lên chói sáng.
- Không phải mùa đông mà mưa tuyết rơi.
- Khắp trên không trung nổi lên những
tiếng vang động.
Các nhà tinh thông điềm triệu bèn giải
rằng:
- Khí giới phát sáng là sẽ có một
cuộc chiến tranh sắp xảy ra , nhưng là cuộc chiến tranh , luận tranh do
khí giới kiến thức và trí tuệ chói sáng.
-
Không phải mùa đông mà mưa tuyết rơi
là một hiện tượng nghịch lý, đảo lộn sự tuần hòan của vũ trụ, vậy thì phải
có một nhân cách phi phàm, người mà không phải người xuất
hiện trên trần thế.
- Sự xuất hiện của vị ấy, đấng ấy, không
những chỉ lợi ích cho con người mà còn lợi ích cho rất nhiều cõi trời.
Về phần đại đức Rohana, sau khi thọ nhận
hình phạt cao thượng, ngài bộ hành đến xứ Katangala. Sau khi tìm hiểu dân
tình, ngài biết rằng, thôn làng này là xứ sở ngoại giáo rất thịnh hành.
Muốn sống được ở đây, hóa đạo ở đây thì ngài phải kiên trì tinh tấn và
nhẫn nại bất thối chuyển.
Tìm được một khu rừng mát mẻ tốt tươi,
không gần mà cũng không xa xóm làng, đại đức Rohana chuẩn bị một cuộc ngụ
cư lâu dài. Sau khi thu xếp được chỗ ở dưới bóng hai tàn cây đại thụ,
trong một động đá thiên nhiên, đại đức Rohana lấy cỏ tranh kết tọa cụ rồi
đi vào đại định, nghỉ ngơi dưỡng sức.
Mấy hôm sau, xả diệt định khi vầng thái
dương vừa ló dạng ở chân trời, đại đức Rohana đắp y mang bát hướng đến
làng Katangala. Rồi tuần tự nhà này sang nhà kia cho đến gia đình ông
bà-la-môn Sonuttara; nhưng ở đâu cũng bị đóng cửa hoặc đưa mắt nhìn hờ
hững, khinh thị, chối từ...Mỉm nụ cười của bậc Thánh ở trong tâm, đại đức
Rohana trở lại khu rừng u tĩnh của mình, kiếm lá cây, trái cây ăn tạm rồi
vào động đá thọ hưởng hạnh phúc giải thoát...
Những ngày hôm sau đều như vậy, với khuôn
mặt từ bi, hiền hòa, với bước đi thanh thoát, trầm tĩnh, đại đức Rohana
xuất hiện trước cửa mọi nhà; rồi lại với bát không, nhận lãnh những đôi
mắt thiếu thiện cảm, vài lời nói xa gần chỉ trích, phỉ báng... rồi lại
lặng lẽ đi về, ăn lá cây, trái cây và thiền định. Cuộc sống đều đặn như
vậy trôi qua, các gia đình trong làng lần lượt thương mến, quý trọng vị sa
môn hiền lành, họ cúng dường cơm, sữa, đường, mật ong...; và bao giờ nhận
được vật thực gì, ngài đều đọc tụng lên một lời phúc chúc ngắn rồi bước
sang một nhà khác.
Dù nắng nóng nung người, mưa gió bão bùng
hay đông hàn tuyết rơi; đại đức Rohana vẫn tinh tấn, chuyên cần, nhẫn nại,
xuất hiện trước cửa mọi nhà như một chiếc đồng hồ chính xác nhất. Ngài
không hề bỏ một ngày trong suốt 7 năm 10 tháng ròng rã như thế. Cả làng
Katangala đều được đại đức Rohana cảm hóa, thỉnh thoảng có vài gia đình
thỉnh ngài về nhà để bát và xin được nghe pháp. Đặc biệt, gia đình ông
bà-la-môn Sonuttara vẫn đóng kín cửa trước bước chân của ngài suốt bảy năm
mười tháng, đại đức Rohana không hề nhận được dầu chỉ một lời nói dễ nghe,
một biểu hiện thân thiện, một sự kính trọng xã giao nào nơi nhà người
bà-la-môn ấy. Một vá cơm, một muỗng cháo, một cái bánh... lại càng không!
Ngài chỉ nhận được lời chưởi chó, mắng mèo, lời rầy la con cái, lời thô lỗ
cộc cằn, lời nói đâm xóc, cạnh khóe, chửi mắng, phỉ báng v.v...
