Tháp Phi Lai chùa Thừa Thiên
Năm Bính Tuất (1966) sau tết Đoan
Ngọ, tôi từ Vĩnh Xuân tỉnh Phúc Kiến đến Tuyền Châu thăm anh Vương bạn học cũ –
báo cho anh biết tôi sắp qua Đài Loan bằng đường biển, Vương tán thành, đồng
thời bảo là anh có chiếc thuyền buồm thừơng xuyên qua lại giữa Tuyền Châu và
Đài Loan, tiếc rằng thuyền đã rời bến hôm trước, mời tôi hãy đến ở tạm nhà anh,
đợi thuyền về rồi sẽ đi; thế là tôi phải ở lại chờ.
Tôi vốn ưa thích phong cảnh, thích
đi xem các danh lam thắng tích cổ kính. Sáng hôm sau tôi đến chùa Thừa Thiên,
chùa này nằm trong thành Tuyền Châu. Hơi lệch về cửa đông thành có ba ngôi chùa
lớn (Thừa Thiên, Khai Nguyên, Sùng Phước) là những chùa Phật cổ nhất. Tôi đi từ
đại lộ phía nam đến chùa Thừa Thiên, tới trứơc cổng chùa thấy trên vách có bốn
chữ lớn “Nguyệt đài đảo ảnh” (bóng trăng chiếu ngược), bên trong có nhiều con
rùa đá lớn. Qua khỏi điện Tứ Thiên Vương, lần theo con đường đá xanh, qua khỏi
cầu hồ phóng sanh, thì đến sân trứơc Đại Hùng Bảo Điện. Gần hai bên đừơng đi có
hai cái tháp đứng đối diện, kiến trúc giống hệt nhau chỉ khác ở chỗ một tháp
thì rất sạch, có thể nói “hạt bụi cũng không dính”, nghe nói ruồi đậu trên đó
đều quay đầu xuống dưới, chẳng bao giờ quay đầu lên trên; còn tháp kia thì đầy
dẫy phân chim, dơ bẩn vô cùng.
Theo truyền thuyết, xưa kia trong
chùa có một vị tăng ngày ngày chuyên làm những việc lao động rất cực nhọc mà
lúc nào cũng tươi cừơi vui vẻ. Một hôm bỗng có chiếu chỉ triều đình (không rõ
Triều nào) truyền đến chùa báo rằng: Đức vua nằm mộng thấy Thái Hậu bảo thỉnh
vị cao tăng đắc đạo ở chùa Thừa Thiên thành Tuyền Châu – PHÚC KIẾN đến kinh
thành để siêu độ cho Bà. Chùa liền tuyển chọn một số tăng đủ oai nghi đức độ
vào triều siêu độ cho Thái Hậu. Lúc sắp lên đừơng, vị tăng lao công bỗng bước
tới xin được cùng đi, chư tăng nói: “Ông không biết gì về phật sự làm sao đi
được?” Vị tăng lao công đáp: “Tôi tuy không rành Phật sự nhưng có thể mang vác
hành lý cho các vị”. Chư tăng cảm động vì ông
ta hằng ngày nghiêm cẩn lao khổ, đồng ý cho đi.
Đến kinh thành, tới trước cửa Ngọ
môn, nhà vua tuyên vời chư tăng vào triều. Các vị tăng đều vào hết, chỉ riêng
vị tăng lao công đứng yên bất động. Vua hỏi vì sao không vào, tăng đáp: “Dứơi
đất có Phật không dám vô lễ bứơc qua”. Vua phán phải vào, tăng bèn chống đầu
xuống đất, hai chân đưa lên trời, nhảy ngược mà vào. Vua lấy làm lạ sai người
đào đất lên thì thấy có một bộ kinh Kim Cang. Đến lúc đó nhà vua mới biết Thái
Hậu muốn thỉnh vị cao tăng này. Vua liền đích thân ra tiếp đãi một cách thành
kính. Vua thỉnh ý tăng: Lúc làm pháp siêu độ cần chuẩn bị như thế nào? Đáp: “Trừ
việc chư tăng làm đúng theo nghi thức siêu độ ra, nên lập riêng một cái đài,
trên bày hương án, chính giữa có treo phương linh vị của Thái Hậu”.
