PHẦN
1
ĐẠO PHẬT XƯA VÀ NAY
Đây là đề tài mà tôi nói
chuyện trên Paltalk vào ngày 3/10/2004 do Ban tổ chức của
Phật học đường Vạn Hạnh mời. Sau đó, một vài Phật tử có nhã ý
yêu cầu tôi viết lại thành lời để công khai đăng tải trên
báo chí. Tôi nghĩ, đây là một ý kiến tốt, do vậy lợi dụng
thời gian rảnh, vội ghi lại những gì đã phát biểu trong
buổi nói chuyện và bổ túc thêm những gì chưa được trình bày
trong buổi nói chuyện hôm ấy. Bài phát biểu này với nội dung nói
lên những trăn trở suy tư của riêng tác giả, về sự tồn tại của Phật
giáo trong thời đại mới con người mới. Khái niệm “mới” ở đây tôi
muốn nói đến ý niệm so sánh giữa con người và xã hội hôm nay hoàn
toàn khác biệt với con người và xã hội ngày xưa, làm thế nào để đem
giáo lý của đức Phật được trình bày qua kinh điển cách đây mấy ngàn
năm, để nó trở thành sự sống có lợi ích cho con người sống trong xã
hội ngày hôm nay. Bằng tấm lòng cởi mở và xây dựng, dưới góc độ là
người con Phật, nghiên cứu giáo lý của Ngài, tôi hoàn toàn không
mang ý niệm muốn phê phán bất cứ điều gì, chỉ căn cứ vào kinh điển
và quá trình diễn biến của lịch sử, nói lên sự thật của lịch sử diễn
biến của Phật giáo, mong muốn tinh thần trong sáng và thiết
thực, lợi mình lợi người của đức Phật được tỏa sáng ngay
trong đời sống hiện tại của mọi người Phật tử chúng ta.
Với chủ đề này, tôi sẽ trình bày
với nội dung gồm 5 phần:
1. Quan điểm của đức Phật về con người và xã hội.
2. Tinh thần giáo dục và hình thức giáo dục của Phật
giáo.
3. Quá trình diễn biến của đạo Phật.
4. Phật giáo ngày nay và bối cảnh xã hội của nó.
5. Làm thế nào để Phật giáo cùng xã hội phát triển.
Trong lời dạy của đức Phật tại
vườn Lộc Uyển (Isipatana) thuộc thành Ba la nại (Brnasi)
được ghi lại “Kinh Tương Ưng” như sau:
‘Này các Tỷ kheo! hãy du hành,
vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an
lạc cho chư thiên và loài người….Hãy tuyên thuyết phạm hạnh
hoàn toàn viên mãn thanh tịnh…’[1]
Nội dung và ý nghĩa của lời dạy trên đã
gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, sự ra đời của đức Phật không ngoài mục
đích giải quyết những khổ đau cho con người. Theo Ngài, đời
sống phạm hạnh là con đường đơn giản nhất cho sự diệt trừ khổ đau.
Từ ý nghĩa này, chúng ta có thể mạnh dạn khẳng định: khi nào con
người còn khổ đau thì đạo Phật vẫn còn tồn tại và có giá
trị. Nói một cách khác, lý thuyết và hành động của đạo
Phật luôn luôn gắn liền với con người, với xã hội mà con người
đang sống. Nơi nào con người có khổ đau thì nơi ấy cần có đạo Phật.
Do vậy, đạo Phật không tồn tại ngoài xã hội con người. Điều
này gợi ý cho chúng ta nhận thức một vấn đề khá quan trọng
là nếu như đạo Phật không giải quyết được những nỗi khổ đau thuộc
về tâm lý của con người thì cũng đồng nghĩa đạo Phật không phải
là tôn giáo của con người. Nếu vậy, Phật giáo sẽ tự mình tách khỏi
xã hội, nếu không muốn nói là con người dần dần từ bỏ đạo
Phật, vì đạo Phật không có giúp ích gì cho cuộc sống, cho dù chúng
ta có tự cho rằng đạo Phật cao siêu như thế nào đi chăng nữa. Nếu
đó là sự thật thì tôi cho rằng, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
sự kiện này chính là chúng ta đã tôn sùng ca ngợi Ngài thái
quá, đồng thời chúng ta không dùng phương pháp ‘Như lý tác ý’ của
Ngài đã từng dạy để giải thích giáo lý của Ngài, lại lấy “niềm tin”
và lòng kính ngưỡng tuyệt đối để giải thích, cho nên giáo lý của
Ngài trở thành giáo lý để ‘tin’ không phải để hiểu, để lễ lạy không
phải giáo lý để thực hành. Thêm vào đó, thái độ cố chấp, tự cao,
tự cho mình là đúng, không tôn trọng lời khuyên hay ánh sáng của
khoa học, đã đưa đến cách giải thích Phật pháp một cách tùy tiện,
duy ý chí, vô tình đã đẩy đạo Phật càng ngày càng xa rời với con
người và xã hội.
Nếu như chúng ta xem đạo Phật như
là một thực thể sống thì cũng không thể lấy một điểm nào
trong quá trình của sự sống ấy và vội vã cho rằng: đây là
hình thức sinh hoạt khuôn mẫu tiêu chuẩn cho Phật giáo để rồi
lấy đó làm thước đo cho mọi sinh hoạt Phật giáo khác mặc
cho thời gian và không gian đã hoàn toàn biến đổi. Theo tôi,
cách suy nghĩ như vậy, chẳng khác nào như chúng ta bắt mọi
người cùng mặc chiếc áo, cùng có một kích cỡ giống nhau,
không cần biết người đó cao hay lùn, ốm hay mập. Phải chăng chúng ta
tự xưng rằng mình là Phật giáo Đại thừa, nhưng chính chúng ta lại
phủ nhận tinh thần ‘phương tiện’ trong “Kinh Pháp Hoa”?
Khi thảo luận về quan điểm này thì có
người đưa ra câu hỏi rằng: Nếu như đạo Phật tùy theo không gian
và thời gian diễn biến thì cái gì được gọi là đạo Phật?
Phải chăng đạo Phật là đạo không nhất quán? Ở đây, tôi xin
trả lời rằng: Đạo Phật không phải là một tôn giáo thiếu
nhất quán, tùy tiện bởi vì đạo Phật chỉ có một mục đích duy
nhất là làm thế nào để thành đạt sự giác ngộ và giải
thoát. Theo đức Phật, giác ngộ và giải thoát là mục tiêu của đạo
Phật, nó là tư tưởng cốt lõi xuyên suốt trong 3 tạng kinh điển
trong đạo Phật, cho dù là Phật giáo Tiểu thừa hay Đại thừa, là
Thiền tông hay Tịnh độ tông, hay sinh hoạt dưới hình thức tông
phái nào, cho dù ở bất cứ thời gian hay không gian nào, yếu tố đó
vẫn không thay đổi. Nhưng thời gian và không gian khác nhau,
trình độ con người cũng khác nhau, vì lợi ích thiết thực cho con
người và xã hội cụ thể đó, Phật giáo đã phương tiện đã thiết lập
hình thức sinh hoạt giáo dục khác nhau để thích nghi với con người
và xã hội, cho nên có tất cả những loại hình sinh hoạt trong Phật
giáo. Để tránh sự hiểu lầm này, tôi gọi yếu tố “giác ngộ và
giải thoát trong Phật giáo là: ‘Tinh thần giáo dục’ và
sự khác nhau về cách giảng dạy trong đạo Phật là ‘Hình
thức giáo dục’. Tinh thần giáo dục là cái không
thay đổi, nhưng hình thức giáo dục luôn luôn phải thay
đổi để phù hợp với căn cơ và trình độ của chúng sanh.
Như vậy, chúng ta muốn có sự nhận
thức đúng về đạo Phật, chúng ta không nên dựa vào hình
thức sinh hoạt của đạo Phật nào trong quá khứ, đi đến kết luận
cho rằng, đạo Phật chỉ như thế này, không như thế kia. Chúng
ta muốn biết được hình thức sinh hoạt đó có phù hợp với tinh thần
giáo dục của đức Phật không thì chúng ta cần xem xét mục đích sinh
hoạt của tổ chức đó là gì, vì sự giác ngộ giải thoát hay khuếch
trương lòng tư dục. Cũng vậy, chúng ta muốn Phật giáo được
tồn tại và phát triển cùng với xã hội, không nên có thái
độ quá câu nệ vào hình thức, cần phát huy tinh thần phóng
khoáng của Phật giáo Đại thừa trên nguyên tắc lấy từ bi và
trí tuệ làm sự nghiệp, lấy giáo lý “Như lý tác ý’ làm
phương pháp nghiên cứu và tu học.
1. Quan điểm của đức Phật
về con người và xã hội
Trong phần thảo luận này, chúng ta
cần lưu ý một vấn đề căn bản trong đạo Phật là quan điểm
của đức Phật về con người và xã hội như thế nào? Tìm
hiểu rõ về vấn đề này chính là yếu tố cơ bản để chúng
ta tiếp tục thảo luận những phần tiếp theo, nếu không nắm rõ
vấn đề này thì chúng ta khó tiếp tục thảo luận những vấn đề tiếp
theo, và có thể phát sinh những ý kiến trái ngược, cuộc thảo
luận trở thành vô nghĩa. Do vậy, vấn đề trước tiên mà chúng ta
cần tìm hiểu là quan điểm của đức Phật về con người và xã hội.
Để hiểu rõ được vấn đề trên, trước
hết chúng ta nên tìm hiểu sự giác ngộ của đức Phật dưới
cội cây Bồ đề là gì?
Có một số người cho rằng, giáo
pháp mà đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đề là pháp Tứ
Diệu Đế (Catvri-ryasatyni),
lý do vì sau khi giác ngộ, đức Phật lần đầu tiên thuyết
pháp cho 5 anh em Kiều Trần Như là pháp Tứ Diệu Đế. Nhưng
theo tôi, giáo pháp mà đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ
đề là pháp Duyên khởi (prat´tya-samutpda) không phải là Tứ
Diệu Đế. Nếu chúng ta thử đặt vấn đề, đức Phật căn cứ
vào nguyên tắc nào để hình thành pháp Tứ Đế? Làm thế nào
để trình bày mối quan hệ giữa khổ và khổ tập, giữa diệt
đế và đạo đế? Nếu như đức Phật không dựa vào nguyên tắc
duyên sinh thì pháp Tứ đế cũng không thể hình thành vì nội dung
của pháp Tứ đế là nói lên mối quan hệ giữa nhân và quả. Khổ đế do
tập đế mà thành; diệt đế do đạo đế mà có. Điều đó có nghĩa là, nếu
không có tập đế thì không có khổ đế, cũng vậy, nếu không có đạo đế
thì không có diệt đế Một lý do khác nữa mà chúng ta cũng cần
lưu ý, sự giác ngộ pháp Duyên khởi của đức Phật chính là
câu trả lời chính đáng nhất cho giới triết gia Ấn Độ đương
thời, vì những triết gia này cố tình truy tìm một lý thuyết nào có
thể phá vỡ lý thuyết àtman (Phạm ngã đồng nhất thể)
của Bà la môn, là một học thuyết xây dựng chủ nghĩa phân
chia giai cấp, giữa người thống trị và người bị trị, giữa
người Aryan và những người thổ dân Ấn, giữ quyền cai trị vĩnh
viễn cho giống dân Aryan hay Bà la môn. Đó là lý do tại sao các học
thuyết của phái triết học đương thời đều mang ý nghĩa chống lại Bà
la môn. Thế nhưng bản thân của những triết gia này vẫn chưa có lý
thuyết nào đủ khả năng phản bác lý thuyết ‘Phạm ngã đồng
nhất thể’ của những người thống trị, phải đợi đến
Thế Tôn là người đầu tiên phát hiện và tuyên bố chân lý
Duyên khởi.
Thuyết Duyên khởi không những đã vạch
trần sự sai lầm của nền triết học truyền thống của những
người Bà la môn, mà còn chỉ ra cho mọi người thấy rằng,
chính con người là chủ nhân, là người quyết định cho cuộc sống của
chính mình, không ai có thẩm quyền quyết định, dù đó là Chúa hay
Phật, là Thánh hay Thần. Lý thuyết bốn giai cấp do Phạm Thiên sinh
là lý thuyết được tạo ra nhằm lợi dụng sự nhẹ dạ của con người lúc
bấy giờ để bắt họ chấp nhận đời sống bị trị, làm kẻ nô lệ. Thật ra,
cuộc sống giàu sang hạnh phúc hay nghèo khổ bất hạnh mà chúng ta
hiện có cũng chính chúng ta tạo ra, không ai khác hơn. Căn cứ vào
định luật Duyên khởi của vũ trụ, đức Phật đã nói lên sự thật
đó, và căn cứ nguyên lý này mà hình thành toàn bộ hệ thống
giáo lý của ngài, không có một giáo lý nào không hàm chứa giáo
lý Duyên khởi, trong đó giáo lý Tứ Diệu Đế cũng không ngoài ý
nghĩa này. Từ đó gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, cái nhìn của đức
Phật về con người về xã hội cũng không ngoài ý nghĩa duyên sinh, do 5
yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành và thức tạo thành. Cái gì do duyên
khởi thì cái ấy không thể tự chủ, do vậy con người vô thường và
chuyển biến, cái gì vô thường thì cái ấy cũng không có tự ngã. Như
vậy bản chất của con người là vô thường vô ngã. Xã hội cũng lại như
thế, bản chất của xã hội là do nhiều người, nhiều thứ hợp lại mà
thành, cái gì do duyên sinh thì cái ấy cũng do duyên hết mà mất,
không do một đấng thiêng liêng nào tạo ra. Như vậy, xã hội cũng mang
tính vô thường vô ngã. Đây là quan niệm của đức Phật.
