Nói
năng như Chánh Pháp
PHẦN 7
NÓI NĂNG NHƯ CHÁNH PHÁP
Một trong những vấn đề quan trọng mà đức
Phật thường khuyên chúng ta, cần nên thận trọng đối với vấn đề nói
năng. Nói như thế nào có lợi và nói như thế nào không lợi là một vấn
đề cho chúng ta nghiền ngẫm suy tư. Tục ngữ người Trung hoa có câu:
‘bịnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất’ có nghĩa là bịnh
do ăn uống mà sinh, tai họa do nói năng mà có.
Từ thực tế
cuộc sống cho thấy, lời nói không phải là lưỡi dao, nhưng nó có khả
năng giết mạng người bằng cách nói những lời độc ác khiến cho người
khác phải tự vận hoặc sống trong sự hận thù và đau khổ. Ngược lại,
lời nói cũng không phải là liều thuốc bổ dưỡng, nhưng nó có thể là
những chất liệu khiến cho người nghe cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc.
Có lẽ đó là lý do tại sao đức Phật khi giải thích nguồn gốc sinh của
khổ đau lại đề cập đến ba nghiệp: thân, khẩu và ý nghiệp. Thân và
khẩu nghiệp là hai cửa ngõ biểu hiện ý nghiệp. Trong đó khẩu nghiệp
là một cửa ngõ rất quan trọng, là nơi thực thi ý chí để buông ra
những lời nói xấu xa hay tốt đẹp. Tất nhiên, nói với lời nói xấu xa
là một trong những nguyên nhân mang lại cho mình hay người khổ đau
mất hạnh phúc; ngược lại, nói lời nói tốt đẹp hài hòa, nó không
những làm cho người khác cảm thấy thoải mái vui lòng mà còn làm cho
chính mình cũng cảm thấy vui theo. Có lẽ đó chính là lý do đức Phật
chế định người Phật tử ‘không được nói láo’, vì lời nói láo không
những hại người mà còn hại cho bản thân mình.
Thế nhưng,
có một số trường hợp ngoại lệ, không thể nói thẳng nói thật, vì sự
thành thật đôi khi có hại cho mình hoặc người khác. Ví dụ kẻ cướp
tìm người để cướp đoạt tài sản, mình biết người đó đang trốn chỗ này
hay chỗ kia, nhưng không thể thành thật chỉ điểm người đó cho kẻ
cướp, đây là một ví dụ điển hình, thật ra trong cuộc sống còn không
biết bao nhiêu chuyện trái ngang. Nếu thế thì theo đạo Phật, thế nào
gọi là nói láo? Dựa vào tiêu chuẩn nào để không rơi vào tội nói
láo? Hay nói một cách khác, thế nào gọi là lời nói có ích lợi và thế
nào là lời nói không có ích lợi?
Đây cũng
chính là lời cật vấn mà ngoại đạo Nigantha Nataputta, thuộc giáo
phái Kỳ-na-giáo đã xúi giục vương tử Abhaya nạn vấn Thế Tôn, nhằm hạ
nhục Thế Tôn bằng câu hỏi hai móc, được ghi lại trong ‘Kinh Vương
tử Abhaya’ (Abhayarajakumarasuttam)[1]
số 56, như sau:
Này
Vương tử, hãy đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy nói với Sa-môn
Gotama như sau: ‘Bạch Thế Tôn, Như Lai có thể nói lời nói, do lời
nói ấy, những người khác không ưa, không thích chăng?’ Nếu như
Sa-môn Gotama thừa nhận có nói những lời nói như vậy, thì vương tử
hãy đặt vấn đề với Sa-môn Gotama: ‘Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn xử sự
như vậy, thời có gì sai khác gì giữa kẻ phàm phu với Ngài? vì kẻ
phàm phu nói lời nói khiến người khác không ưa, không thích. Nếu như
Sa-môn Gotama trả lời Ngài không nói những lời nói như vậy, thì cật
vấn với Sa-môn Gotama: Thế thì tại sao Devadatta phẫn nộ, không
hoan hỷ với lời dạy của Thế Tôn?
