1. Gặp Hoà thượng lần đầu tiên.
Gặp lần thứ hai như “tìm được bảo
vật”.
Tôi được gặp Hoà thượng lần đầu vào
năm 1976. Lúc đó Ngài không giảng dạy gì, chỉ bảo chúng tôi tinh tấn niệm Phật.
Người bạn đồng học ở BAN VĂN HOÁ PHƯƠNG ĐÔNG thuộc TRƯỜNG ĐẠI HỌC CHÍNH TRỊ
cùng đi với tôi cảm thấy vô cùng thất vọng. Theo lời loan truyền, Hoà thượng là
một nhân vật truyền kỳ, nhưng khi hội kiến thì thấy bình thường, không có gì khác
lạ. Chúng tôi không ngại xa xôi mà đến, nhưng khi trao đổi với Người vài câu
đều lấy làm thất vọng. Trong bọn tôi có một anh tự cho mình học rộng biết
nhiều, nói: “Hoà thượng già một chữ không biết, có thể dạy được gì! “Chúng tôi
mê muội nên trong bụng cũng nghĩ như vậy, - như người có mắt hỏi đường người mù
thì biết được gì! Thế là hứng chí khi đến, cụt hứng khi về.
Năm sau tôi tham gia Hội niệm Phật
do Hoà thượng Sám Vân tổ chức ở Đài Bắc trong bảy ngày. Ngài Sám Vân rất mực
kính trọng Hoà thượng Quảng Khâm. Sau khi mãn khoá niệm Phật, một đoàn đông đảo
bảy, tám chục người lên chùa Thừa Thiên thăm viếng Hoà thượng. (Lúc bấy giờ
chùa Thừa Thiên xây cất rất đơn sơ, chỉ có vài phòng tăng, không huy hoàng
tráng lệ như ngày nay).
Nơi phương trượng của Hoà thượng,
cả trong lẫn ngoài người ta đông nghẹt. Có người đến để xin chỉ dạy, có người
vì hiếu kỳ mà đến, cũng có kẻ lên núi chơi tiện đường ghé lại.
Hoà thượng ngồi trên ghế mây, im
lặng; Pháp sư Sám Vân bước vào, hướng dẫn đoàn tới đảnh lễ Hoà thượng, sau đó
mọi người ngồi xuống trên nền đất. Pháp sư Sám Vân và Hoà thượng thăm hỏi nhau
xong, cả phượng trượng yên lặng... Hoà thượng thần sắc tươi vui, có vẻ người
rất hài lòng. Thấy tất cả im lặng, người nhìn đại chúng hỏi:
“Các vị đã hoàn mãn tuần niệm Phật,
đã tìm thấy bảo vật, được của báu nên đưa ra phụng hiến,... nào nói đi chứ!”
Nghe Hoà thượng nói như vậy người
này nhìn người kia như bảo nhau: được của báu không phải là tôi, vị nào được
của báu vậy? mau trình ra, không thì thật là xấu hổ! Sau một hồi đưa mắt hỏi
nhau, rốt cuộc chúng tôi – hàng ngay bàn chuyện trời đất, giảng kinh nói pháp
làu làu – đến lúc này chẳng ai thốt ra được nửa lời kinh kệ.
Trong khi mọi người im lặng, không
khí trở nên nặng nề, bỗng nhiên có tiếng Nam-mô A-Di-Đà Phật” từ miệng một tỳ
kheo ni phát ra, mọi người liền quay đầu lại chăm chú nhìn vị tỳ kheo ni trẻ
tuổi, xem xem vị thần thánh nào thốt lên như sư tử hống vậy! Rồi lại đưa mắt
nhìn về phía Hoà thượng, xem Ngài ứng xử thế nào. Chỉ thấy Hoà thượng lắc đầu
chỉ tay vào một em bé trước mặt nói:
- Câu ấy em bé ba tuổi cũng có thể
nói được.
Tiếp đó, không khí trở lại trầm
lặng như trước, chỉ thấy Hoà thượng, qua đôi mắt sáng chiếu tựa hồ như dò hỏi
ai là người giấu của báu mà chẳng trình ra cho người khác xem, - người đó là ai?
- Nào, nói đi... nói đi chứ!
Hoà thượng như một lão tướng từng
trải trăm trận, binh đến dưới thành, lão tướng đích thân chỉ huy.
Trườc ánh mắt long lanh và giọng
nói kiên quyết thúc bách của Hoà thượng ai nấy bặt tiếng như ve mùa đông, cảm
thấy hơi thở mình dồn dập. Lúc ấy tôi mới nhận ra, đây không phải là thư sinh
luận chiến mà đúng là giữa chiến trường đầy gươm giáo. Nếu không thực sự tôi
luyện công phu ắt không đủ bản lĩnh để xông pha trận mạc.
Có vị tỳ kheo ngồi phía trước, như bị
Hoà thượng để mắt chú ý làm cho thân thể mất tự nhiện; vị tỳ kheo động thân …
đắn đo vài giây … rồi như kẻ “dấu đầu lòi đuôi”, trình ra bài kệ:
Quá khứ tâm bất khả đắc
Hiện tại tâm bất khả đắc
Vị lai tâm bất khả đắc.
过去心不可得
现在心不可得
未来心不可得
Hoà thượng nghe xong nét mặt vẫn điềm nhiên, nói:
- Chúng ta đóng cửa lại nói với
nhau, ta không nên cho rằng chiếc áo này (Người chỉ chiếc áo tu sỹ trên mình)
tùy tiện mà mặc được, mặc chiếc áo này một cách chân chính không phải là dễ!
Sau đó bầu không khí lại một lần nữa tĩnh lặng. Hoà thượng thấy mọi người không
ai còn trình ra của cải gì nữa, Người vẫn với ánh mắt sáng nhiếp phục, vui vẻ
hiền từ nói:
- Người xưa “đả Phật thất” [ niệm
Phật bảy ngày ] đúng kỳ thì chứng nghiệm, nếu đúng kỳ hạn mà không chứng nghiệm
hoá ra “nhờ Phật để có ăn” hay sao? (tức là mượn cớ niệm Phật để được ăn cơm).
– Dừng lại vài giây Hoà thượng nói tiếp:
- “Đả Phật thất” mà mong được cái
gì như vật báu là tham. Mọi người đến đây với tôi, cứ tưởng có được cái gì đó
mang về, ấy cũng là tham.”
Người chưa dứt lời, tận cuối phòng có hai
người rỉ tai nhau, có vẻ như nói lén rằng “chúng mình không tìm được bảo vật,
Hào thượng bảo đưa bảo vật ra xem, Hào thượng có bảo vật mà còn đòi bảo vật của
chúng ta, ấy chẳng phải là hai lần tham?” Lời rỉ tai vừa xong, Hoà thượng như biết
mà không để ý, nói tiếp:
- Nếu ai nghe mà hiểu lời tôi nói,
thì bảo vật đặt trước mắt ắt lấy được ngay; còn nghe mà không hiểu, không nhận
ra, thì dù có hai tay bưng dâng trước mặt cũng chẳng có được gì...
Hoà thượng nói chưa dứt lời bổng có
một người trẻ tuổi nói:
- Xin thưa, Hoà thượng có lần chuỗi
hạt không?
- Không!
Thấy Hoà thượng không đeo tràng hạt
anh ta cụt hứng, nhìn sang Pháp sư Sám Vân bên cạnh tay đang lần chuỗi hạt niệm
Phật, anh chuyển hướng nhắm mũi tên sang Pháp sư, lém lỉnh hỏi: “Thưa Pháp sư,
Ngài có lần chuỗi hạt không?” – Pháp sư đáp giọng chắc nịch:
- “Có!”
Anh chàng thanh niên nói một cách
tỉnh bơ:
- Ngài cho tôi tràng hạt. – Pháp sư
đáp:
- Tôi đang niệm phật, không thể cho
anh. Nếu tôi cho anh, anh không được vứt nó đi. – Anh thanh niên chìa tay ra
nói xẵng:
- Đưa tràng hạt đây!
Tiếng nói như còn bên tai,
bổng Hoà thượng chỉ thanh niên bảo:
- Hiện anh đang niệm đấy!
Tức thì anh chàng thanh niên
nọ mất hẳn khí sắt kiêu ngạo, im lặng không nói lời nào.
Hai vị Pháp sư đã đồng diễn “quảng
trường thiệt” [ lưỡi Phật ], từ không nhập có; từ có nhập không, phối hợp
có-không chặt chẽ, sự việc diễn ra làm cho mọi người vô cùng tán thán.
2. Chúng sanh bệnh, Pháp sư cũng
bệnh
Vào khoảng năm 1978, nghe nói Hoà
thượng pháp thể suy yếu, Người tỏ ý muốn vãng sanh Tây Phương, đại chúng trong
chùa rất lo lắng, mời lương y lên núi bắt mạch cho Hoà thượng. Người không muốn
làm náo động đại chúng, tăng chúng khẩn cầu đôi ba lần Người mới miễn cưỡng để
cho bác sỹ chẩn đoán. Sau khi cẩn trọng xem mạch cho Hoà thượng bác sỹ tỏ vẻ
rất ngạc nhiên, ông ta bắt mạch nhiều lần…, vừa như lắng nghe vừa như trầm ngâm
suy nghĩ, cuối cùng phát biểu: “Mạch của Hoà thượng hoàn toàn không giống mạch
người thường, nhưng không chẩn đoán ra bệnh gì”. Hoà thượng mĩm cười chỉ chúng
đệ tử đang quỳ trước mặt, nói với lương y:
- Họ đều có bệnh, tiện thể nhờ xem
mạch cho họ luôn.
Ai nấy đều lấy làm lạ nhìn Hoà
thượng, nhưng cùng mỉm cười cảm thấy trong lòng bớt lo. Sự việc có vẻ giống như
trong kinh Tịnh Danh, khi ngài cư sỹ Duy Ma nói: “Chúng sanh có bệnh, tôi cũng
có bệnh!”. Theo lời vị Pháp sư trong chùa thì Hoà thượng có lần bảo rằng khi
Người vãng sanh Người sẽ thị hiện bệnh tướng, cõi Ta-bà quá khổ, chần chừ ở đây
chịu sao nổi?
