Phần
4. Tứ tướng trong kinh A hàm
151. Tứ tướng trong kinh A hàm
91. ‘Kinh Chu Na Vấn Kiến’
“Bạch Thế Tôn, trong đời, các kiến chấp phát
sanh và phát sanh, tức các chủ trương có thần ngã (Pāli: attā), có
chúng sanh (satta), có nhân
(puggala), có thọ (āyu) , có mạng (jīva), có thế gian (loka) . Bạch
Thế Tôn, biết như thế nào, thấy như thế nào để các kiến chấp này được
tiêu diệt, được xả ly và khiến cho các tà kiến khác không tiếp diễn,
không bị chấp thủ?”
Bấy giờ Thế Tôn nói rằng: “Chu-na, trong đời,
các kiến chấp phát sanh và phát sanh, tức các chủ trương có thần ngã,
có chúng sanh, có nhân, có thọ, có mạng, có thế gian. Chu-na, nếu muốn
các pháp diệt tận không dư, thì phải biết như vậy, thấy như vậy mới có
thể khiến cho các kiến chấp này được tiêu diệt, được xả ly và khiến cho
các kiến chấp khác không tiếp diễn, không bị chấp, hãy học pháp tiệm
giảm.
152. phiền não khác nhau phải dùng
phương pháp khác nhau để đoạn trừ
92. ‘Kinh Thanh Bạch Liên Hoa Dụ’
Đức Thế Tôn bảo các thầy Tỳ-kheo: “Hoặc có pháp do nơi thân mà diệt trừ, không do nơi miệng mà
diệt trừ. Hoặc có pháp do nơi miệng mà diệt, không do nơi thân mà diệt.
Hoặc có pháp không do nơi thân và miệng diệt trừ nhưng do tuệï kiến để
diệt trừ.
“Thế nào là pháp do nơi thân mà diệt trừ,
không do nơi miệng diệt trừ? Tỳ-kheo có thân hành bất thiện sung mãn,
thọ trì đầy đủ, dễ dính trước nơi thân, các thầy Tỳ-kheo thấy vậy khiển
trách Tỳ-kheo ấy rằng: ‘Hiền giả, thân hành bất thiện sung mãn, thọ
trì đầy đủ, sao lại dính trước nơi thân? Hiền giả, nên bỏ thân hành bất
thiện, tu tập thân hành thiện’. Thời gian sau, vị Tỳ-kheo ấy bỏ thân
hành bất thiện, tu tập thân hành thiện. Đó gọi là pháp do nơi thân mà
diệt trừ, không do nơi miệng mà diệt trừ.
“Thế nào là pháp do nơi miệng mà diệt trừ,
không do nơi thân diệt trừ? Tỳ-kheo khẩu hành bất thiện sung mãn, thọ
trì đầy đủ và dính trước nơi miệng. Các thầy Tỳ-kheo thấy vậy quở trách
Tỳ-kheo ấy rằng: ‘Hiền giả, khẩu hành bất thiện sung mãn, thọ trì đầy
đủ, sao lại dính trước nơi miệng? Hiền giả, nên bỏ khẩu hành bất thiện,
tu tập khẩu hành thiện’. Thời gian sau, vị Tỳ-kheo ấy bỏ khẩu hành bất
thiện, tu tập khẩu hành thiện. Đó gọi là pháp do nơi miệng mà diệt
trừ, không do nơi thân diệt trừ.
“Thế nào là pháp không do nơi thân, miệng mà
diệt trừ, nhưng chỉ do tuệ kiến để diệt trừ? Tham lam không từ thân,
miệng diệt trừ, chỉ do tuệ kiến mà diệt trừ. Cũng như thế, tranh tụng,
nhuế, hận, sân triền, phú kết, bỏn sẻn, tật đố, lừa gạt, dua siểm, vô
tàm, vô quý, ác dục, ác kiến không do nơi thân, miệng diệt trừ, chỉ do
tuệ kiến mà diệt trừ. Đó gọi là pháp không do nơi thân, miệng mà diệt
trừ, chỉ do tuệ kiến mà diệt trừ.
153.
Tu chỉ là sự kiểm tra lại tâm
mình
110.
‘Kinh Tự Quán Tâm’
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Nếu
có Tỳ-kheo không thiện xảo quán tâm người khác, hãy thiện xảo tự quán
sát tâm của chính mình. Nên học như vậy.
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo thiện xảo quán tự tâm?