Này Vương tử, Sa-môn Gotama, khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai
móc như vậy, sẽ không thể nhả ra, cũng không thể nuốt vào. Vì như
một móc sắt bị mắc vào cổ họng của một người nào, người ấy không có
thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào được. Cũng vậy, này Vương tử,
Sa-môn Gotama, khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai móc như vậy, sẽ
không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào.
Qua sự kiện
này, nó gợi ý cho chúng ta thấy, tuy rằng giáo pháp mà đức Phật nói
ra là chân lý của sự sống, tuy nhiên nó là những gì ngược lại với sự
suy nghĩ của người dân Ấn đương thời, nhất là những người mang tư
tưởng tôn thờ sùng kính Bà-la-môn hay các trường phái triết học
khác. Do vì quá sùng kính tôn giáo của mình cho nên những lời giảng
dạy của đức Phật trở thành đối tượng phê phán hay chỉ trích của
ngoại đạo, vì Ngài là người nói lên sự thật của cuộc sống. Sự thật
đó vô tình đã làm tổn thương đến sự tồn vong đến hệ thống giáo lý
của họ. Thật ra lời dạy của Ngài không nhằm mục đích công kích hay
đả phá bất cứ tôn giáo nào, cũng không nhằm mục đích thâu tóm tín đồ
hay trục lợi cá nhân, giáo lý của Ngài là giáo lý nói lên chân lý
của cuộc sống, phải chăng đó là ý nghĩa của câu nói:
Ta không
tranh luận với bất cứ ai trong thế gian, chỉ có người trong thế
gian tranh luận với ta.[2]
Thật vậy,
trong suốt cuộc đời hoằng hóa của Ngài, Ngài không có ác ý muốn làm
tổn thương sự sống của bất cứ ai, luôn luôn lấy lòng bao dung đối xử
với tất cả mọi người. Nhưng trong khi Ngài giảng dạy, trình bày về
chân lý không làm sao tránh khỏi sự không hài lòng của người không
cùng quan điểm. Nhưng ở đây có một điểm mà chúng ta cần lưu ý và
thông cảm là, tư tưởng và cuộc sống của đức Phật quá tuyệt vời, có
sự lôi cuốn và hấp dẫn đối với giới trí thức và vua chúa, là những
người có tiền của, những người này trở thành đệ tử của đức Phật, ủng
hộ Phật và tăng đoàn, đó là lý do tại sao người ngoại đạo ganh tị
với đạo Phật. Họ muốn tồn tại và giữ uy tín, không có con đường nào
khác bằng cách đả phá hay làm giảm uy tín đức Phật, bằng cách vạch
lá tìm sâu tranh luận với Ngài. Sự kiện Nigantha Nataputta xúi giục
vương tử Abhaya đến tranh luận với Thế Tôn là một điển hình cụ thể.
Thế nhưng, ước mơ đó có được thành tựu hay không, điều đó không tùy
thuộc vào sự mong muốn của mình mà hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng
và chân lý. Kết quả của cuộc tranh luận như thế nào, chúng ta lắng
nghe đức Phật trả lời:
-Này
Vương tử, Vương tử nghĩ thế nào? Nếu đứa con nít này, do sự vô ý của
Vương tử, hay do sự vô ý của người vú hầu, thọc một cây gậy hay
nuốt một hòn đá vào trong miệng, vậy Vương tử phải làm gì?
- Bạch
Thế Tôn, con phải móc cho ra. Bạch Thế Tôn, nếu con không thể móc ra
lập tức, thời với tay trái con nắm đầu nó lại, với tay mặt lấy ngón
tay làm như cái móc, con sẽ móc cho vật ấy ra, dầu có phải chảy
máu. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì con có lòng thương tưởng đứa trẻ”.