Hôm kia, theo lệ thường, đại đức Rohana ôm
bát đứng trước ngôi nhà ấy, gia chủ bà-la-môn Sonuttara đi vắng, một người
nô bộc cảm thấy tội nghiệp lén bước ra nói nhỏ nhẹ rằng:
- Bạch ngài, xin ngài vui lòng đi độ thực
nơi khác, khổ thân ngài thôi, gia đình này họ không dâng cúng chút gì đâu.
Nghe được vậy, đại đức Rohana hoan hỷ mỉm
cười dời chân đi. Sau khi khất thực vừa đủ dùng, ngài trở lại khu rừng.
Bà-la-môn Sonuttara sau công việc trở về, gặp ngài ở giữa đường, cất giọng
mỉa mai:
- Này ngài tu sĩ, sáng nay đứng trước cửa
nhà tôi, chắc ngài có nhận được chút gì đó chứ?
Đại đức Rohana cất lời nhã nhặn:
- Thưa gia chủ qúi mến! Cảm ơn lời chào
hỏi, sáng nay, quả thật bần tăng có nhận được!
Nghe vậy bà-la-môn Sonuttara tức giận, hối
hả bước về, kêu cả nhà ra hạch hỏi xem ai là người cả gan trái ý ông, đem
dâng cúng vật thực cho ông sa môn. Khi biết rằng, chẳng có ai đem cho gì
cả, ông bà-la-môn giận run lẩy bẩy: "hoá
ra là ông này nói dối, ta sẽ mặt đối mặt chỉ trích ông ta một phen."
Sáng mai, vừa thấy bóng đại đức Rohana,
bà-la-môn Sonuttara đã đứng chặn ở đầu ngõ, kêu mọi người trong xóm ra
chứng kiến, rồi ông ta chất vấn:
- Ông thầy tu kia, hôm qua, ở tại đây,
chẳng có ai để bát cúng dường gì cho ông cả, thế tại sao gặp tôi, ông lại
nói dối là "có nhận được"?
"có nhận được"
cái gì nào, trước mặt bà con lối xóm, ông hãy nói rõ cho tôi nghe?
Đại đức Rohana điềm đạm nói:
- Thưa gia chủ, bần tăng không hề nói dối,
quả thật, hôm qua bần tăng có nhận được.
- Gia đình tôi chẳng ai cho thì ông nhận
được gì? Tu hành mà nói dối thế sao?
Đại đức Rohana ngước nhìn mọi người xung quanh với tư thái trầm thản
rồi nói với bà-la-môn Sonuttara:
- Gia chủ hãy bình tĩnh nghe bần tăng nói
đây. Bần tăng đến ngôi làng này tính đến nay là bảy năm mười tháng. Suốt
trong thời gian ấy, bần tăng đều đặn đi khất thực mỗi ngày, không bỏ một
ngày, dù thời tiết khắc nghiệt thế nào chăng nữa. Nhờ ơn Phật, bà con
trong làng đã khởi tín tâm, hộ trì vật thực cơm cháo đầy đủ. Nhưng riêng
gia đình gia chủ đây, gần ba ngàn ngày ấy, bần tăng vẫn kiên trì khất thực
- mà bần tăng không hề nhận được một muỗng cháo, một vá cơm hoặc một chút
vật thực dính trên đầu ngọn cỏ kusa! Cho chí một lời xã giao, một lời nói
nhỏ nhẹ, dễ nghe... cũng không có! Lỗ tai bần tăng chỉ nhận được những lời
cay chua, độc địa, những lời nói cạnh khóe, ác khẩu, ác ngữ...; thế nhưng,
sáng hôm qua, bần tăng có nghe được một lời nói nhã nhặn, lễ độ... của một
người tớ gái, cho nên bần tăng rất hoan hỷ, rất cảm ơn. Vậy thì thưa gia
chủ, bần tăng nói với ngài là "bần
tăng có nhận được" là đúng với sự
thực, đâu phải là lời nói dối?
Nghe xong câu chuyện, bà con trong xóm rất
cảm động trước lời nói của vị chân tu. Riêng ông bà-la-môn Sonut--tara thì
kinh cảm đến từng chân tơ kẻ tóc, lòng bừng bừng hoan hỷ, nghĩ rằng: "Chỉ
với một lời nói dễ nghe mà ông ta đã tỏ vẻ cảm ơn như thế ấy, huống hồ ta
thành kính cúng dường cơm bánh vật thực thượng vị thì ông ta sẽ thỏa thích
và tri ân gia đình ta đến chừng nào?"