Nghe tin Hoà thựơng bệnh, mọi người
theo nhau lên núi thăm. Pháp sư Sám Vân cùng chúng đệ tử cũng vội vàng lên núi “thỉnh
Phật trụ thế”. Khi chúng tôi gặp Hoà thượng thấy Người đang ho từng cơn, ho
xong lại khạc nhổ, nhưng chẳng thấy nhổ ra vật gì. Có lúc Người nói một câu mà
phải dừng ngắt mấy lần, cơ thể rung giật theo từng cơn ho, ai nhìn thấy cũng
xót xa. Ngài Sám Vân và đại chúng đồng thanh khẩn cầu Hoà thượng từ bi nghĩ đến
chúng sanh đau khổ, trụ thế thêm vài năm nữa. Hoà thượng nói Người không thể tự
làm chủ được, thân xác Người như ngôi nhà gạch mục nát, dù có gắng gượng duy
trì thì chỉ một cơn gió to ập đến cũng không thể nào chịu nổi, chi bằng đi sớm
một chút, hoán chuyển một thân thể “chắc như xi măng cốt thép” mà trở lại mới
có thể hoằng pháp lợi sanh. Nghe thế ai cũng hết sức năn nỉ, vì nếu Người có
trở lại thì ít nhất cũng phải mất hai mươi năm, trong hai mươi năm ấy chúng
sanh biết nương tựa vào ai; thiết tha xin Người ở lại thêm vài năm nữa. Hoà
thượng bảo đơn điền của Người đã hết khí lực, nói không ra tiếng mong gì đáp
ứng nhu cầu của chúng sanh, gắng gượng ở lại cũng vô nghĩa. Mọi người lại van
xin Hoà thượng lưu lại, chỉ cần Người yên tĩnh ngồi đó, vô hình trung cũng đủ
làm tăng trưởng niềm tin cho đại chúng. Cứ như thế, mỗi người góp một câu… cho
đến giờ ngọ trai mà Người vẫn tỏ ý không trụ thế nữa. Pháp sư Sám Vân quyết
định tổ chức “Tuần niệm Phật Dược Sư tiêu tai diên thọ” (Tiêu tai diên thọ Dược
Sư Phật Thất) tại chùa Thừa Thiên để cầu an cho Hoà thượng, sau đó Pháp sư bước
vội sang trai đường.
Trong lòng ai nấy đều mang tâm trạng bất an. Thế rồi đang giữa giờ cơm, một vị
tỳ kheo ni vẻ mặt hớn hở tới trước ngài Sám Vân thưa nhanh: “Kính bạch Pháp sư,
Hoà thượng nhận lời không đi, lại còn mời Pháp sư khai khoá ‘ Đả Phật Thất ‘ [
Tuần niệm Phật bảy ngày ], có điều là Hoà thượng bảo tốt nhất nên khai khoá
niệm Phật A-Di-Đà“.
Mọi người nghe nói đều mừng rỡ, bất
luận là khoá lễ niệm Phật Dược Sư hay niệm Phật A-Di-Đà đều được cả, miễn sao
Hoà thượng chịu ở lại là qúy nhất. Lúc ấy ai cũng ăn ngon miệng, trút hết nỗi
ưu uất bất an từ trước. Có người sốt ruột, lên lầu xem bệnh tình Hoà thượng thế
nào, thấy Người đang ung dung đi tản bộ bên ngoài phương trượng...
Đó là nhân duyên Pháp sư Sám Vân mở
“Tuần niệm Phật” ở chùa Thừa Thiên và cũng là nhân duyên chúng tôi được gần gũi
Hoà thượng, được biết thêm về cuộc đời của Người.
3. Một cuộc sống nghèo khổ; một
cuộc lữ hành gian nan
Hoà thượng Quảng Khâm sanh ngày 26
tháng 10 âm lịch, năm Quang Tự thứ 18 (1892), đời nhà Thanh. Người họ Ngô, quê
huyện Huệ An, phủ Chương Châu, tỉnh Phúc kiến. Gia đình rất nghèo, lúc Người
lên 3-4 tuổi, ông anh cả cưới vợ mà không có tiền, Người bị đem bán cho gia
đình họ Lý ở Tuyền Châu, huyện Tấn Giang. Nhà họ Lý làm nghề nông, trồng cây ăn
trái trên sườn núi tạm sống qua ngày. Cha mẹ nuôi không có con nối dõi nên xem
Người như con ruột. Lúc nhỏ Người rất yếu đuối và nhiều bệnh tật. Cha mẹ nuôi
rất lo lắng, để cầu an cho con, họ bèn theo tập tục dân gian đem Người đến ngôi
chùa Quan Âm gần đó khấn dâng cho Bồ Tát Quan Âm làm con nuôi. Việc làm này
chính là nhân duyên trọng yếu của Người đối với Bồ Tát.
Người vốn có tuệ căn tiền kiếp, do
vì mẹ nuôi ăn chay nên năm lên bảy cậu bé cũng tự nguyện nhất định ăn chay theo
mẹ. Đến năm 1900, cậu lên chín tuổi, bất hạnh mẹ nuôi qua đời, hai năm sau cha
nuôi cũng tạ thế. Trong một thời gian rất ngắn vô thường đã cướp đi những người
thân yêu nhất. Cậu bé tứ cố vô thân, không còn nơi nương tựa, thể lực lại yếu
đuối, côi cút giữa cõi đời không biết đi về đâu! Đợi khi an táng cha mẹ cậu
xong, những người bà con sắp xếp cho cậu đi Nam Dương sinh sống. [ Nam
Dương: chỉ chung các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông. ND ]
Ban đầu Người đi làm thuê như quét
dọn, nấu cơm cho tiệm buôn để đủ sống qua ngày. Tuổi lớn dần, thân thể và khí
lực tăng trưởng, Người nhập theo thiên hạ kết đội lên núi đốn cây mở rừng, tuy
rất vất vả nhưng kiếm khá nhiều tiền và tương đối tự do.
Một hôm, chiếu theo tiền lệ, đến
thời gian giải việc ra về; trong lúc ai nấy chuẩn bị lên “xe đẩy” để xuống núi
Người bỗng trực giác biết ngồi xe như vậy không an toàn, liền cảnh báo mọi
người không nên đi xe. Nhưng vì ai cũng nôn nóng về sớm, cho lời nói của Người
là vu vơ, không ngờ chiếc xe đẩy sau đó bị tai nạn lật lăn xuống hố. Ai cũng
cho là điều kỳ lạ. Ở trên núi tuy Người làm việc rất cực nhọc nhưng vẫn giữ một
mực ăn chay. Sau khi xảy ra biến cố ấy người ta nửa đùa nửa thật bảo: “Anh đã
kiên trì ăn chay như vậy, lại biết trước việc như thần sao không trở về lại
Tuyền Châu đi tu?” Đó chỉ là lời nói đùa, nhưng Người tỉnh mộng! Hồi tưởng lại
cha mẹ nuôi lúc sinh tiền đang tuổi tráng niên mà chết là chết, mình đây sớm
muộn gì cũng phải đi theo con đường ấy! Sao lại phải đi con đường lẩn quẩn?
Thế là Người thu xếp hành trang trở
lại cố hương, quyết chí xuất gia.
4. Hai mươi tuổi xuất gia, quyết
tâm tu khổ hạnh.
Năm 1911 Sư 20 tuổi, vào chùa Thừa
Thiên phủ Tuyền Châu xin xuất gia. Thừa Thiên Thiền Tự là một ngôi chùa của đế
vương, rất cổ kính. Tương truyền chùa này xây vào thời vua Anh Tông, niên hiệu
Chánh Thống nhà Minh (1436 – 1449) cách đây trên 500 năm, đất rộng 36 hecta.
Lúc bấy giờ có một vị Cần Vương sinh dã tâm, thấy nơi này phong thuỷ cực tốt và
đất rộng, mưu đồ chiếm lấy để dựng cơ nghiệp đế vương. Nhưng trong điện thiếu
nước, theo phép thuật trong một đêm phải đào cho được 100 cái giếng, nếu không
thì nghiệp đế chẳng thành. Cần Vương bèn chọn ngày tốt và tuyển thợ đào giếng...,
thấy nước vọt lên ông ta rất mừng, không ngờ ào đến cái 99 thì gà gáy sáng, mặt
trời ló dạng; ông ta hoảng hốt toát mồ hôi lạnh, chỉ vì một cái giếng chót chưa
xong mà nghiệp đế trong giây phút trở thành bào ảnh. Cần Vương than tiếc tự biết
phước đức không đủ, bèn đem phụng hiến để làm chùa đặt tên là Thừa Thiên Thiền
Tự.
Chúng tôi dường như có duyên nên
nới đến chùa Thừa Thiên tham quan. Thấy bảng tên chùa chung quanh chạm hoa văn
hình rồng, trên có hai chữ “Sắc Tứ”, chính giữa bốn chữ lớn “Thừa Thiên Thiền
Tự” đứng xa cũng có thể đọc được. Không thể nào qua tấm biển trên cửa chùa mà
biết được truyền thuyết nói trên là thật hay giả; dù sao nhờ sự tích ấy mới rõ
chùa có nguồn gốc lâu đời: truyền thuyết thì đượm màu sắc thần bí và trong chùa
thì còn lại rất nhiều di tích cổ. Hai bên con đường lát đá cổ kính có hai tháp
cao sừng sững, một trong hai cái là “Tháp Phi Lai” mang tính truyền kỳ. Hai
tháp quy mô cân xứng đối diện nhau; tuy bề ngoài giống nhau nhưng Tháp Phi lai
quanh năm sạch sẽ một hạt bụi cũng không bám, còn tháp kia đầy dẫy những phân
chim, bụi đắp như trát phấn, thấy mà chẳng nỡ nhìn. Khách hành hương đến đây ai
cũng dừng lại suy nghĩ, không hiểu lý do vì sao như vậy. Chùa này có tám cổ
tích, như “Nguyệt đài đảo ảnh” (Bóng trăng phản chiếu), “Thạch quy thực mễ”
(Rùa đá ăn gạo), “Sư tử thổ yên” (Sư tử phun khói), “Thạch mai hoa hương” (Hoa
mai đá tỏa hương thơm), “Nhất trần bất nhiễm” (Một hạt bụi không dính), “Long Vương
Tỉnh” (Giếng Long Vương), “Anh ca thổ vụ” (Anh Vũ phun sương). Thiên hạ ai cũng
thích nói đến những kỳ quan sống động ấy. Tiếng đồn càng lan xa càng làm tăng
thêm tính chất thần kỳ.
