Ý
nghĩa Pháp sám hối trong đạo Phật
Ý NGHĨA PHÁP SÁM HỐI
trong đạo Phật
Sám
hối là một trong
những pháp tu tập trong Phật giáo, nó không những là một
phương pháp tu tập khá phổ biến trong Phật giáo Đại thừa,
mà còn là một phương pháp rất tích cực và hữu hiệu trong
việc ngăn chận sự tái diễn của những hành vi bất thiện
của ba nghiệp trong Phật giáo Nguyên thủy. Nếu Phật giáo
Đại thừa chọn hai ngày: 14 hay ngày rằm, ngày 29 hay 30 làm
ngày lễ sám hối chung cho hai giới xuất gia và tại gia, thì
Phật giáo nguyên thủy dùng phương pháp quan sát ba nghiệp
của chính mình làm phương pháp tu tập. Nghĩa là kiểm tra ba
nghiệp đã qua của mình, nghiệp nào trong ba nghiệp ấy phạm
phải sai lầm, vị đó cần tìm vị thầy hay tương đương vị
thầy để bộc bạch trình bày lỗi lầm của mình và phát
nguyện từ đây trở về sau không tái phạm sự sai lầm đó nữa.
Thật ra,
sự khác biệt giữa hai phương pháp tu tập này chỉ là sự
khác biệt trên hình thức giáo dục, nhưng xét về ý nghĩa
thì cả hai đều có chung ý nghĩa và mục đích. Tại sao Phật
giáo Đại thừa lấy việc lạy Phật làm phương pháp sám sối,
có phải mong rằng ngang qua hình thức thành khẩn lễ lạy này
sẽ được chư Phật Bồ tát chứng minh và thấu rõ hành vi
sám hối của mình? Nếu chúng ta muốn lý giải vấn đề này
một cách rõ ràng, không mâu thuẫn giữa ý nghĩa tu tập và
hình thức tu tập, chúng ta cần liên hệ đến tinh thần giáo
dục của Phật giáo Đại thừa. Đó là một tinh thần giáo dục
mở, dành cho tất cả mọi người trong xã hội, từ người nông
phu cho đến tầng lớp tri thức, từ tại gia cho đến người
xuất gia đều có thể thực hành được. Một đối tượng giáo dục
quá rộng lớn như vậy, chắc chắn không thể sử dụng hình
thức giáo dục chuyên môn sâu sắc được, mà phải là những
hình thức giáo dục đơn giản dễ hiểu, nhất là đại đa số
quần chúng là những người không có trình độ nhận thức, suy
luận cao, cần phải có nền giáo lý đơn giản không cần đến suy luận,
chỉ biết làm như vậy, cầu Phật gia hộ là đủ rồi. Vì đáp ứng nhu
cầu thực tế này, Phật giáo Đại thừa không thể không sử
dụng hay vay mượn những hình thức tín ngưỡng quen thuộc,
không cần suy luận nhiều của người dân làm phương tiện giáo
dục, khuyên con người bỏ điều ác làm việc lành, mang tính
hướng thiện. Nói một cách chính xác hơn, Phật giáo Đại
thừa không ngần ngại sử dụng những văn hóa, lễ nghi tôn giáo
để gởi gắm một đạo lý sâu xa trong đó, nếu là người trí
thức ngang qua những hình thức này, vượt qua những hình thức
ngôn ngữ đón nhận một chân lý tuyệt vời của đạo Phật, ngược
lại giới bình dân căn cứ vào những hình thức như lễ lạy, cúng bái…
giữ giới cấm cũng đủ để thành một người tốt rồi. Đó chính là lý
do tại sao Phật giáo Đại thừa chọn những hình thức tu tập
xem trọng về hình thức như vậy.
Ngược lại,
Phật giáo Nguyên thủy thì đơn giản hơn, đối tượng mà Ngài
giảng dạy trong kinh A Hàm hay trong Nikàya hầu như là những
người xuất gia, là những người chỉ có một mục đích duy
nhất là thành đạt sự giác ngộ và giải thoát. Một đối
tượng giáo dục rất là chuyên môn, hẳn nhiên những người này
dù ít hay nhiều phải nắm rõ đường lối tu tập trong chánh
pháp, do đó Ngài không cần phải trình bày lòng vòng hay vay
mượn những hình thức văn hóa của thế gian mà trực tiếp đề
cập đến phương pháp giải quyết vấn đề. Đây chính là lý do
tại sao hai nền giáo dục khác nhau giữa hai hệ thống giáo
dục Đại thừa và Tiểu thừa.
Cho dù như
thế nào đi nữa, bạn hiểu tính giáo dục của Phật giáo Đại
thừa là mê tín hay chánh tín, điều đó không quan trọng,
điều quan trọng là chúng ta học được gì ở trong đó. Nhưng chúng ta
phải thừa nhận một điều rằng, người biết lạy Phật biết
tụng kinh là người biết phục thiện, tôn trọng đạo đức, sợ
nhân quả xấu, biết hổ thẹn, biết giúp đỡ người khác…Đây là
những đức tính cơ bản, để xây dựng một đời sống tốt đẹp
và lành mạnh trong xã hội. Nếu chúng ta đứng về mặt giáo
dục mà quan sát, nó có ý nghĩa tích cực trực tiếp hoặc
gián tiếp đóng góp về mặt xây dựng đạo đức cho xã hội,
giảm thiểu những tệ nạn xã hội. Nhưng đứng về mặt ý
nghĩa, nếu chúng ta không nắm rõ tinh thần giáo dục và mục
đích giáo dục của Phật giáo Đại thừa, chỉ dựa vào hình
thức giáo dục, ngang qua sự phân tích mang tính suy diễn của
cá nhân, thì dễ dàng phát sinh sự ngộ nhận đáng tiếc.
Bài viết
này với mục đích đáp ứng nhu cầu hiểu biết Phật pháp cho
người Phật tử. Người Phật tử lấy đó làm cơ sở để từng
bước tiến sâu vào vườn hoa của Phật pháp, lấy đó làm cơ
sở để vun bồi niềm tin trong sáng của mình đối với Phật
pháp và an tâm tu học. Nội dung bài viết này, tôi sẽ căn cứ
hai nguồn tư liệu của Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa,
cụ thể là ‘Kinh Giáo Giới Rahula trong rừng Ambala’
và một câu kệ trong pháp môn sám hối mà mỗi nửa tháng
chúng ta thường nghe quí thầy cô xướng ‘Tội từ tâm khởi…’
để rút ra những điểm chung nhất và cốt lõi của hai hệ
thống kinh điển này, nhằm giới thiệu cùng độc giả. Và nơi
đây, tôi sẽ cố gắng trình bày một cách đơn giản và dễ
hiểu, để cho mọi người đều hiểu được lời Phật dạy.
1. Mối quan hệ giữa sám hối và ba nghiệp
Như tôi vừa
giải thích, nghi thức ‘sám hối’ là một trong những phương
pháp tu tập trong đạo Phật. Ý nghĩa chữ tu tập trong đạo
Phật, nói cho cùng chính là sự sửa đổi ba nghiệp, có
nghĩa chuyển hóa ba nghiệp bất thiện thành ba nghiệp thiện.
Ở đây,
trước khi chúng ta muốn tìm hiểu ý nghĩa của từ ‘SÁM HỐI’
thì công việc đầu tiên mà chúng ta phải tìm hiểu trước
tiên là: Thế nào là ba nghiệp? Thế nào gọi là nghiệp ác?
Thế nào gọi là nghiệp thiện?
Trước hết,
chúng ta tìm hiểu thế nào gọi là ba nghiệp (trìni-krmàni)[1].
