Sự chết của con người rơi vào hai
trường hợp: chết như sự kết thúc tự nhiên của đời người, do bệnh hay tuổi già,
và cái chết bất ngờ vì tai nạn hay bạo lực. Cái chết của mỗi người có các yếu
tố độc đáo tùy hoàn cảnh, tùy điều kiện thể chất người đó và tùy trạng thái tâm
thức người đó. Tuy nhiên, một sự mô tả tổng quát về tiến trình hấp hối của con
người có thể giúp chúng ta hiểu chết là gì. Có lẽ điều này sẽ lợi ích nhất khi
nhìn vào kinh nghiệm này từ quan điểm của người hấp hối.
Trong giai đoạn đầu, người hấp hối
kinh nghiệm thấy sự tan rã yếu tố của đất (địa đại); yếu tố này được nuôi dưỡng
nơi luân xa ở rún (navel chakra). Người này không thể chổi dậy, không thể nhấc
tay và chân. Đầu ngả về sau, răng nghiến lại, cơ thể như dường co lại. Người
này cảm thấy nặng nề, bị ép xuống. Tầm nhìn mờ đi, và mắt trừng lên không chớp.
Người này bị tràn ngập bởi cảm giác buồn ngủ và mụ đi, nửa như kiệt sức hôn mê.
Mặc dù không hiển hiện bên ngoài, một dấu hiệu bí mật quan trọng đối với một
thiền gia là sự nhìn thấy các thị kiến như ảo ảnh và các tia sáng chớp chớp
tràn ngập không gian. Một thiền gia nhận thức trong đó những lung linh đầu tiên
về sự trong sáng không bị ngăn trở ở mặt bên kia của trạng thái ngăn trở bình
thường của tâm.
Trong giai đoạn thứ nhì, người hấp
hối kinh nghiệm thấy sự tan rã của yếu tố nước (thủy đại); yếu tố này được nuôi
dưỡng trong luân xa quả tim (heart chakra). Da và tóc mất sắc tươi nhuận, máu
và tinh trùng đóng cục lại, và người này đau đớn vì sự khô khốc nơi miệng, lỗ
mũi, cổ họng, và mắt. Các cảm quan nơi cơ thể bị giảm rất nhiều, làm cho thấy
một chút cảm giác đau đớn hay khoan khoái, hơi nóng hay hơi lạnh. Khả năng nghe
mất đi, và những tiếng ơ và ư nơi tai ngừng lại. Người này cảm thấy khó chịu,
bất an, khó mà hài lòng. Dấu hiệu bí mật là nhìn thấy các thị kiến của khói
tràn ngập không gian.
Trong giai đoạn thứ ba, người hấp
hối kinh nghiệm thấy sự tan rã của yếu tố lửa (hỏa đại); yếu tố này được nuôi
dưỡng nơi luân xa cổ họng. Người này không có thể nuốt nữa, sự tiêu hóa ngưng
hoàn toàn, thân nhiệt rút từ tay chân về giữa cơ thể, hơi thở ra trở nên lạnh
hơn. Khả năng ngửi mất dần. Người này trở nên mơ màng, và sự nhận biết ngay cả
bạn thân và thân nhân cũng mờ dần. Dấu hiệu bí mật là nhìn thấy các thị kiến
của các chấm đỏ như là đom đóm tràn ngập không gian.
Trong giai đoạn thứ tư, người hấp
hối kinh nghiệm thấy sự tan rã yếu tố của gió (phong đại); yếu tố này được nuôi
dưỡng nơi luân xa bộ phận sinh dục. Khi luân xa này tan rã, cấu trúc của năng
lực trong cơ thể sụp đổ. Người này không còn có thể làm bất kỳ hành động nào,
mắt đảo ngược, giọng khó nghe, hơi thở ngắt quãng, khả năng nếm và xúc chạm
biến mất. Tất cả các phương diện của ý thức thu về luân xa quả tim. Hình tướng
thô lậu của sinh lực xuất ra, làm cho hơi thở ra kéo dài ra.
Vào lúc này, nghiệp lực (karmic
energy) – lực này thường an trú nơi luân xa bộ phận sinh dục – bắt đầu xuất ra.