Ngày nay người ta chỉ còn ngậm ngùi
hoài cổ, không biết căn cứ vào đâu để khảo chứng. Duy những cái không bị huyền
thoại làm biến dạng đó là kiến trúc hùng vĩ, trong chùa có Thiền đường, Niệm
Phật đường, Pháp đường, Tổ đường, Khách đường hoành tráng, Đại Điện có thể chứa
ngàn người, tăng chúng thường trú có hơn 600 người, quả là một “Tòng lâm cổ sát”
oai nghi.
Khi chưa vào tu trong chùa Thừa Thiên, Sư đã tự nhủ lòng: mình phước đức còn
kém, nếu xuất gia tu chưa đắc đạo mà nhận của thập phương cúng dường một cách
rộng rãi, e rằng không báo đáp nổi khiến cho đạo nghiệp khó thành. Do vậy,
trước khi vào chùa Sư quyết chí rèn luyện giảm ăn bớt ngủ, mỗi ngày chỉ ăn một
bữa, ngủ dưới gốc cây chứ không ngủ nghỉ trên giường chiếu, giữ được như thế
rồi mới xuất gia làm tăng. Sau khi xuất gia, Người quyết tâm khổ hạnh, ăn những
món mà Người khác không thèm ăn, làm những việc mà người khác không muốn làm.
Chùa Thừa Thiên lấy tám chữ “Phật Hỷ Chuyển Thụy Quảng Truyền Đạo Pháp”
佛喜转瑞广传道法)
để truyền thừa Pháp mạch. Lúc bấy giờ vị trụ trì chùa Thừa Thiên là Ngài Chuyển
Trần, còn Sư Quảng Khâm là đệ tử của Pháp sư Thuỵ Phương – tu khổ hạnh. Từ chỗ đó
mà biết được sở nguyện của Người.
Pháp sư Thụy Phương tu khổ hạnh quá
khắc khổ nên đã viên tịch lúc còn trẻ tuổi. Sư Quảng Khâm tuy là đệ tử của Pháp
sư Thuỵ Phương nhưng được sự dạy dỗ của Hoà thượng Chuyển Trần. Hoà thượng biết
căn cơ Người thâm hậu, về sau ắt sẽ là long tượng của pháp môn, do vậy mà Hoà
thượng khẩn thiết sách tấn và thường xuyên trực tiếp chỉ dạy cho Người.
Một hôm đại chúng đi lao động ngoài
triền núi, đến gần trưa sắp trở về chùa thì nghe tiếng bản gõ báo ngọ trai. Vì
chùa đông người thực phẩm cung ứng khó khăn nên thường ngày phải hạn chế trong
khẩu phần ăn uống. Bữa ăn lỏng bỏng không đủ chất dinh dưỡng, chúng lại phải ra
sức làm việc trên đồi núi, ai nấy đều đói đến đầu óc choáng váng, cho nên khi
nghe báo giờ ăn mọi người chẳng màng thu dọn dụng cụ đua nhau về trai đường.
Lúc đó Người cũng muốn mau theo chúng tăng về trai đường nhưng bị Hoà thượng
Chuyển Trần gọi lại bảo phải gom hết dụng cụ trả lại chỗ cũ. Lúc đó Người đã rất
đói bụng, tay chân bải hoải, hai mắt lờ đờ mất thần. Tuy vẫn thu dọn đồ đạc
nhưng trong lòng chán ngán, nghĩ bụng: làm việc vất vả như thế này, ăn cơm thì
toàn rau, lại phải chịu cảnh như vầy, sao mà khổ quá! Tâm sân liền khởi, “bất
kể ba bảy hai mốt”, “Hòa thượng cũng chẳng thèm làm”, thẩn thờ bước đi ra ngoài
núi... Đi chẳng bao xa, lòng thổn thức: “Chẳng phải vì ta đã quyết chí tu khổ
hạnh ngõ hầu thoát khỏi luân hồi sinh tử nên mới xuất gia hay sao? Nay chỉ vì
một chút khổ nhọc cỏn con mà nao núng chí khí, há chẳng phải là làm trái với ý
nguyện ban đầu?” Ngay sau tiếng nói tự đáy lòng ấy người bỗng thấy ý chí vươn
cao, lập tức sự mệt mỏi, sự đói khát, sự bất mãn đều tan biến. Người liền đến
trước Hoà thượng Chuyển Trần xin nhận chỉ thị. Hoà thượng cho phép Người theo
chúng vào trai đường và dặn dò một câu: “Ăn cái người không ăn, làm cái người
không làm, về sau con sẽ rõ.” Từ đó về sau Người càng khắc khổ tự rèn, chẳng
dám khởi niệm thoái chuyển.
Người từ nhỏ chưa từng được giáo dục, ngay cả chữ viết to cũng chỉ đọc được năm
ba chữ; không biết giảng kinh cũng chẳng rành gõ mõ tụng niệm, thường bị người
khác xem thường, tự mình cũng cảm thấy buồn bực. Nghĩ trong lòng: tuy đã nhịn
ăn, nhịn ngủ, nhịn mặc nhưng không có cách gì để trên thì đền ơn Tam bảo, dưới
thì hoá độ chúng sanh! Thế là Người quyết tâm gieo phước để báo ân.
Hàng ngày đợi đại chúng ăn xong
Người lượm những hạt cơm rơi rớt trên bàn, dưới đất, không rửa hay nấu lại, cứ
để vậy mà ăn. Nếu có các bậc Đại đức Cao tăng từ xa đến, Người hầu trà, dâng
nước rửa mặt, khăn tay, giày dép, đổ nước bẩn đã giặt rửa... Tất cả các việc
nặng nhọc như khuân vác, bửa củi, nấu cơm, lau chùi, quét dọn... Người đều cật
lực đảm đương mà không một tiếng than phiền.
5. Thường ngồi không nằm, Niệm Phật
chứng đạo
Người làm việc nặng nhọc, tu phước
trên mười năm, sau được giao lo việc hương đèn. Mỗi ngày thức khuya dậy sớm
trông lo Đại Điện qua các việc như hương, đèn, hoa, quả cúng Phật; đồng thời
đánh bản báo thức chúng dậy tu tập. Có lần Người ngủ quên, đánh bảng trể 5
phút, tự nói trong lòng rằng 600 người cùng tu, mỗi người trễ 5 phút, cộng lại
hơn 3000 phút, hậu quả này làm sao gánh nổi! Bèn quỳ trước cửa chánh điện sám
hối với mọi người. Người có tinh thần trách nhiệm rất cao, tự trách lỗi mình
rất nghiêm khắc, từ đó về sau ngày ngày Người ngồi trước Phật đài, không dám lơ
đễnh; vì trong lòng luôn cảnh giác một đêm Người thức dậy năm sáu lần, do quá
thận trọng mà nửa thức nửa ngủ, để rồi mặc nhiên trở thành người “không hề đặt
lưng lên đơn”.
Năm 1933 Người đã đến tuổi trung
niên mà vẫn chưa thọ cụ túc giới. Từ ngày xuất gia cho đến nay đã được hai mươi
hai năm rồi! Sở dĩ Người trì hoãn việc thọ giới là vì nghĩ mình chưa đủ đức hạnh
để gánh vác sự nghiệp của Như Lai, sợ rằng trên thì lừa đối Phật dưới thì gạt
gẫm chúng sinh; ngoài thì bội thầy phụ bạn, trong thì phụ chính bản tâm. Mãi
đến khi tinh tấn hành lễ Phật thất ở Cổ Sơn Tự chứng được niệm Phật tam-muội
Người mới dám tự nguyện gánh vác sự nghiệp Như Lai, đến chùa Long Sơn thọ đại
giới, từ đó vân du tự tại. Người ta cho rằng nhờ theo phái thiền Lâm Tế mà
người chứng đắc, thực ra trước đó Người đã nhờ niệm Phật mà chứng Tam-muội, sau
mới tham thiền. Cảnh giới mà Người thấy khi hành lễ Phật thất ở Cổ Sơn Tự chúng
ta chỉ biết được đôi chút nhờ cuộc đối thoại giữa Người với một ngoại kiều.
Người chơn chất khiêm cung trả lời thắc mắc của đồng đạo ngoại kiều từ xa xôi
đến: “Lúc bấy giờ, trong tiếng niệm Phật bỗng nhiên thân tâm trở nên tịch tĩnh
như đang ở trong cảnh giới xa lạ; mở mắt thấy hoa nở-chim hót, gió thoảng-cỏ
lay, tất cả đều hoà nhập với tiếng niệm Phật–niệm, Pháp-niệm Tăng. Trạng thái này
kéo dài liền trong ba tháng không gián đoạn”.
Trong “Kinh Phật nói về A-Di-Đà” có
đoạn:” Lại nữa, này Xá Lợi Phất, cảnh giới ấy thường có các loài chim kỳ diệu
đủ màu, bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca-lăng-tần-già cùng chung sống.
Các loài chim này ngày cũng như đêm cùng cất tiếng ca thanh thoát, âm thanh
diễn tả tuyệt vời các pháp ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo
phần. Chúng sanh trong cõi đó nghe hoà âm như vậy rồi, tất cả cùng niệm
Phật-niệm Pháp-niệm Tăng”.