Để tìm hiểu quan niệm của đức
Phật về con người, chúng ta không nên tách rời chân lý Duyên
khởi để tìm hiểu về quan điểm của ngài. Như chúng ta được
biết ý nghĩa pháp Duyên khởi được đức Phật trình bày trong
kinh “Tạp A Hàm”[2]
như sau:
“Hôm nay, ta sẽ nói pháp nhân
duyên và duyên sinh. Thế nào là pháp nhân duyên? Nghĩa là:
cái này có cho nên cái kia có.. Như duyên vô
minh có hành, duyên hành có thức…như thế thuần đại khổ tụ
tập. Thế nào là pháp duyên sinh? Là vô minh, hành… dù Phật
xuất hiện hay không xuất hiện ở thế gian thì pháp này vẫn
thường trụ…”
Ở đây, trước hết chúng ta cần chú
ý tìm hiểu hai khái niệm ‘duyên sinh’ và ‘nhân duyên’. Thật ra
trong trường hợp này chúng ta nên hiểu rằng, ‘duyên khởi’ là ‘nhân
duyên’, ý nghĩa của nó không khác nhau. Ở đây đức Phật chỉ nhấn mạnh
sự tương sinh tương diệt là ‘nhân duyên’, và đề cập đến mối quan hệ
giữa nhân và quả gọi là ‘duyên sinh’, nhưng về sau, Phật giáo Bộ
phái phân tích hai khái niệm này mang ý nghĩa khác nhau. Pháp duyên
khởi mang ý nghĩa nhấn mạnh mặt quan hệ bình đẳng giữa các
yếu tố, không có pháp nào là chủ yếu và thứ yếu, không có
khái niệm trước và sau. Ví dụ, khái niệm ‘cha’ và ‘con’,
thông thường chúng ta cho rằng khái niệm ‘cha’ có trước và
khái niệm ‘con’ có sau, nhưng trên sự thật thì hai khái niệm
này cùng trong một sát na xuất hiện, không có khái niệm
nào có trước và khái niệm nào có sau, vì khi người con ra
đời thì ngay lúc ấy khái niệm ‘cha’ mới xuất hiện, nếu như
người con chưa sanh thì không có khái niệm ‘cha’. Như vậy hai
khái niệm này đồng thời sanh khởi, đây chính là ý nghĩa
của pháp duyên khởi của đức Phật trong thời kỳ Phật giáo Nguyên
thủy. Thế nhưng, ở mặt nào đó, ý nghĩa từ ‘nhân duyên’ thì
không giống như vậy. Pháp ‘nhân duyên’ mang ý nghĩa nhấn mạnh
đến khía cạnh chính và phụ. Nhân là yếu tố
chính; duyên là yếu tố phụ. Ví dụ, hạt giống là
nhân, các yếu tố như nước, phân, ánh sáng mặt trời… là
duyên, là yếu tố phụ. Như vậy ‘duyên’ là yếu tố phụ tạo điều kiện
giúp đỡ cho ‘nhân’ hình thành, nhưng bản thân của duyên không
có yếu tố hình thành cái đó, như phân, nước không thể
thành cây. Một điểm nữa mà chúng ta cũng cần lưu ý ‘Nhân duyên’
là chỉ cho thuyết 6 nhân 4 duyên của phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ,
còn ‘Duyên khởi’ lại chỉ cho pháp đã được đức Phật nói ra
hay nói một cách khác ‘Duyên khởi’ là giáo lý của đức Phật
đã đề cập trong A-Hàm, còn ‘Nhân duyên’ là thuyết của thời
kỳ Phật giáo Bộ phái. Đó là sự khác biệt giữa khái niệm ‘duyên
khởi’ và ‘nhân duyên’ trong Phật giáo. Dẫu
rằng, mỗi từ có ý nghĩa riêng của nó, nhưng chúng ta có
thói quen sử dụng hai khái niệm này gần như giống nhau. Nói
đến nhân duyên là nói đến duyên khởi, nói đến duyên khởi
là nói đến nhân duyên.
Trở lại vấn đề mà chúng ta đang
thảo luận. Qua lời đức Phật dạy vừa nêu trên, nó gợi ý cho
chúng ta nhận thức rằng, pháp duyên khởi hay pháp nhân duyên
đều là chân lý của cuộc đời, nó không phải là sự sáng
tạo của bất cứ ai, đức Phật chỉ là người đầu tiên khám
phá chân lý này, sau đó Ngài chỉ nó cho chúng ta biết, để
chúng sanh tránh khỏi khổ đau phiền muộn, nếu như không có đức
Phật phát hiện thì chân lý này vẫn tồn tại ở thế gian, và
cũng sẽ chi phối đời sống con người và xã hội. Nói một cách
khác, chúng ta dù có ý thức hay không có ý thức về nó,
có chấp nhận hay không chấp nhận qui luật này, thì con
người vẫn phải chịu sự chi phối, vận hành theo nguyên tắc
của nó. Vì nó là nguyên tắc tồn tại khách quan, cho nên
chúng ta gọi nó là ‘chân lý’.
Nói đến duyên khởi hay nhân duyên là
nói đến nguyên tắc hình thành và tồn tại của mọi sự vật
trên thế gian này. Các pháp đều do nhân duyên kết hợp mà
thành, không có một sự vật nào tồn tại độc lập, không liên
hệ đến pháp khác. Nói một cách khác, sự tồn tại của sự
vật, ngay cả con người đều tùy thuộc vào những yếu tố
khác. Như lấy sự sống của chính chúng ta làm một ví dụ
điển hình, chúng ta muốn gặp người mình thương mà người ấy
không đến là ta buồn, muốn ăn ngon nhưng tài chính không cho
phép cũng đành chịu, muốn trẻ mãi nhưng không ai tránh khỏi
qui luật sanh lão bịnh tử... Xét cho cùng sự sống của
chúng ta hoàn toàn tùy thuộc vào những yếu tố khác. Như
vậy, cái gì tồn tại bị chi phối bởi những yếu tố khác
thì cái ấy là ‘vô thường’, và tồn tại trong trạng thái
biến đổi. Như vậy, ý nghĩa pháp duyên khởi đã được đức
Phật đề cập gợi ý cho chúng ta nhận thức một điều hết sức
quan trọng là: mọi vật trên thế gian này đều ở trong trạng
thái ‘vô thường’, ngay cả con người, vì bản chất của nó là vô
thường, không có tự tính, cho nên gọi là ‘vô ngã’. Cái gì là
vô thường, vô ngã mà chúng ta cố chấp cho là thường hằng
và hữu ngã, chính cái chấp ấy là yếu tố sinh ra khổ đau.
Thật tướng của thế gian là như
vậy. Chúng ta cần phải ứng xử như thế nào với người thân và
những cái mà chúng ta đang sở hữu, với những người thân mà
chúng ta đang yêu thương, và ngay cả tự thân mà ta đang sống
cho phù hợp với ý nghĩa vô thường đó? Đó là vấn đề cốt
lõi mà đức Phật muốn nhắc nhở trao truyền cho tất cả mọi
người, đó là bức thông điệp mà đức Thế Tôn muốn gởi đến
nhân thế. Ngài dạy:
Sắc (thọ, tưởng, hành,
thức) là vô thường, vô thường tức khổ, khổ tức phi ngã;
cái gì là phi ngã thì cũng phi ngã sở. Quán như vậy gọi
là chân thật chánh quán. Thánh đệ tử do quán như vậy mà
yểm ly sắc, yểm ly thọ, tưởng, hành, y thức. Do yểm ly cho
nên không ưa thích, do không ưa thích cho nên được giải thoát.[3]
Qua nội dung bài kinh vừa nêu trên,
nó gợi ý cho chúng ta nắm rõ những vấn đề như sau. Trước
hết, cái nhìn của đức Phật về con người là cái nhìn đứng
từ góc độ duyên khởi, là chân lý của cuộc sống. Từ cái
nhìn đó, đức Phật phát hiện cái mà chúng ta gọi là con
người, hay trong truyền thống tư tưởng Ấn Độ gọi là
‘ngã’(Àtman) ấy, nó chỉ là sự tập hợp của 5 uẩn, tức là
sắc, thọ, tưởng, hành, và thức uẩn., ngoài 5 yếu tố này không
có một pháp nào khác, được gọi là ‘ngã’. Do vì có sắc cho nên có
thọ; do thọ có mặt nên tưởng có mặt; do tưởng có mặt nên hành có
mặt; do hành có mặt nên thức có mặt. Ngược lại, khi sắc chấm dứt thì
thọ cũng chấm dứt; thọ chấm dứt thì tưởng... hành... thức cũng chấm
dứt. Như vậy, sự tồn tại của con người là giả hợp, không
thật, vì bản chất của nó là duyên khởi, tùy thuộc các duyên mà hình
thành. Cái gì thuộc về duyên khởi tánh thì cái ấy là ‘vô
thường’. Như vậy, con người là ‘vô thường’, ai cho con người là
thường hằng thì người ấy chuốc lấy sự khổ.
Từ ý nghĩa này, đức Phật phân
tích chỉ cho chúng ta thấy rõ, nguyên nhân khổ đau và sự chấm
dứt khổ đau. đức Phật phân tích rằng nguồn gốc khổ đau là ‘vô
minh’. Vô minh được biểu thị bằng sự nhận thức sai lầm. Như cái gì
là vô thường mà ý thức chúng ta lại nghĩ nó là thường,
chính sự nhận thức sai lầm đó mang lại cho chúng ta sự đau khổ.
Vì sự suy nghĩ không đúng, không phù hợp với thực tế. Ở
đây, chúng ta có thể mượn câu chuyện ‘thấy sợi dây lầm là con rắn’
trong Duy thức học để chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa trí tuệ
và vô minh. Câu chuyện kể rằng, vào ban đêm không đèn, kẻ bộ hành
thấy sợi dây tưởng là con rắn, cho nên tâm lý của người ấy
liền sanh sự sợ hãi. Trên thực tế, không ai lại lo sợ sợi dây
có thể cắn mình, nhưng vì lầm tưởng sợi dây là con rắn, cho nên
mới có tâm lý sợ hãi. Như vậy, sự sợ hãi này xuất phát từ
sự nhận thức sai lầm, không phải là sự nhận thức đúng, tức
là vô minh. Cũng vậy, con người vốn là vô thường, nhưng chúng
ta lại không chấp nhận sự thật đó, ngược lại cho nó là
thường, chính sự nhận thức sai lầm này là nguyên nhân mang
lại sự đau khổ. Đây là ý nghĩa mà đức Phật nói: ‘vô
thường tức khổ, khổ tức phi ngã’. Nếu như bản chất của con
người là vô thường, không thật thì con người là ‘phi ngã’ không phải
là ‘ngã’. Như vậy, nếu chúng ta thấy rõ bản chất con người
và những sở hữu của con người là vô thường, là tính duyên
khởi thì chúng ta không có thái độ cố chấp cho rằng: ‘cái
vô thường và khổ ấy là cái của tôi’. Vì chúng ta đã
thấy được bản chất con người là phi ngã, cho nên không còn
có thái độ chấp trước, vì không chấp trước, cho nên không
xuất hiện trạng thái khổ đau, đây chính là ý nghĩa của
câu: ‘khổ tức phi ngã’. Qua sự phân tích của đức
Phật về con người ta thấy rằng cái mà chúng ta thường cho là
‘ngã’ là ‘tôi’ ấy, vốn là phi ngã, là sự giả hợp, vì trong năm
uẩn này không có một uẩn nào tồn tại độc lập vĩnh hằng, được
mệnh danh là ngã, do vậy chúng là phi ngã. Nếu ngã đã không
có thật thì làm gì có cái gọi là ‘ngã sở’, tức là
những cái thuộc về ngã. Đây chính là ý nghĩa câu: ‘cái
gì là phi ngã thì cũng phi ngã sở’.
Ở đây chúng ta nên lưu ý một điều,
tuy đức Phật nói rằng con người là vô thường vô ngã, nhưng
điều đó không mang ý nghĩa tiêu cực, xem thường hay quăng bỏ sự
sống, ngược lại Ngài xem thân người như là chiếc thuyền để vượt qua
sông mê, là phương tiện để cho hành giả đến bờ giác ngộ. Như vậy
thân người đóng vai trò khá quan trọng trong tiến trình giác ngộ và
giải thoát, với một thân thể ốm yếu bịnh hoạn khó hoàn thiện mục
đích cao thượng của người xuất gia. Ngài chỉ ra bản chất của con
người là vô thường phi ngã là để con người có sự nhận thức đúng về
nó, loại bỏ lòng cố chấp, chứ không mang ý nghĩa xem thường sự sống,
bịnh không cần uống thuốc. Cũng vậy, các pháp là vô thường,
không mang ý nghĩa đức Phật khuyên chúng ta không cần đến vật chất,
hoặc dẫn đến quan niệm sai lầm như nhà hư không sửa, không có bổn
phận và trách nhiệm đối với gia đình và xã hội...Ngược
lại, vô thường còn mang ý nghĩa tích cực nhắc nhở cảnh tỉnh con
người thấy rõ đời người là vô thường, cuộc sống là giả tạm,
không nên có thái độ cố chấp, cho rằng phải như thế này,
không được như thế kia; vì chính sự nhận thức sai lầm, và lòng cố
chấp là nguyên nhân dẫn đến khổ đau phiền muộn. Đây chính là lý
do tại sao khi đức Phật nói đến con người và xã hội là
nói đến tính duyên khởi, vô thường và phi ngã. Có lẽ không
ngoài dụng ý, đức Phật khuyên chúng ta không nên có thái độ
‘chấp trước’. Vì chấp trước là sự biểu hiện của lòng ái,
xuất phát từ vô minh, cái gì xuất phát từ vô minh thì cái
ấy không mang lại niềm vui, chỉ mang lại sự khổ đau.
Cũng vậy, sự hình thành hay biến
mất của một sự kiện nào đó luôn luôn tùy thuộc vào những
yếu tố khác, như nguyên tắc duyên khởi mà đức Phật đã dạy:
Cái này sinh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia
diệt. Nguyên tắc này không những nói lên tính duyên khởi của
vạn pháp mà còn nói lên mối quan hệ giữa nhân và quả là
quan hệ tất yếu. Cái nhân đã tạo ra như thế nào thì cái
quả chắc chắn phải như thế ấy, không thể khác đi được, dù
trên ý thức chúng ta có muốn như thế này hay thế kia, dù giàu hay
nghèo, có địa vị hay không có địa vị, luật nhân quả vẫn vận hành
theo nguyên tắc của nó.
Từ ý nghĩa trên gợi ý cho chúng ta
hiểu về nguyên tắc vận hành của xã hội. Những gì đang có
trong xã hội, như nhà cửa, đường sá, bệnh viện, trường
học.v.v... và ngay cả những tập quán của con người, nó là
những sản phẩm do mọi thành viên trong xã hội ấy tạo ra,
không phải là cái từ trên trời rơi xuống, hay ngẫu nhiên xuất
hiện, Nhưng khi nó không còn thích nghi với con người và xã
hội, chính các thành viên trong xã hội ấy đồng lòng thay đổi, và đó
chính là cơ sở để hình thành những cái mới trong xã hội. Như
vậy, những gì đang hiện hữu trong xã hội, trong từng cá nhân của
mọi người là do chính chúng ta tạo ra. Nếu đây là quan điểm đúng,
những gì không còn thích nghi với con người nữa, thì cái
ấy chắc chắn sẽ bị xã hội đào thải. Nguyên tắc này gợi ý
cho chúng ta hiểu rõ vấn đề về sự hoằng dương Phật pháp trong xã hội
mới. Những hình thức sinh hoạt nào của Phật giáo không còn
đủ sức hấp dẫn, không đáp ứng những nhu cầu của con người
trong xã hội mới, thì những hình thức ấy sớm muộn gì cũng sẽ
bị xã hội đào thải, cho dù chúng ta có muốn nó tồn tại hay không;
nếu như chúng ta cố tình lưu giữ nó lại, thì cái ấy cũng chỉ hiện
hữu như là một cổ vật trong viện bảo tàng.
