Một giờ chiều, ngày mồng 9 tháng 4, một đoàn người khởi
hành từ Đài Bắc, đi khoảng một tiếng đồng hồ xe đến làng Thổ Thành. Đến đoạn
đường dốc núi quanh co, xe lên muốn không nổi, hành khách định xuống đi bộ. Qua
một eo dốc, bổng xa xa thấy thấp thoáng bóng chùa Thừa Thiên, mọi người chỉ chỉ
trỏ trỏ cho nhau, bàn tán về chuyến đi lịch sử của mình. Đến trước chùa chỉ
thấy một vùng đất màu vàng mới khai phá. Số là chùa Thừa Thiên đang trùng tu,
bên cạnh tạm thời dựng một cái nhà tôn để thờ Phật, có bố trí hai ghế dài, vài
chiếc ghế dựa bằng mây, đơn giản mà trang nhã.
Bên trong, một vị Hoà thượng già, thần thái điềm đạm đang
ngồi trên chiếc ghế mây, hai bàn tay nắm vào nhau; thấy chúng tôi đến Hoà
thượng mỉm cười gật đầu. Làm cho chúng tôi cảm thấy thân mật. Đây chính là Hoà
thượng Quảng Khâm, - người mà thường được gọi là “Sư trái
ây”
Chúng tôi lễ Phật xong, Ngài mời tất cả ngồi xuống, giáo sư Lam mở lời trước: “Chúng
con là sinh viên trong Ban nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu Phật giáo Trung
Quốc PHẬT QUANG SƠN, hôm nay xin đến thăm Hoà thượng đồng thời kính xin Hoà
thượng chỉ dạy cho”.
Người nói: “Theo tôi, người mới xuất gia cần phải trải qua
một giai đọan khổ hạnh, tức là phải kham khổ trong cái ăn cái mặc; cần cù làm
việc, dù bất cứ công việc gì: kiếm củi, gánh nước, trồng rau, nấu cơm … đều
không nề hà, càng lao động cực khổ trí tuệ càng mau phát. Người mới vào chùa
phải làm sao cho tâm an trụ. Biện pháp tốt nhất là chí tâm niệm Phật A-Di-Đà”.
Hoà thượng chỉ các đệ tử của Người, nói: “Hàng ngày tôi
cũng chỉ dạy họ niệm Nam-mô A-di-đà Phật”.
Pháp sư Y Nghiêm hỏi: “Thưa Ngài, làm việc gì thì mới gọi
là tu khổ hạnh?”
– Hoà thượng đáp: “Không so đo tính toán bất cứ việc gì;
trong sinh hoạt hàng ngày không khởi tâm phân biệt, như vậy là tu khổ hạnh”.
Mọi người cảm thấy câu trả lời của Hoà thượng rất đặc biệt.
Tiếp đến, Sư Huệ Căn hỏi: “Xin được hỏi Pháp sư, Ngài có ý
kiến gì đối với vấn đề nghiên cứu giáo lý?”
- Không có ý kiến gì cả, đó là điều rất tự nhiên; các vị
lấy nghiên cứu giáo lý để hoằng pháp, còn tôi thì lấy việc tu trì để hoằng
pháp, - như nhau”. – Sư Tùng Trí hỏi:
- Thưa Ngài, khi xưa Ngài tu hành đóng cửa “nhập thất”,
gặp lúc trắc trở Ngài đối phó như thế nào?
- Phải vững tin, phải có chỗ tựa trong bản tâm sâu kín của mình.
- Khi “nhập thất” có cần phải ngày càng ăn ít đi hay không?
- Không phải vậy, phải thuận theo tự nhiên, phải sống bình
thường, không có gì ngăn ngại, phải vô ngã mới là “nhập thất”; nếu như có “ta”,
“ăn nhiều ít”, ấy không phải tu mà là chấp trước.
- Khi con “nhập thất” có lúc không muốn ăn, cho nên không ăn.
- Cố ý không ăn thì hoả khí bốc lên, không thể tu hành
được; ý nghĩ “không muốn ăn” khởi lên ấy là chấp trước, “không muốn ăn” là có
cái ta không muốn ăn”.