Lại nói: “Này xá Lợi Phất, cõi Phật
ấy gío nhẹ thoảng lay, các hàng cây báu cùng các mạng kết bảo châu phát ra âm
thanh vi diệu, ví như trăm ngàn thứ âm nhạc đồng thời trổi lên, ai nghe âm thanh
ấy cũng đều phát tâm niệm Phật-niệm, Pháp-niệm Tăng”.
Lại nói trong kinh chiếu ứng với
cái thấy của Người. Đức Phật từ bi, Sư phụ từ bi, tuy là miêu tả một cách sơ
lược nhưng đối với hạng phàm phu chúng ta nghe như tiếng sét bên tai, như tiếng
sấm vang rền. Ai cũng không thể làm ngơ giả điếc giả câm. Lời Phật dạy trong
kinh, điều Sư phụ thể chứng chơn thật từng câu từng chữ. Vậy đối với pháp môn
niệm Phật lẽ nào ta chẳng có niềm tin sâu sắc?
Sau khi chứng nghiệm, Người quyết
chí tìm nơi ẩn tu để thể hiện pháp thân tự tại, rồi được sự đồng ý cùng mấy lời
dặn dò của Hoà thượng Chuyển Trần Người đến chùa Hưng Hoá thọ giới. Sau khi thọ
giới trở về, chuẩn bị đi ngay vào núi tu khổ hạnh. Hoà thượng Chuyển Trần biết
Người công phu chắc thực, long tượng sơ lộ, bèn đồng ý cho Người lên núi tu một
mình. Khi lên núi, hành trang chỉ có 4 bộ quần áo đơn sơ để thay đổi mỗi khi
cần giặt giũ và độ hơn 10 cân gạo; nhưng lòng chứa chan hy vọng, Người lên
thẳng núi Thanh Nguyên phía sau chùa Thừa Thiên, chuẩn bị một cuộc sống “mai
danh ẩn tích”.
6. Ẩn tu trên núi Thanh Nguyên ầm
vào hang cọp
Núi Thanh Nguyên phía bắc Thổ Thành
là một hòn núi hoang vu cỏ cây rậm rạp, không có người ở, rừng cây dày đặc. Núi
này nối tiếp núi kia, trông từ xa như ruông sắp theo bậc thang. Men dần theo
sườn núi mà lên, núi này cao hơn núi kia. Hòn núi sau thì cao và có nhiều cây,
người dân địa phương nhờ đó làm nghề đốn củi để sinh sống dần dần lập thành
thôn xóm, trong núi có con đường nhỏ thông đến Thổ Thành. Người dân ở đây
thường theo con đường này đi vào Tuyền Châu bán củi. Tương truyền các cổ thành
ở Đại Lục đều lấy kinh tuyến Bắc-Nam làm chuẩn. Phương vị của Phủ Thành theo
hướng chính Bắc-Nam, biểu thị chính tâm, chỉ ra cho thấy công việc của quan phủ
doãn cũng phải trung chính như phương vị của Thổ Thành vậy, - không một chút
thiên lệch, Thành Tuyền Châu cũng xây dựng theo đạo lý của cổ thành.
Sư ra đi từ tờ mờ sáng với ý định
lên núi Thanh Nguyên tìm động kín đáo để tu. Khi đến chỉ thấy núi non trùng
điệp, núi trước hoang vu rậm rạp không một bóng nhà, núi sau thì rừng cây dày
đặc. Sư từng nghe nói trên núi nơi nào cây cỏ rậm là chỗ ở của cọp, núi có cây
thì có người sinh sống; vì núi có cây thì nhiều chim muông nên lắm phân chim,
cọp sợ phân chim làm bẩn da nên thường tránh xa rừng cây mà đến nơi cỏ rậm. Sư
nghĩ: “Ta ở núi tu hành, phải tránh người như cọp tránh phân chim, cọp vì vằn
trên thân mà phải trốn trong cỏ rậm, ta vì ngộ đạo mà ẩn trốn vào núi sâu”. Thế
là Người không màng để ý đến chuyện cọp và người gặp nhau phải ứng phó ra sau,
chỉ chú ý đến việc tu hành phải tìm nơi an toàn để trú ẩn.
Lúc bấy giờ Sư còn sức khoẻ mà phải
đi từ sáng sớm cho đến quá ngọ mới đến chân núi. Vì vách núi dựng đứng đường
lên núi rất khó đi, chỉ còn cách cởi bỏ dép, tay chân bám vào vách núi lần lần
bò lên. Lên chưa được bao xa, bỗng thấy có hòn núi nhỏ mà bằng đầu áp mình vào
một hòn núi khác trông vẻ kín đáo. Đến nơi thấy một cái động rộng khoảng 5, 6 thước
[TQ] có hai lối ra, một bên cao ước bằng thân người đứng, còn một bên thì phải
khom người xuống mới ra vào được. Trong động có một chỗ rất bằng phẳng, chung
quanh rộng rãi. Sư mới lên núi lần đầu cảm thấy rất mệt mỏi bèn cởi bỏ hành lý,
ngồi nghỉ trên một tảng đá. Được xa lánh chốn thành thị huyên náo bổng nhiên
thân tâm nhẹ nhàng chưa từng thấy. Sư vào trong động sắp xếp qua loa, an trụ
hai ba ngày trong thanh tịnh vô ưu, cảm thấy an vui tự tại.
Một hôm, như thường lệ Sư ngồi
thiền trong động, bỗng nghe mùi tanh nồng nặc theo gió bay vào, Sư rất lấy làm
lạ. Trong bối cảnh mơ hồ dường như có vật gì to lớn lần bước vào trong động, Sư
mở mắt nhìn kỹ, không ngờ đó là một con mãnh hổ. Trong lúc hoảng hốt Sư thốt
lên “A-Di-Đà Phật”. Mãnh hổ cũng bất ngờ nơi ở của chúa sơn lâm lại có tiếng “sư
hống”, nó kinh hãi vụt tháo chạy. Sau phút kinh hồn nó lấy lại tinh thần, vươn mình
đi tới, từng bước từng bước tiến vào động … thình lình gầm lên một tiếng, trợn
mắt nhìn Pháp Sư.
7. Mãnh hổ quy y, khỉ vượn cúng
dường
Thấy mãnh hổ chạy rồi Sư lấy lại
bình tĩnh, tự nghĩ: “Nếu ta kiếp trước có nợ mạng thì đời này ta xin trả, gây nhân
thì phải trả quả”, lại nghĩ: “Nếu không phải vậy thì sao cái vòng nhân quả lại
triền miên không dứt?”
Sư chưa kịp định tĩnh con mãnh hổ
đã trở lại vào động, Sư nói:
“A-Di-Đà Phật, lão tổ đừng sân giận!
Oan oan tương báo không bao giờ dứt, ngươi ở nơi đây thì ta sẽ ra ngoài, còn
ngươi nhường nơi này cho ta tu hành thì sau khi ta thành đạo sẽ độ cho ngươi
quy y Phật, Pháp, Tăng”.
Mãnh hổ nghe lời Sư nói không biết
có hiểu hay không, nhưng nó đứng dừng tại chỗ không tiến tới nữa; Sư chỉ nhất
tâm niệm Phật, yên lặng chờ xem điều gì lạ diễn ra. Thật bất ngờ, mãnh hổ gật
đầu như tỏ dấu thần phục, hiền lành lui ra khỏi động, nó nằm phục trước cửa
động rồi đứng lên như một vệ sỹ đứng hộ pháp. Sư thấy hiện tượng như vậy, nghĩ
trong lòng: đây hẳn là Long Thần Hộ Pháp che chở, chư Phật và Bồ Tát gia hộ,
nếu không thì khó thoát khỏi miệng cọp dữ. Từ đó lòng tin càng tăng, ý chí càng
thêm kiên định, Sư âm thầm phát nguyện: “Nếu kiếp này không ngộ đạo, nguyện
trọn đời chôn thân trong động”.
Từ sau khi Sư hàng phục được hổ,
sớm tối cùng với hổ ở chung, không còn sợ sệt, cọp dữ cũng hiền lành như gia
súc, khôn ngoan và hiểu được chút ít tiếng người. Sau đó nó còn dắt vợ con nhà
họ hổ đến trước Sư mà đùa giỡn, trình hiến các kiểu múa vờn cho Sư xem, nhiều
lần gục gật đầu trước mặt Sư như cầu xin việc gì, Sư liền quy y cho chúng và
chỉ dạy yếu chỉ giáo pháp.
Người tuy ở cảnh tiên chốn trần gian, không chút vướng bận sự đời, nhưng nơi
đây là hoang sơn nhiều cỏ rậm, chẳng có rau dại để ăn, gạo đem theo không còn
lấy một hạt; vả lại Người nhập định ngày càng sâu, mãi vui trong thiền định nên
không thích đi xa. Mỗi lần bụng đói cồn cào Người chỉ cúi đầu xuống nhìn bụng,
vỗ bụng hai cái an ủi nó:
“Chúng ta thương lượng với nhau,
xin nhẫn nại một chút, chúng ta cùng ngồi nán thêm lần nữa, người không nên nôn
nóng, đợi ta tu xong sẽ cho người ăn ngon, mặc đẹp!”. Cứ như vậy, Người ung
dung nhập định quên cả bản thân và sự vật, không còn biết đêm nay nhằm vào
tháng nào, năm nào?
“Đói quá! đói quá!” – Người tuy vui
trong cảnh giới thiền nhưng khổ nỗi thân xác nó chẳng chịu vâng lời sai bảo.
Bụng càng đói nó càng gào to; nhất là vào lúc đêm khuya vắng lặng, tiếng nó kêu
vang như sấm, có khuyên dỗ cách gì nó cũng chẳng nghe, nó như đứa con nít đòi
ăn kẹo. Phỉnh gạt nó một hai lần thì được, nhưng nhiều lần thì hết linh nghiệm.
Nếu nó không vòi vĩnh ồn ào thì lại la to khóc lớn; không cho ăn thì dứt khóat
chẳng chịu yên. Không còn cách nào khác, Người bắt đầu thử uống trà, uống thật
đầy bụng. Thế rồi đến khi xuất định, nhìn lại thân mình từ đầu đến chân, màu da
bổng trở thành vàng sậm! Người đổi sang uống nước lã thì thân thể phù thủng!