Đang lúc cử hành pháp siêu độ, vị
tăng lao công đột xuất mời nhà vua lên đài, còn mình thì cầm phướng phất ba lần
mà tụng kệ rằng:
Ta vốn chẳng đến
Ngừơi có lòng thành
Một niệm không sanh
Siêu sanh thiên quốc
Nhà vua bổng thấy Thái Hậu hiện ra
trong vừng mây, lạy tạ vị tăng rồi từ từ bay lên. Khi pháp sự hoàn tất, chư tăng
từ giã ra về, vua riêng giữ vị tăng lao công ở lại, đồng thời đích thân đưa đi
du ngoạn ở ngự hoa viên và các cảnh đẹp trong kinh đô. Một hôm đi ngang qua một
tháp đá, tăng bỗng dừng lại chăm chú nhìn cái tháp, vua hỏi:
- Sư thích tháp này không? Trẫm sẽ
sai người bổ rời ra chở đến chỗ sư ở “. – Vị tăng đáp:
- Nếu bệ hạ bằng lòng tặng cho thì
bần tăng xin tự lấy về. Nói xong phất tay áo một cái, tháp liền thu vào trong
đó, rồi chắp tay chào vua mà đi … Vua sai người tìm theo tiễn đưa, nhưng chẳng
thấy bóng dáng tăng đâu cả. Tăng đã về đến chùa Thừa Thiên rồi mà các vị tăng
khác vẫn còn đang đi trên đừơng. Sau khi chư tăng về đến chùa, có một người
biết, nói:
- Sư siêu độ cho Thái Hậu ắt là có
ban thửơng, sư có thể chia cho đại chúng với? - Tăng đáp:
- Có chứ, nhưng chỉ sợ mọi người
lấy không nổi. – Liền từ trong tay áo trút ra cái tháp, dựng nó bên cạnh con
đừơng đá. Do đó mà đặt tên là “Phi lai tháp” (Tháp bay đến). Người sau thuê thợ
xây một cái tháp tương tợ đứng đối diện. Chẳng bao lâu vị tăng lao công ấy bỏ
đi mất.
- Lại có truyền thuyết: Chùa Nam
Sơn ở Chương Châu tỉnh Phúc Kiến có vị tổ sư tên Long Khố, sự tích cũng giống
như câu chuyện trên, chỉ khác là lúc đi với vua, tổ sư nhìn chăm chú long bào
của vua, vua hỏi: “Sư thích long bào này không?” Sư nắm khố cười nói: “khố rách
rồi!” Vua liền cởi long bào, sai thợ sửa lại thành khố rồi đưa tặng sư, sư mặc
vào, từ biệt ra về, do đó người ta gọi sư là Long khố tổ sư. Không biết Long
Khố tổ sư có phải là vị tăng lao công ở chùa Thừa Thiên chăng. Vì chưa tra cứu
được nên không dám quyết đoán.
LẦN ĐẦU TIÊN CÓ TÚC DUYÊN GẶP HOÀ
THỰƠNG QUẢNG KHÂM
Đại Hùng Bảo Điện chùa Thừa Thiên
có ba cửa, phía trên cửa giữa có treo tấm biển chạm rồng hai bên, chính giữa có
sáu chữ vàng: “SẮC TỨ THỪA THIÊN THIỀN TỰ”. Bên trong cửa chính trái là chỗ
ngồi thiền của sư, bên trong cửa chính phải có vị sư già phụ trách về hương
đèn. Nhìn thấy Hoà thượng ngồi kiết già mắt nhắm, tôi bỗng nhớ lại trong tiểu
thuyết xưa thường có danh từ thiền sư mà mãi đến nay tôi chưa trông thấy một
thiền sư tận mắt. Hôm nay thấy sư ngồi thiền bỗng nhiên lòng tôi phát sinh niềm
vui mừng và sùng kính vô hạn. Cảm xúc còn hơn gặp đựơc bảo vật, tôi không dám
gây nhiễu động, chỉ đến một bên im lặng đứng chờ. Lát sau, có một chú sa-di nhỏ
từ bên trong gọi tên sư, cho biết sư “thủ quỹ” sai đem tiền chia cho sư, chú
sa-di nói vài lời rồi đi.