Ba nghiệp bao gồm thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Khái niệm ‘nghiệp’ vốn không phải là khái niệm của người
Trung Hoa hay người Việt Nam chúng ta, mà nó là khái niệm
được du nhập từ văn hóa Ấn Độ, nó cũng không phải là từ
riêng của Phật giáo mà là từ được sử dụng rất phổ biến
trong các tôn giáo hay các nền triết học của Ấn Độ, điều
mà chúng ta cần chú ý là mỗi tôn giáo và triết gia khi
giải thích từ này đều có ý nghĩa riêng biệt, không giống
nhau, nhưng chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Ở đây, vì tính chất và
phạm vi của bài viết, không cho phép chúng ta vượt qua những
gì không liên quan đến chủ đề. Như vậy, chúng ta chỉ giới
hạn thảo luận khái niệm nghiệp trong Phật giáo. Thật ra,
nếu chúng ta đứng từ góc độ tư tưởng sử của Phật giáo quan
sát, nghiệp được định nghĩa và giải thích khác nhau theo từng bộ
phái, nhưng điểm chung nhất của các phái là trong ba nghiệp
ý nghiệp là quan trọng.
Nghiệp
tiếng Pàli là kamma tiếng Phạn gọi là krma đều có ý nghĩa
là sự tạo tác, hành động, hành vi. Nhưng ở đây chúng ta
cần chú ý nghiệp trong Phật giáo đặc biệt chú trọng vai
trò của ý nghiệp (manas-krman)[2],
tức là hành vi có ý thức, vì nó chính là chủ nhân của
mọi hành vi của thiện và ác. Như vậy khi chúng ta nói đến
thân nghiệp (kàya-krma) hoặc khẩu nghiệp (ỳak-krman) có nghĩa
là đã đề cập đến ý nghiệp, vì bất cứ hành vi nào không
có ý nghiệp tham gia thì hành vi đó không có kết quả vui hay
khổ, cho nên không thành nghiệp hay gọi nó là vô ký nghiệp.
Đây chính là ý nghĩa chữ nghiệp trong Phật giáo.
Kế đến,
chúng ta tìm hiểu, thế nào gọi là hành vi ác nghiệp và
thiện nghiệp? Thông thường chúng ta gọi những hành vi như là
sát sinh, lấy của không cho, sống tà hạnh, nói láo, uống
rượu…là những hành vi ác hay gọi là nghiệp bất thiện,[3]
ngược lại không sát sanh, không lấy của không cho…được gọi là
thiện nghiệp. Nhưng trên thực tế, chúng ta căn cứ trên mặt
hình thức của hành vi đi đến kết luận nó là bất thiện hay
thiện thì có thể dẫn đến sự kết luận sai lầm, vì đôi lúc
động cơ thúc đẩy hành vi không phù hợp với hành vi. Ví dụ, khi
ta thấy một kẻ khủng bố đang tiến hành việc khủng bố
người khác, ta biết được hành vi của kẻ ấy, và trong
trường hợp ấy không có cách nào khác, chỉ bằng cách đánh
hoặc giết kẻ đó, mới có thể cứu được người khác. Trong
trường hợp này, hành vi đánh hoặc giết người, nếu chúng ta
đứng trên mặt hình thức đánh giá thì đó là hành vi ác,
nhưng đứng về mặt đạo đức mà suy xét, hành vi đó không phải
là ác mà là thiện, vì người đó giết người với tâm sáng
suốt và từ bi, vì sự an vui hạnh phúc cho con người và xã
hội, không phải với tâm ngu si hay lòng sân hận. Như vậy,
trong Phật giáo hành vi được định nghĩa là thiện hay ác
không căn cứ vào những hình thức bề ngoài mà căn cứ vào
tâm tư của người đó, cách suy nghĩ của người đó là thiện
hay ác thì hành vi đó phải căn cứ vào tâm hành giả mà xác
định.
Thế thì
vấn đề được đặt ra ở đây là: Thế nào là tâm thiện và thế
nào là tâm ác? Liên quan đến vấn đề này, trong “Kinh
Trung Bộ” ‘Kinh Chánh Tri Kiến’ được đức Phật giải
thích như sau:
Chư
Hiền, thế nào gọi là căn bổn bất thiện? Tham là căn bổn
bất thiện, sân là căn bổn bất thiện, si là căn bổn bất
thiện. Chư hiền, như vậy gọi là căn bổn bất thiện……Chư
Hiền, thế nào gọi là căn bổn thiện? Không tham là căn bổn
thiện, không sân là căn bổn thiện, không si là căn bổn thiện.
Chư hiền, như vậy gọi là căn bổn thiện.”[4]
Qua đoạn
kinh vừa dẫn, đức Phật đã cho chúng ta một định nghĩa rất
thực tế có liên hệ mật thiết đến cuộc sống mà chúng ta
đang sống. Có những hành vi biểu hiện bề ngoài rất đẹp
dường như có đạo đức, nhưng khi chúng ta đi sâu vào tâm hồn
của người ấy thì không phải như thế, với tâm tư lươn lẹo và độc
ác, bằng cặp mắt thường khó lường được. Nhưng cũng có người
nhìn hình thức bề ngoài biểu hiện hành vi rất thô lỗ dữ
tợn, nhưng tâm hồn của họ rất dễ thương hiền hòa và trong
sáng. Sự tương phản này là sự mâu thuẫn giữa hành vi và
sự suy nghĩ của con người, thật khó cho chúng ta đoán định
đâu là đúng đâu là sai, đâu là thiện đâu là ác. Trước sự
kiện này, đức Phật đã đưa ra một nguyên tắc để làm rõ hành vi
này, Ngài chỉ ra rằng, ý thức con người là chủ nhân sai sử
mọi hành vi thiện ác, sự biểu hiện bên ngoài chỉ là tay
sai, là công cụ thực thi ý muốn của ý thức. Do vậy muốn
đánh giá một hành vi thuộc thiện hay ác không nên căn cứ vào
hành vi bên ngoài mà phải căn cứ vào tâm ý. Tâm ý là gốc là chủ
nhân để sai sử thân và miệng, cho nên gọi tâm là căn bản. Tâm có hai
loại là thiện và ác, tâm thiện là tâm không tham không sân và không
si; tâm ác là tâm có tham sân và si. Như vậy nếu tâm là nguồn gốc
thì tham sân và si cũng là nguồn gốc, do đó hành vi được gọi là
thiện hay ác luôn gắn liền với tâm tham sân si hay là không
tham không sân và không si. Nếu hành động nào gắn liền với
tham sân si được gọi là căn bản bất thiện, và ngược lại
được gọi là căn bản thiện. Tại sao gọi nó là căn bản, vì
ba độc là cái gốc, cho nên được gọi nó là ‘căn bản’. Như
vậy, lòng tham sân si hoặc lòng không tham không sân và không
si chính là động cơ thúc đẩy để cho thân và khẩu thực thi
những hành vi thiện hoặc bất thiện.
Nếu chúng
ta đứng từ góc độ này mà tìm hiểu ý nghĩa sám hối trong
đạo Phật, hẳn nhiên chúng ta thấy hành vi sám hối của ba
nghiệp có mối quan hệ mật thiết với việc đoạn trừ hay
chuyển hóa lòng tham sân và si. Nếu như việc sám hối chỉ
dừng lại ở mặt hình thức, có nghĩa là thân lạy Phật,
miệng đọc tụng lời sám hối, nhưng tâm tư lại suy nghĩ việc
bất chính, không thay đổi ba nghiệp bất thiện thì việc sám
hối đó không có ích lợi gì. Vì sự sám hối chỉ có lợi
ích khi nào chúng ta thật sự ăn năn hối hận và từ bỏ
những lỗi lầm của mình. Do vậy, để cho việc sám hối thật
sự có lợi ích, chúng ta cần phải phối hợp ba nghiệp một
cách chặt chẽ, khi năm vóc gieo xuống đất - lạy Phật với
lòng thành kính, miệng xướng danh hiệu Phật hoặc đọc lời
văn sám hối, cần chuyên tâm nhất ý lãnh thọ lời Phật dạy,
dùng hình ảnh đức Phật hoặc lời Phật dạy làm ngọn đuốc
soi sáng, phản chiếu ba nghiệp của mình đã làm, thấy rõ
hành vi sai trái, hết lòng và thành thật sửa đổi. Nếu làm
được vậy, cõi ác càng ngày càng xa, cõi lành càng ngày
càng gần. Như vậy, sự sám hối này có quan hệ mật thiết
với ba nghiệp, hay nói một cách khác, sám hối cũng có
nghĩa là sự chuyển đổi ba nghiệp bất thiện thành ba nghiệp
thiện.