Bực mình bèn kiên quyết không ăn uống, không cử động, chỉ nhập sâu vào thiền
định thử xem nó ra sao. Dần dần chỉ còn một lớp da bọc xương, kế đến hơi thở cũng
cảm thấy khó khăn và cuối cùng không cử động được nữa! Đến lúc ấy Người mới
hiểu ra, như thế này thì nguy. Người bèn vận dụng tất cả sức mạnh tinh thần
chuyển động cơ thể. Sau một hồi quán tưởng, đầu tiên hai lòng bàn tay có chút
cảm giác dần cử động được, tiếp đến hai bàn chân chuyển dần từ cảm giác đến cử
động được; sau cùng các bộ phận thân thể đều có cảm giác trở lại. Nhưng toàn
thân vẫn mất hết năng lực. Lúc đầu Người gắng gượng bò được trên mặt đất, rồi
dựa vào vách động mà lần bước, tiếp đến chầm chậm từng bước kinh hành quanh
ghế; nghỉ mệt một lúc … cuối cùng mới lê được tấm thân mệt lã ra ngoài tìm thức
ăn.
Vì thường thường dùng hết sinh lực vào tu thiền lâu ngày không ăn, đợi đến lúc
không thể chịu đựng lâu thêm nữa Người mới ra ngoài tìm thức ăn, rồi bò mà về.
Một hôm, trong lúc đói lã, trông
thấy xa xa có một bầy khỉ đang đùa giỡn, chúng ăn những hạt trái cây có vẻ ngon
lành, Người bất giác chảy nước giãi, bụng cồn cào chịu không nổi, Người nhìn
chúng … rồi nhìn lại mình … bổng mỉm cười nghĩ bụng: “Tính chất của ta giờ đây
so với con khỉ trên cây có khác gì, chúng ăn được tại sao ta không ăn được?”
Bèn dang tay lượm những hạt chúng đánh rơi xuống đất lên ăn. Bọn khỉ thấy có
người gia nhập hàng ngũ, chúng tỏ vẻ lạ lùng, con này kề đầu tiếp tai con kia
kêu la chí choé. Lát sau thấy trên tay Người chẳng còn hạt nào, chúng tranh
nhau ném từ trên cây những hạt tươi ngon xuống cho Người ăn. Ăn xong Người cảm
thấy đôi mắt sáng ra, tinh thần sảng khoái. Từ đó bầy khỉ hộ pháp cũng có “tình
người”, thường hái trái cây mang đến cửa động dâng cúng Pháp sư.
(Cư sỹ Khuất Ánh Quang, nhân dịp
chúc mừng Đại thọ thất tuần của Người, có tặng mấy câu hàm ý liên hệ đến sự kiện
trên:
人猿送食 Nhân viên tống thực
猛虎皈依 Mãnh hổ quy y
现届古稀 Hiện giới cỗ hy
仍是忘形 Nhân thị vong hình
敬祝佛寿无量
Tạm dịch:
Vượn người mời ăn
Cọp dữ quy y
Nay tuổi cổ hy
Vẫn quên hình hài
Kính chúc Phật thọ vô lượng
Mặc dầu vấn đề ăn tạm ổn nhưng con
người vẫn là con người, những ngày tháng gian khổ ấy thật khó khăn nghiệt ngã.
Một hôm Người cảm giác trong dạ bồn chồn … bổng thấy đàn chim bay lượn trên
không, đậu lên cây kêu hót như rất an nhiên tự tại. Người nghĩ: “con người là
vật linh trong vạn vật, sao lại không sống tự nhiên như chúng. Thế là Người
trút bỏ những u uất trong lòng, quyết định bắt chước theo chim, tùy thuận thiên
nhiên, tùy duyên tự tại sống qua ngày.
8. An củ rễ cây vẫn sống qua ngày
Sau đó Sư đào được dưới đất một
khối “củ rễ cây” nặng 5, 6 cân, như được của báu, trân quý nó vô cùng, mỗi lần
chỉ cắt một miếng nhai thật nhuyễn, phần còn lại đem chôn xuống đất; tạm đánh
lừa cơn đói xong liền trở lại nhập định, lần xuất định sau lại ra đào củ ấy lên
ăn một miếng, cứ đào lên ăn dần như thế, hết 5-6 cân củ rễ cây, duy trì thức ăn
đó được vài năm. Theo lời Sư kể: đào lên ăn một miếng thì phần còn lại đem
chôn, một thời gian sau chỗ cắt mọc ra củ mới, do vậy tuy củ chỉ có 5-6 cân
nhưng không ngừng sanh trưởng, công cứu giúp của nó thật là to tát.
Vì ở lâu trong núi, món ăn hoang dã
trở thành món ăn tự nhiên, đoạn tuyệt lối ăn nấu nướng của nhân gian, Sư hoàn
toàn trở thành người ăn sống theo tự nhiên. Một bữa nọ, Sư đang ngồi tham thiền
trong động bỗng nghe từ núi sau vọng lại tiếng kêu la kinh hoàng. Sư vội bước
ra xem chuyện gì xảy đến, thấy mấy người tiều phu đứng ở núi sau chỉ chỏ con hổ
dưới núi mà la hét. Sư liền gọi to bảo họ đừng sợ hãi cứ xuống núi tự nhiên
không sao. Nhưng chẳng ai dám “hạ sơn” cũng không dám huyên náo nữa. Mọi người
vô cùng kinh ngạc nhìn Pháp sư. Sư bàng hoàng nhưng rồi mĩm cười tự nhủ: mình
không sợ chứ làm sao bảo họ không sợ? Bèn quay về phía hổ nói: “Các con xem
đấy, vì kiếp trước các con tạo nghiệp, sân si quá nhiều nên kiếp này mặt mày dữ
dằn ai thấy cũng sợ, thôi đi đi!” Nghe Sư nói như vậy, mấy con hổ biết ý bỏ đi.
Đám tiều phu cần ra chợ gấp, vội vàng xuống núi, mang theo cái mắt thấy tai
nghe cùng với củi rừng truyền khắp thành Tuyền Châu. Danh hiệu “Sư phục hổ”
không chân mà chạy khắp nơi bắt nguồn từ đó.
Kể từ ngày ấy mỗi lần tiều phu đi
qua đều lưu tâm tìm bóng dáng Sư phụ. Nếu tình cờ gặp được, họ vẫy tay gọi
chào. Nhưng có một dạo, lâu lắm họ không trông thấy bóng Người, họ bàn tán xôn
xao. Một bác tiều phu tò mò bám theo vách đá leo lên núi, đến trước cửa động
thăm dò bên trong, chỉ thấy Sư nhắm mắt ngồi yên trong tư thế rất an nhiên, bác
ta không dám gây nhiễu động, len lén rời xa. Qua vài ngày nữa cũng chẳng thấy
hình bóng Sư xuất hiện, bác bèn một lần nữa trở lại xem sao, vẫn thấy Sư ngồi
yên như trước. Nhiều lần như thế, trong lòng sinh nghi liền chạy đến chùa Thừa
Thiên bẩm báo với Ngài Chuyển Trần. Ngài Chuyển Trần bảo cho biết đó là “nhập
định”, bác tiều phu nghe vậy thì hay vậy thôi, rồi cũng không còn lấy làm lạ
nữa. Nhưng hết ngày nọ sang ngày kia … đám tiều phu cảm thấy không yên tâm. Tuy
họ quê mùa chẳng biết gì, nhưng ai tin được rằng người không ăn, không cử động
mà ngồi lâu đến như vậy. Thế là họ vào động thử gọi Sư, không thấy hồi đáp; sờ
vào mũi cũng không thấy hơi thở. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, ai cũng cho rằng Sư
đã chết. Có kẻ vội đến chùa Thừa Thiên báo tin lần nữa để tính việc an táng,
phải lo liệu sớm, không thể bỏ mặc Sư trong chốn núi rừng.
Thông báo đã lâu rồi, trên một trăm
hai mươi ngày! Chính Hoà thượng Chuyển Trần cũng cảm thấy “không ổn” nhưng
chẳng dám vội vàng quyết đoán; một mặt sai người lên núi chuẩn bị củi lửa để
hỏa táng, một mặt cấp báo với Đại sư Hoằng Nhất thỉnh Ngài đến giám định sống chết.
Lúc bấy giờ Đại sư đang hoằng pháp tại Vĩnh Xuân, tỉnh Phúc Kiến; nhận được thư
tín Ngài liền sai người đến ngăn cản, nhất thiết không được hành động vội vàng,
chờ Ngài đến nơi xem xét rồi sẽ quyết định.
9. Đại sư Hoằng Nhất búng tay ba
lần tránh được việc hỏa thiêu
Sau khi Đại sư Hoằng Nhất đến chùa
Thừa Thiên liền cùng với Hoà thượng Chuyển Trần dẫn một số người lên núi. Ngài
vào trong động xem xét kỹ lưỡng, nét mặt nghiêm trang, tán thán: “Cảnh định này
các bậc Đại Đức từ xưa đến nay rất hiếm có”, liền đến trước Sư, khẻ búng ngón
tay ba lần. Mọi người theo gót Hoà thượng Chuyển Trần hướng về phía động đá
Bích Tiêu tham quan. Động Bích Tiêu là nơi ẩn tu của Lão Hoà thượng Hoằng Nhân,
- Pháp sư của Ngài Quảng Khâm. Lão Hoà thượng và Ngài đã cùng hẹn nhau tu khổ
hạnh tại núi này; một người tu thiền ở động phía dưới núi, một người tu niệm
Phật ở động phía trên. Mọi người lên tới động Bích Tiêu, trong lúc pha trà chưa
xong thì Sư đã xuất định, đi lên núi ra mắt đảnh lễ Đại sư Hoằng Nhất, Hoà
thượng Chuyển Trần và Hoà thượng Hoằng Nhân.