Tỳ-kheo nếu có quán này, chắc chắn được nhiều lợi ích.‘Ta thường hành
tham lam hay thường hành không tham lam? Ta thường hành tâm sân nhuế
hay thường hành tâm không sân nhuế? Ta thường hành thùy miên triền hay
thường hành không thùy miên triền? Ta thường hành trạo hối, cống cao
hay thường hành không trạo hối, cống cao? Ta thường hành nghi hoặc hay
thường hành không nghi hoặc? Ta thường hành thân tránhhay thường hành
không thân tránh? Ta thường hành tâm ô uế hay thường hành tâm không ô
uế? Ta thường hành tín hay thường hành bất tín? Ta thường hành tinh tấn
hay thường hành giải đãi? Ta thường hành suy niệm hay thường hành không
suy niệm? Ta thường hành tâm định hay thường hành tâm không định? Ta
thường hành ác tuệ hay thường hành không ác tuệ?’
“Nếu Tỳ-kheo khi quán liền biết, ‘Ta thường
hành tham lam, tâm sân nhuế, thùy miên triền, trạo hối, cống cao, nghi
hoặc, thân tránh, tâm ô uế, bất tín, giải đãi, không suy niệm, không
tâm định, thường hành ác tuệ’. Tỳ-kheo ấy muốn diệt trừ pháp ác bất
thiện này phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập, tinh cần,
chánh niệm, chánh trí, kham nhẫn, đừng để bị thoái chuyển. “Ví như bị lửa đốt cháy đầu, cháy áo,
nhanh chóng tìm cầu phương tiện cứu đầu, cứu áo. Cũng vậy, Tỳ-kheo muốn
diệt trừ pháp ác bất thiện này phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện,
học tập, tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kham nhẫn, đừng để bị thoái
chuyển.
154. Tu chỉ là sự thay đổi
cách suy tư
101. ‘Kinh Tăng Thượng Tâm’
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: “Nếu Tỳ-kheo muốn được tăng thượng tâm, cần phải thường xuyên
suy niệm năm tướng. Thường xuyên niệm năm tướng thì niệm bất thiện đã
sanh liền được trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm thường an trú, nội tâm
được tĩnh chỉ, chuyên nhất, được định tĩnh.
“Năm tướng đó là những gì? Tỳ-kheo suy niệm về
một tướng tương ưng thiện, nếu sanh niệm bất thiện, vị Tỳ-kheo đó nhân
nơi tướng này lại suy niệm về một tướng khác tương ưng với thiện,
khiến niệm ác bất thiện không sanh nữa. Khi vị Tỳ-kheo đó nhân nơi
tướng này, lại suy niệm về một tướng khác tương ưng với thiện thì niệm
bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm thường an
trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, được định tĩnh.
“Cũng như người thợ mộc hay học trò thợ mộc
kéo thẳng dây mực, búng lên thân cây rồi dùng rìu bén mà đẽo cho thẳng;
Tỳ-kheo cũng vậy, nhân nơi tướng này mà suy niệm một tướng khác tương
ưng với thiện, khiến niệm ác bất thiện không sanh nữa. Khi Tỳ-kheo đó
nhân nơi tướng này, lại suy niệm một tướng khác tương ưng với thiện,
niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền
được an trú, bên trong tĩnh chỉ chuyên nhất, đắc định. Nếu Tỳ-kheo muốn
được tăng thượng tâm, cần phải luôn luôn suy niệm tướng thứ nhất này.
Do suy niệm tướng này, niệm bất thiện đã sanh liền được trừ diệt. Niệm
ác diệt rồi, tâm thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, được
định tĩnh.
“Lại nữa, Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng,
tương ưng với thiện, nếu sanh niệm bất thiện, Tỳ-kheo đó quán rằng:
“Suy niệm ác này có tai họa, suy niệm này là bất thiện, suy niệm này là
ám, suy niệm này bị người trí ghét, suy niệm này nếu đầy đủ thì không
thể chứng đắc trí thông, không chứng đắc giác đạo, không chứng đắc
Niết-bàn, vì nó khiến sanh niệm ác bất thiện’. Vị Tỳ-kheo đó quán sự ác
như vậy, niệm bất thiện sanh khởi liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi
liền tâm thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định.