2.
Ýnghĩa sám hối trong kinh điển Phật giáo nguyên thủy
Phần lớn
các nhà học giả cho rằng, Phật giáo Nguyên thủy là thời kỳ
tính từ sau khi đức Phật thành đạo cho đến khi Phật giáo chưa
chia rẽ, tăng già vẫn còn hòa hợp thanh tịnh. Thật ra ở thời
này, kinh điển Phật giáo chưa kết tập thành văn tự, Phật
pháp được truyền thừa dưới hình thức khẩu truyền. Thánh
điển Pàli là 5 bộ Nikàya và 4 bộ A Hàm là những thánh
điển của Phật giáo bộ phái, được kết tập dưới thời vua
Asoka vào khoảng thế kỷ thứ III TCN. Như vậy, làm thế nào
để chúng ta có thể hiểu tư tưởng của Phật giáo Nguyên
thủy? Có lẽ chỉ có cách duy nhất là ngang qua hai nguồn
thánh điển này, chúng ta tìm hiểu về cuộc sống và tư
tưởng của đức Phật ở Phật giáo Nguyên thủy. Do vậy, từ mà
tôi gọi là Phật giáo Nguyên thủy là muốn ám chỉ đến 2
nguồn tư liệu A Hàm và Nikàya.
Liên quan
đến vấn đề sám hối mà chúng ta đang đề cập, trong kinh
tạng Pàli và A Hàm có khá nhiều kinh đề cập, với nội dung
đức Phật giảng dạy, khi chúng ta vấp phải sự sai lầm, cần
phải ăn năn sám hối, vì sám hối là pháp làm trong sáng tâm
linh, là nền tảng thăng hoa cuộc sống đạo đức, cũng là cơ
sở cho người xuất gia và tại gia vươn tới cuộc sống giác
ngộ và giải thoát. Để tránh sự trùng lặp, ở đây tôi chỉ
trích dẫn một vài kinh mang tính tiêu biểu để trình bày ý
nghĩa về pháp sám hối trong Phật giáo nguyên thủy, lấy đó
làm nền tảng để chúng ta tìm hiểu sự phát triển của nó
trong Phật giáo về sau. Đề cập đến pháp sám hối, theo tôi,
bài kinh tiêu biểu nhất là: ‘Giáo giới Rahula trong rừng
Am-ba-la’ trong “Kinh Trung Bộ”[5].
Kinh này đức Phật khuyên dạy Rahula khi vấp phải sự sai lầm
nên ăn năn sám hối như sau:
Nếu
trong khi phản tỉnh, này Rahula, ông biết như sau: ‘Thân (và
khẩu) nghiệp này ta đã làm, Thân (và khẩu) nghiệp này của
ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai;
thời Thân (và khẩu) nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau
khổ, đem đến quả báo đau khổ’. Một thân (và khẩu) như vậy,
này Rahula, ông cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải
trình bày trước các vị đạo sư, hay trước các vị đồng
phạm hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày,
cần phải phòng hộ trong tương lai.[6]
Khác với
trường hợp của thân nghiệp và khẩu nghiệp, trong trường hợp
ý nghiệp được đức Phật giảng dạy như sau:
Sau khi
ông làm xong một ý nghiệp, này Rahula, ông cần phải phản
tỉnh ý nghiệp ấy như sau: ‘Ý nghiệp này ta đã làm, ý
nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa
đến hại cả hai; thời ý nghiệp này là bất thiện, đưa đến
đau khổ, đem đến quả báo đau khổ’. Nếu trong khi phản tỉnh,
này Rahula, ông biết như sau: ‘Ý nghiệp này ta đã làm. Ý
nghiệp này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại
cả hai; ý nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem
đến quả báo đau khổ’. Một ý nghiệp như vậy, này Rahula, ông
cần phải lo âu, cần phải tàm quí, cần phải nhàm chán. Sau
khi lo âu, tàm quý, nhàm chán, cần phải phòng hộ trong
tương lai.[7]
Hai đoạn
kinh vừa nêu trên, là lời dạy của đức Phật đối với tôn giả
Rahula, là người con duy nhất của ngài khi chưa xuất gia. Qua
đó, cho chúng ta thấy, lời dạy của ngài rất thực tế,
không mơ hồ, nó luôn luôn gắn với đời sống hằng ngày của
con người và có giá trị rất thiết thực gắn liền với đời
sống hiện tại. Ngài khuyên răn nhắc nhở Rahula trước khi làm
một việc gì, đang làm một việc gì hay sau khi làm việc
gì, chúng ta xem xét quan sát việc đó có mang lại phiền
não khổ đau cho mình và người không, nếu như có thì đó là
việc ác, nếu ta đang làm thì cần phải dừng lại ngay, nếu
như đó là việc chúng ta sẽ làm thì nên từ bỏ ý định đó.
Còn nếu như chúng ta đã lỡ làm một thân nghiệp hay khẩu
nghiệp gì bất thiện, cần phải đem sự kiện đó thưa lên bậc
đạo sư hay vị đồng phạm hạnh có trí, để cho vị ấy nắm rõ
sự kiện và có lời khuyên dạy thích đáng, nhằm chấm dứt
việc làm bất thiện của thân và miệng trong tương lai. Nhưng
riêng về ý nghiệp thì không giống như thân nghiệp và khẩu
nghiệp, đức Phật dạy khi chúng ta phạm phải sai lầm về ý
nghiệp thì tự mình ăn năn sám hối và phòng hộ trong tương
lai không tái phạm, nhưng đức Phật không khuyên người phạm sai
lầm phải đến trước vị đạo sư hay người đồng phạm hạnh có
trí trình bày sự sai lầm của mình, vì sự sai lầm đó chỉ
xuất hiện trong ý thức chưa thể hiện qua hành động, do vậy
tự mình ăn năn sám hối là đủ rồi.
Qua đoạn kinh vừa dẫn trên, theo
tôi nó có liên quan đến cách sám hối trong Phật giáo Đại
thừa mà mỗi người chúng ta đang tu tập, do vậy chúng ta cần
lưu ý 3 vấn đề̀: (a) Phản tỉnh, (b) Trình bày với bậc đạo
sư hay đồng phạm hạnh có trí, (c) Phòng hộ trong tương lai.
a. Phản tỉnh
Phản tỉnh là sự quan sát, xem
xét lại những hành vi đã qua trong qua khứ. Tại sao đức
Phật khuyên chúng ta phải phản tỉnh? Một trong những lý do
chính là, chúng ta quá hời hợt với cuộc sống chính mình,
việc gì chúng ta đã làm, dường như không muốn lưu tâm suy
xét, cho rằng cái gì đã qua thì cho nó qua, dù việc đó là
việc tốt hay xấu. Theo tôi cách suy nghĩ như vậy không những
không phù hợp với lời dạy đức Phật, còn là một trong những
nguyên nhân của mọi sự thất bại. Thế thì tại sao trong “Kinh Trung
bộ” Ngài lại khuyên dạy chúng ta ‘Quá khứ không truy tìm, tương
lai không ước vọng…,’[8]?
Thật ra, hai ý nghĩa này khác nhau. Với ý nghĩa của bài
kinh này đức Phật chỉ khuyên chúng ta không nên vì chuyện đã
qua mà khổ, vì chuyện tương lai mà sanh ưu sầu. Vì chuyện
đã qua chúng ta có nuối tiếc cũng không lợi ích gì, còn
chuyện tương lai thì lại chưa đến, chúng ta không nên đặt kỳ
vọng ước muốn quá nhiều, vì cuộc sống đang thay đổi từng sát na, do
vậy điều mà chúng ta đang kỳ vọng cũng theo đó thay đổi, như vậy
chúng ta sẽ thất vọng, trận sóng thần vừa qua ở tại các nước
Châu Á là một chứng minh cụ thể. Như vậy với ý nghĩa của
lời dạy này không đồng nghĩa ‘không kiểm điểm những hành vi
đã qua’.