Đức Phật
không trả lời trực tiếp câu hỏi của vương tử Abhaya, mà đức Phật trả
lời bằng câu hỏi ngược lại. Có nghĩa là lấy câu trả lời của đối
phương làm câu trả lời cho mình, đây là cách mà đức Phật thường sử
dụng khi đối phương có ý tranh luận và bắt bẻ, có lẽ đó là cách trả
lời thuyết phục nhất và không mất thì giờ phải tranh luận dài dòng. Ở
đây, nếu như Abhaya muốn bắt bí đức Phật bằng câu hỏi hai móc, có
nghĩa là trả lời như thế nào cũng rơi vào bẫy của đối phương. Thế
nhưng ở đây chúng ta thấy đức Phật không rơi vào cái bẫy này, bằng
sự thiện xảo của mình, Ngài lại hỏi một vấn đề khác cũng tương tự để
cho đối phương trả lời. Điều đó đồng nghĩa đối phương trả lời như
thế nào, đó cũng chính là câu trả lời của đức Phật.
Ở đây, chính
vương tử Abhaya phải trả lời câu hỏi: Nếu như một đứa bé nuốt một
vật hay hòn đá vào miệng thì người vú nuôi hay người cha mẹ phải cư
xử như thế nào trước hành động đó? Nên đè em bé đó, dùng tay móc vật
nguy hiểm đó ra hay vì sợ em bé khóc phản đối, để em bé nuốt vật
nguy hiểm đó vào bụng? Với câu hỏi này, vương tử Abhaya chỉ có câu
trả lời duy nhất là, chấp nhận cho em bé khóc để móc vật nguy hiểm
ra. Câu trả lời này đồng nghĩa sự chấp nhận quan điểm với đức Phật,
đôi lúc Ngài nói pháp, có những lời nói khiến người nghe không bằng
lòng điều đó cũng không có gì là không hợp lý, vì đôi lúc người nghe
là người mê tín hay là người thành kiến hay là trình độ còn non
kém, thì người ấy chắc chắn không đồng tình với lời dạy của Ngài, do
vậy sự không đồng tình quan điểm của đức Phật cũng là chuyện
thường. Nhưng điều đó không đồng nghĩa là lời nói không có giá trị
hay với ác ý. Sự kiện đức Phật nói những lời nói khiến cho người
khác không vui là vì mục đích làm lợi ích cho người đó, còn chúng
sanh làm cho người khác không vui thì với tâm ngược lại. Với ý nghĩa
này, đức Phật đã phân tích một cách tường tận về những trường hợp
nói hay không nói của mình như sau:
Cũng
vậy, này Vương tử, (1)Lời nói nào Như Lai biết không như thật, không
như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những
người khác không ưa, không thích, thời Như Lai không nói lời nói
ấy.(2). Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương
ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa,
không thích, thời Như Lai không nói lời nói ấy. (3).Và lời nói nào
Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời
nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, Như Lai ở đây
biết thời giải thích lời nói ấy. (4).Lời nói nào Như Lai biết là
không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời
nói ấy khiến những người khác ưa thích, Như Lại không nói lời nói
ấy. (5).Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương
ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích,
Như Lai không nói lời nói ấy. (6).Và lời nói nào Như Lai biết là như
thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những
người khác ưa và thích, ở đây, Như Lai biết thời giải thích lời nói
ấy. Vì sao vậy? Này Vương tử, Như Lai có lòng thương tưởng đối với
các loài hữu tình”.
Qua nội dung
và ý nghĩa của đoạn kinh vừa dẫn trên cho chúng ta thấy, lời đức
Phật nói bao giờ cũng dựa vào ba nguyên tắc: Thứ nhất là sự thật;
thứ hai là mục đích (tức việc mà mình muốn nói đó có liên
hệ đến sự giác ngộ và giải thoát hay không); và thứ ba là người
nghe có ưa thích hay không. Căn cứ vào ba điều
kiện này, đức Phật tiếp tục phân tích, có bốn trường hợp đức Phật
không nói, chỉ có hai trường hợp đức Phật nói, nhưng phải lựa lời.