Nhân cơ hội, tôi nắm hai tay lại
vái chào (lúc ấy tôi chưa biết chắp tay), bứơc tới xin thỉnh ý.
Sư hỏi: “Anh ở đâu? đến đây làm gì?”
Tôi nói rõ về quê quán và sự việc ở tạm nhà người bạn chờ thuyền để sang Đài
Loan … Sư nghe đến đó hỏi: “Anh chẳng mấy khi đến đây, chùa rất rộng, có thể đi
đến các điện để tham quan”. Tôi liền đi vào Đại Điện xem sơ qua một lần, trở
lui… vẫn thấy sư tĩnh toạ, tự nhiên lòng tôi đối với sư như bị một lực hấp dẫn
không thể diễn tả đựơc; tất cả hứng thú du ngoạn đều tập trung nơi sư, như không
muốn rời nửa bứơc. Bỗng có vị tăng đến nói chuyện với sư, tôi lại được cơ hội
đến gần sư lần nữa.
Khi ấy sư phụ có vẻ hơi phiền, bảo:
bảo “Anh từ huyện Vĩnh Xuân đến, trong chùa có một vị tăng già, ông ấy là tú
tài ở huyện gần với anh; anh là trí thức, tôi sẽ dẫn đến gặp ông ấy, anh có thể
nghe ông nói chuyện Phật pháp để tăng trưởng trí tuệ”. Dứt lời sư liền đứng dậy
dẫn tôi vào bên trong, đến phòng khách sư giới thiệu tôi với vị tăng tú tài, (người
họ Lại, gia đình giàu có, con cháu rất đông, xuất gia đã trên 20 năm, em trai
ông là một nhà trí thức uyên bác mà tôi đã có vài lần tiếp xúc). Chuyện trò
giây lát sư lại trở về Đại Điện. Lúc bấy giờ vị sư tú tài già tuổi gần 70, khi
nói cười chỉ còn thấy một hai răng cửa, đem tặng tôi mấy cuốn kinh do chùa in
ấn: kinh Kim Cang, kinh Di-Đà, kinh Phổ Môn … đồng thời giới thiệu sơ lược. Tôi
cảm thấy sốt ruột, vâng dạ qua loa rồi vội cáo từ, cầm theo mấy cuốn kinh ấy
trở lui. Ra tới Đại Điện tôi lại đến bên cạnh sư chờ dịp hầu tiếp chuyện, nhưng
sư chỉ miễn cữơng đối đáp, đến trưa tôi mới rời chùa.
Chiều hôm đó, tôi đến vãng cảnh
chùa Khai Nguyên (chùa lớn nhất thành Tuyền Châu) xem lại hai cái tháp đông –
tây, (chùa Khai Nguyên phân chia tả - hữu hai bên, và đông – tây đối diện. Theo
sách Tuyền Châu Phủ Chí thì tháp ấy cao hơn 21 trượng, xây bằng đá xanh, có tám
mặt, năm tầng. Mỗi tầng đều có chạm những tượng Phật khác nhau vào chính giữa
mỗi mặt tháp. Tương truyền đỉnh tháp làm bằng “đồng thất bảo”, khi ánh nắng
chiều chiếu nghiêng, đỉnh tháp tỏa ánh sáng rực rỡ, thật là một công trình kiến
trúc kỳ diệu.