Sự kiểm điểm quan sát này, giúp
cho chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm đáng quí, nhờ
phản tỉnh chúng ta mới biết được lý do tại sao vấp phải sự
sai lầm, từ đó có bài học để tránh sự lặp lại sự sai lầm
đó ở tương lai. Đây là ý nghĩa và lý do tại sao, đức Phật
khuyên chúng ta cần phải phản tỉnh.
b. Trình bày với
bậc đạo sư hay đồng phạm hạnh có trí
Là con người ai cũng vấp phải
những chuyện sai lầm dù ít hay nhiều, không ai tránh khỏi,
nhưng sự khác biệt giữa người trí và kẻ ngu là thái độ cư
xử đối với việc sai lầm đó. Người có trí khi vấp phải sai
lầm sau khi phản tỉnh suy xét biết được sai lầm, liền thừa nhận
và với tâm mong cầu được sửa đổi. Thế nhưng, kẻ ngu thì
ngược lại, luôn luôn lúc nào cũng bưng bít, bằng nhiều thủ
đoạn hình thức khác nhau cố tình che dấu lỗi lầm của mình,
không chấp nhận sửa đổi. Đó là sự khác biệt giữa người
trí và kẻ ngu.
Ở đây, đức Phật khuyên các đệ tử
của mình nên học tập thái độ của người trí, bằng cách
khi biết được mình vấp phải hành vi sai lầm nào đó, cần
đem việc đó trình bày với bậc đạo sư hay người đồng phạm
hạnh, nhưng phải là người có trí, đồng thời trình bày sự
sai lầm của mình lên họ, để mong họ cho mình những lời
khuyên thích đáng, lấy đó làm hành trang cho cuộc sống ở hiện
tại và tương lai. Về mặt tâm lý, người phạm phải lỗi lầm, nếu được
trình bày với vị thầy hay người thân nào đó, sau khi trình bày xong,
tâm lý của người đó sẽ được nhẹ nhàng thoải mái hơn, có lòng biết
hổ thẹn, nhưng không tự ti mặc cảm, là nhân tố để làm lại cuộc đời,
tiếp tục cuộc sống, người chung quanh cũng sẵn sàng tha thứ, dễ dàng
hòa nhập vào cuộc sống. Đó là lý do tại sao đức Phật khuyên
đệ tử của ngài, khi phạm phải sai lầm cần trình bày với
người đồng phạm hạnh có trí.
Ý nghĩa này chính là yếu tố mà
Phật giáo Đại thừa đã thiết lập hình thức lạy Phật sám
hối, có nghĩa là chúng ta đối diện trước chư Phật và các vị
Bồ tát thành tâm lễ lạy, mong ngài chứng minh sự thành tâm
của mình với một ý thức thật sự muốn sửa đổi lỗi lầm.
Tại sao phải làm như vậy? Theo tôi cho rằng, nếu là chư tăng sống
trong tăng đoàn thì có thể đối diện trước vị tỷ kheo khác để bộc
bạch lỗi lầm và xin sám hối, nhưng với người cư sĩ tại gia thì rất
khó, ai lại đem điểm xấu lỗi lầm của mình nói cho người khác biết,
thái độ ‘xấu che tốt khoe’ của con người, có lẽ đó chính là yếu tố
để cho các nhà Đại thừa thiết lập pháp sám hối. Chúng ta không đối
diện với thầy với bậc thiện tri thức còn đang sống để tỏ bày sám
hối, thì chúng ta cùng nhau đối diện trước Phật thành tâm sám hối,
có thể mỗi người chúng ta dễ dàng chấp nhận và đều làm được, do vậy
mà pháp sám hối ra đời. Đây là điểm mà chúng ta cần lưu ý.
c.
Phòng hộ tương lai
Phòng hộ là thái độ cẩn thận
biết bảo vệ, biết giữ gìn. Ở đây, câu ‘phòng hộ trong tương
lai’ có nghĩa là cẩn thận giữ gìn, không để cho ba nghiệp
ác tái phạm. Đứng về mặt ngữ nghĩa mà nói, thái độ
phòng hộ hay giữ gìn thường được xuất hiện, khi con người
vấp phải sự sai lầm nào đó, vì để tránh trường hợp tái
diễn cho nên con người cần có thái độ phòng hộ. Thế nhưng,
trên thực tế khi chúng ta vấp phải sai lầm rất ít người
rút kinh nghiệm từ sự sai lầm đó, làm bài học cho tương
lai. Do đó, sự sai lầm cứ tiếp tục xảy ra, nó là một trong
những nguyên nhân gây khổ đau cho con người. Đó là lý do tại
sao đức Phật khuyên chúng ta cần phải có thái độ phòng hộ
hay cẩn thận với ba nghiệp.
Liên quan đến vấn đề ‘sám hối’
trong phật giáo Nguyên thủy, chúng ta thấy “Kinh Tạp A
Hàm” kinh số 347 có đề cập đến vấn đề này, vì
để độc giả hiểu rõ pháp sám hối trong Phật giáo đóng một
vai trò khá quan trọng trong tiến trình tu tập, tôi xin giới
thiệu khái quát nội dung kinh này để người đọc có cơ sở
tìm hiểu pháp sám hối trong Phật pháp.
Nội dung Kinh 347 này ghi rằng,
trong thời đức Phật còn tại thế, các ngoại đạo thường có
lòng ganh tị với đức Phật, vì tăng đoàn của đức Phật được
nhà vua, các đại thần, trưởng giả, Bà-la-môn, cư sĩ cung
kính tôn trọng và cúng dường, do đó các ngoại đạo đã sai
Tu Thâm là người rất thông minh lén vào trong đạo Phật xuất
gia, với mục đích phá hoại đạo Phật, nhằm gây mất niềm tin
với quần chúng. Sau khi Tu Thâm xuất gia, sống trong chúng tăng,
đưa ra những hoài nghi và giải thích không phù hợp Phật pháp,
làm xáo trộn Tăng chúng. Đức Phật đã gọi Tu Thâm giảng
dạy Phật pháp và chỉ ra những ác ý của ông. Sau khi Tu Thâm
nghe Phật giảng dạy xong, cảm thấy ăn năn hối hận vô cùng
và thành thật xin sám hối cùng Phật và tăng chúng. Đức
Phật chấp nhận sự ăn năn sám hối của Tu Thâm và bảo Tu Thâm
nên nói lên những lời ăn năn sám hối, Tu Thâm đã nói:
Ngày xưa con ngu si làm bất thiện, vô trí ở trong
chánh pháp luật lén xuất gia, ngày nay ăn năn lỗi lầm, tự
thấy tội, tự biết tội. Trong đời sau sẽ thành tựu luật
nghi, công đức tăng trưởng, trọn không thối giảm. Vì sao? Hễ
có người có tội tự thấy, tự biết và ăn năn lỗi lầm của
mình thì ở đời sau luật nghi sẽ thành tựu, công đức tăng
trưởng, trọn không thối giảm[9].
Theo kinh
này ghi lại, sau khi sám hối xong, Tu Thâm nhờ vậy được chân
chính xuất gia được sống trong tăng chúng với Thế Tôn, nhờ vậy
được lợi lạc từ Phật pháp, sau đó thấy được chánh pháp (kiến
pháp), đắc pháp và giác ngộ, các lậu hoặc cũng theo đó
được đoạn trừ.