Nghĩ thế xong, bà-la-môn Sonuttara chăm
chú quan sát đại đức Rohana, ngạc nhiên làm sao, khi ông thấy vị sa môn
kia sao thanh khiết quá, đức hạnh quá. Khuôn mặt vị ấy như tỏa ra ánh sáng
dịu hiền, đôi mắt từ bi, dáng dấp ung dung, siêu thoát, tự tại, lục căn
buông xả và nhàn tịnh. Một niềm tịnh tín dâng lên, một niềm hỷ lạc dâng
lên, ông bà-la-môn bèn bước đến, quỳ mọp bên chân đại đức Rohana, kính cẩn
bạch rằng:
- Hôm nay con đã có tâm trong sạch với
ngài, xin ngài hãy khoan thứ những tội lỗi do con đã mạo phạm. Vậy bắt đầu
từ đây về sau, xin ngài vì lòng bi mẫn hãy thương tưởng đến con, tế độ con
bằng cách cho con được cúng dường mỗi bữa!
Đại đức Rohana im lặng nhận lời.
* * *
Khi câu chuyện xảy ra ở trên, đồng tử
Na-tiên do thiên tử Mahàsena hạ sanh, sau mười tháng trong thai bào, bây
giờ đã được bảy tuổi. Bà-la-môn Sonuttara cho mời một thầy ba-la-môn uyên
bác đến dạy học. Họ sữa sọan bàn ghế, trải những tấm thảm quý để chuẩn bị
cho lớp học khai tâm.
Nhìn vị đồng tử tướng mạo phi phàm, thầy
A-đồ-lê soạn ba bộ kinh Phệ-đà rồi lần lươt đọc tụng lên, xem thử trí nhớ
của trẻ như thế nào! Hễ cứ đọc một đọan, thầy bảo Na-tiên đọc lại và
Na-tiên đọc không sai một chữ. Kinh ngạc, thầy A-đồ-lê đọc tiếp. Suốt nửa
tháng, ba bộ kinh Phệ-đà mới đọc xong và Na-tiên đã thuộc nằm lòng.
Thầy A-đồ-lê giảng giải:
- Đấy là tất cả kinh điển của giai cấp
thượng đẳng bà-la-môn, con đường đến Phạm thể, những đức tính cao cả cùng
những tri thức minh triết trên đời này mà một con trai bà-la-môn thông
thái phải am tường. Kỳ lạ làm sao, con đã học thuộc, vậy bây giờ hãy nghe
ta giảng đây.
Nửa tháng sau thì Na-tiên đã thông suốt
tam Phệ-đà, dẫu thầy A-đồ-lê hỏi xuôi ngược, hỏi nghĩa đen, nghĩa bóng, ẩn
dụ, đoản ngôn,v.v... Na-tiên đã trả bài làu làu không vấp váp.
Bất đồ, Na-tiên hỏi lại thầy:
- Kính thầy A-đồ-lê! Tam Phệ-đà là ba con
đường dẫn đến Phạm thể, đấng vô thượng chí tôn! Tri thức của thầy thông
thái như vậy, nhưng con đường thực hành thì như thế nào? Thầy lựa chọn con
đường nào?
Thầy bà-la-môn nín lặng.
- Hoặc là thầy đã từng thấy đấng Sáng tạo
chủ, Hóa sanh chủ ấy chưa?
Để cho vị thầy già bối rối với những câu hỏi, đồng tử Na-tiên đi đến
gặp bà-la-môn Sonuttara:
- Thưa cha! Con không học nữa. Tri thức
Phệ-đà thật vô ích vì chính thầy dạy học của con cũng không biết đấng Phạm
thể ấy là thế nào, và cũng chưa từng chứng nghiệm hạnh phúc thể nhập Đấng
Ây ra sao?
Bà-la-môn Sonuttara sững người, ông cũng
không biết ăn nói làm sao với con, đành nói át:
- Nhưng con cần phải học nữa.
Đồng tử Na-tiên lễ độ:
- Vâng, thưa cha, con sẽ học, nhưng không
biết là còn phải học những gì nữa?
- Con phải học chữ, học viết; và cần phải
học năm bộ sách nữa.
- Thưa cha! Học chữ, học viết thì không
cần nữa, vì một tháng nay con đã tự học rồi. Còn năm bộ sách kia là những
bộ sách gì?