Sáng hôm sau tôi lại đến chùa Thừa
Thiên, sư vẫn ngồi chỗ cũ, thấy tôi đến vui vẻ ra tiếp tôi, thái độ khác hẳn hôm
trước.
Sư cởi mở nói: “Anh định đi Đài
Loan, được đấy. Anh cũng nên đi, sau khi đến nơi anh nhớ viết thư cho tôi. Phật
giáo ở Đài Loan chịu ảnh hửơng Thần giáo của Nhật Bản, làm cho tăng tục không
còn phân biệt; tôi có duyên với Đài Loan, sẽ đến đó xây dựng đạo tràng hoá độ
chúng sinh. Tôi đem thân này tu hành theo Phật để cứu vãn Phật giáo đang thoái
trào trở lại con đường chân chính, đó là tâm nguyện của tôi. Anh nên nhớ rằng
sau khi đến Đài Loan anh còn phải trải qua một giai đoạn gian khổ, e rằng anh
không chịu đựng nổi”.
Tôi thưa: “Bạch Sư, nếu con đáng
nên đi Đài Loan thì dù gặp muôn vàn khó khăn con cũng không từ bỏ, con sẽ vui
lòng chấp nhận”.
- Túc nghiệp của anh rất nặng, nếu
không trải qua gian khổ để rèn luyện thì không cách nào tiêu trừ; anh đã nguyện
ý chịu khổ thì có thể đi được. Người xưa nói “có đắng ắt có ngọt”. Mong anh dù
gặp khổ nạn tột cùng cũng không thối chí.
- Con kiên quyết chẳng hề hối tiếc.
Liền đó tôi quyết định lạy sư làm
thầy, sư cũng vui lòng chấp nhận, quả là có duyên thầy trò. Khi ấy tôi chỉ biết
hết lòng cung kính, lấy lễ tạ ơn sư mà thôi, hoàn toàn không biết xin phép quy
y.
Cùng Sư du ngoạn đến động Bích Tiêu
Từ đó, ngoài lúc phải ăn và ở nhà
bạn ra, lúc nào tôi cũng ở bên cạnh sư đến gần 10 giờ đêm mới về. Qua một tuần,
ngẫu nhiên sư đề cập đến việc tu khổ hạnh trên núi, tôi bỗng sinh lòng hiếu kỳ,
hỏi sư con đừơng đi tới nơi ấy. Sư nói:
- Con muốn đến đó? Vậy sáng sớm
ngày mai thầy với con cùng đi.
Hôm sau trời vừa sáng tôi liền vội
đến chùa. Sư đã rời thiền tọa đợi tôi trước thềm điện Phật rồi! đầu đội nón
rơm, lưng đeo đãy vải “tứ đại”, tay chống gậy bước ra khỏi chùa. Thầy trò đi ra
bằng cửa bắc thành Tuyền Châu, theo một con đừơng nhỏ, già trẻ hai bên đừơng
phố kêu lên “Sư Quảng Khâm! Sư lại lên núi sao?” – Sư đáp:
- Tôi đưa khách lên chơi, không ở
lại núi đâu!
Trên đường đi nghe người ta nói với
nhau:
“Hoà thượng phục hổ ấy mà rời khỏi
chốn này thì thật đáng tiếc”.
Đi được vài chục bước, sư bỏ dép đi
chân không, tôi cũng bắt chước cởi giày, sư đem gởi trong tiệm hớt tóc. Sư lại
đến một quán nhỏ mua mì và rau cải xanh chuẩn bị cho tôi bữa ăn trưa. Sư bỏ vào
đãy đưa cho tôi mang. Thầy trò ra khỏi cửa bắc thành, lần leo bậc cấp lên đến
núi Thanh Nguyên.