Như vậy, những tư liệu để cho con
người tư duy xuất phát từ xã hội, và sản phẩm tư duy của
con người là thành quả của xã hội, đó là sự tương quan
của luật duyên khởi. Từ đây gợi ý cho chúng ta hiểu rằng
không nên bám lấy một hình thức sinh hoạt cố định nào làm
thước đo cho Phật giáo, vì thời gian và không gian luôn luôn
thay đổi, con người sống trong thời gian và không gian ấy cũng phải
thay đổi theo. Ý thức của con người cũng phải theo đó thay đổi, lẽ
nào chúng ta cứ bảo thủ cho rằng chỉ có hình thức sinh hoạt như thế
này là đúng, là truyền thống của Phật giáo? Vậy truyền thống Phật
giáo là sự thường hằng bất biến hay là sự vô thường phi ngã? Để trả
lời câu hỏi này, chúng ta cứ nhìn lại quá trình lịch sử phát triển
của Phật giáo, từ Phật giáo nguyên thủy đến Phật giáo Bộ phái, từ
Phật giáo Bộ phái đến Phật giáo Đại thừa, mỗi giai đoạn lịch sử đều
có cách sinh hoạt riêng và cách lý giải riêng của nó. Nếu ta cứ khư
khư cố chấp thì chẳng khác nào, chúng ta may loại áo cùng một
kích cỡ, mặc suốt đời và bảo kẻ khác cũng nên làm như vậy. Điều
đó không những thân mình không mặc được mà còn làm trò cười
cho thiên hạ. Chúng ta nên hiểu rằng, mục đích ra đời của
đức Phật là vì sự giác ngộ và giải thoát cho con người. Nói đến
giác ngộ là sự nhận thức đúng về một sự kiện cụ thể nào đó, không
phải là cái mơ hồ, và khi con người đã giác ngộ thì người ấy mới
thoát khỏi khổ đau phiền muộn, cho nên được gọi là giải thoát. Như
vậy, giác ngộ và giải thoát luôn luôn gắn liền với những vấn đề
trong cuộc sống hiện tại, có thể không phải là những vấn đề trong
quá khứ. Vì mỗi thời đại có những vấn đề riêng, không giống nhau,
cho nên chúng ta cần hiểu vấn đề phiền não mà chúng ta đang đối diện
là gì, lúc bấy giờ chúng ta mới hình thành tư tưởng tu tập hay sửa
đổi, không thể nói sửa sai mà không biết mình sai điều gì, và cái
đúng là gì. Như vậy, khi xã hội thay đổi, suy tư của con người
cũng theo đó đổi thay, hình thức sinh hoạt Phật giáo cũng
phải tùy theo đó mà thay đổi, đó là con đường duy nhất để
cho Phật giáo tồn tại và phát triển trong xã hội mới.
Nếu quan điểm này là đúng, phải
chăng đạo Phật không có lập trường, không nhất quán? Nếu nay
sinh hoạt Phật giáo như thế này, mai như thế khác, vậy bản
chất của Phật giáo là gì? Để trả lời cho câu hỏi này,
chúng ta cần tìm hiểu đặc tính giáo dục của Phật giáo.
2. Đặc tính giáo dục của
Phật giáo
Với chủ đề về vấn
đề giáo dục của Phật giáo, có hai nội dung chúng ta cần
quan tâm là: 1.Tinh thần giáo dục của đức Phật. 2.Hình thức
giáo dục của đạo Phật. Đây là hai vấn đề chính mà chúng
ta sẽ thảo luận trong tiết mục này.
2.1. Tinh
thần giáo dục
Cho dù chúng ta
đứng từ góc độ nào nhìn về đức Phật đều có nhận định
chung rằng: Sự ra đời của Ngài chỉ có một mục đích duy nhất là
mang lại sự giác ngộ và giải thoát cho chúng sanh. Muốn thành đạt sự
giác ngộ giải thoát này, chúng sanh cần phải ngang qua những
phương pháp tu tập, huấn luyện thân và tâm, làm chấm dứt
những nguyên nhân gây ra khổ đau cho con người trong đời sống
hiện tại và mai sau. Chúng ta có thể gọi đây là tinh thần
hay mục đích giáo dục của đạo Phật, nó không giới hạn chỉ
có trong Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Bộ phái hay Phật
giáo Đại thừa, vì đó là tinh thần chung của đạo Phật,
được chứa đựng trong Tam Tạng kinh điển, bao gồm trong 2 hệ
kinh điển Nam và Bắc truyền.
Để làm sáng tỏ
ý nghĩa này, ở đây chúng ta có thể trích dẫn một vài ví
dụ điển hình để cho chúng ta hiểu rõ vấn đề hơn. Trước hết
trong kinh điển Nam truyền “Kinh Tương Ưng Bộ”,
đức Phật dạy:
Vì hạnh
phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng
thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc
cho chư thiên và loài người…[4]
Cũng trình bày
ý nghĩa này, “Kinh Tăng Chi” đức Phật lại
nói rõ hơn:
Một người,
này các Tỷ kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem
lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư
thiên và loài người. Người ấy là ai? Chính là Thế Tôn,
bậc A la hán, Chánh đẳng giác…[5]
Một ví dụ khác,
‘Phẩm Tựa’ trong “kinh Diệu Pháp Liên Hoa” là
kinh điển của Phật giáo Đại thừa đức Phật cũng nói:
Chư Phật Thế
Tôn chỉ vì nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, đó là vì
muốn cho chúng sanh khai… thị…ngộ… nhập… tri kiến Phật mà
sinh ra ở đời.[6]
Qua những lời
trích dẫn cụ thể vừa nêu trên, chúng ta thấy cả hai hệ
thống kinh điển của Phật giáo Tiểu Thừa và Đại Thừa đều
ghi nhận, mục đích ra đời của đức Phật chính là mang lại
sự giác ngộ và giải thoát cho chúng sanh, hay nói một cách
khác, sự ra đời của đạo Phật là mang lại sự hạnh phúc và
an lạc cho con người. Đây chính là ý nghĩa mà Bà la môn Àrmadaöda đứng trước tôn giả Kaccna đã bày tỏ tâm tư của mình
về đức Thế tôn như sau:
Thật vi diệu
thay, thưa tôn giả Kaccna!
Thật vi diệu thay, thưa tôn giả Kaccna! Như người dựng đứng lại
những gì đã quăng ngã xuống, thưa tôn giả Kaccna, phơi bày ra những gì bị
che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn vào bóng
tối để cho những ai có thể thấy sắc…con xin qui y tôn giả
Gotama…[7]
Ở đây, chúng ta
hiểu như thế nào về trường hợp gọi là phơi bày ra những
gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn vào
bóng tối để cho những ai có thể thấy sắc. Nội dung
và ý nghĩa câu nói này, ngoài ý nghĩa kaccna nói lên lời ca tụng lời
dạy của đức Phật, còn mang ý nghĩa chỉ trích về lối giáo dục
mơ hồ của những tôn giáo khác, vạch trần một thể chế chính trị
bưng bít và độc quyền của giai cấp Bà la môn. Vì giai cấp
thống trị đã phân chia xã hội thành bốn giai cấp (Bà la môn,
Sát đế lợi, Phệ xá và Thủ đà la). Hai giai cấp đầu Bà la môn và
Sát đế lợi là những người thuộc dòng dõi Bà la môn vốn là
giống dân Aryan - ngoại quốc muốn giữ quyền cai trị đất nước,
còn lại hai giai cấp Phệ xá và Thủ đà la là hai giai cấp
của người thổ dân, chỉ biết làm lụng phục vụ cho hai giai cấp
trên; nhất là giai cấp Thủ đà la là giai cấp nô lệ, họ
không có quyền yêu cầu bất cứ điều gì, ngay cả quyền được
tu tập, mong kiếp sau được chuyển đổi giai cấp nô lệ của mình,
thành giai cấp tốt đẹp hơn, thế nhưng điều đó cũng không thành, vì
đó là số phận đã được Phạm Thiên an bài. Thật sự mà nói, trước
một thể chế khắc nghiệt như vậy, họ tưởng chừng như không
bao giờ có cuộc sống an lạc và hạnh phúc, đời đời kiếp
kiếp vẫn làm thân phận của người đầy tớ cho kẻ khác, mặc
dù họ sống với tâm tư lương thiện, muốn sửa đổi đời sống, thân
phận thấp hèn của mình. Có thể nói, đó là đường hướng giáo dục
đen tối, làm cho con người càng ngày càng ngu muội, với ý đồ muốn
cho những người bị trị chấp nhận thân phận của mình, đây là chính
sách giáo dục ngu dân. Có lẽ đây chính là lý do tại sao sau khi nhà
vua Asoka thống nhất đất nước, nhà vua không lấy những tôn giáo
truyền thống Ấn Độ làm quốc giáo mà lại lấy Phật giáo làm quốc giáo.
Đức Thế Tôn đã
đứng từ lập trường con người với khối óc và suy tư của con
người, Ngài vận dụng chân lý duyên khởi để bẻ gãy lý
thuyết ‘Phạm ngã đồng nhất thể’ của giai cấp bà la môn,
đồng thời Ngài sử dụng trái tim của con người, nêu cao tinh
thần thương yêu đồng loại, đả phá chế độ phân chia giai cấp,
nên Ngài đã làm được điều đó. Giả dụ, nếu chúng ta là người
kém phước sinh ra làm kẻ nô lệ của xã hội đó, chúng ta sẽ
nghĩ như thế nào về sự ra đời của đức Phật, phải chăng như
Àrmadaöda đã nói: Phơi bày ra những gì bị che kín,
chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn vào bóng tối để
cho những ai có thể thấy sắc. Từ sự kiện này, chúng
ta có thể nói đây là một trong những mặt đóng góp tích
cực của đức Phật cho con người và xã hội mà chúng ta hiểu
và nắm bắt được. Trong sự nghiệp giáo dục của Ngài còn biết bao
nhiêu sự kiện mà chúng ta chưa phát hiện và thực nghiệm được,
như là sự giác ngộ và giải thoát.
Như vậy, mục
đích ra đời của đức Phật là mang lại cho con người sự hạnh
phúc và an lạc. Thế thì điều đó có ý nghĩa là tinh thần
giáo dục của Phật giáo lấy sự giác ngộ và giải thoát làm
mục đích, cho dù đó là Phật giáo Tiểu thừa hay Đại thừa,
Bắc tông hay Nam tông. Dù cho chúng ta có nhân danh Phật giáo
nào đi chăng nữa, nhưng nếu đời sống sinh hoạt cá nhân hay tập thể
không có liên hệ đến sự giác ngộ và giải thoát, ngược lại
đời sống ấy ẩn chứa những mầm mống bất thiện, có xu hướng đọa lạc,
liên hệ với lòng dục lòng dục sân hận và ngu si, thì sinh hoạt đó,
đời sống đó không thể gọi là Phật giáo. Đây là điểm mà
chúng ta cần chú ý.
Sự ra đời của
đạo Phật giáo vốn là vì con người và xã hội mà phục vụ,
không phải Phật giáo sinh ra đời để con người phục vụ đạo
Phật. Nếu như ý nghĩa này được chấp nhận thì vấn đề Phật
giáo có những nhu cầu về vật chất, chúng ta nên xem nó như
là phương tiện hữu ích và có ý nghĩa giúp cho con người
mau chóng thành đạt mục đích mà đạo Phật đã đề ra, không
nên xem những cơ sở vật chất như là sự thành tựu của đạo
Phật, ý nghĩa này như đã được đức Phật chỉ dạy trong ‘Kinh Thừa tự
Pháp’ “Kinh Trung Bộ” tập 1.
2.2. Hình
thức giáo dục
Nói đến giáo
dục là nói đến đối tượng giáo dục, đối tượng mà Phật
giáo dục là CON NGƯỜI. Như chúng ta đã biết, giáo pháp mà
đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đề là chân lý của sự sống,
không phải là lý thuyết suông, cũng phải là vật để tôn thờ, tụng
đọc hằng ngày, không liên hệ gì với cuộc sống. Giáo lý đó Ngài
không có ý định dành riêng cho bất cứ ai, mà cho tất cả
những ai muốn được giác ngộ và giải thoát, tất cả con người
đều là đối tượng được đức Phật giảng dạy và trao truyền, ở
bất cứ đâu và thời gian nào. Thế nhưng, chúng sanh căn tánh không
đồng, nghiệp lực không giống nhau, cho nên Ngài đã dùng nhiều
pháp môn khác nhau, để hướng dẫn chúng sanh ấy hướng đến
giác ngộ. Có nghĩa là tùy theo tính đặc thù của mỗi đối tượng Ngài
trình bày giáo pháp khác nhau, do vậy nội dung lời giảng dạy của
Ngài cũng khác nhau. Sự khác biệt này nói lên tính bất đồng của
chúng sanh, không phải là sự bất bình đẳng trong đạo Phật.
Quan điểm này,
chúng ta rất thường gặp trong hai hệ thống kinh điển của
Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa. Ví như ‘Phẩm Phương Tiện’
trong “Kinh Pháp Hoa” là một ví dụ điển hình; và ‘Kinh
Nhiều Cảm Thọ’ trong “Kinh Trung Bộ” đức Phật
cũng nói lên ý nghĩa này như sau:
Này
Ananda, vì pháp được ta thuyết giảng tùy theo pháp môn như vậy, nên
đối với những ai không chấp nhận, không tán đồng, không tùy hỷ
những điều được khéo nói, khéo thuyết, khéo trình bày cùng nhau,
thời sự kiện này sẽ xảy ra: họ sẽ sống đấu tranh, khẩu tranh, luận
tranh, đả thương nhau với những binh khí miệng lưỡi. Như vậy, này
Ananda pháp được ta thuyết giảng tùy theo pháp môn. Này Ananda, vì
pháp được ta thuyết giảng tùy theo pháp môn như vậy, nên đối với
những ai chấp nhận, tán đồng, tùy hỷ những điều được khéo nói, khéo
thuyết, khéo trình bày cùng nhau, thời sự kiện này sẽ xảy ra: họ sẽ
sống hòa hợp, tán đồng, tùy hỷ với nhau, như nước với sữa, và nhìn
nhau với cặp mắt tương ái..[8]
Ở đây, đức Phật
nói: ‘ta thuyết giảng tùy theo pháp môn’ có ý nghĩa
là đức Phật nói pháp không phải tùy tiện, mà phải căn cứ
vào trình độ và sự hiểu biết của đối tượng và nhất là
trình bày vấn đề đó trong trường hợp nào. Do vậy, sự trình
bày này chỉ có giá trị đối với đối tượng đó và trong trường hợp
đó và có thể sẽ không có giá trị trong trường hợp khác, với
đối tượng khác. Để hiểu rõ hơn, chúng ta có thể lấy một ví
dụ cụ thể trong “ Kinh Trung bộ”; có hai kinh đức Phật nói về
nghiệp, đó là ‘Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt’ (Cèla kamma vibhanga sutta) số 135[9](viết tắt là TNPB) và ‘Kinh
Đại Nghiệp Phân Biệt’ (Mah
kamma vibhanga sutta) số 136[10] (viết tắt là ĐNPB) nhưng
đức Phật trình bày nội dung tư tưởng của hai kinh này khác
nhau. Trong kinh TNPB, đức Phật dùng những hình ảnh tốt và
xấu của thế gian, để giải thích mối quan hệ nhân quả trong
đạo Phật, chẳng hạn như nói người bố thí thì được giàu có,
người sát sinh thì có cuộc sống ngắn ngủi v.v..; có nghĩa
là lấy sự giàu có, sống lâu làm thước đo hạnh phúc đồng thời
xem sự nghèo khổ, đời sống ngắn ngủi làm tiêu biểu cho sự
bất hạnh. Nếu đó là sự thật thì chúng ta thử đặt vấn đề, phải
chăng người nào giàu có sống lâu là người ấy có hạnh phúc còn
người nghèo khó, có đời sống ngắn ngủi là người không có
hạnh phúc? Thực tế của cuộc sống không hẳn là như thế nhưng tại
sao trong kinh này đức Phật lại giải thích như vậy? Phải chăng do vì
con người ham thích sự giàu sang, sống trường thọ... cho nên đức
Phật đã dựa và đó để lý giải đạo lý nhân quả, tạo niềm tin cho những
hạng người này? Đây là một trong những vấn đề giáo dục mà chúng ta
cần phải tìm hiểu.