Nghiệp lực vốn vẫn đi theo với con người từ giây phút nhập thai, và nó quyết
định các hoàn cảnh của kiếp sống của người này. Vào giây phút chết, nó xuất ra
khỏi cơ thể, khởi lên các thị kiến, một loại duyệt lại nghiệp thức. Những người
nào mà trước giờ có hành vi trong thân, khẩu, ý rất mực ác thì có thể thấy các
hình tướng kinh hoàng hay là sự chiếu diễn lại các giây phút xấu xa trong đời
họ. Họ có thể phản ứng với các tiếng ú ớ kinh hãi. Những ai trước giờ làm
nghiệp thiện thì có thể kinh nghiệm các thị kiến hạnh phúc, an lạc và nhìn thấy
hình ảnh các bạn thân và của những vị đã giác ngộ. Họ chỉ có một chút sợ hãi sự
chết. Người này không còn có một liên hệ dù mỏng manh nào với các mục tiêu trần
gian. Dấu hiệu bí mật là nhìn thấy các ngọn đèn thắp bằng dầu bơ lung linh đầy
khắp không gian.
Có một hơi thở hắt ra cuối cùng,
dài, theo sau đó là kết thúc khả năng thấy, nghe, ngửi, nếm và chạm xúc. Người
này đã chết về mặt cơ thể, nhưng một tiến trình rất vi tế đang xảy ra bên
trong.
Xuyên suốt đời người này, giọt năng lực màu trắng cốt tủy mà người này nhận
được từ người cha khi nhập thai đã được nuôi dưỡng nơi luân xa đỉnh đầu (crown
chakra), được treo ngược chiều xuống như mẫu tự Hang màu trắng. Bây giờ, vào
lúc chết, nó đi xuống xuyên qua kênh trung tâm để tới luân xa quả tim, làm tan
biến tất cả các khái niệm liên hệ tới sự giận dữ. Người này kinh nghiệm thấy
một vùng sáng trắng lớn, như là mặt trăng mùa thu đang mọc lên.
Nơi luân xa rún, giọt năng lực màu đỏ cốt tủy mà người này nhận từ người mẹ khi
nhập thai trước giờ được nuôi dưỡng trong hình tướng của một mẫu tự Ah màu đỏ.
Bây giờ nó khởi lên xuyên qua kênh trung tâm để tới luân xa quả tim, làm biến
mất tất cả các khái niệm liên hệ tới tham ái. Người này kinh nghiệm thấy một
vùng sáng đỏ lớn, như mặt trời đang mọc. (Theo một giải thích khác, năng lực
trắng của cha liên hệ tới tham ái, của mẹ liên hệ tới giận dữ.)
Hai giọt năng lực này hợp nhau nơi
luân xa quả tim. Rồi thì các phương diện vi tế nhất của ý thức, được mang đi
bởi các năng lực mỏng manh nhất, chìm vào trong các giọt năng lực hợp nhất. Tất
cả các phương diện của ý thức liên hệ tới vọng tưởng bị làm biến mất. Thân
trung ấm của giây phút chết đã qua đi, và chúng sinh này rơi vào trạng thái mất
ý thức hệt như lúc bầu trời nửa đêm trong trẻo. Trạng thái mất ý thức này là
khởi đầu của thân trung ấm của thực tánh của các hiện tượng (bardo of the true
nature of phenomena).
Cái còn lại trong hiện hữu của
chúng sinh này là giọt trung tâm (heart drop) bất khả hủy diệt, mà giọt này
mang giữ cái yếu tính của ý thức và các dấu vết mong manh nhất của các năng lực
sinh động. Nó có thể duy trì trong thân này tới ba ngày đối với một người bình
thường, duy trì lâu hơn đối với một thiền giả. Nếu người chết là một người bình
thường, người hộ niệm nên vỗ mạnh vào đỉnh đầu [người chết] ngay sau hơi thở
cuối cùng để mang thần thức này hướng về luân xa đỉnh đầu và sẽ có một sự tái
sanh vào cảnh giới cao hơn. Bởi vì thần thức đáp ứng với thi thể được xúc chạm,
người hộ niệm nên tránh xúc chạm thi thể – đặc biệt là hai chân người chết – để
ngăn không cho thần thức bị hút xuống một lối ra phía dưới và sẽ có sự tái sanh
vào cảnh giới thấp hơn. Cũng đừng nên hỏa thiêu thi thể trong vòng ba ngày, vì
sợ rằng thần thức phải trải qua kinh nghiệm bị đốt cháy. Dĩ nhiên, để cho thi
thể không bị chạm xúc trong ba ngày là điều khó gìn giữ ở các nước Tây Phương
hơn là ở Tây Tạng.
Nếu pháp hộ niệm p’howa thành công,
hay có các dấu hiệu rõ ràng khác có vẻ như rằng thần thức đã rời thi thể, thì
những hạn chế về việc xúc chạm thi thể không cần nữa.