Ở đây,
chúng ta thử đặt vấn đề, tại sao đức Phật khuyên bảo người
phạm tội phải tự mình nói lên những lời ăn năn sám hối
này? Không phải trong đạo Phật nói rằng, tâm tạo tội lỗi,
đem tâm đó sám hối là đủ sao? Trên nguyên tắc là như vậy,
nhưng chúng ta cần phải xét đến góc độ xã hội, tức là
mối quan hệ giữa người với người. Hành động sai lầm của
chúng ta khi đã được biểu hiện qua thân và miệng, hành vi
đó chắc chắn sẽ được nhiều người biết đến, do vậy chúng
ta cũng cần bằng lời nói của chính mình công khai sám hối,
điều này đồng nghĩa với hình thức xin lỗi của thế gian.
Cách làm này có hai ý nghĩa, thứ nhất tự tâm mình cảm
thấy an ổn không còn chướng ngại, khi mình đã thật lòng
sám hối; thứ hai qua những lời công khai sám hối này, người
khác cũng sẽ cảm thông cho mình, và sẵn sàng tạo điều
kiện cho mình thăng tiến trong cuộc sống. Đó là hai lý do
mà đức Phật khuyên một người phạm sai lầm cần phải phát lồ
sám hối. Cũng vậy, Tu Thâm là người ngoại đạo đã lén lút
trà trộn trong tăng chúng xuất gia với ác ý, đã tạo sự
xôn xao bàn luận trong chúng. Mặt dù, sau khi ông nghe Thế Tôn
giảng dạy chỉ ra sự sai lầm của mình, chính ông đã thức
tỉnh, đã bày tỏ sự ăn năn sám hối của mình với đức Thế
Tôn, nhưng còn chúng tăng và sự đồn đãi trong xã hội như
thế nào, nhất là những người mới vào đạo hay chưa biết gì
về đạo, họ sẽ có cái nhìn không tốt, thiếu thiện cảm
với Tu Thâm, sẽ tạo thành những chướng duyên cho cả đôi bên.
Trong trường hợp này, phương pháp hay nhất cho Tu Thâm tự mình
ăn năn sám hối, đồng thời công khai sám hối cùng đại chúng.
Đó là lý do tại sao phương pháp tu tập trong Phật giáo có
pháp sám hối.
Tóm lại,
phương pháp sám hối trong đạo Phật nguyên thủy, đức Phật
đặc biệt chú trọng phương pháp̣ ‘phản tỉnh ba nghiệp’, sau
khi phản tỉnh hay quan sát, thấy ba nghiệp đã qua của mình
không phù hợp với chánh pháp, mang lại sự khổ đau cho mình
và người, lập tức phải ăn năn sám hối ba nghiệp đó, bằng
cách nếu đó là ý nghiệp thì tự tâm mình ăn năn sám hối
là đủ rồi, nhưng nếu nó là thân nghiệp hay khẩu nghiệp, có
nghĩa là những hành vi sai lầm đã được người khác biết
đến, người đó cần phải, trước nhất là trình thưa với bậc
Đạo sư hay những người phạm hạnh có trí tuệ, đồng thời
nếu sự việc sai lầm đó có liên quan đến người khác thì
cần phải công khai tự mình nói lên những điều sám hối, để
được an lạc cho cả đôi bên, và một điểm quan trọng nữa là
sau khi sám hối cần phải thận trọng giữ gìn không tái phạm
sự sai lầm đó nữa. Đây là ý nghĩa sám hối trong Phật
giáo nguyên thủy.
3. Ý nghĩa sám hối trong kinh điển Phật giáo
Đại thừa
Về mặt hình
thức, pháp 'sám hối' trong Phật giáo Đại thừa khác với Phật giáo
Nguyên thủy. Nếu như Phật giáo Nguyên thủy lấy việc thiền quán để
kiểm soát ba nghiệp làm phương pháp tu tập, thì Phật giáo Đại thừa
lấy việc lạy Phật và miệng tụng đọc danh hiệu Phật hay sám văn làm
phương pháp tu tập. Nói một cách khác Phật giáo Nguyên thủy chú
trọng 'ý nghiệp', còn Phật giáo Đại thừa chú trọng đến thân nghiệp
và khẩu nghiệp, nhưng xét cho cùng cả hai hệ thống kinh điển đều dựa
vào ba nghiệp để tu tập sám hối. Nếu chúng ta muốn tìm hiểu tại sao
hai hệ thống kinh điển trong Phật giáo có sự dị biệt này, cần chú ý
đến đối tượng mà Phật giáo Đại thừa giáo hóa, đó là tất cả mọi đối
tượng trong xã hội, từ giới tri thức đến người bình dân, từ người
xuất gia đến tại gia, không như Phật giáo Nguyên thủy đối tượng mà
đức Phật giáo hóa chính là giới xuất gia. Sự khác biệt về đối tượng
này chính là nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau về phương pháp giáo
dục, đây là một trong những điểm mà chúng ta cần chú ý.
Đối tượng
giáo dục là người tại gia, dành cho tất cả mọi thành phần trong xã
hội, như vậy chúng ta cũng khẳng định rằng đây là một đối tượng khá
phức tạp, đại đa số người trong đó là những người đến với đạo Phật
cầu tài cầu phước, hay nói đúng hơn là cầu phước báo hữu lậu, không
phải mong cầu sự giác ngộ và giải thoát, nhất là Phật giáo tồn tại
và hoằng dương Phật pháp trong nền văn hóa của Bà-la-môn với những
hình thức lễ nghi tôn giáo phức tạp. Trong bối cảnh như vậy, Phật
giáo Đại thừa không thể không sử dụng đến cửa phương tiện, gieo
trồng hạt giống bồ đề cho xã hội, làm nền tảng cho đạo đức, thúc đẩy
xã hội phát triển trong trật tự, cho nên khuyên dạy mọi người nên
lấy việc tụng đọc kinh Phật và thường ngày lễ lạy chư Phật để ăn năn
sám hối những lỗi lầm của mình. Có lẽ đó là lý do tại sao Phật giáo
Đại thừa chú trọng miệng tụng đọc sám văn và thân lễ lạy Phật;
miệng đọc sám văn để tự biết chỗ sai của mình, lạy Phật để ăn năn
sám hội.
Tuy nhiên,
chúng ta không nên căn cứ vào hình thức này mà cho rằng Phật giáo
quá chú trọng đến vấn đề lễ nghi là không đúng, vì Phật giáo Đại
thừa vẫn lấy tâm làm cơ sở cho việc sám hối, như chúng ta thấy câu
kệ sau đây:
Tội từ tâm khởi, đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu;
Tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không,
Thế mới thật là chân sám hối.
Nội dung bài
kệ này giải thích phương pháp sám hối trong Phật giáo Đại thừa.
Trước hết là câu: “Tội từ tâm khởi, đem tâm sám”. Để tìm
hiểu ý nghĩa câu này, trước hết chúng ta cần tìm hiểu khái niệm
‘tội’. Tội là gì? Thông thường người Phật tử chúng ta hiểu “tội” là
những hình thức trừng phạt trong địa ngục như đã được mô tả trong
các kinh điển Phật giáo, là kết quả của việc làm bất thiện. Thật ra
khái niệm 6 đạo hay 5 đạo luân hồi vốn là khái niệm được sử dụng
trong tôn giáo truyền thống của Ấn Độ, không phải khái niệm chuyên
môn đặc trưng của Phật giáo.Vì thấy nó có giá trị và ích lợi trong
việc giáo dục, có thể dùng làm phương tiện răn đe khuyên dạy con
người nên đức Phật đã vay mượn nó để mô tả sự nguy hiểm của hành vi
bất thiện của ba nghiệp, nhằm chấm dứt nỗi khổ con người, cũng như
là nỗi khổ trong địa ngục. Lấy hình ảnh trừng phạt trong địa ngục
làm hình thức răn đe con người, với mục đích ngăn chận hành vi bất
chính của con người, tức là ngăn chận ba nghiệp ác, nhưng trong ba
nghiệp này ý nghiệp vẫn là nghiệp cơ bản, chỉ đạo cho thân nghiệp và
khẩu nghiệp. Từ ý nghĩa này gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, khái niệm
‘tội’ được đề cập trong câu kệ này mang ý nghĩa ngăn chận suy nghĩ
bất chính của con người, vì nó là nguồn gốc phát sinh mọi khổ đau.