- Có lúc không ăn cảm thấy dễ chịu thì sao?
- Chỉ dễ chịu vài ngày thôi, hiện tượng đó tạm thời, bởi
vì chúng ta chưa đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn, một niệm không khởi; cho nên có
ý chấp không ăn thì thân thể sẽ suy yếu dần.
Hỏi đáp một hồi, mọi người nhớ lại những lời thuyết giảng
vừa rồi.
Bỗng Sư Huệ Trí hỏi tiếp: “Nghe nói Hoà thượng chỉ ăn trái
cây sống qua ngày...” – câu hỏi chưa dứt Hoà thượng đã trả lời:
- Bây giờ tôi không ăn trái cây như vậy nữa. Năm 1947 (lúc
đó Người 57 tuổi) tôi từ Đại Lục đến Đài Loan, tu hành ở trong núi, suốt thời
gian từ 55 đến 84 tuổi ăn toàn trái cây, còn bây giờ tùy duyên, tôi ăn chay
bình thường.
- Thưa Ngài, vì sao Ngài lại có ý nghĩ ăn trái cây?
- Vì trên núi không có gì để ăn, dĩ nhiên là phải ăn trái
cây thôi.
Nghe nói thế ai nấy đều cười. Câu trả lời hoàn toàn ngoài sự
ức đoán của mọi người. Hoà thượng nói tiếp:
“Tôi đâu phải cố ý chỉ ăn trái cây, có lúc không có trái
cây thì uống nước cũng qua được một ngày.”
Sư Tùng Trí hỏi “Nghe nói Hoà thượng lúc đầu lên núi bị lạc đường, tìm không có
gì để ăn nên mới ăn trái cây?”
- Đúng vậy, trên núi không có gì để ăn, không có “thiên -
nhân” cúng dường, chỉ còn cách tìm trái rừng ăn đỡ đói.
Sư Huệ Tịnh hỏi: “Ăn trái cây như vậy cơ thể chịu nổi
không?”
- Chịu không nổi cũng phải chịu, có trái cây ăn là tốt lắm
rồi, sao lại còn nghĩ đến “chịu nổi hay không nổi?”
Câu trả lời làm cho mọi người cười vang lần nữa.
Giáo sư Lam hỏi: “Hàng ngày Hoà thượng vẫn ngồi thiền?”
- Tôi tùy phương tiện, hiện nay việc gì cũng có: ăn, ngủ,
- ngủ rồi đến ghế mây ngồi. Muốn ngủ thì ngủ, muốn ăn thì ăn, không lúc nào mà
chẳng tự tại!
Hoà thượng làm cho mọi người cảm thấy thú vị và thân mật
hơn.
Sư Huệ Tung: “Thưa Ngài, hành thiền nên bắt đầu tập từ đâu?”
- Bắt đầu tập từ quán tự tại. – Lại một câu trả lời đặc
biệt.
- Có phải Ngài tu theo Thiền tông?
- Không, tôi thiền về Tịnh độ, niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật.
Sư Huệ Minh: “Thưa Hoà thượng, niệm Phật có ‘bí quyết‘ gì?”
- Không có ‘ bí quyết ‘ gì cả, chỉ quán tâm của mình. Có
người không biết niệm Phật, chỉ mong được sống lâu; nhưng mong sống lâu để làm
gì? chỉ kéo dài thêm thời gian tạo nghiệp. Người biết niệm Phật thì tâm với
Phật là một, thêm một năm thọ mạng tức là thêm một năm “Vô Lượng Thọ Phật”.
Sự Huệ Căn nói: “Trong thời buổi hiện nay, hoằng dương
Phật pháp nên theo phướng cách nào thì tương đối tốt?“
- Sao? Như tôi vừa mới trình bày, các vị lấy học thức để
hoằng pháp còn tôi thì lấy niệm Phật để hoằng pháp, cái nào cũng cần.
Sư Tùng Trí hỏi sang chuyện khác:”Thưa Hoà thượng, nghe nói
nơi này sắp xây lại Đại Điện?”
- Tín đồ Phật tử phát tâm muốn xây lại thì cứ để cho họ làm
tôi không bận tâm, không vui mừng, cũng không khó chịu.