Trước tiên đến động Di-Đà, rồi
chuyển sang động Bích Tiêu nằm ở lưng chừng núi. Bên phải động là vách đá thẳng
đứng cao ước một trựơng, ngoài động có một tảng đá lớn chắn, phía trong trống
rỗng làm thành cái động nhỏ (rộng khoảng 5 thứơc [TQ], cao 6-7 thước), hai bên
như hai cái cửa thiên nhiên có thể vào ra được. Cửa bên trái khá rộng, chỗ cao
nhất tôi có thể thẳng người bước vào được. Cửa bên phải rộng khoảng 1 thước,
cao gần 4 thước, khi ra vào phải đi cúi đầu. Trong động có một tấm phản vuông
cũ kỹ, đủ chỗ đi vòng quanh được. Chính nơi đây sư đã ngồi quay mặt vào vách 12
năm (từ năm 1933 lúc sư 42 tuổi cho đến năm 1945 sư 54 tuổi). Đất phía ngoài động
không rộng. Sư tự tay trồng một số cây ăn trái
Nghe nói động Bích Tiêu do người
đời trước xây dựng, đã bỏ hoang từ lâu; khi sư đến và nhập định vài tháng trong
động thì xa gần đều biết. Sau có một Hoa kiều về nước đến yến kiến sư, phát tâm
trùng tu lại. Động chỉ chiếm một mặt bằng nhỏ chưa tới 20 mét vuông; vách đá,
mái ngói, hai bên là cửa ra vào, chính giữa có một cửa sổ lớn; trong động,
ngoài tấm phản vuông cũ ra, không có vật gì khác. Sư than với tôi: “Khi Thầy
sắp xuống núi, có một “trai cô” xin đến ở, nhưng khi thầy xuống núi thì cô ấy
lại không chịu đến, nên động mới hoang phế thế này. Người xuất gia mà không
chịu kham khổ, thật đáng tiếc, đáng thương xót!”
Lại men theo bậc đá phía bên phải
khoảng 10 bước thì đến động Thụy Tạng. Sư nói: “Động này nguyên là chỗ tu niệm
của Thầy tôi là pháp sư Hoằng Nhân, nay Ngài đã viên tịch nên động cũng bỏ
không”. Lại leo tiếp đến cái miếu nhỏ (thờ thần), có một ông từ trông giữ. Sư lấy
mì và rau nhờ ông làm giúp bữa ăn cho tôi; còn sư thì đem trái cây trong đãy ra
dùng.
Ăn xong nghỉ ngơi một lát, thầy trò
theo triền phải núi tìm đường về. Đi qua một động tiên, bên trong thờ một tựơng
Tiên, đã lâu không hương khói. Xuống nữa thì đến hai nhà trai đừơng, cách nhau
không xa. Có các trai cô đầu bịt khăn vải đang làm vườn, trong trai đường chỉ
còn một hai cô cao tuổi ở lại nấu ăn. Các cô đều do chùa Thừa Thiên phái đến.
Vị trai cô cao tuổi vốn quen biết
sư nên mời vô uống trà. Lúc ấy trời đã xế chiều, các trai cô ở ngoài vừơn cũng
nghỉ việc để chuẩn bị khoá công phu chiều. Sư cũng từ giã xuống núi. Xuống đến
đất bằng, thuận đường đến thăm miếu Thành Hoàng Phủ Tuyền Châu, sau miếu có một
viện dữơng lão do vị thân sỹ tên Diệp Thanh Nhãn ở thành Tuyền Châu sáng lập.
Trườc kia Đại sư Hoằng Nhất có đến và ở lại đây (sau khi Ngài viên tịch di cốt
đựơc đem thờ ở Công đức đừơng chùa Thừa Thiên). Đến lúc này trời sắp tối, thầy
trò vội vàng quay về cửa Bắc, đến lấy giày dép đã gởi, rồi trở về chùa Thừa Thiên.
Cơn bão trợ duyên kết nghĩa thầy
trò
Vì chờ lâu mà thuyền của người bạn
chưa về, lòng tôi nôn nóng đi Đài Loan bèn đến hãng tàu mua vé.