Với kinh ĐNPB thì
lại khác, đức Phật lấy vai trò ‘chánh kiến’ và ‘không chánh
kiến’ làm thước đo cho hạnh phúc và không hạnh phúc của con
người. Trong kinh này đức Phật giải thích, người nào có chánh
kiến là người đó có hạnh phúc, và ngược lại người nào
không có chánh kiến thì người đó sống trong đau khổ. Như vậy,
vô minh là nhân của khổ đau, hạnh phúc là quả của đời sống
có trí tuệ. Đây chính là mối quan hệ nhân quả nghiệp lực
mà đức Phật muốn giải thích. Tại sao có sự sai khác này?
Nếu chúng ta không để ý đối tượng mà đức Phật giáo dục thì
chúng ta khó lý giải được vấn đề. Đối tượng mà đức Phật
nói trong kinh TNPB là thanh niên Subha Todeyyaputta, là một cư
sĩ tại gia, không am tường Phật pháp. Do đó, đức Phật không thể
dùng những giáo pháp cao sâu, mà chỉ vay mượn những hình thức bên
ngoài, như là giàu sang, tuổi thọ..., những gì mà Subha có thể hiểu
được. cho nên đức Thế Tôn đã giảng giải nghiệp lực mang ý nghĩa như
vậy. Nhằm khuyến khích chúng sanh làm điều lành lánh xa điều dữ, bỏ
tà qui chánh, cho nên đức Phật đã giảng nội dung kinh Tiểu Nghiệp
Phân Biệt, nhưng ngược lại, đối tượng đức Phật nói kinh ĐNPB
là tôn giả A Nan và các vị tỷ kheo, là những người thông
minh, am hiểu Phật pháp, cho nên đức Phật đã giải thích nghiệp lực
căn cứ vào chánh kiến giải thích. Đó là lý do tại sao đức Phật
nói nội dung hai kinh khác nhau.
Cũng vậy, trong
kinh điển của Phật giáo Đại thừa thường được ghi chép
rằng, khi đức Phật nói kinh điển Đại thừa thì các hàng Tiểu
thừa Thinh văn liền rời khỏi pháp hội. Hiện tượng này,
không những biểu lộ sự bất đồng về quan điểm giữa Đại thừa và
Tiểu thừa, mà còn nói lên trình độ tu chứng và sự hiểu biết
khác nhau. Có lẽ đây là lý do tại sao trong “Luận Đại Trí
Độ” Bồ Tát Long Thọ (Ngrjuna) đã đề cập đến Tứ Tất
đàn (Siddhnta), là bốn phương pháp giáo
dục khác nhau của Phật giáo Đại thừa. Thứ nhất là Thế
giới tất-đàn, có nghĩa là căn cứ vào sự ưa thích
của chúng sanh, nói những pháp gì làm cho họ cảm thấy vui
vẻ để dắt dẫn chúng sanh vào đạo. Thứ hai, Các vị nhân
tất-đàn, nhằm đáp ứng và thích nghi căn tánh và trình
độ không đồng của chúng sanh mà nói những pháp khác nhau.
Thứ ba, Đối trị tất-đàn, có nghĩa là y cứ vào căn
tánh cá biệt của mỗi chúng sanh, nói những pháp tương
xứng để đối trị, như người có lòng sân hận, nói pháp từ
bi cho họ. Thứ tư, Đệ nhất nghĩa tất-đàn là trình
bày chỉ rõ thật tướng của các pháp, cho chúng sanh giác
ngộ chân lý.
Nói tóm lại,
tứ tất-đàn là bốn phương pháp giáo dục khác nhau của Phật
giáo. Có nghĩa là tùy theo căn cơ trình độ hay bối cảnh xã
hội khác nhau của con người mà đạo Phật hình thành phương
pháp giáo dục khác nhau, để thích nghi với từng con người
và từng xã hội khác nhau. Sự hình thành bốn phương pháp này
không phải là sự vụ lợi cho Phật giáo mà là sự lợi ích
cho chúng sanh và xã hội. Ở đây, chúng ta nên lưu ý rằng bất
cứ hình thức giáo dục nào cũng chứa đựng ý nghĩa dẫn dắt
chúng sanh hướng đến mục đích giác ngộ và giải thoát, nếu
như mục đích này mất đi thì phương pháp giáo dục đó, không
được xem là của đạo Phật.
3. Quá
trình diễn biến của đạo Phật
Nếu chúng ta
nhìn Phật giáo như một thực thể sống, thì sự khai sinh của
đạo Phật ở tại nước Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước Công
nguyên, tính cho đến nay, đạo Phật đã có tuổi thọ hơn 2.500
năm. Lịch sử truyền bá của đạo Phật đã ghi lại, vào những
thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Phật giáo đã được nhà vua
A Dục (Asoka) lập thành đoàn thể đem giáo lý của đức Phật
truyền đến nước láng giềng là Tích Lan. Sau đó, bằng nhiều
ngã đường khác nhau Phật giáo đã truyền đến Thái Lan, Miến
Điện, Campuchia, Lào, Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam… Từ đó
tiếp tục lan rộng khắp vùng Châu Á, và cho đến nay, Phật giáo
đã truyền sang các châu lục khác. Sự tồn tại và phát triển
của Phật giáo đã chứng minh Phật giáo có một sức sống
mãnh liệt vượt lên trên cả thời gian và không gian, có lẽ nhờ
Phật giáo có nền giáo lý tuyệt vời, có giá trị thiết
thân với đời sống con người và biết uyển chuyển thích nghi
với mọi đời sống xã hội khác nhau. Đó chính là những yếu
tố cần thiết và cơ bản để đạo Phật tồn tại và phát
triển cho đến ngày nay và ngay cả mai sau. Có lẽ đó là lý
do tại sao từ tư tưởng và hình thái sinh hoạt của Phật giáo
Nguyên thủy đã chuyển sang Phật giáo Bộ phái, rồi từ Phật
giáo Bộ phái lại tiếp tục chuyển sang tư tưởng và hình thức
sinh hoạt của Phật giáo Đại thừa. Cũng không phải đến đây là
chấm dứt mà tùy theo tâm tình và hoàn cảnh của mỗi đất nước ở
hiện tại và ngay cả mai sau, Phật giáo lại tiếp tục hình
thành những tông những phái khác nhau để đáp ứng nhu cầu con
người và xã hội. Phải nói rằng đây chính là tinh thần Bồ tát
Quán Thế Âm trong Kinh Pháp Hoa, Ngài đã phát nguyện
rằng: “Nếu có một chúng sanh nào muốn ta hiện thân của Đế Thích, Bà
La Môn… để độ người đó thì ta liền hiện thân đế thích, Bà La Môn…vì
người đó mà hóa độ…”. Tinh thần tùy cơ thuyết giáo của Phật giáo Đại
thừa là tinh thần nhập thế, bất chấp hình thức nào và sự phản ứng
nào, miễn là khi Bồ tát hành đạo dựa vào lòng từ bi và trí tuệ là
đủ. Thế thì chúng ta tự cho mình là Đại thừa thì tại sao không dám
nhập thế, đem tinh thần giác ngộ và giải thoát trình bày bằng một
hình thức mới, phù hợp nhân tình và xã hội để cho con người được lợi
ích, lại phải vay mượn những hình thức xưa cũ, đôi khi vô ý nghĩa,
làm tiêu chuẩn tu tập cho con người hôm nay thực hành?
Từ những kinh
nghiệm lịch sử đó, chúng ta nhận thức được rằng hiện nay
Phật giáo đang đứng trước một thời đại tiến bộ của khoa
học và kỹ thuật, là một xã hội hoàn toàn mới, suy tư của con
người cũng mới; vì vậy thật khó cho Phật giáo nếu cứ vay mượn một
hình thức sinh hoạt hay cách lý giải nào đó trong quá khứ, làm kiểu
mẫu, áp dụng cho xã hội và con người ngày hôm nay trong xã hội
ngày nay. Trên thực tế, cách suy tư và nhận thức vấn đề của con
người, và những nhu cầu xã hội của ngày hôm nay hoàn toàn
khác biệt với những thời đại xa xưa. Chúng ta chỉ có thể
ngang qua những hình thức sinh hoạt trong quá khứ, lấy đó
làm nền tảng để đắn đo suy nghĩ và rút ra kinh nghiệm cho
những vấn đề hiện tại và trong tương lai. Khi viết những suy
nghĩ này, tôi vẫn biết là rất khó chấp nhận bởi một thế
hệ người đi trước, đồng thời cũng hiểu rõ rằng, những nhu
cầu của thế hệ trẻ ngày nay là một thực tế, không thể
phủ nhận; tất nhiên nó không phải là những nhu cầu của thế
hệ trước; và dĩ nhiên chúng ta không thể chỉ vì thế hệ
trước mà cố tình quên đi sự sống của bản thân và thế hệ trẻ ngày
nay, đang tràn đầy sức sống và đang cần sự giúp đỡ từ kinh
nghiệm sống của đạo Phật. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên lợi
dụng tinh thần “tùy duyên” của Phật giáo Đại thừa, vì thế hệ trẻ
mà vượt qua những ranh giới truyền thống tư tưởng của đạo
Phật. Trước tình hình đó, chúng ta làm thế nào chọn ra
một hình thức sinh hoạt, mang tính dung hòa giữa hai thế hệ là
giải pháp hữu hiệu nhất. Muốn thực thi điều này, theo tôi hai thế hệ
cần ngồi lại với nhau nhiều hơn nữa, thành thật trao đổi cho nhau
những đắn đo suy tư của hai thế hệ. Nếu đôi bên không có giải pháp
nào khác, theo tôi chúng ta vẫn phải chấp nhận sự phê bình của thế
hệ trước, tự lựa chọn và thiết lập một loại hình sinh hoạt mới, để
thế hệ trẻ chúng ta chấp nhận, tiếp cận và hiểu được hệ thống giáo
lý nhiệm mầu có ý nghĩa, giúp ích cho cuộc sống, nếu không Phật pháp
sẽ bị mai một mà nguyên nhân chính là hình thức sinh hoạt và cách
lý giải lời Phật dạy không đủ sức hấp dẫn lôi cuốn con người và xã
hội hôm nay, nếu không muốn nói là viễn vông thiếu thực tế và mê
tín. Tôi viết những điều này với một mục đích duy nhất,
làm thế nào để Phật giáo được tồn tại và phát triển cùng
với xã hội, đóng góp thiết thực cho con người và xã hội đó.
Rút ra một vài
bài học kinh nghiệm thực tế từ sự diễn biến của Phật giáo
trong quá khứ để chúng ta mạnh dạn hơn trong việc tìm ra
một hình thức sinh hoạt thích nghi cho Phật giáo hiện nay, ở
đây tôi muốn đề cập đến hai hình thức sinh hoạt của Phật
giáo, đó là Phật giáo Thượng Toạ Bộ hay Phật giáo Nguyên
thủy và Phật giáo Đại Chúng Bộ hay Phật giáo Đại
thừa.
Trước khi tìm
hiểu về nội dung tư tưởng của hai trường phái lớn này,
chúng ta cần nắm rõ nguồn tư liệu của hai nền Phật giáo
này.
Trước nhất, nói
về thánh điển của Phật giáo Thượng Tọa Bộ. Các nhà nghiên
cứu cho rằng, các kinh A hàm và Nikàya là những bản kinh
của Phật giáo Bộ phái, không phải của Phật giáo Nguyên
thủy. Tuy nhiên, dù như thế nào đi nữa, nếu chúng ta căn cứ
vào những bộ kinh này nghiên cứu và tìm hiểu tư tưởng và
hình thức sinh hoạt của Phật giáo trong thời kỳ này, thì ở
đó chắc chắn sẽ có được nhiều dữ kiện đáng tin cậy về
Phật giáo Nguyên Thủy. Nếu chúng ta không căn cứ vào hai
nguồn tư liệu này thì khó có thể hiểu được cái gì gọi
là tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy hay Phật giáo Thượng
Tọa Bộ. Vì thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy là thời kỳ khẩu
truyền, kinh điển chưa được kết tập thành văn tự, hai bộ kinh này
được kết tập vào lần thứ 3 vào thời đại vua A Dục.
Kế đến là
nguồn tư liệu của Phật giáo Đại Chúng Bộ. Ở đây, chúng ta
cần hiểu rằng, Phật giáo Đại Chúng Bộ không phải là Phật
giáo Đại thừa, nhưng tư tưởng Phật giáo Đại Chúng Bộ là
nguồn gốc để hình thành tư tưởng Phật giáo Đại thừa. Đáng
tiếc là nguồn tư liệu của Phật giáo Đại Chúng Bộ không còn,
điều này đã làm cho giới nghiên cứu đặt nhiều nghi vấn: Nguyên nhân
nào kinh điển của Đại chúng bị thất lạc? Lý do tại sao? Hay là kinh
điển của Đại thừa tức là kinh điển của Đại chúng? Hiện nay chúng
ta chỉ có thể ngang qua những kinh điển của Phật giáo Đại
thừa để tìm hiểu về tư tưởng của Phật giáo Đại chúng mà
thôi.