Như vậy, Phật giáo đề cập đến khái niệm ‘tội’ là đề cập đến nghiệp,
đề cập đến nghiệp là đề cập đến ý nghiệp; đề cập đến nghiệp là đề
cập đến nhân của khổ, đề cập đến tội là đề cập đến quả của khổ. Thế
nhưng, tại sao câu kệ này không đề cập đến nghiệp mà lại nói đến
khái niệm ‘tội’? Đây là điểm mà chúng ta cần lưu ý. Để lý giải vấn
đề này, chúng ta cần tìm hiểu câu: ‘Bồ tát sợ nhân chúng sanh sợ
quả’ trong Phật giáo. Thông thường con người chúng ta thường chú ý
kết quả của một hành động hơn là chú ý đến nguyên nhân hay tiến
trình hình thành của một sự kiện. Ví dụ, con người thường sợ hãi tù
tội hơn là sợ hãi nguyên nhân dẫn đến tù tội. Cũng vậy, con người
thường nghĩ đến cái vui nhỏ bé của việc cờ bạc rượu chè hơn là nghĩ
đến cái khổ do nhân của việc này gây ra, cho nên con người đã lao
vào việc cờ bạc rượu chè. Đó chính là lý do tại sao đức Phật thường
nêu đến vấn đề tội và phước, khái niệm tội khiến cho chúng sanh sợ
hãi, từ đó không làm điều bất thiện. Ngược lại, khái niệm phước
khiến cho chúng sanh cảm thấy vui vẻ thích thú, nó làm động cơ thúc
đẩy cho chúng sanh làm việc lành, nếu không có hai khái niệm này,
chúng sanh sẽ không thích làm việc thiện cũng như từ bỏ các việc ác.
Như vậy câu:
“Tội từ tâm khởi, đem tâm sám”, có ý nghĩa rằng, tất cả
các nghiệp ác ở trong hiện tại hay ở vị lai mà chúng ta phải gánh
lấy đều do tâm của chính chúng ta tạo ra. Cái tâm này chính là nguồn
gốc của tất cả nghiệp, nghiệp thiện cũng như nghiệp ác, làm Phật
hay làm chúng sanh cũng do tâm này tạo thành. Không ai đủ khả năng
cho ta phước đức cũng không ai có quyền đày đọa cho chúng ta khổ
đau, tự mình quyết định cuộc sống cho chính mình. Tâm tham lam sân
hận và ngu si là yếu tố trở thành chúng sanh, tự tạo ra cảnh địa
ngục. Ngược lại tâm sáng suốt không còn ba độc là nhân tố tác thành
một bậc thánh, một vị Phật. Nếu như tâm là nguồn cội của tất cả các
nghiệp thiện ác thì những tội lỗi mà chúng ta đang có cũng từ tâm
tạo thành, vậy muốn chấm dứt những lỗi lầm này, cũng phải bắt nguồn
từ tâm, có nghĩa là chúng ta cũng phải sửa đổi ăn năn sám hối từ
trong tâm của chúng ta, không phải là sự sửa đổi bên ngoài, đó là ý
nghĩa câu “Tội từ tâm khởi, đem tâm sám”. Chữ sám hối ở đây
có nghĩa là ăn năn hối cải những lỗi lầm của mình, không chỉ giới
hạn ở việc tụng đọc lời văn sám hối và lễ lạy chư Phật. Việc tụng
đọc kinh văn chỉ mang ý nghĩa để cho chúng ta hiểu được lời Phật
dạy, thấu rõ những lỗi lầm của mình, nó giống như tấm kính soi rọi
tâm mình mà thôi. Việc lạy Phật chỉ là hình thức chúng ta đối diện
chư Phật, chư Bồ tát và đại chúng, biểu lộ thái độ thành khẩn ăn năn
sám hối những lỗi lầm của mình, không mang ý nghĩa chúng ta lạy một
lạy là Phật sẽ trừ cho ta một tội, cũng không có nghĩa việc lễ lạy
làm động lòng chư Phật, Bồ tát, để các Ngài trừ bỏ lỗi lầm cho chúng
ta, vì lỗi lầm của chúng ta giảm bớt hay tăng trưởng đều tùy thuộc
vào sự sửa đổi của chúng ta, không phải tùy thuộc vào việc lạy lục
hay cầu xin. Phật là người chỉ cho chúng sanh con đường đến giác ngộ
và giải thoát, Phật không phải là vị quan tòa quyết định tội lỗi
của con người. Chúng sanh làm tội lỗi, dù có Phật hay không có Phật,
chúng sanh vẫn phải gánh chịu hậu quả của nó; chúng sanh làm thiện
dù có Phật hay không có Phật chúng sanh cũng sẽ hưởng thọ kết quả
tốt lành. Đây chính là ý nghĩa câu: “tâm được tịnh rồi, tội liền
tiêu”.
Ở đây, khái
niệm ‘tịnh’ mang ý nghĩa trong sạch, nó là một trạng từ bổ nghĩa cho
chữ ‘tâm’, có nghĩa là với ‘tâm trong sạch’. Thế nào gọi
là tâm trong sạch? Tâm trong sạch là tâm không bị lòng tham lam sân
hận và si mê nhiễm trước, không phải tâm tịnh là tâm không suy nghĩ.
Vì đạo Phật cho rằng, con người còn sống cần phải có suy nghĩ, có
suy tư mới biết được việc đúng và sai, thiện và bất thiện…nhưng suy
nghĩ có hai loại thiện và bất thiện. Thiện là tâm không tham không
sân và không si. Bất thiện là tâm tham sân và si, nó là chủ nhân tạo
các nghiệp ác; chất liệu của tâm là tham sân và si thì đó là chất
liệu ô uế không trong sạch. Như vậy tâm trong sạch là tâm không tham
lam, không sân hận và ngu si. Tâm không còn tham sân và si là tâm
không có các nghiệp ác. Nghiệp ác không có thì không sinh ra khổ,
điều đó có nghĩa là khi tâm thiện sinh thì tâm ác biết mất, cho nên
gọi là ‘tội liền tiêu’. Có nghĩa là sau khi sám hối, chúng
ta nhận thấy rõ sự sai lầm của mình và một lòng sửa đổi sự sai lầm
đó, từ đó trở về sau nghiệp xấu không tái sanh, đây chính là ý nghĩa
của pháp sám hối trong đạo Phật.
Và hai câu
cuối cùng là: "Tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không. Thế mới thật
là chân sám hối". Ý nghĩa hai câu này nói lên quan điểm tư
tưởng của Phật giáo Đại thừa. Nếu như chúng ta đứng từ góc độ tư
tưởng sử mà nhìn Phật giáo thì sau khi đức Phật nhập diệt vào khoảng
hơn 100 năm, trong nội bộ tăng đoàn tranh cãi nhau về ‘Năm việc của
Đại Thiên’ (Mahàdeva)[10]
hoặc theo nguồn sử liệu của Phật giáo Nam truyền ghi chép, sau khi
Phật diệt độ khoảng 218 năm, nội bộ Phật giáo tranh cãi về ‘Thập sự
phi pháp’ [11].
Kết quả cuộc tranh cãi này dẫn đến sự rạn nứt, phân chia Phật giáo
thành hai phái là Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. Phái Đại Chúng Bộ
là tiền thân của tư tưởng Phật giáo đại thừa. Quá trình hình thành
tư tưởng của Phật giáo Đại thừa khá phức tạp, vì tính chất và nội
dung của bài viết này có giới hạn, do vậy, ở đây tôi không đi sâu
vào điểm này, nhưng đại khái sự hình thành tư tưởng Phật giáo Đại
thừa gắn liền với tư tưởng Phật giáo Bộ phái, nhất là tư tưởng của
phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Srvastivadin), gọi tắt là Hữu bộ, là
học phái có tư tưởng đối lập với Phật giáo đại thừa, vì phái này chủ
trương, có quan điểm cho rằng: Các pháp trong ba đời đều thật có và
vĩnh viễn tồn tại. Ngược lại Phật giáo Đại thừa không chấp nhận tư
tưởng này nên trong hệ thống Kinh Bát Nhã đã đưa ra tư tưởng ‘Tất cả
pháp đều là không’ hoặc Long thọ cho rằng: 'Duyên khởi tánh không'.