Ngày 17 tháng 06, hãng tàu thông
báo 9 giờ tối khách lên thuyền. Tôi liền đến từ giã sư, lúc chia tay sư nói: “Nếu
như chưa đi có thể trở lại trò chuyện”. Tôi nghe sư nói vậy biết trong lời nói
có ẩn ý, trong bụng nghĩ lần này chắc khó đi được. Nhưng công ty đã thông báo,
tôi chỉ còn cách lên thuyền xem như thế nào.
11 giờ khuya, thuyền nhổ neo từ cửa
nam bến Tân Kiều từ từ rời vịnh Tuyền Châu ra khỏi cảng. Đêm ấy trăng sáng như
gương, trời trong vắt không một bóng mây. Trên thuyền ngoài 7, 8 thuỷ thủ ra,
còn lại 36 hành khách đều vào ngủ trong khoang thuyền, chỉ mình tôi ngồi dưới
cột buồm trên boong tàu, nhờ ánh sáng trăng mở kinh (thỉnh ở chùa Thừa Thiên)
ra đọc.
Mờ sáng hôm sau, thuyền vừa mới ra
khỏi hải cảng, phía đầu thuyền hai thủy thủ trẻ rút một cây sào tre bên hông
thuyền cắm xuống nước nói với người cầm lái ở phía sau: “Nứơc sâu 1 trượng 2”.
Lại cắm một lần nữa, nói: “8 thứơc rồi!”. Bỗng dưới đáy thuyền có tiếng động
như chạm vật gì, thuyền nghiêng về bên phải: thủy triều đang rút, nứơc cạn!
Thuỷ thủ vội nhảy xuống cầm gậy chống đỡ thuyền đang nghiêng. Đến khi trời
sáng, hành khách ùa nhau nhảy xuống bãi cát, trẻ con được dịp đào bắt sò ốc
trong cát. Khoảng 10 giờ thuỷ triều lên lại, người lái thuyền bảo làm cơm cho
mọi người ăn no, chuẩn bị 12 giờ trương buồm ra khơi.
Đến giữa trưa, buồm lớn đã dựng
xong, người lái thuyền ngẩng đầu quan sát khí tượng, bỗng la to: “Đài Loan có
bão, hôm nay không thể ra khơi đựơc!” Ông ta lập tức ra lệnh thu buồm, lái
thuyền trở lại cảng, đến một trấn nọ tạm nghĩ. Khoảng 3 giờ chiều, ông lái
thuyền lại bảo: “Sợ gió lớn có thể kéo dài đến vài ngày, để tiện cho hành khách
thuyền nên trở về Tuyền Châu”. Bảy giờ chiều thuyền trở về chỗ cũ.
Rời thuyền, tôi đến ngay chùa Thừa
Thiên báo cho sư hay, sư đã ngồi đợi trên sân trước điện. Thấy tôi đến người
cười lớn: “Thầy biết con sẽ trở lại! Thầy trò mình nhân duyên chưa kết, con làm
sao đi đựơc!” Sư chọn ngày hôm sau (19 tháng 6) tại điện Quán Thế Âm sau chánh điện
làm lễ quy y cho tôi.
Sáng ngày 19, tôi thành tâm chuẩn
bị hương đèn hoa quả, đặt trứơc tượng đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Sư bảo tôi lạy
Phật, sư giảng Tam quy y, và hoàn thành lễ quy y cho tôi (tôi là người đệ tử thứ
ba đựơc quy y). Lễ xong tôi thưa: “Lòng con rất tha thiết đi Đài Loan, không
biết khi nào mới đi đựơc”. Sư nói: “Cơn bão đã dứt rồi, chiều 20 có thể lên
thuyền, 21 ra khởi, ngày 22 sẽ đến Đài Loan đựơc”.
Ngày 20, sau giờ ngọ quả nhiên hãng
tàu thông báo tối nay lên thuyền, 7 giờ tôi đến từ giã sư, người lại dặn kỹ: “Con
nhớ gởi thư liên lạc với thầy”. Tôi đáp: “Con xin vâng lệnh sư phụ”.