Thế nào gọi là
Phật giáo Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ? Theo nguồn tư
liệu của Phật giáo Bắc truyền, cụ thể là tác phẩm “Dị
Bộ Tông Luân Luận” ghi lại rằng, Sau khi đức Phật
nhập diệt vào khoảng hơn 100 năm, dưới triều đại của vua A
Dục (Asoka), nội bộ tăng đoàn Phật giáo có ý kiến bất hòa,
tranh cãi về năm việc của Đại Thiên. Do đó Phật giáo bắt
đầu rạn nứt, phân chia thành 2 phái: Thượng Tọa Bộ và Đại
Chúng Bộ. Thế nhưng, theo nguồn tư liệu của Phật giáo Nam
truyền cụ thể là tác phẩm “Kathàvatthu” lại cho rằng, sau khi
đức Phật nhập diệt vào khoảng 218 năm, dưới thời vua A Dục,
nội bộ Phật giáo phát sanh sự bất đồng ý kiến, chủ yếu
tranh cãi về ‘Mười việc phi pháp’. Sự bất đồng ý kiến này
đã dẫn đến sự phân chia Phật giáo thành 2 phái: Thượng
Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ.
Qua 2 nguồn sử
liệu này, cho chúng ta thấy sự ghi chép không đồng nhất về
niên đại và nội dung tranh cãi, tạo thành chủ đề thảo luận
cho giới nghiên cứu ngày nay. Với bài viết này, tôi không
thảo luận đến khía cạnh niên đại hay nội dung tranh cãi,
chỉ đề cập đến một góc độ khác là Phật giáo đến thời
kỳ vua A Dục, nội bộ tăng già đã xuất hiện sự rạn nứt,
chủ yếu là sự bất đồng quan điểm về cách lý giải lời
dạy của đức Phật, trong đó bao gồm hai vấn đề then chốt là
tư tưởng và giới luật. Kết quả của sự tranh luận này dẫn
đến sự phân chia Phật giáo thành hai bộ phái.
Qua nội dung
tranh cãi của hai nguồn sử liệu khác nhau ghi lại, người ta
cho rằng Thượng Tọa Bộ là phái bảo thủ. Phái này mong muốn
đời sống lời dạy của đức Phật không bị chi phối bởi thời gian
và không gian, bởi ảnh hưởng những tập tục tín ngưỡng và văn hóa
của xã hội. Có thể nói đó là lý do mà Phật giáo Thượng
Tọa Bộ cố tình duy trì đời sống sinh hoạt của tăng già
bằng sự tĩnh lặng trong rừng núi, cách ly đời sống ồn ào
của xã hội, mới có thể an tâm tu tập thiền định. Ngược
lại, Phật giáo Đại Chúng Bộ là Phật giáo cấp tiến, với
lý tưởng muốn thực thi xã hội hóa Phật giáo, có nghĩa là
sự tu tập của Phật giáo không chỉ dành cho giới xuất gia,
sống đời sống đơn độc trong rừng núi, mà sự tu tập đó dành
cho tất cả mọi người trong xã hội. Không giới hạn là người
xuất gia hay tại gia, sống trong lòng xã hội vẫn có thể tu
tập được, vẫn thành đạt sự giác ngộ và giải thoát. Trên thực
tế, kết quả của việc xã hội hóa Phật giáo như thế nào thì
chúng ta khó có thể giải thích về mặt chứng đắc, nhưng
riêng về mặt hoạt động xã hội thì rất thành công. Đến đời
vua A Dục Phật giáo được truyền đi khắp nơi trong nước Ấn và ngay cả
truyền sang ngoại quốc, cụ thể là nước Thái Lan đã giới thiệu lời
Phật dạy đến mọi tầng lớp trong xã hội. Nhưng trên phương diện tư
tưởng, chúng ta cũng phải thừa nhận, chắc chắn Phật giáo chịu
ảnh hưởng những tập tục tín ngưỡng dân gian. Do vậy Phật giáo càng
ngày càng phức tạp, có khá nhiều vấn đề không lợi lạc cho Phật
giáo cũng theo đó mà phát sinh. Ai là người đưa Phật giáo thành
xã hội hóa đó? Theo tôi, nhà vua A Dục là người có công
nhất, chính nhà vua là người ủng hộ, tạo thành tiền đề
cho sự canh tân và phát triển, đưa Phật giáo vào xã hội,
vì nhà vua đã đưa Phật giáo thành quốc giáo, lấy tư tưởng
của đức Phật thay cho tư tưởng tôn giáo Bà la môn trước đây. Giờ đây
tư tưởng của Phật giáo không chỉ dành riêng cho giới xuất gia tu
tập mà cho người tại gia và cả xã hội, nó đã trở thành tư tưởng chủ
đạo cho xã hội Ấn Độ. Có thể nói tinh thần đó được Phật giáo
Đại thừa kế thừa và phát huy, nêu cao tinh thần ‘Bồ tát
hạnh’.
Như đã được đề
cập trong hầu hết các kinh điển Đại thừa, nổi bật nhất là
hai kinh: “Duy Ma Cật” và “Hoa Nghiêm”. Nội dung tư tưởng của
hai kinh này đề cao vai trò của người cư sĩ tại gia, còn
quan trọng hơn là người xuất gia. Đây là vấn đề thực tế mà
chúng ta cần phải nghiền ngẫm và suy tư; có thể xem đó như
là một ‘công án’ để hình thành một xã hội Phật giáo đầy
sức sống và năng động bằng hình thức là những người cư
sĩ tại gia làm công việc hoằng dương Phật pháp, để cho giới
xuất gia có nhiều thời gian tu học và thực nghiệm con
đường giải thoát.
Ở đây, chúng ta
thử đặt vấn đề, tại sao Phật giáo lại có sự chuyển biến
như vậy? Nếu chúng ta đứng từ góc độ tình cảm hay niềm tin
cá nhân đánh giá vấn đề thì câu trả lời đó sẽ như thế
này hay thế kia, tùy theo niềm tin và tình cảm của mỗi
người. Nhưng cách trả lời đó không phải là câu trả lời mà
chúng ta muốn tìm hiểu ở đây. Theo tôi, để cho câu trả lời
khách quan và được đa số người chấp nhận, chúng ta cần tìm
hiểu bối cảnh xã hội khác nhau của mỗi thời kỳ Phật
giáo. Tại sao Phật giáo Nguyên thủy hay Phật giáo Thượng
Tọa Bộ lại chủ trương với đời sống xuất gia, sống trong
rừng núi? Theo tôi có những nguyên nhân sâu xa như dưới đây.
Thứ nhất, đời
sống xuất gia sống trong rừng núi vốn là truyền thống xuất
gia của những người Bà la môn, nó không phải là hình thức
sinh hoạt được sáng tạo bởi đức Phật. Sự tìm đạo giải
thoát của đức Phật cũng không ngoài con đường chung này, và
sau khi thành đạo, đức Phật cũng cảm thấy rằng, chỉ có con
đường này mới có thể cắt đứt mọi sự ràng buộc của thế
gian, an tâm trong việc tu tập, cho nên ngài khuyên dạy những
người muốn tìm đạo giải thoát phải sống đời sống xuất gia,
sống độc cư trong rừng núi, nhằm mục đích thực hành thiền định.
Thứ hai, mục
đích của những người theo đức Phật xuất gia trong thời đó,
chỉ có mục đích đơn giản và duy nhất là tìm cầu sự giác
ngộ và giải thoát. Sau khi xuất gia, với đời sống xuất gia
như vậy, không có điều kiện cho người ấy sanh khởi những ý
niệm bất chính. Theo tôi, có lẽ đó là một trong những lý
do chính đáng mà đức Phật đã khích lệ đời sống xuất gia
ở trong rừng núi.
Thứ ba, một yếu
tố khá quan trọng, với đời sống kinh tế vẫn còn lạc hậu
của thời kỳ đức Phật còn tại thế, chữ viết chưa thịnh
hành, không có kinh sách và những công cụ truyền bá lời
Phật dạy, do vậy người nào muốn tìm cầu giác ngộ và giải
thoát như đức Phật, chỉ có cách duy nhất là xuất gia với
ngài, sống bên cạnh ngài và những người xuất gia cùng chung lý
tưởng mới có thể học hỏi những kinh nghiệm tu tập. Theo tôi,
đó là ba lý do chính đáng để lý giải vấn đề tại sao Phật
giáo Nguyên thủy hay Phật giáo Thượng Tọa Bộ đề cao vai
trò người xuất gia, sống độc cư tĩnh lặng trong rừng núi,
đã được đề cập trong kinh điển A hàm hay Nikàya.
Ngược lại, tại
sao Phật giáo Đại Chúng Bộ hay Phật giáo Đại thừa lại chủ
trương xã hội hóa Phật giáo? Tất nhiên cũng có nhiều nguyên
nhân mà trong đó nguyên nhân chủ yếu và quan trọng nhất là
có liên quan đến chính sách của nhà vua A Dục: lấy Phật
giáo làm quốc giáo. Nếu như trước đó Phật giáo chỉ là
một đoàn thể xuất gia tu tập trong rừng núi thì đến thời
kỳ này, Phật giáo đã trở thành tôn giáo chính của quốc
gia - quốc giáo. Đứng trước một vị trí như vậy trong xã
hội, Phật giáo không thể không có bổn phận và trách nhiệm
trước xã hội và đặc biệt nhất là sự tín nhiệm của nhà
vua. Để đáp ứng nhu cầu của nhà vua và hoàn thành trách
nhiệm với vị trí là ‘quốc giáo’ này, Phật giáo không thể
tìm nơi vắng lặng trong rừng núi tu tập thiền định mà phải
sống trong lòng xã hội, giúp nhà vua chính sách trị nước
an dân, bằng cách đem tinh thần ‘từ bi’ và ‘trí tuệ’ của
đức Phật gieo rắc vào mọi tầng lớp trong xã hội. Đứng
trước một cục diện như vậy, Phật giáo không thể không thay
đổi những hình thức sinh hoạt của mình. Chuyển đổi hình thức
sinh hoạt, Phật giáo Đại chúng bộ chấp nhận sự phê phán của Thượng
Tọa bộ, đã mạnh dạn và quyết tâm đưa Phật giáo vào xã hội, thế thì
không có lý do gì khi chúng ta tự nhận mình là Đại thừa, nhưng lại
có tư tưởng bảo thủ, không chấp nhận sự cải cách của Phật giáo.
Phật giáo Đại
thừa đã lấy vai trò 'trí tuệ’ làm ngọn đuốc chỉ đường và
lấy tinh thần ‘xả’ làm ngọn cờ để vươn tới mục đích, bất
chấp sự chỉ trích của Phật giáo Thượng Tọa Bộ. Đó là lý
do tại sao Phật giáo Đại thừa đề cao con đường Bồ tát
hạnh, như đã được mô tả trong các kinh điển của Phật giáo
Đại thừa. Đối tượng mà Bồ tát hóa độ là mọi thành phần
trong xã hội, từ những người Bà la môn đến những người nô
lệ, từ vua quan đến những người thường dân, từ những người
nông phu đến những bậc tri thức… đó chính là ý nghĩa đức Bồ
tát Quan Thế Âm thị hiện nhiều hình tướng khác nhau để hóa
độ chúng sanh như trong “Kinh Pháp Hoa” đã mô tả. Có lẽ đó
là phương pháp duy nhất khi nêu cao tinh thần độ sanh của
Phật giáo Đại thừa, dẫu rằng trong ấy ẩn chứa nhiều hình
thức mê tín và thần thoại, nhưng đó là cách hay nhất để
Phật giáo gần gũi với quần chúng.
Từ bài học
thực tế này chúng ta nhận thức rằng, bản thân Phật giáo
không có một hình thức sinh hoạt cố định nào để lấy đó làm
tiêu chuẩn và duy nhất để cho mọi thời đại mọi con người phải
noi gương theo. Tinh thần giáo dục của Phật giáo là tùy theo con
người và xã hội, đức Phật tự thiết lập một hình thức sinh
hoạt thiết thực, để đáp ứng cho nhu cầu của con người và
thời đại đó. Nếu như không nắm rõ tinh thần ‘tùy duyên bất
biến, bất biến tùy duyên’ của Phật giáo Đại thừa thì đó
chính là tự mình bóp chết sự sống của Phật giáo, vì nếu
không hiểu lý thuyết duyên khởi và vô thường của đạo Phật
thì chính chúng ta là người xây bức tường cao và dày ngăn cản tuổi
trẻ đến với đạo Phật.
4. Phật
giáo ngày nay và bối cảnh xã hội của nó
Qua
những vấn đề vừa thảo luận trên chúng ta hiểu rằng sự tồn
tại của Phật giáo là sự tồn tại ngay trong lòng xã hội,
không phải ở một cõi hư vô trừu tượng nào, nhất là Phật
giáo Đại thừa, lấy tinh thần Bồ tát đạo – cứu nhân độ thế
làm mục đích. Nói cách khác, quan điểm của đạo Phật luôn
luôn gắn liền với đời sống thực tế của con người, khi nào
con người còn có sự khổ đau thì giáo lý của đức Phật vẫn
còn tồn tại. Như vậy, giáo lý của đạo Phật có mối quan hệ
mật thiết với con người. Nếu chúng ta chấp nhận quan điểm
này, thì vấn đề cốt lõi cần tìm hiểu và thảo luận ở đây
chính là: nhu cầu của con người và xã hội mà chúng ta đang
sống là gì? Nếu như vấn đề này mà không nắm rõ, thì đó
là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy tàn của đạo Phật,
hoặc đạo Phật chỉ tồn tại dưới hình thức là một loại
tín ngưỡng dân gian, thiếu đạo lý, thiếu sức sống; vì nếu bản
thân của những người làm công tác truyền giáo không giới thiệu được
tính trong sáng và triết lý sống của đạo Phật, thì đạo Phật không
thể đáp ứng được những nhu cầu thuộc về lãnh vực tri thức của
xã hội ngày nay.
Theo
tôi, trước khi chúng ta tìm hiểu câu hỏi: nhu cầu của con
người và xã hội ngày nay là gì? Điều trước tiên chúng ta
cần tìm hiểu con người và xã hội ngày nay như thế nào
trong quá trình phát triển của nhân loại. Đề cập đến vấn
đề này, có lẽ không một ai trong chúng ta phủ nhận, thời
đại mà chúng ta đang sống là một thời đại có nền khoa học
kỹ thuật cao nhất trong quá trình phát triển của nhân loại.
Nếu như ngày xưa ông cha ta nhờ vào sức lực của trâu bò để
làm nông thì ngày nay đã thay thế vào đó bằng máy móc.