Bà-la-môn Sonuttara lại cầu viện thầy
A-đồ-lê giảng giải về năm bộ sách ấy như sau:
1. Về phúng tụng, nghi lễ.
2. Về thiên văn địa lý.
3. Xem xét thế giới, đức Iso và sự sáng tạo núi sông, cây cỏ, muôn
loại...
4. Đoán mộng, xem tướng.
5. Vệ sinh thường thức như: rửa mặt, tắm, thọ dụng vật thực, đại tiểu
tiện v.v...
Đồng tử Na-tiên chăm chú nghe xong, hỏi:
- Thưa cha! Năm bộ sách ấy đã có viết sẵn
chưa?
- Có viết sẵn, và gia đình chúng ta cũng
có thờ năm bộ ấy.
- Vậy xin cha hãy trả thù lao hậu hĩ cho
thầy dạy học của con. Bắt đầu từ nay con có thể học được.
Thế rồi, trước sự sững sờ, kinh ngạc của
mọi người, đồng tử Na-tiên ôm năm bộ sách, xin ở nơi một căn nhà trống
trong khu vườn xinh đẹp để đọc, nghiên cứu, học tập. Trọn cả bảy ngày như
vậy, Na-tiên chỉ rời sách khi dùng cơm và khi ngủ.
Sau khi nắm trọn vẹn cả năm bộ sách,
Na-tiên bần thần suy nghĩ:
-"
Có lợi ích gì đâu là những môn học này? Ngoại trừ về vệ sinh thường thức,
còn ngoài ra chúng trừu tượng, xa vời so với đời sống, sự sống của con
người. Nó chẳng cho ta hiểu rõ về nguồn gốc của sinh tử và nỗi khổ đau
chung của sanh loại. Ôi! Thật là rỗng không và phù phiếm thay?"
Suốt trong thời gian ấy, đại đức Rohana đã
lui tới thường xuyên nơi ngôi nhà này, nhận sự cúng dường những món ăn
thượng vị của bà-la-môn Sonuttara . Và hình bóng ngài đã trở nên thân
thiết, ấm cúng cho mỗi người trong gia đình. Ngài theo dõi sự học tập và
tâm tư của đồng tử Na-tiên trong mỗi ngày. Ngài biết rằng Na-tiên do nhờ
công hạnh và trí tuệ tu tập nhiều kiếp theo Chánh pháp, vững chắc chánh
kiến, nên những tư tưởng ngoại giáo thật khó tương ưng. Và hiện giờ
Na-tiên đang chán nản, sầu muộn, hoài nghi. Biết vậy, như lực sĩ với cánh
tay duỗi, đại đức Rohana đã xuất hiện trước mặt đồng tử Na-tiên với dung
nghi chói sáng, với đôi mắt từ bi và nụ cười hiền dịu.
Vừa thấy ngài, đồng tử Na-tiên tâm phát
sanh phỉ lạc, hân hoan nghĩ rằng: "Ta
từng thấy vị chân tu này mà chưa được đối mặt, chưa được hầu chuyện với
ngài. Ôi! Được đáp vấn với ngài vài câu chắc lợi ích cho ta lắm."
Bèn kính cẩn nói:
- Bạch tôn trưởng! Tại sao tôn trưởng có
phẩm mạo và y phục khác với kẻ thế?
Đại đức Rohana thân ái ngồi xuống một bên:
- Này con thân! Vì ta là kẻ xuất gia!
- Người xuất gia là gì?
- Là người tình nguyện lìa bỏ gia đình,
quyến thuộc, tài sản, vợ con; sống đời đi xin ăn rày đây mai đó, chẳng có
trú xứ nhất định, chẳng có nhà cửa, mái che; chỉ mang theo bên mình ba y
và cái bát khất thực.
- Xuất gia như vậy có lợi ích gì không,
thưa tôn trưởng?
- Có chứ! Có lợi ích nhiều lắm chứ con!
Người xuất gia thường lánh xa điều ác, thường bỏ dữ làm lành, thường sống
đời rỗng lặng, thanh tịnh, không có khổ đau, phiền muộn.
Đồng tử Na-tiên suy nghĩ hồi lâu, lặng lẽ gật đầu ra chiều đã lãnh hội,
rồi hỏi tiếp:
- Tại sao tôn trưởng phải cạo bỏ râu tóc?
Đại đức Rohana ân cần giải thích:
- Người xuất gia vì muốn sống đời giải
thoát như hư không nên phải cạo bỏ râu tóc; vì cạo bỏ râu tóc là muốn
tránh tất cả những công việc bận rộn vô ích sau đây:
1. Tốn tiền và mất thì giờ do kiếm thợ
cắt tóc và gội đầu.