Lúc tôi lên đường sư chúc “Thuận
buồm xuôi gió” mấy lần. Tôi bái tạ ra đi, lòng đầy nỗi vui mừng lần này nhất
định sẽ đến Đài Loan!
11 giờ khuya thuyền nhổ neo, ánh
trăng sáng ngời, một mình tôi ngồi ở trên boong tàu xem kinh. Sáng ngày 21
thuyền đến cửa khẩu, ông lái cho thuyền ghé bờ, vào nhà ông ta (ở Hải Tân) để
chất thêm hàng hoá, đến 12 giờ trưa giương buồm ra khơi. Hôm ấy biển lặng sóng
êm, ánh nắng chói chang, thuyền nhấp nhô theo làn sóng biển, xuôi gió hướng về
Đài Loan. Tối đến tôi lại ngồi dưới cột buồm đọc kinh, ánh trăng chiếu sáng,
trời nứơc một màu. Bỗng nhiên tôi cảm thấy vũ trụ vô cùng bao la chiếc thuyền
vô cùng bé nhỏ mà xót xa cho con đừơng mờ mịt, đời người huyễn ảo.
Rạng đông ngày 22, bóng dáng Đài
Loan mờ hiện trước mắt. Đến gần trưa thuyền đến bến trạm thuộc Công ty miền
trung; người lái thuyền la lớn: “Tôi lái thuyền cho Công ty đã nhiều năm, tuyến
Tuyền Châu – Đài Loan nếu xuôi gió cũng sau 24 giờ mới tới nơi, dù nhanh nhất
cũng phải mất 23 giờ; nhưng chỉ đựơc vài lần trong cuộc đời đi biển. Đặc biệt
lần này thuyền đi chỉ mất 22 giờ, thật là ngoài sức tưởng tựơng, điều chưa từng
nghe nói bao giờ!” Tôi cảm niệm Phật lực vô biên và nhờ ân sư phù hộ. Tôi càng
sùng kính sư phụ vô cùng.
Lên bờ, tôi vội đáp xe lửa đi Đài
Bắc, đến tạm trú nhà người chú, rồi viết thư ngay báo cho sư phụ rõ. Mấy ngày
sau tôi nhận được thư hồi âm của người cho biết là vẫn còn ở trong chùa Thừa
Thiên.
Ở đây tôi dự thi vào trừơng đào tạo giáo sư quốc
văn cho các trừơng công lập Đài Loan. Sau khi trúng tuyển, tôi dạy thực tập hai
tuần, rồi được bổ đi dạy tại Trừơng dân tộc Gia nghĩa. Tôi lại viết thư kính
báo sư phụ rõ, người phúc đáp rằng sắp đến ở chùa Nam Phổ Đà – HẠ MÔN. Trong
mùa đông ấy tôi gởi liên tiếp hai lá thư nhưng chưa được hồi âm. Mùa xuân năm
1974 tôi chuyển đến làm việc ở Đảng bộ Cục đường sắt tại Đài Bắc, tôi lại viết
thư nhưng cũng chưa nhận đựơc hồi âm. Mãi đến tháng tư, bỗng nhận đựơc thư sư
phụ cho biết người quyết định sang Đài Loan nhưng không có tiền đi đường, tôi
lập tức gởi tiền đi thuyền cho người. Chiều ngày rằm tháng 5 sư phụ đến Cơ Long
an toàn. Sau khi đến Đài Loan, sư phụ độ vô số chúng sanh, (sự việc này tôi xin
không trình bày ở đây). Riêng nghĩ đến ơn Thầy chưa báo đáp, lòng tôi sớm tối
không yên, nay chỉ xin được đem một phần nhân duyên dìu dắt hoá độ của Ân Sư,
kính cẩn ghi lại vài dòng kỷ niệm.