“Như có người thiếu niên đẹp trai, khả ái, tắm
gội sạch sẽ, mặc y phục đẹp đẽ, lấy hương xoa khắp thân, cạo sửa râu
tóc khiến rất tinh khiết. Nếu lấy xác rắn, xác chó, hoặc xác người đã
thâm xanh, sình chướng, thối rữa, chảy nước dơ, đeo tròng vào cổ người
ấy, người ấy liền ghét sự dơ bẩn nên không hỷ, không lạc. Tỳ-kheo cũng
vậy, Tỳ-kheo quán rằng ‘Niệm ác này có tai họa, niệm này không thiện,
niệm này là ác, niệm này người trí ghét. Nếu đầy đủ niệm này thì không
thể chứng đắc trí thông, không chứng đắc giác đạo, không chứng đắc
Niết-bàn vì nó khiến sanh niệm ác bất thiện’. Tỳ-kheo đã quán sự ác như
vậy, niệm bất thiện đã sanh liền trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm thường
an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định. Nếu Tỳ-kheo muốn được
tăng thượng tâm, cần phải luôn luôn niệm tướng thứ hai này. Khi niệm
về tướng này thì niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt
rồi, tâm thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định.
“Lại nữa, Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng
tương ưng với thiện mà sanh niệm bất thiện, và khi quán niệm ác có tai
họa mà lại sanh niệm bất thiện nữa, Tỳ-kheo đó không nên suy niệm về
niệm này, vì nó khiến sanh niệm ác bất thiện. Tỳ-kheo đó không suy niệm
về niệm này nữa thì niệm bất thiện đã sanh liền được trừ diệt. Niệm ác
diệt rồi, tâm thường an trụ, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định.
“Như người có mắt, cảnh sắc nằm trong ánh sáng
nhưng không muốn nhìn. Người đó hoặc nhắm mắt, hoặc lánh thân đi, ý
các ngươi nghĩ sao, cảnh sắc nằm trong ánh sáng, người đó có thể cảm
nhận được tướng dạng của sắc không?”
Đáp rằng:
“Thưa không.”
“Tỳ-kheo cũng vậy, không nên suy niệm về niệm
này, vì nó khiến sanh niệm ác bất thiện. Khi vị Tỳ-kheo đó không suy
niệm về niệm này nữa, niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác
diệt rồi, tâm thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định.
Nếu Tỳ-kheo muốn được tăng thượng tâm, cần phải luôn luôn suy niệm
tướng thứ ba này. Suy niệm về tướng này thì niệm bất thiện đã sanh liền
bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ,
chuyên nhất, đắc định.
“Lại nữa, Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng
tương ưng với thiện mà sanh niệm bất thiện, khi quán niệm ác có tai họa
cũng sanh niệm bất thiện, và trong khi không suy niệm về niệm đó nữa
cũng lại sanh niệm bất thiện; vị Tỳ-kheo đó vì niệm này, phải dùng hành
tướng của tư duy để giảm dần niệm ấy, khiến không sanh niệm ác bất
thiện. Khi đối với niệm này, Tỳ-kheo đó phải dùng hành tướng tư duy để
giảm dần niệm ấy thì niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác
diệt rồi, tâm thường an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định.
“Như có người đi đường, bước nhanh trên đường,
người đó nghĩ rằng: ‘Tại sao ta đi nhanh? Giờ ta hãy đi chậm được
chăng?’ Người đó liền đi chậm lại, nhưng rồi lại nghĩ: ‘Tại sao ta đi
chậm mà chẳng đứng lại?’ Người đó liền đứng lại, nhưng rồi lại nghĩ:
‘Tại sao ta lại đứng? Ta ngồi xuống được chăng?’ Người đó liền ngồi
xuống, nhưng rồi lại nghĩ: ‘Tại sao ta lại ngồi? Ta nằm xuống được
chăng?’ Người đó liền nằm xuống. Như vậy là người đó đang thực hành
pháp đình chỉ dần dần hành tướng thô của thân. Nên biết, Tỳ-kheo cũng
giống như thế. Đối với niệm này, Tỳ-kheo đó phải dùng hành tướng của tư
duy mà giảm dần niệm ấy để không sanh niệm ác bất thiện. Khi đối với
niệm này, Tỳ-kheo đó phải dùng hành tướng của tư duy, giảm dần niệm ấy,
thì niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt, niệm ác diệt rồi, tâm
liền được an trú, bên trong tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định. Nếu
Tỳ-kheo muốn được tăng thượng tâm, cần phải suy niệm luôn luôn tướng
thứ tư này. Suy niệm tướng này thì niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ
diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền được an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên
nhất, đắc định.