Ngài Hoằng Nhất khiêm tốn không tự cho
là trưởng bối, cũng đáp lễ lại với Sư. Sư nói: “Đại Sư đến đây, xin được biết
có điều gì dạy bảo?” Ngài Hoằng Nhất trả lời: “Không dám! Không dám! Phiền
nhiễu việc tu hành của Sư, thật đắc tội”. Cùng nhau hàn huyên một lúc, Ngài
Hoằng Nhất thấy sự tình đã xong ổn nói với Sư: “Ở đây chẳng có việc gì, xin thỉnh
Sư trở lại an nghỉ.”
Suýt chút nữa ngọn lửa lấy đi sinh
mạng. Đại định chấn động thế gian, chỉ đôi câu nói giản đơn và mọi sự trôi qua.
Ngài Hoằng Nhất ngại làm phiền thêm việc tu hành của Sư, bèn lần theo con đường
nhỏ ở núi sau, đi vòng ra khỏi núi. Quả là từ xưa đến nay những bậc đại đức tu
hành đều giản đơn thuần phác như vậy, khiêm cẩn mà chu đáo.
Sư từ sau lần nhập đại định ấy vẫn
nhất mực sách tấn, nổ lực tham thiền cho đến khi chứng đạo, ở trong động trước
sau mười ba năm. Đối với nhiều người, đừng nói chi sống một mình gian khổ 13
năm trong núi, ngay ở trong nhà đầy đủ tiện nghi mà một mình đối diện với chính
mình, cô tịch trong vòng một ngày đêm cũng đã thấy rất bực bội, huống gì một
mình ngồi trong động núi hoang vắng suốt 13 năm? Chỉ xét về cái năng lực chịu
nổi sự vắng lặng đã là điều mà hạng phàm phu chúng ta không thể tưởng tượng.
Lại còn nội tâm thể nghiệm cả một quá trình chịu đựng cái khó chịu đựng, làm
nổi cái khó làm. Dĩ nhiên, cảnh giới chứng đắc trong đó Pháp sư tự tại an lạc
trong pháp hỷ đâu phải là cái cảnh mà chúng ta có thể hình dung được, và chúng
ta cũng không có cách gì cùng chia sẻ với Người. Ấy là cái phần thưởng đền bù
cho công tu khổ hạnh của Người. Quy luật trong thiên nhiên xưa nay vốn bình
đẳng, cái mất ở chỗ này sẽ tìm thấy nó ở nơi khác, không thể cùng một lúc có
được cả hai. Việc tu hành cũng vậy, không có bất kỳ tiện nghi (ưu tiên) nào để
mà chiếm, cũng không có chỗ cho sự xảo trá giả dối; tất cả phải đi từng bước thực
tiễn, cày cấy được bao nhiêu thì thu hoạch được bấy nhiêu.
Sau khi chứng ngộ Người thường suy
nghĩ: nếu không xuống núi độ sanh thì cũng giống như cửa động bị đá chắn, dù
cho bên trong có vật gì quý báu cũng không đem ra được để cho thế nhân cùng thọ
hưởng, cùng lắm là tự túc cho riêng mình và chỉ làm một con người ích kỷ mà
thôi. Như vậy thì không những phụ ơn Phật mà còn trái với thệ nguyện ban đầu.
Thế là Người kiên quyết dẹp bỏ cái khối đá trong lòng, mạnh dạn hướng về chúng
sinh trong biển khổ, làm thuyền từ hải đăng cứu độ.
Lúc bấy giờ đúng vào năm 1945, năm
kháng chiến chống Nhật thắng lợi, Người đã 55 tuổi. Sau khi Người trở về chùa
Thừa Thiên, tự nhiên nổi lên dư luận xôn xao trong đại chúng, có người nhìn “con
người sơn động” quần áo lam lũ trước mặt mình với đôi mắt hiếu kỳ, có kẻ nhìn
bằng đôi mắt hoài nghi; thử hỏi con người tầm thường, mặt mày trông chẳng có gì
gọi là thoát tục như Sư làm sao có thể chứng ngộ một cách siêu việt? Nhưng đa
số đồng đạo nhìn Sư với ánh mắt thương cảm và kính phục. Người ta chú ý nhất ở
chỗ: áo Sư ba cái vá thành một cái, kín bên này thì trống bên kia, ăn một bữa
thay cho ba bữa, mà còn bữa có bữa không; trong lòng ai nấy đều lấy làm cảm
khái “tu khổ hạnh đâu phải là chuyện dễ!” Sư chẳng quan tâm người ta nhìn mình
bằng đôi mắt như thế nào, nói với mình bằng lời nói ra sao; vẫn giữ thái độ
trung hậu, khiêm cung, nét mặt hoà ái với mọi người, không thấy có gì khác biệt
khi chưa lên núi và sau khi xuống núi. Sư vẫn y nhiên làm công việc của mình:
ban ngày cùng với đại chúng chấp tác công việc, chiều lại lên chánh điện toạ
thiền, an nhiên tự tại. Nhìn bề ngoài chẳng thấy Sư biểu lộ vẻ gì rạng rỡ sau
mười ba năm gột rữa!
10. Bị nghi ngờ mà như tắm gội gió
xuân
Sư trở về chùa Thừa Thiên không
được bao lâu, tiền công đức trong Đại Điện bị mất. Khi Thầy giám viện và Thầy
phụ trách hương đèn đưa tin đó ra, cả chùa xôn xao. Lúc Sư chưa trở về chùa, số
tiền công đức này chưa bao giờ bị mất cả, Sư về chưa được bao lâu tiền công đức
hương đèn nhờ vào đó tăng chúng sinh sống, nay bỗng không cánh mà bay, khiến
cho ai nấy đều nghĩ ngay đến Sư Quảng người hàng đêm ngồi thiền trong chánh
điện, nếu có ai lấy trộm thì Sư phải là người hay biết, mà Sư lại không có phản
ứng gì, thế thì người lấy trộm tiền công đức ấy là ai? Trong lòng mọi người tuy
không nói ra nhưng ai cũng khẳng định được!
Kể từ đó cả chùa từ trên xuống dưới
tuy chẳng ai bảo ai, nhưng mỗi lần lên Đại điện hoặc lúc giáp gặp Sư ai cũng
nhìn bằng cặp mắt lạnh lùng. Người xưa nói: “Bị muôn người chỉ mặt không bệnh
cũng chết”. Sống trong hoàn cảnh bị mọi người mặc nhiên ruồng bỏ Sư vẫn không
một lời biện bạch, cũng không hề khởi tâm buồn oán bất mãn. Sự thể như vậy diễn
ra hơn một tuần lễ, Sư vẫn tươi tỉnh như tắm gội gió xuân.
Lúc ấy Thầy giám viện và Thầy hương
đăng mới phơi bày sự thật của công án. Nguyên số tiền công đức bị mất là do hai
thầy nghĩ ra để khảo nghiệm Sư Quảng, xem thử 13 năm trên núi Sư rèn luyện được
nhân cách như thế nào! Nào ai nghĩ tới, trước sự công phẫn của tăng chúng Sư vẫn
an nhiên như tắm gội gió xuân. Qua sự giải bày của hai thầy, đại chúng ai nấy
đều tự lấy làm xấu hổ. Suốt trên một tuần, kẻ mà ngày ngày bị mọi người khinh
rẻ lại là một nhân cách tuyệt vời, một tăng nhân siêu phàm thoát tục. Mọi người
ngoài cái tâm trạng áy náy bất an vì lầm lẫn đáng thẹn nay còn mang lòng kính
phục tán thán bội phần. Phần Sư thì vẫn thản nhiên tự tại như chẳng có gì xảy
ra, không vì khen chê được mất mà biến đổi dung nhan.
Năm Dân Quốc thứ 35 (1946), sau
tiết Đoan Ngọ, một anh họ Lâm người Vĩnh Xuân tỉnh Phúc Kiến đến tham quan chùa
Thừa Thiên, vốn có nhân duyên với Sư, Người nói: “Anh đến Đài Loan dạy học, hãy
nên gửi thư cho tôi, Phật giáo Đài Loan bị ảnh hưởng của Thần Giáo Nhật Bản làm
cho không có sự phân biệt giữa tăng và tục. Tôi cũng có nhân duyên với Đài
Loan, sẽ sang đó xây dựng đạo tràng, hoá độ chúng sanh.”
Anh Lâm nhận lời ngay và ở lại với
Sư một tuần, chuyện trò tâm đắc rồi xin quy y làm đệ tử Người, và phát tâm suốt
đời hộ Pháp. Ngày 17 tháng 6, Lâm từ giã Sư để chuẩn bị đi Đài Loan. Lúc chia
tay Sư nói: “Nếu đi không được thì trở lại trò chuyện”. Lâm cũng không hiểu tại
sao, sau khi từ giã lên tàu cảm giác lời nói của Sư có ẩn ý gì đó. Không ngờ
khi thuyền vừa ra biển liền gặp gió bão, không thể ra khơi... Lâm rời thuyền,
lập tức đi nhanh đến trình báo với Sư thì thấy Người đã đứng đợi ở sân thềm
trước điện, thấy Lâm đến Sư cười khà khà nói: “Thầy biết thế nào con cũng trở
lại”. Hôm sau Lâm nóng lòng đi Đài Loan, nói với Sư phụ: “Con thiết tha đi Đài
Loan, không biết khi nào thì đi được?” Sư bảo: “Chiều ngày 20 lên thuyền, 21 ra
biển, ngày 22 có thể đến nơi.” Trưa ngày 20 quả nhiên Hãng tàu thông báo chiều
tối lên thuyền. Anh Lâm lại từ giã Sư phụ, Người dặn dò hai ba lần là phải gửi
thư liên lạc. Lúc Lâm lên đường Sư còn chúc “thuận buồm xuôi gió”, về sau quả
đúng như lời Sư nói, anh Lâm đến Đài Loan nhanh chóng bình yên.