Bầu không khí yên lặng trong giây lát.
Lại có người hỏi:”Xin thưa, khi mới ngồi thiền vọng niệm
rất nhiều, làm cách nào để đối trị?”.
- Vọng niệm nhiều là nghiệp chướng nhiều, để trừ vọng niệm
thì niệm Phật là tương đối dễ; ngoài ra, chuyện thế gian phải giảm bớt đi, - đó
là điều trong yếu.
Giáo sư Lam hỏi: “Có người tin theo ngoại đạo nhưng bản chất
của họ rất tốt, vậy về sau họ sẽ sanh vào cõi nào?“
- Đó là do tâm phân biệt của các anh; theo tôi, mọi người
đều như nhau, mỗi tôn giáo đều có chỗ tốt của họ nên đối với xã hội đều có mức
độ lợi ích nhất định. Đây không phải là vấn đề anh tốt hay tôi tốt mà là vấn đề
tầng lớp căn cơ.
Tiếp đó Hoà thượng hỏi lại chúng tôi:
“Độ chúng sanh, độ bằng cách nào?”
Câu hỏi bất ngờ, mọi người không biết phải trả lời như thế
nào.
Hoà thượng tự giải đáp:
“Độ chúng sanh” thật ra không phải là chuyện dễ, chúng ta
phải xuất phát từ lòng từ bi thì chúng sinh mới nghe theo, họ mới chịu để cho
chúng ta độ; nếu họ mà không tin theo thì không có cách gì để độ họ được. Cho
nên điều thiết yếu là phải thuận theo cái tự nhiên, làm sao mà mỗi khi gặp
chúng ta họ cảm thấy vui mừng. Độ chúng sinh cần phải tùy duyên hoá độ, phải có
lòng từ và thuận theo tự nhiên.
Do vậy mà chữ “duyên” ở đây rất là quan trọng.
Sư Huệ Trí lại hỏi: “Thưa Hoà thượng, đối với vấn đề thoát
vòng sanh tử, Ngài thấy thế nào?”
- Thoát vòng sanh tử? A! Đâu phải là chuyện dễ bàn! Tuy
nhiên, muốn thoát sanh tử cũng có biện pháp tương đối giản dị, đó là niệm Phật,
nhưng đừng tưởng niệm Phật là dễ, sơ suất một niệm sẽ rơi vào trạng thái ngủ
gật (hôn trầm).
Một người hỏi: “Nếu lúc niệm Phật mà buồn ngủ thì
phải làm sao?”
- Buồn ngủ thì cứ ngủ.
Cô sinh viên Thái Nguyệt Tú hỏi: “Có người niệm Phật cầu
thoát khỏi sanh tử, nhưng lại có Bồ-Tát vì bổn nguyện mà trở lại độ sanh, hai
trường hợp này có gì khác nhau?”.
- Theo ý tôi, nguyện lực của mỗi bên có khác. Xin hỏi, các
vị đi học nguyện vọng có giống nhau không? - Ngài trả lời vấn đề thật là khéo
Giáo sư Lam: “Tu hành đạt đến trình độ nhất định nào đó
rồi, đối với vấn đề vãng sanh Tây phương ’ có thể tự mình biết được không?”
- Chỉ đến khi lâm chung mới biết được. Ai ai cũng có thể
thành Phật, chỉ vì nghiệp cảm khác nhau nên trước – sau không giống nhau. Thân
người khó có được, vì thế phải nổ lực tu hành. Địa ngục, súc sanh đều do mình
tạo ra; thành Phật làm Tổ cũng tự mình mà được. Muốn thành Phật phải trải qua
kiếp người, phải nắm lấy cơ hội mà tu hành.
Sư Y Quảng:
“Niệm danh hiệu Phật phải chăng cũng là ‘chấp’?”
- Niệm danh hiệu Phật không phải là ‘chấp’, vì có chú ý
niệm danh hiệu Phật mới được chánh niệm. Nếu như niệm mà tán tâm hoặc tâm nghĩ
đến danh lợi, thì đó mới gọi là ‘chấp’.
- Nhất mực phải niệm Phật, nhất mực phải niệm, - như vậy
có phải là ‘chấp’ không?