Bốn trường hợp đức Phật không nói là:
1. Lời
nói nào Như Lai biết không như thật, không như chân, không tương ứng
với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không
thích, Như Lai không nói lời nói ấy.
Ở trường hợp
thứ nhất, đức Phật không nói vì nó không đúng với sự thật, không
liên hệ đến sự giác ngộ và giải thoát và người nghe cũng không ưa
không thích.
2. Lời
nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục
đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích,
Như Lai không nói lời nói ấy.
Ở trường hợp
2, đức Phật không nói, lý do vì nó không liên hệ đến sự giác ngộ
giải thoát, đồng thời người nghe cũng không thích, cho nên đức Phật
không nói.
3. Lời
nói nào Như Lai biết là không như thật, không như chân, không tương
ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa thích, Như
Lại không nói lời nói ấy.
Ở trường hợp
này, đức Phật không nói, vì lý do, nó không đúng với sự thật, không
có liên hệ đến sự giác ngộ và giải thoát, tuy rằng nó rất được
người ta ưa thích. Ví dụ như với lời ngọt ngào khen ngợi với mục
đích trục lợi.
4. Lời
nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục
đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, Như Lai
không nói lời nói ấy.
Trong trường
hợp này, đức Phật không nói, vì lý do, nó không có liên quan đến sự
giác ngộ giải thoát, tuy rằng nó đúng là sự thật mà lại được người
khác ưa thích, nhưng vẫn không được đức Phật nói. Ví dụ người thợ
săn hỏi: có con nai chạy vào hướng này không? Nếu như có đi nữa thì
đức Phật khuyên chúng ta không nên nói thật về trường hợp này.
Ngoài ra, có
hai trường hợp được đức Phật nói:
1. Lời
nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích,
và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, Như Lai ở
đây biết thời giải thích lời nói ấy.
2. Lời
nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích,
và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, ở đây, Như Lai
biết thời giải thích lời nói ấy.
Trong hai
trường hợp này, trường hợp thứ hai thì không có gì để bàn cãi, nhưng
ở trường hợp thứ nhất thì chúng ta cần giải thích để vấn đề được dễ
hiểu hơn. Ở trường hợp thứ nhất này, dẫu rằng nó không được người
khác ưa thích, nhưng nó là sự thật, hơn nữa có liên hệ đến sự giác
ngộ giải thoát cho nên đức Phật lựa lời mà nói sự thật đó. Đây chính
là trường hợp đức Phật nói lên sự thật của thế gian đã khiến cho
những người ngoại đạo không thích, nhưng không thể vì vậy mà đức
Phật không nói lên chân lý của thế gian.
Nói tóm lại,
trong bốn trong trường hợp mà đức Phật nhất định không nói, yếu tố
chính là nó không có liên hệ đến sự giác ngộ và giải thoát. Ngược
lại, cũng vậy, hai trường hợp mà đức Phật nói, nguyên nhân chính là
nó có liên hệ đến mục đích. Như vậy, từ đó chúng ta có thể đưa đến
kết luận là vấn đề nào có liên quan đến sự giác ngộ và giải thoát
thì vấn đề đó được đức Phật nói và ngược lại, sẽ không được đức Phật
bàn luận.
Căn cứ từ ý
nghĩa này, chúng ta có thể xác định, lời nói nào không có liên hệ
đến sự giác ngộ và giải thoát thì lời nói ấy được xem là lời nói
láo, hay nói đúng hơn là lời nói không có ích lợi, lời nói ấy đức
Phật khuyên người Phật tử không nên nói; và ngược lại, những lời nói
nào có liên hệ đến sự tu tập, giúp ích cho sự giác ngộ và giải
thoát thì lời nói ấy được xem là lời nói chân thật, lời nói có lợi
ích. Đức Phật khuyên chúng ta nên nói những lời nói ấy, cho dù người
nghe không ưa không thích.
[1]
HT Thích Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 2, VNCPHVN ấn hành
2000, trang 127~136.
[2]
HT. Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp A hàm” tập 1, VNCPHVN
ấn hành 1993, trang.76.