2. Tốn tiền và mất thì giờ do mua trâm cài tóc, bối tóc, cột tóc hoặc
chải tóc.
3. Tốn tiền mua hương liệu, dầu thơm và mất công xoa ướp.
4. Tốn tiền và mất công mua hoa kết làm tràng hoa.
Ngoài ra, muốn cho đầu tóc được đẹp người
ta còn trang điểm bằng những đồ trang sức như vàng, bạc cùng những loại đá
qúy khác nữa. Vậy, nhờ tránh những bận rộn ấy mà người xuất gia có nhiều
thì giờ dành cho sự tu tập đó con!
Nhè nhẹ gật đầu, Na-tiên hỏi tiếp:
- Còn tại sao lại mặc y nhuộm bằng vỏ cây,
rễ cây?
- Cũng tương tự như cạo bỏ râu tóc vậy,
nghĩa là tránh những bận rộn do kiếm vải vóc, tốn tiền, tốn thời gian may
vá, tìm kiếm thuốc nhuộm v.v..., áo quần đẹp như kẻ thế lại còn tốn thời
giờ sửa soạn thân thể, vật trang điểm, vật thoa, vật thơm cùng những phiền
phức khác nữa...
- Con hiểu! Quả là mất thì giờ vào những
việc phù phiếm ấy thì không đáng tí nào! Tất cả những lời nói của tôn
trưởng đều rất hay, đều rất hợp với sở thích của con. Vậy chẳng hay tôn
trưởng có thể chỉ dạy cho con phương pháp tu tập cao thượng như của tôn
trưởng chăng?
Đại đức Rohana mỉm cười:
- Có thể được, con ạ! Nhưng có điều khó
khăn, không biết con có vượt qua được chăng?
- Con sẽ cố, thưa tôn trưởng!
- Là con phải dứt bỏ tất thảy các điều bận
rộn như ta nói ở trên; nghĩa là phải xin phép cha mẹ cạo bỏ râu tóc, mặc y
nhuộm bằng vỏ cây thô xấu cho đúng với phẩm mạo của người xuất gia; sống
không nhà cửa, đi theo ta mới mong thực hành, tu tập theo pháp môn cao
thượng của ta được.
Nghe lời đại đức Rohana, đồng tử Na-tiên
ôm năm bộ sách về trả lại trên bàn thờ, ngồi lặng lẽ, buồn bã, bỏ ăn, bỏ
ngủ. Bà-la-môn khi hiểu được ý định xuất gia của con trai, tự nghĩ: "Nếu
cho nó đi xuất gia theo vị sa môn khả kính kia cũng là điều hay; khi lớn
tuổi, khôn ngoan, hiểu biết, ta lại bắt về, lo gì!"
Thế là đồng tử Na-tiên được phép gia đình
đi theo đại đức Rohana, bắt đầu con đường tôi luyện, tu tập, hy vọng sau
này trở nên một pháp khí đại dụng cho chánh pháp thời pháp nạn.
* * *
Hai thầy trò lầm lũi đạp tuyết dầm sương
nhắm hướng Hymalaya đi thẳng. Thấy đồng tử Na-tiên còn quá nhỏ sợ không
kham nổi nắng gió đường xa nên đại đức Rohana cho nghĩ chân tại chùa Niya
Vijambùvatthu để dưỡng sức. Mấy ngày hôm sau họ mới tới được hang động
Rakkhita kỳ vĩ, nơi ẩn cư của hội chúng Thánh nhân A-la-hán .
Đồng tử Na-tiên thấy càng lúc càng đi sâu vào núi non cheo leo hiểm
trở, khí lạnh buốt xương, rất nhiều loại thú rừng hoang dã lui tới đó đây,
bèn cảm thấy sợ hãi. Đại đức Rohana trấn an:
- Cả hàng trăm vị ẩn sĩ đang sống rất yên
lành, thú dữ ở đây chúng không làm hại ai cả.
Họ bước vào một hang động thiên nhiên hùng
vĩ, không khí mát mẻ tỏa ra. Rất nhiều vị Thánh A-la-hán ngồi yên lặng
thiền định, thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả trên những tảng đá bằng
phẳng trơn tru.
- Hiền giả đã làm xong bổn phận và đã về
rồi đấy à, Rohana?