- Đó không phải là chấp mà là tinh tấn.
Sư Huệ Minh: “Có người nói niệm Phật bị ma phá, vì sao vậy?”
- Ấy là do tâm tưởng nên mới sinh ma phá, không chú tâm
thì mới thấy ma. …
- Pháp sư Thường Ân:
- Khi niệm Phật nếu như tâm bị án loạn thì phải làm cách
nào?
- Chỉ có một cách duy nhất là tiếp tục niệm, tập trung hết
tinh thần vào sáu chữ “Nam-mô A-Di-Đà Phật” sẽ đối trị được.
Giáo sư Lam hỏi: “Ngài nghĩ thế nào về câu ‘ Đới nghiệp
vãng sanh ’ (mang nghiệp [ vẫn ] vãng sanh)?”
- “Đới nghiệp bất năng vãng sanh “(mang nghiệp không thể
vãng sanh). Câu Đới nghiệp vãng sanh” trong kinh điển không hàm ý nghĩa như
người ta thường tưởng. Tuy ta có tâm nguyện vãng sanh về Thế giới Cực lạc,
nhưng khi lâm chung nếu nghiệp lực lớn hơn niệm lực thì không thể vãng sanh,
nếu nhờ nguyện lực mà ta được trở lại làm người, lại tiếp tục niệm Phật, chuyển
kiếp như vậy nhiều lần, niệm cho dến khi nào niệm lực lớn hơn nghiệp lực thì sẽ
được vãng sanh“.
Pháp sư Y Hằng hỏi: “Khi chuyển kiếp mà sanh vào gia đình
Cơ Đốc giáo, không còn niệm Phật nữa thì sao?”
- Không phải vậy, đến thời kỳ nhất định, nguyện lực của
người ấy sẽ thúc đẩy họ niệm Phật, có chủng tử của nguyện lực ắt sẽ khiến họ
niệm Phật.
Cô Thái Nguyệt Tú hỏi: “Có người tu hành rất tinh tấn
nhưng lại chết vì trọng bệnh hoặc do tai biến, đối với vấn đề ấy Ngài thấy thế
nào? Phải chăng vì định nghiệp khó chuyển?”
Đáp: “Có thể nói là định nghiệp khó chuyển, cũng có thể ấy
là trả nghiệp theo tâm nguyện. Có người bảo: người tu hành như vậy, chả lẽ
không vận dụng được sức tu hành để khắc phục nghiệp lực? Tôi có thể nói rằng có
tu hành mới bị khổ nạn làm cho điêu đứng khổ sở, đó chính là công đức tu hành
khiến cho nghiệp lực được giải quyết trong đời này”.
Hoà thượng nhấn mạnh cần phải nhất tâm niệm Phật.
Pháp sư Hoằng Ý hỏi: “Trong kinh A-Di-Đà có câu: Không thể
thiếu thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh vào cõi ấy (Cực lạc). Sao
Ngài cho rằng chỉ chuyên tâm niệm danh hiệu Phật thì có thể vãng sanh?”
- “Chỉ cần có đủ lòng tin, được như thế phước đức, nhân
duyên nhất định có đủ. Vấn đề hiện tại là lòng tin của Ngài; xét cho cùng đó là
thứ lòng tin nào? Là niềm tin chung chung chăng? là tin bằng cách niệm năm ba
vạn danh hiệu Phật? là phó thác sinh mạng vào niềm tin? hay là niềm tin nhất
tâm bất loạn, một niệm không khởi? Tự bản thân Ngài trang bị cho mình thứ tín
tâm nào? Ngài hãy tự biết lấy, nhân duyên, phước đức có đầy đủ chưa?”
Rời khỏi chùa Thừa Thiên, ai nấy như có cảm giác là “lời
đồn về Hoà thượng” và “Hoà thượng trong thực tế” không giống nhau hoàn toàn.
Qua phong cách luận đàm của Người, quả là “biện tài vô ngại”, có thể thấy được mẫu
mực của một bậc cao tăng. Điều này không những làm tăng thêm kiến thức cho
chúng tôi mà còn khích lệ tín tâm của chúng tôi nữa.
Vân Lâm