Nếu như ngày xưa con người lấy nông nghiệp làm nền kinh tế
chính cho xã hội thì ngày nay thay thế vào đó bằng nền
kinh tế công nghiệp và thương mại, và đã trở thành nền kinh tế
chính cho xã hội ngày nay. Kết quả của sự văn minh tiến bộ
này là sự nâng cao đời sống con người, thay đổi bộ mặt xã
hội. Ở đây chúng ta cần chú ý rằng thành quả xã hội mà
chúng ta đang có không phải là cái từ trên trời rơi xuống,
mà chính là những sản phẩm tư duy của con người, và ngược
lại những hoạt động xã hội là cơ sở cho con người tư duy,
tạo thành những sản phẩm mới cho xã hội. Những sản phẩm
mới là kết quả của quá trình suy tư, chọn lọc và đào
thải của những kinh nghiệm trong cuộc sống, cái đó được gọi
là ‘tri thức’.
Như
vậy, tri thức là cái được hình thành từ những kinh nghiệm
thực tiễn của đời sống xã hội, tách rời những kinh
nghiệm này chắc chắn không có cái gọi là ‘tri thức’. Nói
cách khác, những thành quả xã hội là sản phẩm tư duy của
con người, và ngược lại, con người lấy xã hội làm đối
tượng nhận thức. Như vậy, con người và xã hội là mối quan
hệ bất khả phân, tương quan tương duyên, thay thế cho nhau vừa
làm nhân lại vừa làm quả.
Thế
thì muốn trả lời cho câu hỏi nhu cầu của con người và xã
hội ngày nay là gì thì chúng ta không thể tránh né những
vấn đề thực tế của xã hội. Vấn đề thực tế của xã hội
hiện nay là một xã hội hoạt động với những công cụ khoa
học và kỹ thuật, như vậy nhu cầu của con người trong xã
hội ngày nay là nhu cầu về sự hợp lý và công bằng, hay
nói khác hơn là sự hiểu biết. Con người ngày nay, khó có
thể chấp nhận với một lời giải thích vòng vo vô lý, hoặc đề
cao lãnh vực thần thoại, không thể tin vào một vấn đề thiếu cơ sở
lý luận, ngay cả đó là người thân trong gia đình.
Trước
một nhu cầu xã hội như vậy, chúng ta làm thế nào vận
dụng lời dạy của đức Phật thành những thức ăn bổ dưỡng
cho cuộc sống, chứ không phải là những giáo điều cứng nhắc,
bắt con người tín ngưỡng và tôn thờ. Tri thức không nên
hiểu là những lý thuyết suông hay những kiến thức chỉ ở
trong sách vở khô cứng mà phải là những kiến thức đã được
tiêu hóa; là sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tri thức và
đời sống thực tiễn. Ví dụ, nếu nói rằng những lời dạy
của đức Phật trong kinh điển là những yếu tố cần thiết cho
đời sống hạnh phúc của con người thì câu nói này chỉ có
giá trị khi con người áp dụng lời Phật dạy cảm thấy hạnh
phúc. Nếu kết quả không là như vậy, thì câu nói đó có hai
trường hợp xảy ra : Thứ nhất, lời Phật dạy không có liên
hệ gì với cuộc sống; thứ hai là chúng ta đã hiểu sai và
áp dụng sai về lời dạy đó. Riêng tôi cho rằng, trường hợp thứ
nhất không thể xảy ra mà chỉ xảy ra trong trường hợp thứ hai.
Lý do vì sao? Đây chính là trường hợp đã được đức Phật
giải thích trong kinh “Tăng Chi Bộ” như sau:
Hai pháp này, này các Tỷ kheo, đưa đến sự hỗn
loạn (mê mờ) và biến mất của diệu pháp. Thế nào là hai?
Văn cú bị đảo ngược, ý nghĩa bị hiểu lầm. Nếu văn cú bị
đảo ngược thì ý nghĩa bị hiểu lầm. Những pháp này, này
các Tỷ kheo, là hai pháp đưa đến hỗn loạn và biến mất của
diệu pháp.[11]
Cũng
diễn tả về ý này, trong ‘Kinh Ví Dụ Con Rắn’
thuộc “Kinh Trung Bộ” đức Phật giải thích:
Chư Tỷ kheo, ở đây có một số người ngu si học
pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng
ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng.
Sau khi học những pháp này, họ không quán sát ý nghĩa
những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa
không được trí tuệ quán sát, nên trở thành không rõ ràng.
Họ học pháp chỉ vì lợi ích muốn chỉ trích người khác,
chỉ vì lợi ích muốn khoái khẩu biện luận, và họ không đạt
được mục tiêu mà học pháp hướng đến. Những pháp ấy vì
nắm giữ sai lạc nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài.
Vì sao vậy? Vì nắm giữ sai lạc các pháp.[12]
Ở
đây, kết quả của sự đau khổ chính là sự nắm bắt sai lạc,
có nghĩa là hiểu sai lạc về những lời dạy của đức Phật,
do vậy, khổ đau xuất hiện. Thế nào là sự hiểu sai? Hiểu
sai là sự hiểu biết không đúng với sự thật, sự thật như
thế này mà lại hiểu như thế khác, mang tính duy ý chí
tưởng tượng, từ chuyên môn trong Kinh điển Nam truyền gọi là ‘không
như lý tác ý’ hay trong “kinh Kim Cương”
của Phật giáo Đại thừa, đức Phật gọi là ‘điên đảo mộng
tưởng’, là sự hiểu biết không liên hệ đến sự thật.
Thế nào gọi là sự thật? Sự thật là cái không bị bóp méo
bởi những suy đoán không thực tế của con người. Ví dụ, khi
chúng ta đọc kinh điển Phật giáo, chúng ta cần trả nó về
với bối cảnh lịch sử mà nó đã xuất hiện. Nếu tách rời
lời dạy trong kinh khỏi bối cảnh lịch sử quá khứ của nó,
lại lấy những kinh nghiệm từ bản thân, trong đời sống hiện
tại để lý giải trình bày tư tưởng của nó, có thể nói đó
là sự trình bày duy ý chí hay tưởng tượng, không phù hợp
với sự thật. Đó là ý nghĩa của câu ‘Y kinh giải nghĩa
tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết’
hay nói một cách khác, chúng ta không nắm rõ tinh thần giáo
dục và hình thức giáo dục của đức Phật, điều đó rất dễ
bị rơi vào sự hiểu lầm. Tôi gọi sự hiểu biết này là sự
hiểu biết suông hay loại kiến thức chưa được tiêu hóa.
Như vậy, thời đại mà chúng ta đang sống là thời
đại văn minh, thời đại khoa học kỹ thuật tiên tiến, nó tác
động mạnh mẽ đến đời sống xã hội, và được xem như là
thước đo chung cho mọi lãnh vực sinh hoạt của con người, từ
nông nghiệp cho đến công nghiệp, từ giáo dục đến kinh tế,
chính trị, xã hội, thậm chí ngay cả sinh hoạt trong gia
đình và tôn giáo. Trước tình hình đó, ngành giáo dục trở
thành đội ngũ tiên phong gánh lấy trách nhiệm đào tạo con
người đi theo khuynh hướng phát triển đó. Như vậy, bất cứ ai
sinh ra và trưởng thành trong thời đại ngày nay không ai lại
không chịu ảnh hưởng của nền giáo dục ngày nay.
Khuynh
hướng giáo dục và đào tạo của xã hội ngày nay là như
vậy, cách suy nghĩ của con người ở thời đại ngày nay là
như thế. Thế thì đạo Phật muốn tránh khỏi sự dị ứng từ
xã hội, để được cùng với xã hội tồn tại và phát triển,
điều kiện tiên quyết là bản thân Phật giáo phải lấy nền
giáo lý ‘chánh tri chánh kiến' làm phương tiện đưa chánh
pháp vào xã hội. Theo tôi, có lẽ đó là con đường duy nhất
mới có thể đáp ứng những nhu cầu của con người trong thời
đại ngày nay. Như vậy, sự đào tạo con người và trang bị
kiến thức chuyên môn cho người làm công tác tôn giáo là một
nhu cầu cần thiết và hết sức cấp bách, làm tiền đề cho
Phật giáo phát triển và lợi lạc quần sanh. Nếu chúng ta
không làm như vậy, tôi tin rằng Phật giáo khó tồn tại và phát triển
trong xã hội mới, nhất là Phật giáo trong xã hội Tây phương.
5. Làm thế nào để Phật giáo cùng xã hội phát triển
5.1 Người lãnh đạo và tổ chức Giáo hội
Theo
tôi, một trong những vấn đề then chốt để đưa Phật giáo
phát triển, phải nói đến hai việc quan trọng là người lãnh
đạo và cách tổ chức. Đề cập đến vấn đề Giáo hội, tôi
đứng trên lập trường của một người con Phật, lấy việc
phụng sự đạo pháp làm mục đích.
Nói
đến vấn đề tổ chức của Giáo hội, trước hết là nói đến
những người lãnh đạo, là những người lèo lái con thuyền
của Giáo hội, quyết định vận mệnh thịnh hay suy của giáo
hội. Do vậy, người lãnh đạo Giáo hội, ngoài những yếu tố
tiêu chuẩn để lựa chọn, chúng ta cần đặc biệt chú ý đến góc độ
năng lực, tức là người có khả năng nhìn xa thấy rộng, có
bổn phận và trách nhiệm đối với việc thịnh suy của đạo
pháp, xem sự thịnh suy của đạo pháp như là sự đói no, nóng
lạnh của chính mình. Có như vậy, người lãnh đạo mới có khả
năng lãnh đạo giáo hội, chủ động hoạch định xu hướng phát
triển, thúc đẩy và sắp xếp những công việc của Giáo hội.
Để
cho công việc của Giáo hội được thành tựu, Giáo hội cần
chú ý đến vấn đề tổ chức. Nói đến vấn đề tổ chức là
nói đến bộ máy điều hành và hoạt động của Giáo hội. Sự
hình thành ban ngành là nói đến những mặt hoạt động cụ
thể và chuyên môn, nhằm thực thi và hoàn thành những công
việc mà Giáo hội đã đề ra, tránh trường hợp xưa bày nay
vẽ, việc thừa người thiếu, cần chú trọng tính hiệu quả.
Từ đó, Giáo hội mới thành lập những ban ngành cụ thể và hợp
lý, người nào việc nấy, tránh trường hợp nhiều chức nhiều quyền,
mỗi người mỗi việc, để đảm đương gánh vác công việc của Giáo
hội.
5.2. Giáo dục và đào tạo
Có
thể nói giáo dục và đào tạo là ngành mang tính quyết
định cho sự phát triển của Giáo hội. Nhân sự của giáo hội
làm việc có hiệu quả hay không, phần lớn đều tùy thuộc
vào khả năng chuyên môn của người đó. Thông thường, nói đến
tri thức là nói đến vấn đề giáo dục và đào tạo. Một kinh
nghiệm trong thực tế cho thấy, đời sống nông thôn có thu
nhập thấp hơn và khổ hơn so với người dân sống ở thành
thị; đời sống của người có trình độ học vấn thấp, thường
có đời sống kinh tế khó khăn hơn so với người có trình độ
cao. Vì sao như vậy? Có lẽ lý do chủ yếu chính là sự chênh
lệch về sự hiểu biết, tức là kiến thức chuyên môn; kiến
thức chuyên môn non kém là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hậu
quả xấu. Do vậy, muốn Phật giáo phát triển, chúng ta không
thể không để ý đến vấn đề giáo dục và đào tạo.
Dẫu
rằng, Phật giáo là một tôn giáo lấy sự giác ngộ và giải
thoát làm mục đích, nhưng sự tồn tại của Phật giáo không
thể tách khỏi cuộc sống của xã hội, nhất là Phật giáo
Đại thừa đề cao vai trò Bồ tát hạnh, lấy tinh thần độ sinh
làm sự nghiệp. Nếu như đây là quan niệm đúng thì sự tồn vong của
Phật pháp luôn luôn gắn liền với xã hội. Như vậy, người làm công
tác truyền giáo không thể không tìm hiểu cách suy tư, tập quán,
lòng mơ ước của con người và xu hướng phát triển của xã hội
hôm nay. Nếu công việc tìm hiểu này chưa hoàn thiện mà chúng ta
đặt vấn đề độ sinh, vấn đề hoằng dương Phật pháp là việc
làm hết sức mơ hồ, điều đó chẳng khác nào chúng ta muốn
tạo ra một sản phẩm để bán nhưng không suy nghĩ đến đối
tượng tiêu thụ sản phẩm là ai, như vậy là việc làm hết sức
nguy hiểm.
Hơn
nữa, ý nghĩa sự giác ngộ và giải thoát của đạo Phật
không thể tách rời đời sống thực tế của thế gian. Tách rời
cuộc sống thực tế này để tìm cầu sự giác ngộ và giải thoát
cũng là mơ hồ, giác ngộ là giác ngộ một điều gì đó ở thế gian; giải
thoát là vứt bỏ một loại phiền não khổ đau nào đó khi chưa có sự
giác ngộ. Đó chính là ý nghĩa của câu kệ:
Phật tại thế gian,
bất ly thế gian giác,
ly thế mích Bồ đề,
du như cầu thố giác.
Như vậy,
Phật giáo là một tôn giáo của con người, lấy con người làm
đối tượng để giáo dục. Xuất phát từ ý nghĩa này, gợi ý
cho chúng ta hiểu rằng sự suy nghĩ và hành động của đạo
Phật không thể tách rời cách suy tư và hành động của con
người. Như vậy, Phật giáo cần sớm được hình thành và phát
triển giáo dục, nó là nhu cầu hết sức cần thiết và thực tế.
Hơn nữa, Phật giáo là một tôn giáo lớn của xã hội Việt
Nam, được đại đa số người dân tin theo, nó có ảnh hưởng
trực tiếp đến con người và xã hội đó. Do vậy, những người
làm công tác tôn giáo - Phật giáo không thể không được đào
tạo. Người không được đào tạo mà làm công tác tôn giáo, lại lãnh đạo
xã hội là việc làm hết sức nguy hiểm, không những cho bản thân cho
Phật giáo mà còn ảnh hưởng xấu đến xã hội, do vậy người lãnh đạo
phải có kiến thức chuyên môn phục vụ con người và xã hội.
Trong ý nghĩa này, kiến thức chuyên môn của người truyền
giáo là kiến thức của người vừa có trình độ chuyên môn về
Phật học vừa có kiến thức chuyên môn về xã hội. Kiến thức
Phật học giúp cho người làm công việc hoằng pháp không làm
lệch tinh thần giáo dục của đạo Phật; kiến thức xã hội
là kiến thức giúp cho người làm công tác truyền giáo hình
thành những phương thức truyền giáo thích nghi và đáp ứng
nhu cầu cho con người và xã hội. Đó mới là sự kiện toàn
tinh thần ‘khế lý và khế cơ’ của đạo Phật.