Một vị Thánh Tăng mày bạc như hai vệt
tuyết, người gầy khô, khẳng khiu nhưng cứng cáp như một cỗi tùng già, mở
mắt cất tiếng hỏi.
Đại đức Rohana dẫn đồng tử Na-tiên đến quỳ tâu:
- Thưa vâng, con đã thi hành xong hình
phạt cao thượng, và đây là đồng tử Na-tiên!
Đại trưởng lão quan sát trẻ một hồi rồi nói:
- Hạnh Ba la mật tinh tấn và nhẫn nại của
hiền giả rõ ràng là đã thành tựu viên mãn, bần tăng xin chúc mừng hiền
giả.
- Con không dám!
- Hình phạt tuy đã xong, nhưng hiền giả có
nhân duyên làm thầy hòa thượng tế độ và làm thầy giáo thọ cho đồng tử
Na-tiên nữa đấy!
- Con xin vâng!
Thế rồi, buổi chiều, đồng tử Na-tiên được
cạo tóc, mặc chiếc y thô xấu, xuất gia làm sa di với sự chứng minh của hội
chúng Thánh nhân A-la-hán, thầy tế độ là hòa thượng Rohana.
Sau khi làm lễ xuất gia xong, ngài đại
trưởng lão Assagutta vân du về chùa Nìyaka mà ngài từng ở trước đây, các
vị A-la-hán khác chia nhau đi nhiều phương hoặc dời vào các hang động sâu
trong tuyết sơn.
Sa di Na-tiên liền tâu với đại đức Rohana:
- Phẩm mạo xuất gia con đã làm xong rồi,
vậy xin tôn trưởng chỉ giáo cho con phương pháp tu tập cao thượng.
Đại đức Rohana nghĩ thầm: "Sa di
này có trí nhớ phi phàm, hy vọng y sẽ thuộc nằm lòng được Thắng nghĩa
pháp. Nhờ làu thông tạng Thắng nghĩa này, sau này sẽ là kho tàng trí tuệ
để y tranh luận với đức vua Mi-lan-đà."
Rồi ngài nói:
- Này Na-tiên con! Giáo pháp đầy đủ gồm có
3 tạng, tổng cọng kinh chữ viết trên lá buôn, số lượng rất kinh khiếp, 16
con voi kéo cũng không hết! Ây là tạng Kinh, tạng Luật và tạng Thắng nghĩa
pháp hay là Vi diệu pháp. Bắt đầu từ hôm nay, ta sẽ dạy con học tạng Vi
diệu, là tạng khó nhất, con có kham nhẫn được chăng?
- Con sẽ cố gắng!
- Tốt. Bắt đầu từ ngày mai, chúng ta sẽ ra
bãi cát ven suối, học tại đấy!
Thế rồi, tuần tự, đại đức Rohana tụng đọc,
viết, cắt nghĩa bảy bộ Abhidhamma cho sa di Na-tiên cùng với những giảng
giải cặn kẽ, chi tiết:
Dhammasanghanì:
Bộ pháp tụ.
Vibhangha: Bộ phân tích.
Dhàtukathà: Bộ chất ngữ.
Puggala pannati: Bộ nhân chế định.
Kathàvatthu: Bộ ngữ tông.
Yamaka: Bộ song đối.
Patthànamahàpa karana: Bộ vị trí.
Suốt mấy năm trường sa di Na-tiên chuyên
cần học Vi diệu tạng. Khi đã học thuộc lòng cả bảy bộ, Na-tiên thưa với
thầy:
- Bạch tôn trưởng! Ngài dạy cho đệ tử như
vậy là đã quá nhiều, chưa cần thiết phải dạy thêm. Hãy cho đệ tử suy gẫm
giáo pháp cao siêu này cho tới nơi tới chốn.
Cũng trong thời gian này, đại đức Rohana
cặn kẽ chỉ dạy cho Na-tiên cách đi đứng nằm ngồi, mặc y, mang bát; cách
cung kính, lễ bái các vị trưởng lão, cách sống với chúng ở giữa rừng núi,
ở giữa phố thị, làng mạc v.v... Mỗi mỗi oai nghi, hành động, ăn nói phải
cẩn trọng, thu thúc, gìn giữ như thế nào để cho xứng đáng phẩm hạnh của
một sa môn. Na-tiên đã được dạy sơ về một số giới luật như thế, thêm một
số kinh căn bản, vài pháp môn hít thở, thiền định, thiền quán v.v...
Khi đã đến tuổi thiếu niên, có lẽ đã suy
gẫm sâu xa