11. Động Nhật Nguyệt nước phun báo
điềm lành
Sau khi đến Đài Loan cư sỹ Lâm Giác
Phi thường liên lạc với Sư. Mùa hạ năm 1947 do sự sắp xếp của Lâm, Người cùng
vị tăng Đài Loan, - pháp sư Phổ Vượng (ở thành phố Cơ Long, sau đổi tên là Phổ
Quán, trụ trì Giảng đường Phật giáo Cơ Long, nay đã viên tịch) từ Hạ Môn đi
bằng tàu Anh đến Đài Loan.
Ban đầu Người ở trong một ngôi nhà
trống cất theo kiểu Nhật, thuộc nghĩa trang Không Quân Tân Điếm. Năm 1948,
người khai tạc động Quảng Minh trên vách đá phía sau đường Tân Điếm (nay là
chùa Quảng Minh), năm 1950 lại cất chùa Quảng Chiếu; năm 1951 tạc tượng Phật
A-Di-Đà thật lớn, hoàn thành vào mùa đông năm ấy. Ngay lúc gần xong chẳng hiểu
vì lý do gì Sư vội rời chùa, công việc đình chỉ. Năm 1952, cư sỹ Lý Văn Khải
quê Quảng Đông quyên tiền hoàn thành công trình. Sư rời chùa đến núi Phúc Sơn ở
Thổ Thành tìm một động đá thiên nhiên, sống lại đời sống ẩn tu như trước. Sơn
động Sư ở cao hơn hai trượng, sâu độ hai trượng, rộng vài trượng. Cửa động nhìn
về hướng Đông nên nhận được cả ánh mặt trời và ánh trăng mới mọc, do đó Sư đặt
tên là động Nhật Nguyệt. Động này ttrước kia không có nước, từ ngày Sư ở bỗng
nước từ khe đá trong động phun ra chảy dọc trên cỏ, Sư vội đào một cái ao nhỏ
để chứa, nước trong mát ngọt miệng, uống vào giải ngay cơn nóng khát. Sư vui
mừng được suối linh, mùa xuân năm 1952 cất ba gian nhà gỗ trước cửa động, bên
trái làm nhà bếp, chính giữa thờ Bồ-Tát Địa Tạng. Cũng năm ấy Sư dựng một lều
tranh cho hai đệ tử Truyền Giác và Truyền Ba cùng ở, đồng thời giao cho sự
Truyền Ý làm giám viện Động Nhật Nguyệt.
Năm 1953, Sư lên đỉnh núi cất một
cái lều tranh nhỏ ở. Có con trăn lớn đêm thường bò tới chỗ Sư mà không tỏ chút
gì sợ sệt, Sư quy y cho nó. Một hôm mấy người con trai ông trưởng xóm phía dưới
núi bắt gặp con trăn bèn gọi đông người cùng nhau dùng gậy định giết nó; Sư từ trên
núi nghe tiếng ồn ào vội vàng ra bảo với họ: “Trăn đã quy y Tam Bảo rồi, đừng
giết hại!”. Nghe Sư nói cả bọn giải tán bỏ đi.
Từ khi Người dời tới ở Động Nhật
Nguyệt rất ít ai biết, sau ba lần nhập đại định mới làm chấn động nhân gian.
Mùa xuân năm 1955, các tín nữ Bản Kiều mua đất núi ở Thổ Thành cúng dường
Người, núi này tục gọi Hoả Sơn, nguyên là một đám rừng tre. Người đi vào rừng
theo một con đường nhỏ, chặt tre dài độ ba thước, dùng giây thép cột lại thành
tấm vạt tre, cột nó vào thân cây tre sống, cách mặt đất vài thước, Người ngồi
kiết già trên đó, giống như lối sống của người thời tiền sử. Về sau mới mở đất
cất một gian nhà lợp ngói để thờ Phật, còn lại thì dựng lều tranh.
Năm 1956, Người trở về Tân Điếm,
đến cuối năm 1958 lại trở lên Hoả Sơn ở Thổ Thành. 1960 xây Đại Điện, từ đó mới
đặt tên là Thừa Thiên Thiền Tự, đổi tên núi thành Thanh Nguyên Sơn [ Núi suối
trong ] để ghi nhớ con suối hồi Người xuất gia “diện bích”. Năm 1962, lại xây
cất điện Tam Thánh; năm 1964 thể theo lời thỉnh cầu của tín chúng Người đến Hoa
Liên, rồi quay lại Đài Trung xây dựng Quảng Long Tự trên núi Thanh Thuỷ. Suốt
nhiều tháng Người chưa trở lại núi cũ, sư giám viện lấy cớ đã ba lần mời mà
Người không về, đem đồ vật tích lủy xưa nay trong chùa phân phát theo thứ bậc
cho huynh đệ và để mọi người tự phân tán. Cuối năm 1964 Người trở lại Thừa
Thiên Thiền Tự tu bổ, dựng cổng chùa và làm phòng phương trượng. Từ ngày Người
đến Đài Loan cho đến khi định cư tại chùa Thừa Thiên trước sau 17 năm, ẩn tích
không muốn cho người biết. Bao nhiêu gian nan hoạn nạn không hề nói cho ai hay,
bao kẻ xấu ác bất công Người đều nhẫn nhượng và chẳng lấy làm thắc mắc. Từng có
người đề nghị: “Những tên vô lại đó, phải trị chúng mới được, phải dùng luật mà
chế tài”. Người chỉ trả lời: “Người tốt cũng phải độ, kẻ xấu cũng phải độ.
Chúng ta phải tự hổ thẹn đức mình chưa đủ, nên không cảm hoá họ được, không nên
lấy oán báo oán”.
12. Thiền tịnh song tu hiển thị mô
phạm chư Phật
Sư tu theo hạnh đầu đà của hai pháp
môn Thiền và Tịnh, lấy thân mình hiển thị mô phạm của chư Phật. Trừ lúc trời
mưa ra, hằng đêm Sư đều ngồi ngoài trời. Suốt mấy mươi năm Sư vẫn hành trì như
thế. Có điều rất lạ là sáng sớm cây cối núi rừng đều ướt đẫm sương, chỉ có chỗ Sư
ngồi đường kính ước vài thước thì hoàn toàn khô ráo. Do lòng từ bi thường cứu
giúp người và công phu thiền định sâu dày của Sư mà càng ngày số người tìm đến
thăm viếng Sư càng đông, có người phát tâm quy y cầu xin học đạo, có người vì
hiếu kỳ ham vui, cũng có kẻ tự cho mình cao siêu đến thử sức công phu thiền
định; đủ hạng người với tính cách khác nhau như thế, mà Sư tuy là một cụ già
không biết chữ nhưng đối đáp rất dễ dàng, tự nhiên; quả thật là Phật pháp không
thể nghĩ bàn. Xin nêu vài ví dụ cống hiến quý vị độc giả.
(1) Một hôm có một giáo sư tự cho
mình công phu thiền định rất cao, sáng sớm đường đột bước vào thiền đường của
Người. Chẳng nói chẳng rằng, ông ta tự động ngồi xuống; Sư cũng yên lặng không
nói lời nào. Qua một lúc khá lâu, ông giáo sư mở lời trước:
- Thưa Hoà thượng! Ngài xem thử tôi
đạt tới thiền thứ mấy?
Hoà thượng nói:
- Tôi không thấy.
- Nghe nói công phu thiền định của
Ngài rất cao, tôi đã đến đệ tứ thiền sao ngài không thấy?
Hoà thượng trả lời:
- Tôi chỉ biết ngày ăn ba bữa,
chẳng làm việc gì.
Tiếp đó Người đưa tay lấy tờ giấy
vệ sinh, nhép miệng mấy cái quay đầu lại hỏi ông ta:
- Giấy vệ sinh đang nói với tôi,
ông có nghe được không?
Ông giáo sư như gặp phải “Kim Cang
hai trượng chẳng với tới đầu”, lặng lẽ rút lui.
(2) Có một vị Pháp sư đến thăm, nói
với Người:
- Khi ở nước ngoài mỗi lần có động
đất hay gió bão, tôi dùng pháp sau đó động đất và gió bão đều biến lặng. -
Người đáp:
- Bần đạo thì chẳng làm gì cả.
Lần thứ hai đến, vị Pháp sư lại nói:
- Hoà thượng ạ, hiện nay tôi không
làm gì hết. – người nói:
- Bần đạo mỗi ngày ăn cơm, ngủ
nghỉ, đi tản bộ.
Công phu thiền định tự nhiên như
thế, không có cái tôi đang làm gì, không chấp có cũng không chấp không. Nếu có
người tự bảo “tôi có” công phu gì, Người dùng ‘ không ’ để đáp lại, còn người
nào bảo ‘ không ’ thì Người lấy ‘ có ‘ mà ứng đối.
Vị Pháp sư ấy sắp ra về, nóivới
Người: “Thỉnh Hoà thượng nên ra nước ngoài hoá độ chúng sanh” – người gật đầu:
- Ngài đến đó thì tôi đến!
Pháp sư nghĩ là Hoà thượng sẽ hiển
thần thông, bèn hành trang trở lại xứ người. Song chờ mà chẳng thấy Hoà thượng
tới, Pháp sư thấy sốt ruột. Lần sau trở lại Đài Loan thăm, Pháp sư hỏi:
- Trước đây Hoà thượng chẳng bảo
rằng tôi đến thì Ngài đến sao?
Lâu quá chẳng thấy Ngài đến? –
Người cười đáp:
- Ngài tới đây bần đạo tiếp Ngài ra
sao, đã nói những gì, hẳn là Ngài đã hiểu rất rõ ràng? Khi Ngài trở về, đem
những gì bần đạo nói với Ngài nói cho họ nghe, đó chẳng phải là Ngài đến thì
tôi đến hay sao? Pháp sư khách hốt nhiên hiểu ra, im lặng chẳng nói lời gì.
(3) Một hôm, có vị sư chuyên tu
Phạm hạnh đến thăm Hoà thượng, nói với Người: “Tôi tu tam-muội được mấy mươi
năm, nay đến Đài Loan tìm chỗ tu hành, xin Hoà thượng chỉ dạy cho”.
Người trả lời:
- Ngài tu tam-muội đã mấy mươi năm,
xin chỉ dạy cho tôi, tôi chưa tu tam-muội gì bao giờ, làm sao nói với Ngài được.