Như chúng
ta đã biết, thời đại mà chúng ta đang sống là thời đại
của khoa học kỹ thuật, với nền giáo dục tiến bộ hoàn toàn
khác so với xã hội xa xưa. Ở xã hội ngày nay, nhất là xã
hội của những nước Tây phương, chúng ta không thể muốn nói
gì thì cứ nói điều ấy, không thể bảo người khác chấp nhận
và tin theo những điều vô lý của mình, ngay cả đó là
người con, người cháu trong gia đình của mình. Ngược lại,
con người của thời đại ngày nay, chỉ biết chấp nhận và
làm theo những gì hợp lý, thực tế và hữu ích. Tính hợp lý
thực tế và hữu ích vốn là gia tài sẵn có trong đạo Phật.
Gia tài đó ở đâu? xin trả lời rằng, nó tiềm tàng ẩn chứa
trong mọi kinh điển Phật giáo, không giới hạn ở Phật giáo Nam
truyền hay Bắc truyền, Đại thừa hay Tiểu thừa.
Khai thác
gia tài quí giá đó không phải là chuyện một sớm một chiều, không
phải chỉ cạo đầu mặc áo cà sa, hay sống lâu trong nhà chùa là được
mà cần phải được đào tạo và học tập nghiêm túc, mới có thể giới
thiệu đúng về đạo Phật. Có thể thời gian qua, con người không chú
ý hoặc cố tình quên đi những điểm này, nhưng trong xã hội
ngày nay, nó là nhu cầu chính đáng của con người, chúng ta
có trách nhiệm làm sống dậy bản chất vốn có trong đạo
Phật.
Như vậy,
muốn tồn tại và phát triển ở xã hội ngày nay, Phật giáo
cần chú ý đến vấn đề giáo dục và đào tạo đội ngũ tri
thức, có kiến thức chuyên môn về Phật học. Ngoài ngành Phật
học, Phật giáo cần phải đào tạo những người có chuyên
ngành khác như âm nhạc, kiến trúc, hội họa, sử học̣...v.v…
Quá trình hoằng dương Phật pháp trong quá khứ để lại cho
chúng ta những kinh nghiệm đáng quí, qua những kinh nghiệm
đó, chúng ta chỉ cần biết phân tích tổng hợp và chọn lọc,
chắc chắn nó sẽ cho chúng ta hình thức sinh hoạt sống động
và hấp dẫn cho con người và xã hội ngày nay, đồng thời chính nó
là yếu tố hình thành lòng quả cảm, không ngần ngại trước những
áp lực giữa những quan niệm cũ và mới. Ví dụ, những hình
thức lễ nhạc được lưu truyền trong Phật giáo, nếu tôi nói
không sai lầm, nó vốn là những lễ nhạc của thế gian được
người dân yêu thích. Phật giáo lợi dụng thị hiếu của con người,
đã vay mượn nó làm phương tiện truyền tải Phật pháp, bằng
cách thay vào đó bằng những lời Phật pháp, và được chính
thức tán tụng trong những ngày lễ và thậm chí được xem nó
như là một phương pháp tu tập trong đạo Phật Đại thừa, nó đã
trở thành công cụ truyền giáo đắc lực và có hiệu quả
trong việc hoằng dương Phật pháp trong quá khứ. Thế nhưng,
khi loại âm nhạc này không đủ sức hấp dẫn ở thế hệ của
thời đại ngày nay tại sao chúng ta lại vẫn khư khư chấp nhận
và cho rằng chỉ có như thế mới là ‘truyền thống văn hóa
của đạo Phật’, ngoài ra đều không thể chấp nhận, đôi khi
còn có thái độ kỳ thị? Vậy thì thử hỏi truyền thống văn
hóa của đạo Phật là gì, phải chăng là những hình thức
không còn sức sống? Nếu nó là cái không còn sức sống thì
tại sao chúng ta bắt nó phải sống? Làm như vậy có ngược
lại với giáo lý ‘duyên khởi’ và ‘vô thường’ của đức Phật
chăng? Nếu như, chúng ta lấy mục đích hoằng dương Phật pháp
là đem sự ích lợi đến cho mọi người, mọi tầng lớp xã hội,
chúng ta thử nghĩ cách suy nghĩ và việc làm như vậy có
công bằng và hợp lý chăng? Có phù hợp với tinh thần khế lý
và khế cơ của đức Phật chăng? Nếu vậy, chúng ta cần phải
tái tạo một loại âm nhạc mới, tạo sự hấp dẫn cho giới
trẻ, làm phương tiện để cho giới trẻ gần gũi với Phật pháp
hơn. Sự gần gũi của giới trẻ là cơ hội tốt nhất để cho Phật
giáo giới thiệu cho các em một đời sống hướng thiện. Đồng
thời, lời của bản nhạc với nội dung khuyên con người từ bỏ
những hành vi bất thiện làm việc thiện, tôi tin chắc rằng
lời nhạc này nó sẽ là vị thầy vô hình vô tướng cho các em,
hướng dẫn các em vào đạo Phật, là cơ hội để các em trở thành con
người tốt trong xã hội.
Vấn đề mà
hôm nay chúng ta đưa ra thảo luận, tưởng chừng như là vấn đề
mới, nhưng thật ra nó là vấn đề rất cũ, đã được các vị
tổ sư, các vị tiền bối trước đây đã nghĩ và đã làm. Kết
quả của việc làm đó là sự thành tựu về khía cạnh truyền bá, đưa
chánh pháp vào cuộc sống của con người. Đây chính là tinh thần
của Phật giáo Đại thừa, là tinh thần cải cách, bất chấp
và vượt qua những chê bai và bất đồng chính kiến, để vươn
tới mục đích vì lợi ích, vì lợi lạc cho số đông, cho con
người và xã hội. Muốn làm được như vậy, Phật giáo cần phải
có những người chuyên về âm nhạc, có nghĩa là phải đào
tạo con người chuyên môn về lãnh vực này. Cũng vậy, về mặt
kiến trúc xây dựng, hội hoạ, hành chánh, nghiên cứu và các
chuyên ngành khác cũng cần có những người chuyên môn. Có
thể nói, đây là một vấn đề hết sức quan trọng, để đưa
Phật giáo phát triển cùng với xã hội.
Qua những
điều nêu trên ta nhận thức một điều quan trọng rằng, nhu cầu
hình thành hệ thống giáo dục Phật giáo là một việc làm
hết sức cấp bách và thực tế, nó không những giải quyết
những vấn đề khó khăn của Giáo hội, và còn có nhiều lợi
ích cho xã hội.
Nói đến
sự giáo dục là nói đến cơ sở giáo dục của Phật giáo, tức
là nhu cầu thành lập trường Đại học Phật giáo. Nếu như
chúng ta cho rằng, hơn một nửa dân số người Việt Nam theo
đạo Phật thì vấn đề thành lập trường Đại học Phật giáo
là nhu cầu hết sức thích đáng và cần thiết, đó không phải là nhu
cầu của một cá nhân nào mà là nhu cầu của đại đa số
người dân, trong đó có Phật giáo. Nếu chúng ta cho rằng, nền
văn hóa truyền thống của dân dộc Việt Nam gắn liền với nền
văn hóa Phật giáo thì vấn đề hình thành một trường Đại
học cho Phật giáo không phải là vấn đề cá nhân của Phật
giáo mà là quyền lợi chung của dân tộc. Nếu như chúng ta
cho rằng, Phật giáo Việt Nam trong quá trình hội nhập và
phát triển luôn luôn gắn liền với quyền lợi của dân tộc,
thế thì tại sao Phật giáo không thành lập trường Đại học
để cho những người Phật tử nghiên cứu về điểm tốt đẹp và nêu
cao tinh thần này? Vậy thì Phật giáo Việt Nam và dân tộc
Việt Nam còn suy nghĩ và đợi chờ gì nữa, không nhanh chóng
thực hiện ý tưởng tốt đẹp đó?
Theo tôi,
sự ra đời của trường Đại học Phật giáo giải quyết được
nhiều vấn đề tồn tại mang tích tiêu cực trong Phật giáo và
ngay cả trong lòng xã hội. Thứ nhất, bản thân Phật giáo làm
chủ được công việc đào tạo những ngành chuyên môn, liên hệ
mật thiết đến những mặt hoạt động của Phật giáo nói riêng
và ngành tôn giáo học nói chung, nó sẽ cung ứng cho Giáo
hội và xã hội những người làm việc chuyên môn về tôn giáo.
Thứ hai, Đại học Phật giáo là nơi tập hợp những người tri
thức, các chuyên gia trong các lãnh vực, thảo luận những vấn đề
liên quan đến Phật pháp, Phật giáo Việt Nam và những vấn đề
liên quan đến văn hóa dân tộc. Thứ ba, trường Đại học Phật giáo
là nơi giao lưu về mặt học thuật giữa Phật giáo Việt Nam và
Phật giáo quốc tế. Thứ tư, nó sẽ là nơi đưa ra những ý
kiến tích cực, góp phần xây dựng xã hội trong việc ngăn
chận những vấn đề tệ nạn xã hội. Thứ năm Đại học Phật
giáo là trường Đại học dân lập, do vậy, ngoài mặt giáo
dục, nó cũng được xem như là một cơ sở kinh tế tự túc của
Giáo hội, nguồn tài chính thu được sẽ trang trải cho những
hoạt động mang tính chiến lược định hướng cho giáo hội. Ngoài
ra, nó còn có những mặt hữu ích khác như là tạo ra việc làm cho
người dân.
Nói chung,
việc xây dựng một trường Đại học Phật giáo ở trên mảnh
đất Việt Nam là nhu cầu cần thiết và hết sức thích đáng, không
chỉ là nhu cầu riêng cho Phật giáo mà cho cả dân tộc Việt Nam.
Hiện nay nó không phải là niềm ước mơ riêng của giới Phật giáo
trong nước mà ngay cả người Việt đang sinh sống ở hải ngoại
5.3.
Vấn đề phiên dịch và biên tập bộ Đại tạng kinh Việt Nam
Ý tưởng
về việc phiên dịch và biên tập bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam
có từ rất sớm, không những chỉ có Giáo hội, ngay cả những
tổ chức cá nhân cũng đã nghĩ và đang tiến hành thực hiện
công việc này, nhưng cho đến nay vẫn chưa hoàn thiện. Theo tôi
được biết, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam đã hình thành một
bộ phận gọi là Ban phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam, ban
này có trách nhiệm biên tập và phiên dịch Đại Tạng Kinh
Việt Nam, nhưng trên thực tế cho đến nay Ban này chỉ dừng ở
việc in lại những bản kinh Nam truyền do Hòa thượng Minh Châu
dịch, và những bản Kinh A hàm của Hòa thượng Thiện Siêu và
Thanh Từ dịch trước đây, cho đến nay Viện đã xuất bản được
tất cả 35 tập, nội dung và hình thức biên tập có nhiều
vấn đề cần được thảo luận. Ngoài ra, tổ chức cá nhân của
Thượng tọa Tịnh Hạnh ở Taiwan cũng đang tiến hành phiên
dịch và in ấn, nội dung phiên dịch và sự biên tập như thế
nào, chúng ta còn đang chờ đợi.
Theo tôi,
công việc phiên dịch và biên tập bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam
là công việc hết sức quan trọng và cần thiết của Phật giáo
Việt Nam, vì nó không những là nguồn tư liệu cần thiết cho
người Việt chúng ta nghiên cứu, nó còn là bộ mặt của Phật giáo
Việt Nam . Nếu như Phật giáo Việt Nam có bộ Đại Tạng Kinh bằng tiếng
Việt, tôi tin rằng, những công trình nghiên cứu Phật học của nước
nhà sẽ khởi sắc. Ngoài ra, nó còn là cơ sở cho bất cứ người Việt
nào muốn tìm hiểu đạo Phật đều có thể đọc và hiểu được lời Phật
dạy.
Trên thực
tế cho thấy, mặt dù đạo Phật được truyền vào Việt Nam rất
sớm, nhưng thành quả nghiên cứu về Phật học của người
Việt so với thế giới còn quá khiêm tốn. Sự giới hạn này,
xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu
là Phật giáo Việt Nam chưa có bộ Đại Tạng Kinh bằng chữ
Việt. Sự thiếu sót này đã kéo theo một số vấn đề khác,
như là vấn đề giáo dục và nghiên cứu….chắc chắn nó có
ảnh hưởng rất lớn trong lãnh vực giáo dục và đào tạo. Quả là
sự giới hạn nếu chúng ta chỉ dựa vào một số tác phẩm đã dịch để hiểu
về Phật giáo, nếu không muốn nói là sẽ rơi vào phiến diện. Như
vậy, muốn tạo thành phong trào học Phật cho người Việt
được lên cao, được phong phú và đa dạng hóa, điều trước tiên
là Phật giáo Việt Nam cần phải có Bộ Đại Tạng kinh bằng
tiếng Việt.
Theo kinh
nghiệm cá nhân, tôi cho rằng việc chuyển dịch bộ “Đại Chánh
Tân Tu Đại Tạng Kinh” sang Việt ngữ là một công trình lớn của
Phật giáo, nó không giống như việc chuyển dịch cuốn tiểu thuyết mà
là một công trình chuyển dịch khoa học, mang nặng sắc thái của học
thuật. Do vậy, việc phiên dịch và biên tập bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam
phải là những chuyên gia về Hán học và Phật học. Thiếu một trong
hai yếu tố này, thành quả của công trình dịch thuật sẽ rơi vào
khuyết tật, vì người biết chữ Hán không đồng nghĩa là người đó giỏi
về Phật học. Cũng vậy, người có khả năng nghiên cứu Phật học, nhưng
không xử lý được nguồn tư liệu bằng chữ Hán sẽ bị giới hạn về mặt
nhận thức, vì 3 tạng kinh điển Phật giáo (Pali, Tây Tạng và Hán
Tạng), bộ Đại Tạng Kinh bằng chữ Hán có thể nói là bộ Đại Tạng Kinh
phong phú nhất, chứa đựng khá nhiều các nguồn tư liệu Phật học khác
nhau của Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc. Do vậy, người làm công tác
chuyển dịch cần phải am tường quan điểm tư tưởng của các bộ phái
Phật giáo ở Ấn Độ. Khi chuyển dịch cần phải trung thành giữ nguyên
khái niệm của mỗi bộ phái sử dụng, không nên lấy khái niệm tư tưởng
của bộ phái này chuyển dịch thành khái niệm tư tưởng của bộ phái
khác. Do vậy muốn làm được công việc này, người làm công tác chuyển
địch cần trang bị kiến thức lịch sử tư tưởng Phật học Ấn Độ, nếu
không sẽ vấp phải sai lầm. Liên quan đến vấn đề này, ở đây tôi xin
đưa ra một điển hình cụ thể. Có một lần tôi cho sinh viên (người
Taiwan) làm bài kiểm tra bằng cách phân tích ý nghĩa của
một bài kinh trong “Trung A Hàm”, kết quả lần kiểm tra này, tôi
rất lấy làm ngạc nhiên khi nhìn thấy kết quả làm bài kiểm tra không
tốt. Tôi phát hiện có hai điểm mà sinh viên sai lầm: Thứ nhất là họ
lấy tư tưởng của Phật giáo Đại thừa để phân tích và lý giải tư
tưởng “Kinh A Hàm’. Trên thực tế hai hệ tư tưởng này hoàn toàn khác
nhau, nếu chúng ta không muốn nói đối lập nhau, không thể lấy hệ
thống tư tưởng này để lý giải cho hệ tư tưởng kia. Thứ hai là sinh
viên làm công việc chấm (.) phẩy (,) phân đoạn sai, từ đó dẫn đến trường
hợp không nắm được ý kinh. Ở đây chúng ta thử đặt vấn đề: Tại sao
người Hoa đọc bản kinh bằng chữ Hán lại không hiểu? Theo tôi câu trả
lời thích đáng nhất là sinh viên không am hiểu tư tưởng Phật giáo
Ấn Độ, vì Phật học Ấn Độ có nhiều trường phái, nhưng sinh viên chỉ
biết tư tưởng Phật giáo Đại thừa, cho nên họ đã lấy tư tưởng của
Phật giáo Đại thừa phân tích các nguồn tư liệu của Kinh điển A Hàm,
do vậy dẫn đến trường hợp sai lầm này. Qua đó, gợi ý cho chúng
ta hiểu rõ thêm vấn đề phiên dịch, ngoài việc biết chữ Hán,
người dịch cần có kiến thức chuyên môn về Phật học, không
thể biết chữ Hán là chúng ta dịch được kinh điển Phật điển
của Phật giáo, nhất là phần luận (A Tỳ Đàm), một điển hình
cụ thể là tác phẩm “Tam Di Để Bộ Luận” là
một bộ luận của phái Độc tử bộ mà người Nhật khi biên
tập tác phẩm này do không nắm rõ nội dung tư tưởng của
luận, đã chấm câu sai, cho nên luận này trở nên khó hiểu, có lẽ
đó là lý do dẫn đến ít người nghiên cứu bộ luận này. Tất
nhiên, đây chỉ là một ví dụ điển hình mang tính gợi ý cho
chúng ta hiểu thêm về vấn đề phiên dịch Đại Tạng kinh.