Nói chung Phật giáo đến thời kỳ Bát Nhã hay Long Thọ lấy tư tưởng
‘không’ (sènyat) phản bác tư tưởng ‘hữu’ (bhva) của phái Hữu bộ.
Qua đó, khái
niệm ‘không’ trong Phật giáo Đại thừa có một bối cảnh cụ thể như
vậy, có sự liên hệ với Hữu bộ như vậy, nếu chúng ta muốn tìm hiểu tư
tưởng 'không' này, việc cần làm trước tiên là chúng ta so sánh đối
chiếu giữa hai nguồn tư liệu của Hữu bộ và Đại thừa. Nếu không làm
như vậy mà ngược lại dùng phương pháp phân tích triết học của Tây
phương hay lấy tư tưởng Lão Trang nghiên cứu phân tích tư tưởng
không của Phật giáo đại thừa, theo tôi, rất dễ bị ngộ nhận.
Như vậy,
khái niệm ‘không’ được đề cập trong câu kệ này chính là
khái niệm không của Phật giáo Đại thừa. Ở đây, nói đến ‘tội
tiêu tâm tịnh thảy đều không’ là nói đến tinh thần vô chấp hay
vô phân biệt của tư tưởng Phật giáo Đại thừa. Thế nào gọi là tinh
thần vô chấp vô phân biệt? Chúng ta muốn hiểu tinh thần này cần phải
hiểu khái niệm trí tuệ trong hệ thống kinh điển Phật giáo Đại thừa
cụ thể là Kinh Bát Nhã. Trong hệ thống kinh điển này thường mô tả
trí tuệ siêu việt của Phật bằng tiếng Phạn là Pra-jñaparamit, tiếng Tàu dịch là Bát nhã Ba la mật,
tiếng Việt gọi là trí tuệ. Thật ra, từ pra-jñaparamit được dịch là 'trí tuệ' thì vẫn chưa mô tả
hết ý nghĩa của nó, vì từ này được ghép lại bởi pra là
'trước' 'trước khi' và jña là thức, hiểu biết, phân
biệt...và paramit là một hình
dung từ bổ ngĩa cho j�a, như vậy, từ pra-jña mang ý
nghĩa là 'trước khi nhận thức, trước khi phân biệt...', cái đó được
gọi là pra-jñaparamit, tức là loại nhận
thức, hiểu biết trước khi đối tượng nhận thức xuất hiện, nó khác
với ý nghĩa của từ pañña (trí tuệ) trong kinh tạng Pàli hay phái
Thượng Tọa Bộ thường được sử dụng, vì ý nghĩa của từ pañña
là một loại nhận thức bao giờ cũng cần có đối tượng nhận thức, sau
khi phân biệt giữa các đối tượng, nó sẽ cho hành giả nhận biết cái
nào là đúng cái nào là sai, pháp nào là pháp thiện, pháp nào là pháp
bất thiện, chính cái biết này gọi là trí tuệ.Vì vậy trong Bát chánh
đạo đề cập đến vai trò của ‘chánh kiến’, trong bảy giác chi đề cập
đến ‘trạch pháp giác chi’, là yếu tố của trí tuệ. Có lẽ chính vì vậy
mà các nhà dịch thuật Trung Hoa dịch hai từ này bằng cách dịch âm
không dịch nghĩa. Nếu chúng ta xét từ góc độ tư tưởng thì hai từ này
mang nội dung và ý nghĩa không giống nhau, mặc dù hai từ đều được
dịch là ‘trí tuệ’. Đây là điểm cần chú ý khi nghiên cứu hai hệ thống
kinh điển Đại thừa và Tiểu thừa.
Từ nội dung
và ý nghĩa từ pra-jñaparamit này,
gợi ý cho chúng ta hiểu thế nào gọi là ‘tội tiêu tâm tịnh thảy
đều không’. Có nghĩa là mô tả sau khi hành giả thực hành pháp
sám hối thành đạt được pra-jñaparamit
- ở đây chúng ta tạm thời gọi nó là trí tuệ siêu việt - cho nên vị ấy
không còn đối tượng nhận thức của cái gọi là ‘tội tiêu’ và ‘tâm
tịnh’, vì bản chất của sự vật đang trôi chảy không có một tướng
trạng nào cố định, giữa ‘tội’ và ‘tịnh’ là hai khái niệm do con
người chúng ta qui định, thật ra tâm của con người cũng không ‘tội’
và ‘tịnh’ nào là khái niệm cố định, cho nên gọi tội tiêu tâm tịnh
thảy đều không. Chữ không ở đây là ngụ ý nói đến không có tướng
trạng nhất định, không phải là ‘trống rỗng không có gì’. Do vậy,
trong chữ ‘trí tuệ’ này được các nhà Đại thừa giải thích một cách
khác nữa là trạng thái vô phân biệt, tức là cái thấy của bậc chứng
ngộ, cũng là sự nhận thức của pra-jñaparamit của Đại thừa, không phải là pañña của Thượng
Tọa Bộ.
Đồng thời
chúng ta không nên hiểu khái niệm ‘không’ trong câu: ‘tội tiêu,
tâm tịnh thảy đều không’ như là một khái niệm ‘trống không, hư
không’ mà nên hiểu khái niệm này gắn liền với khái niệm
pra-jñaparamit, như là sự vô
phân biệt, vô chấp trước của bậc giác ngộ, trạng thái đó được gọi là
‘không, ‘vô tướng’.
Khi hành giả
thực hành pháp sám hối thành đạt được trạng thái pra-jñaparamit này, được gọi là sự sám hối tối thượng,
cho nên ở đây gọi là ‘thế mới thật là chân sám hối’. Thật
ra pháp sám hối của Phật giáo Đại thừa, trên căn bản là sự kết hợp
giữa phương pháp sám hối của Phật giáo Nguyên thủy và tư tưởng
‘không’ của Phật giáo Đại thừa. Đây là ý nghĩa pháp sám hối của Phật
giáo Đại thừa.
4. Sự lợi ích của người biết thực hành pháp
sám hối
Qua sự trình
bày về pháp sám hối giữa hai hệ thống kinh điển của Phật giáo Đại
thừa và Tiểu thừa hay nói đúng hơn giữa Phật giáo Thượng Tọa bộ và
Đại Chúng Bộ, chúng ta nhận thức rõ rằng, cho dù chúng ta tu tập
pháp sám hối theo truyền thống Phật giáo Đại thừa hay Tiểu thừa đều
có ý nghĩa, giúp cho cuộc sống càng ngày càng thăng hoa tiến bộ hơn,
nó là yếu tố cơ bản xây dựng đời sống an lạc và hạnh phúc, miễn là
chúng ta thực hành đúng theo phương pháp sám hối đã được đức Phật
chỉ dạy.
Nếu như
chúng ta hiểu phương pháp sám hối của Phật giáo có ý nghĩa giúp cho
con người tự kiểm soát lại hành vi của chính mình, và khi phát hiện
ba nghiệp thân khẩu và ý đã lỡ làm những hành vi bất thiện, thì sám
hối của đạo Phật là phương pháp giúp cho con người làm trong sạch
tâm hồn, và có trách nhiệm ngăn ngừa các lậu hoặc phát sinh trong
tương lai, bằng cách phản tỉnh và có thái độ ăn năn hối hận những
lỗi lầm của chính mình.