Nhà sư lại hỏi: “Tôi định đóng cửa
ẩn tu, đại khái cần miếng đất chừng vài mươi bình [đơn vị diện tích –Nd.] bên
ngoài có vườn hoa nho nhỏ, Hoà thựơng thấy thế nào?”- Người đáp:
- Chúng ta đóng cửa, mục đích là
đóng tâm hay là đóng thân? Nếu đóng tâm thì cái thân tứ đại giả hợp này của ta cũng
đủ lớn rồi, còn như thân muốn hưởng thụ thì ngũ đại cũng không đủ. Đóng là đóng
lục căn, tu tâm đâu phải là vào địa ngục.
Khi Người đối đáp với ai, trả lời
ngay thẳng, không cần suy nghĩ, không cần lấy lòng, cũng chẳng cần giữ sỉ diện,
hoàn toàn “trực tâm đạo tràng”.
13. Lên núi thỉnh giáo, thấm nhuần
đạo vị
Do số người ngưỡng mộ càng ngày
càng nhiều, Hoà thượng thường cần có thời gian tịnh khẩu, nhưng khi tịnh khẩu
vẫn không ngăn được số người lên bái kiến. Đến thứ bảy hay ngày nghỉ đều có
những người lần theo bậc đá lên núi, đi ba bước lạy một lạy. Bọn họ hoặc năm ba
người hoặc vài chục người hoặc vài trăm người, già có trẻ có, nam có nữ có,
cũng có người tàn tật. Ai nấy đều hết lòng thành kính niệm danh hiệu Phật
A-Di-Đà hoặc Bồ Tát Địa Tạng; bất kể trời nắng gay gắt hay gió rét, mưa thu …
họ đều cúi lạy hoặc bò trên đất mà lên, cứ như thế hơn ba tiếng đồng hồ. Lên
tới núi họ cúi đầu, vẫy gọi chào Hoà thượng, hoặc được Hoà thượng xoa đầu hỏi
thăm vài câu đơn giản; thế là thiên hạ như gặp được của báu, lòng mừng hớn hở.
Cũng có nhiều phật tử xuất gia hay
tại gia chuyên nghiên cứu Phật pháp, đem những điều họ nghi hoặc từ bao năm
chưa đả thông được lên núi nhờ Người trực tiếp chỉ dạy. Một vị sư hỏi:
- Khi đóng cửa ẩn tu, có phải càng
lúc càng ăn ít đi?
- Không phải vậy, phải bình thường
theo lẽ tự nhiên, không nên câu chấp, không còn cái “ta” ấy mới gọi là đóng
cửa; còn cái “ta”, còn có ý niệm “ăn nhiều ăn ít” thì chẳng phải là tu hành mà
là chấp trước.
Có người hỏi: “Người mới xuất gia
phải tu như thế nào?”
- Trước tiên phải tu khổ hạnh, tức
là: ăn đạm bạc, mặc thô sơ, siêng năng làm việc, bất luận gánh nước, khuân vác,
trồng rau, dọn nhà vệ sinh, bửa củi, đun nước… đều phải làm; làm nhiều việc
nặng nhọc thì trí huệ mới dễ khai mở. Một người khi mới vào chùa phải làm cho
tâm an trụ, tốt nhất là chuyên niệm Phật A-Đ-Đà.
Hỏi: “Làm việc nặng nhọc là tu khổ
hạnh hay sao?”
Đáp: “Nhất thiết không so đo tính
toán; trong sinh hoạt hằng ngày không khởi tâm phân biệt, ấy là tu khổ hạnh”.
- Đóng cửa nhập thất có khi không
muốn ăn cho nên không ăn, như vậy có được không?
- Cố ý không ăn thì hoả khí bốc
lên; không thể tu được; ý nghĩ không muốn ăn khởi lên, như vậy là còn chấp
trước, không muốn ăn là còn cái ta không muốn ăn.
- Có lúc không ăn lại cảm thấy nhẹ
nhàng.
- Đó chỉ là hiện tượng thoải mái
tạm bợ trong vài ngày, vì chúng ta chưa đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn, một niệm
không sinh, cho nên chấp ý “không ăn”, thân thể suy nhược dần.
Trừ những người lên núi tham bái
hỏi đạo nối tiếp nhau không dứt trên đường, ngoài ra trong chùa cứ mỗi lần đến
ngày sinh nhật của Hoà thượng, mỗi tháng bảy đại hội tín đồ có tuần niệm Phật,
mỗi tuần lễ đầu tháng có Pháp hội “Đại bi sám”, vào những dịp này cũng đông
nghẹt tín chúng. Trong chùa bất luận kẻ già người trẻ, vì tinh thần độ chúng mà
ai nấy đều bận rộn rối rít, không khí thật là vui.
Có một tăng nhân thường trú trong
chùa cảm thấy ngã chấp của mình quá nặng không phá trừ ngay được. Một hôm đến
quỳ trước Người, khẩn cầu xin dạy cho cách gì để khắc phục, Người nhận lời; vị
thường trú vui mừng khôn xiết. Một hôm nhằm ngày Pháp hội, đại chúng đang lúc
bận rộn bỗng nghe Sư quở trách vị ấy trước mặt mọi người. Không ai rõ lý do,
chỉ cảm thấy có cái gì đó khác thường, vì Người từ trước đến giờ chưa khi nào
lớn tiếng mà chỉ ôn tồn dạy bảo riêng. Ít lâu sau, thấy ông thường trú thu xếp
hành trang quỳ trước Sư, nước mắt dầm dề xin từ giã ra đi. Hoà thượng cười bảo:
“Ông đã không nhờ tôi giúp ông phá ngã chấp đấy ư? Tại sao chỉ vì đôi lời châm
chích mà đã muốn ra đi!”. Ông ta bỗng như tỉnh mộng, gạt nước mắt cười, cúi đầu
đảnh lễ rồi lui ra.
Đôi khi cũng có kẻ nói xấu người
khác trước mặt Sư: “Bạch Hoà thượng, Pháp sư X …. lấy tiền Tam Bảo đem xuống
miền Nam
mua đất xây chùa, xin Hoà thượng nên lưu ý”.
Người đáp: “Ồ! Chỉ xây một ngôi
chùa ở miền Nam
thì năng lực còn kém, sao không xây cho thật nhiều, tốt nhất nên ra nước ngoài xây
vài ngôi chùa”.
Lời thị phi dừng lại trước người
trí. Đối với những người chấp sự trợ lý bên dưới, Người đều tuyệt đối tin tưởng.
Hỡi những ai than rằng chùa không
giữ được chúng, hãy nên làm theo gương Người thì tốt đẹp biết bao!
14. Không phân biệt già trẻ,
Người đều khuyên niệm Phật
Từ khi Hoà thượng tuổi thọ đã vào
khoảng 80 thì răng cỏ rụng hết, sau đó chỉ dùng toàn thức ăn lỏng. Đêm đêm
Người vẫn ngồi thiền, trong vòng 10 năm lại đây Người chưa từng xuống núi. Nay
Người đã 92 tuổi, tuy rất cao niên nhưng vẫn cứng cáp minh mẫn như xưa, đôi mắt
sáng trưng có thần làm cho người đối diện không dám nhìn thẳng. Mỗi khi có ai
hỏi Người tu hành mấy mươi năm chứng được cảnh giới nào? đắc tam-muội gì? Người
chỉ lắc đầu bảo là không chứng đắc gì hết, già rồi chẳng có tam-muội gì, chỉ
biết niệm Phật thôi!
Sư thường khuyên người ta niệm
Phật, mỗi khi có người biếng nhác, Sư từ bi ân cần khuyên nhủ: “Niệm Phật không
phải là điều giản dị, cần phải trút bỏ mọi thứ ràng buộc khuấy nhiễu; một lòng
thanh tịnh niệm Phật mới có thể cảm ứng được. Phải niệm sáu chữ Hồng danh đức
A-Di-Đà sao cho thật rõ ràng, trong tiếng; tai nghe đầy đủ, lòng không chút
nghi ngờ, các tạp niệm khác tan biến một cách tự nhiên, thì nhất định sẽ đạt
đến nhất tâm bất loạn. Nếu tin lời tôi nói, thành tâm niệm Phật, đi đứng nằm
ngồi không ngừng niệm như vậy, cho đến trong giấc ngủ cũng vẫn niệm được. Một
câu niệm Phật ghi nhớ trong lòng, không bị lục căn lục trần quấy nhiễu, đến lúc
đó tự nhiên tâm không còn tham luyến, ý không còn điên đảo. Đến chừng công phu
thuần thục, cảnh giới Tây Phương Cực Lạc tự nhiên hiện ra trước mắt … Tuyệt đối
chớ nên xem thường”.
Người còn nói: “… Niệm tức là tưởng
niệm mình phải giống Phật! phải như Phật! ngày sau công phu thành thục nhất
định thành Phật!”
- Niệm Phật, nếu như tâm tán loạn
thì phải làm sao?
- Chỉ có cách là phải niệm liên
tục, tập trung hết tinh thần vào sáu chữ Nam-mô A-Di-Đà Phật là được!
- Thưa Pháp sư, còn mang nghiệp có
vãng sanh được không?
- Còn mang nghiệp thì không thể
vãng sanh được, câu mà cổ Đức ngày xưa nói: “đới nghiệp vãng sanh” không phải
như người ta thường hiểu, ông tâm nguyện vãng sanh vào cảnh giới Cực Lạc, khi
chết nếu nghiệp lực lớn hơn niệm lực thì không thể vãng sanh, nếu như niệm lực
lớn hơn nghiệp lực thì có thể vãng sanh.
Nói tóm lại, bất luận là người già hay trẻ, Sư
phụ đều khuyên niệm Phật. Nay Người đã quá cái tuổi “cổ lai hy”, vì nguyện độ
sinh mà rán đem sức tàn ra chèo chống. Hàng nhân sỹ sáng mắt sao có thể bỏ lỡ
cơ duyên may mắn này!