Thế thì
công việc phiên dịch kinh điển chữ Hán sang Việt ngữ như thế
nào để có được kết quả tốt nhất? Từ kinh nghiệm bản thân,
tôi cho rằng, trước tiên Giáo hội cần có kế hoạch đào tạo
người chuyên môn, không phải chỉ đơn giản chỉ học chữ Hán mà còn
phải đào tạo chuyên ngành Phật học, nhất là lãnh vực Phật học Ấn
Độ. Cách tốt nhất là gởi người đi du học ngành Phật học ở
những nước sử dụng ngôn ngữ bằng tiếng Trung Quốc. Nếu chúng ta
không có kế hoạch đào tạo, chuẩn bị và sắp xếp công việc mà cứ làm
theo cách truyền thống, tôi ngại rằng, kết quả của công trình phiên
dịch và biên tập sẽ không như ý muốn. Công việc vừa qua của Ban
phiên dịch thuộc Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam đã cho chúng ta
kinh nghiệm đáng lưu ý. Trên đây là một vài ý kiến cá nhân
đối với công việc phiên dịch và biên tập bộ Đại Tạng Kinh
Việt Nam.
6.
Kết luận
Sự giác
ngộ của đức Phật dưới cội cây Bồ đề là giáo lý duyên
khởi. Từ chân lý này đức Phật phát hiện nhân sinh và vũ
trụ vốn là duyên khởi tánh, không do ai tạo ra, cũng không ai
có quyền quyết định sự đời sống của kẻ khác. Sự hình thành của
mọi sự vật là do nhân duyên và sự biến mất của nó cũng
do nhân duyên. Như vậy, bản chất của con người và thế giới chung
quanh nó là vô thường là phi ngã.
Sau khi đức
Phật thành đạo, vì lòng thương chúng sanh, Ngài đã đem
khoảng thời gian còn lại của mình (45 hay 49 năm) vì chúng
sanh mà nói pháp. Giáo pháp mà Ngài đã nói tuy rất nhiều
nhưng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát, với thiện ý
muốn cho chúng sanh nhận thấy chân lý để được giác ngộ và
giải thoát. Thế nhưng, chúng sanh căn tánh và trình độ không
đồng, cho nên lời Phật dạy cũng tùy theo đó mà có sự khác
biệt. Chúng ta có thể gọi những gì mà đức Phật giác ngộ
dưới cội cây Bồ đề là tinh thần hay mục đích giáo dục
của đức Phật; những gì mà được biểu hiện bằng lời bằng ngôn
ngữ, như là các kinh điển của Đại thừa hay Tiểu thừa là những
hình thức giáo dục của Phật giáo. Hình thức nào cũng chứa
đựng tinh thần giáo dục của đức Phật. Ngược lại tinh thần mà không
có hình thức ngôn ngữ biểu hiện, thì tinh thần đó chúng sanh không
làm sao hiểu được. Đây chính là tinh thần ‘tùy duyên bất biến,
bất biến tùy duyên’ trong kinh điển Đại Thừa.
Căn cứ tinh
thần này, đạo Phật không ngừng phát triển. Từ đời sống vô
gia cư trong rừng núi, dần dần đã phát triển đến đời sống
định cư ở thị thành; từ trung tâm Ấn Độ mở rộng đến bốn
phương, từ trong nước đến ngoài nước, cho đến nay Phật giáo
đã có mặt khắp cả địa cầu, sinh hoạt của Phật giáo ở
từng mỗi địa phương cũng không giống nhau, nhưng tất cả đều
hướng đến sự giải thoát và giác ngộ. Đó là điểm đặc thù
của Phật giáo.
Ở thời
đại ngày nay, Phật giáo đang đứng trước một giai đoạn lịch sử
mới, một thời đại văn minh, khoa học kỹ thuật tiên tiến, con người
sống trong lòng xã hội đó cũng được đào tạo trong môi trường giáo
dục tốt hơn, về mặt nhận thức cũng được nâng cao. Đứng trước tình
hình đó, bằng cách nào Phật giáo được tồn tại và tiếp tục phát triển
là vấn đề chúng ta cần phải suy tư và thảo luận.
Một điều khá
rõ ràng là rất khó khăn cho sự phát triển của Phật giáo ở xã hội
mới con người mới khi mà chúng ta vẫn cứ sử dụng một phương pháp cũ,
không còn thích nghi với nhu cầu xã hội, ngược lại còn là nhân tố
làm trì trệ cho sự phát triển. Thế thì nên chăng Phật giáo cần
phải uyển chuyển trong những hình thức sinh hoạt, giảm bớt những
hình thức sinh hoạt không còn phù hợp với xã hội, và cần tăng thêm
những sinh hoạt tri thức, những mặt hoạt động mang tính trong sáng,
bổ ích cho con người và cộng đồng xã hội đang sinh sống, tạo ra một
bầu không khí an vui và sống trong tinh thần cảm thông và sự hiểu
biết, cũng như việc giảng dạy, thuyết trình, hội thảo, báo chí sẽ
đóng vai trò chủ đạo trong sự nghiệp hoằng dương chánh pháp cho thời
đại ngày nay.
Ở đây, tôi
đề cao tinh thần cải cách không mang ý nghĩa phủ nhận sự đóng góp
của Phật giáo trong quá khứ mà tôi muốn nhấn mạnh một điều, thời đại
mà chúng ta đang sống là một thời đại mới, thời đại văn minh và
khoa học, cách suy nghĩ và hành động của con người sống trong xã hội
mới phải mang tính thực tế rõ ràng và hợp lý, khác với cách suy
nghĩ con người trong xã hội ngày xưa, do vậy không thể cứng nhắc
dùng một phương pháp truyền thống áp đặt cho con người ở trong xã
hội ngày nay. Tinh thần ‘khế lý khế cơ’ hay đạo lý ‘tùy duyên bất
biến, bất biến tùy duyên’ trong Phật giáo Đại Thừa cho phép chúng ta
thực thi tinh thần cải cách này. Sự cải cách về hình thức sinh hoạt
không phải ám chỉ giáo lý Phật giáo đã lỗi thời không đủ sức
đáp ứng nhu cầu về mặt tri thức của xã hội mà ngược lại đã
chứng minh giáo lý mà đức Phật giảng dạy là một chân lý của cuộc
đời, vượt qua không gian và thời gian. Dù cho con người nào ở xã hội
nào hay ở thời gian nào, lời dạy của Ngài vẫn có giá trị thực tiễn,
giúp cho người đó có được hạnh phúc và an lạc.
Nhưng trên
thực tế, bất cứ sự cải cách nào cũng không sao tránh khỏi sự bất
đồng chánh kiến, đó là sự giằng co giữa một quan niệm cũ và
quan niệm mới. Sự giằng co này xuất phát từ người có quan niệm cũ
vốn là người được giáo dục và trưởng thành trong môi trường cũ, giao
tiếp với những con người thời đó, tạo thành thói quen trong suy
nghĩ; họ sống với những gì đã đạt được bằng trái tim và khối óc của
họ, do vậy không thể bỏ đi trong một sớm một chiều. Ngược lại, người
có tư tưởng cấp tiến không chấp nhận một thực tại sinh hoạt thiếu
sinh khí và không đáp ứng được nhu cầu của xã hội nên đưa ra sự cải
cách. Đây là sự mâu thuẫn, đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Trước
tình hình đó, chúng ta cần ngồi với nhau cùng nhau bàn thảo, nhằm
tìm ra một giải pháp thích hợp nhất để đáp ứng cho nhu cầu của xã
hội. Nhưng dù gì đi nữa chúng ta vẫn phải cần mạnh dạn trong việc
cải cách các mặt hoạt động của Phật giáo, vì đó là điều
kiện tiên quyết để Phật giáo phát triển, để lời Phật dạy được phổ
biến ở nhân gian. Nếu rụt rè e ngại thì sẽ là bức tường ngăn
cản của tuổi trẻ đến với đạo Phật, chận đứng sự phát triển
của đạo Phật. Đây là một vấn đề thực tế đang xảy ra chung
quanh ta, nhất là Phật giáo phát triển ở những xã hội Tây
phương.
Nếu ôn lại
quá trình phát triển của đạo Phật chúng ta sẽ thấy rằng,
đạo Phật luôn luôn tồn tại và phát triển trong lòng xã hội. Tùy
theo nhu cầu của từng xã hội khác nhau, Phật giáo hình thành
một hình thức sinh hoạt thích nghi với con người ở xã hội
đó, miễn là không trái với tinh thần giác ngộ và giải
thoát của đức Phật; mặc dù bị chỉ trích từ tăng già hay xã hội,
nhưng không vì thế mà Phật giáo chấp nhận lùi bước, đó là tinh thần
Bồ Tát hạnh trong tư tưởng của Phật giáo Đại thừa, nhờ vậy Phật
giáo luôn luôn tồn tại với mọi con người ở mọi thời đại.
Nếu đứng từ góc độ truyền thống văn hóa của đạo Phật mà
bàn về vấn đề cải cách, thì chúng ta phải xác định, truyền
thống tư tưởng của Phật giáo là lý thuyết ‘duyên khởi’ là ‘vô
thường’ là ‘phi ngã’, là không chấp thủ. Từ truyền thống tư
tưởng này hình thành cái gọi là văn hóa Phật giáo. Như vậy, tư
tưởng Phật giáo và văn hóa Phật giáo không thể mâu thuẫn lẫn nhau.
Từ ý nghĩa này có thể hiểu rằng, chúng ta không được phép lấy một
hình thức sinh hoạt nào đó mà cố chấp cho rằng: chỉ có hình thức văn
hóa này mới là Phật giáo để rồi đi đến phủ nhận những hình thức
sinh hoạt khác.
Ở xã hội
ngày nay, nhất là ở những xã hội có nền kinh tế cao, khoa
học kỹ thuật tiên tiến, Phật giáo muốn tồn tại và phát
triển cần đề cao vai trò ‘chánh tri chánh kiến’
trong các mặt hoạt động của Phật giáo. Muốn được thực thi
tinh thần này, trước mắt chúng ta cần chú ý đến những
mặt: người lãnh đạo và công tác tổ chức, đưa công tác giáo
dục và đào tạo lên hàng đầu. Để đáp ứng những nhu cầu của
Phật giáo cần sớm hình thành trường Đại học là cơ sở giáo dục và
đào tạo, thúc đẩy công tác nghiên cứu, phiên dịch và biên tập
bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam là trọng trách của Giáo hội.
Nội dung mà
tác giả vừa trình bày, đó chỉ là ý kiến cá nhân, là sự thao
thức trăn trở của cá nhân, với tư cách là một người con
Phật mong muốn tinh thần trong sáng và hữu ích của đức
Phật được tồn tại và phát triển trong lòng xã hội, cũng
mong sao những yếu tố mang tính xuyên tạc và hiểu lầm trong đạo Phật
sớm được loại bỏ.
Mặc dù tác
giả đã cố gắng trình bày một cách tốt nhất, nhưng không làm sao
tránh khỏi sự sai sót. Do vậy, nơi đây, tôi rất mong được sự góp
ý hoặc cùng nhau trình bày quan điểm của mình của các bậc
thiện tri thức, dù đó là những ý kiến ngược lại.
SÁCH THAM KHẢO
- HT.Minh
Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 1, Viện
NCPHVN ấn hành, 1993.
- HT. Minh
Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ” tập 1, Viện NCPHVN
ấn hành, 1996.
- HT. Minh
Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1 và 2, Viện
NCPHVN ấn hành, 1992.
- HT. Thiện
Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp A Hàm” tập
1, Viện NCPHVN ấn hành, 1993.
- “Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa”, Đại Chánh Tạng quyển 09, số 262.
- “Dị
Bộ Tông Luân Luận”, Đại Chánh Tạng quyển 49, số 2031.
- Lữ Trưng,
“Ấn Độ Phật học Tư tưởng khái luận” Taipei,
NXB Thiên Hoa, 1982.
[1]
HT. Minh Châu dịch “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 1, VNCPHVN ấn
hành, 1993.
[2]
HT. Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp A Hàm” tập 1,
kinh số 296, VNCPHVN ấn hành, trang 628.
[3]
HT. Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp A hàm” tập 1,
kinh số 09, VNCPHVN ấn hành, trang 22~23.
[4]
HT.Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 1,
VNCPHVN ấn hành, 1993, trang 234.
[5]
HT.Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn
hành, 1996. trang 46.
[6]
“kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, Đại Chánh Tạng quyển 09, số 262,
trang 7c.
[7]
HT.Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn
hành, 1996, trang 128.
[8]
HT.Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 2, Viện NCPPVN ấn
hành 2000, trang 140.
[9]
HT.Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 3, Viện NCPPVN ấn hành
2001, trang 473~481.
[11]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ” tâp 1,
Viện NCPHVN ấn hành, 1996, trang.113.
[12]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn
hành, 1992, trang 303.