Nếu chúng ta
thừa nhận, con người ai cũng phạm phải sai lầm, thì phương pháp sám
hối của đạo Phật có chức năng, giúp cho con người có đủ năng lực
làm trong sạch cuộc sống bằng cách nhìn nhận và sửa sai lỗi lầm.
Thái độ nhìn nhận và biết sửa sai là hành vi biết phục thiện, biết
hổ thẹn hành vi sai lầm, biểu hiện ý chí cầu tiến, là chiếc áo giáp
bảo vệ và ngăn chận không cho ba nghiệp phát sinh hành vi bất thiện.
Nếu như con người sống bằng ba nghiệp thiện thì đó là nền tảng để
xây dựng đời sống hạnh phúc của thế gian và cũng là nhân tố chính để
trở thành bậc thánh xuất thế gian. Nếu chúng ta bình tâm suy nghĩ,
căn cứ từ những kinh nghiệm qua đời sống hằng ngày sẽ thấy rõ điều
đó. Gia đình mất hạnh phúc là gia đình có đời sống bất chính, thiếu
sự hiểu biết, cố chấp, không biết phục thiện, không nhìn thấy lỗi
lầm của mình, chỉ nhìn lỗi của người, đó là nguyên nhân dẫn đến mất
hạnh phúc. Ví dụ, người chồng với lý do vì công việc làm ăn thường
hay tiếp xúc với sự việc không lành mạnh trong xã hội, dần dần thành
thói quen, và xem đó như là việc bình thường, tạo thành sự xào xáo
mất hạnh phúc trong gia đình. Vì bảo vệ hạnh phúc của gia đình người
vợ hay cha mẹ, bà con hay bạn bè... khuyên răn người đó, không nên
gần gũi với những việc bất thiện ấy nữa, nếu người ấy biết phục
thiện, biết ăn năn sám hối những lỗi lầm của mình thì đó là yếu tố
để cho mọi người tha thứ, hàn gắn lại vết thương bị đổ vỡ ở trong
lòng của mọi người, cũng từ đó mái ấm của gia đình sẽ tái thiết
định. Ngược lại, khi được người khác khuyên răn chỉ điểm, nhưng
không biết phục thiện, ăn năn và sám hối thì đức Phật gọi người đó,
không có việc ác nào mà người đó không dám làm, vì đức tính biết xấu
hổ và biết phục thiện của người đó không còn.
Ở đây, thái
độ ăn năn sám hối chính là ý nghĩa sám hối trong đạo Phật. Ý nghĩa
sám hối trong đạo Phật không mang ý nghĩa là nghi thức rửa tội như
các tôn giáo khác đã làm, mà nó mang ý nghĩa nhận sai và sửa sai.
Hình thức tụng đọc sám văn chỉ có ý nghĩa giúp cho con người biết
được thế nào là việc thiện và thế nào là việc bất thiện, nên làm gì
và không nên làm gì, làm tiêu chuẩn cho cuộc sống, để cho con người
phân biệt biết được đâu là việc sai và đâu là việc đúng. Đồng thời,
hình thức lễ lạy chỉ biểu hiện thái độ thành thật ăn năn sám hối của
mình, không phải là sự van xin năn nỉ để được Phật, Bồ tát tha thứ
những lỗi lầm của mình, vì học thuyết nhân quả nghiệp báo của nhà
Phật đã nói rõ tính công bằng giữa nhân và quả.
Như vậy,
pháp sám hối của nhà Phật chỉ có giá trị giúp sức cho con người có
đủ sức mạnh để vượt qua những mặc cảm về tâm lý, hướng dẫn con người
thấy rõ vịệc tội lỗi của chính mình, và ngăn chận những lỗi lầm
trong tương lai. Nếu như chúng ta thực hành đúng lời Phật dạy, như
trong hai hệ thống kinh điển, chắc chắn nó sẽ là điều kiện cơ bản để
mang lại đời sống hạnh phúc cho gia đình, và cũng là nhân tố để
hoàn thành đời sống giác ngộ và giải thoát.
5. Kết luận
Nếu nước bốn
bể của đại dương chỉ có một vị mặn thì giáo pháp của Phật có hương
vị giải thoát. Trải qua lịch sử phát triển của đạo Phật, Phật giáo
tuy có nhiều tông phái, Đại thừa và Tiểu thừa, nhưng tất cả đều có
một vị chung là vị giác ngộ và giải thoát, vị đó là đặc tính chung
nhất của đạo Phật.
Cũng vậy, dù
rằng trên mặt hình thức hai phương pháp sám hối của hai hệ thống
kinh điển có khác nhau, nhưng giống nhau về mặt nội dung tư tưởng.
Cả hai hệ phái đều lấy ý nghiệp làm nền tảng cho việc sám hối, có
nghĩa là xem ý như là nguồn gốc của các nghiệp thiện hay ác. Nghiệp
thiện là nghiệp mang lại sự hạnh phúc, nghiệp ác là nghiệp mang lại
sự khổ đau. Dù cho nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện đều sanh từ ý,
như vậy việc ăn năn sám hối cũng bắt đầu từ ý nghiệp, tức là thấy rõ
nghiệp ác và quyết tâm sửa sai. Hữu ích của việc lễ lạy và tụng đọc
sám văn là: thứ nhất qua đó người đọc tụng sẽ biết được việc nào là
việc thiện và việc nào là việc ác; thứ hai, là hình thức biểu hiện
sự thành tâm ăn năn sám hối của mình, đó là cách tu tập mang tính
khế lý và khế cơ.
Căn cứ vào
những điều đã được trình bày trên cho thấy phương pháp sám hối của
đạo Phật không những mang lại cho con người có đời sống an ổn, tự
tin mà còn là nhân tố mang lại đời sống hạnh phúc cho gia đình, cũng
là sự đóng góp không nhỏ cho việc xóa bỏ những tệ đoan của xã hội,
nêu cao tinh thần có bổn phận và trách nhiệm.
Hơn thế nữa,
phương pháp sám hối của đức Phật là nền tảng cơ bản cho những ai
muốn thành đạt giác ngộ và giải thoát. Ai muốn được giải thoát,
người ấy phải có giác ngộ. Ai muốn có sự giác ngộ, người ấy phải
biết được việc thiện và bất thiện. Như vậy ai muốn giải thoát người
ấy phải sửa sai, tức tu tập. Muốn tu tập, trước tiên phải thấy sai
và nhận sai; nhận sai là phương pháp sám hối của Phật giáo.
[1]
Thich Hạnh Bình, “Tìm hiểu Đạo Phật Nguyên thủy” NXB Tôn
giáo, Hà nội, 2004.
[2]
‘Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải
thọ quả báo, hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ
vào đời sau. Nếu tạo nghiệp mà không cố ý, Ta nói rằng
người ấy chắc chắn không phải thọ quả báo’. (Viện CĐPH
Hải đức dịch, “Kinh Trung A Hàm” tập 1, VNCPHVN ấn hành,
1992, trang 137.)
[3]
Xin tham khảo, HT.Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1,
VNCPHVN ấn hành, 1992, trang 112~113.
[4]
HT.Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, VNCPHVN ấn hành,
1992, trang 112~113.
[5]
Tương đương Hán tạng ‘Kinh La Vân’ thuộc “Kinh Trung A hàm”.
[6]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 2, VNCPHVN ấn hành,
1992, trang 176~178.
[7]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 2, VNCPHVN ấn hành,
1992, trang 181.
[8]
Xin tham khảo HT. Minh Châu d ịch ‘Kinh Nhất dạ Hiền giả’
trong “Kinh Trung Bộ” Viện NCPHVN ấn hành..
[9]
HT. Thiện Siêu và Thanh Từ dịch “Kinh Tạp A Hàm” tập 2, VNCPP
Việt Nam ấn hành, 1994, trang 39.
[10]
Xin tham khảo "Dị bộ tông luân luận" Đại chánh
tân tu Đại tạng kinh, quyển 49.
[11]
Xin tham khảo "Kathàvatthu".