“Lại nữa, Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng,
tương ưng với thiện mà sanh niệm bất thiện, khi quán niệm ác có tai họa
mà cũng sanh niệm bất thiện, khi không suy niệm về niệm ác cũng sanh
tiếp niệm bất thiện, và khi phải dùng hành tướng của tư duy để giảm dần
niệm ấy, cũng lại sanh tiếp về niệm bất thiện nữa; Tỳ-kheo đó nên quán
như vầy. Tỳ-kheo, vì nhân niệm này mà sanh niệm bất thiện, Tỳ-kheo đó
liền ngậm khít răng lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm để tu tâm, giữ
chặt tâm và hàng phục tâm, khiến không niệm ác bất thiện.
“Khi vị Tỳ-kheo đó dùng tâm tu tâm, giữ chặt
tâm và hàng phục tâm thì niệm bất thiện đã sanh liền được trừ diệt.
Niệm ác diệt rồi, tâm liền được an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất,
đắc định. Như hai lực sĩ bắt một người yếu, nắm vững và hàng phục nó,
Tỳ-kheo cũng vậy, răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm tu
tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm để không sanh niệm ác bất thiện.
Khi vị Tỳ-kheo đó dùng tâm tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm thì
niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền
được an trú, bên trong tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định. Nếu Tỳ-kheo muốn
được tăng tượng tâm, cần phải luôn luôn suy niệm tướng thứ năm này.
Suy niệm tướng này thì niệm bất thiện đã sanh liền được trừ diệt. Niệm
ác diệt rồi, tâm liền được an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc
định.
“Nếu Tỳ-kheo muốn được tăng thượng tâm thì cần
phải luôn luôn suy niệm năm tướng này. Luôn luôn suy niệm năm tướng
thì niệm bất thiện đã sanh liền bị trừ diệt. Niệm ác diệt rồi, tâm liền
được an trú, nội tâm tĩnh chỉ, chuyên nhất, đắc định.
“Nếu Tỳ-kheo khi suy niệm về một tướng tương
ưng với thiện mà không sanh niệm ác, khi quán niệm ác có tai họa cũng
không sanh niệm ác, khi không suy niệm về niệm đó cũng không sanh niệm
ác, khi dùng hành tướng của tư duy để giảm dần niệm ấy cũng không sanh
niệm ác, và khi dùng tâm tu tâm, giữ chặt tâm và hàng phục tâm cũng lại
không sanh niệm ác nữa, thì liền được tự tại, muốn suy niệm thì suy
niệm, không suy niệm thì không suy niệm.
192. ‘Kinh Niệm’
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: “Thuở xưa, khi chưa chứng quả giác ngộ Vô thượng chánh tận, Ta
nghĩ rằng: ‘Ta hãy chia các suy niệm] làm
hai phần, niệm dục, niệm nhuế, niệm hại làm một phần. Niệm vô dục, niệm
vô nhuế, niệm vô hại, làm một phần khác.’
“Sau đó, Ta liền chia các niệm làm hai phần,
niệm dục, niệm nhuế, niệm hại, làm một phần. Niệm vô dục, niệm vô nhuế,
niệm vô hại, làm một phần khác.
“Ta thực hành như vầây. Sống viễn ly, cô độc,
tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Nếu sanh niệm dục, Ta liền biết
là đang sanh niệm dục, hại mình, hại người, hại cả hai, diệt trí tuệ,
nhiều phiền nhọc, không chứng đắc Niết-bàn. Biết rằng, hại mình, hại
người, hại cả hai, diệt trí tuệ, nhiều phiền nhọc, không chứng đắc
Niết-bàn, nó liền tiêu diệt nhanh chóng.
“Nếu lại sanh niệm nhuế, niệm hại, Ta liền
biết là đang sanh niệm nhuế, niệm hại, hại mình, hại người, hại cả hai,
diệt trí tuệ, nhiều phiền nhọc, không chứng đắc Niết-bàn. Biết rằng,
hại mình, hại người, hại cả hai, diệt trí tuệ, nhiều phiền nhọc, không
chứng đắc Niết-bàn, nó liền được tiêu diệt nhanh chóng.
“Khi sanh niệm dục, Ta không thọ nhận, mà đoạn
trừ, loại trừ, tống khứ; sanh niệm nhuế, niệm hại cũng không thọ nhận,
mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ. Vì sao vậy? Vì Ta thấy rằng, nhân nơi
đó mà sanh vô lượng pháp ác bất thiện. Ví như vào tháng cuối xuân, vì
đã trồng lúa nên đất thả bò không được rộng. Người chăn bò thả bò nơi
đầm ruộng, bò vào đất người, nó liền cầm roi đến ngăn lại. Vì sao vậy?
Vì người chăn bò biết rằng nhân nơi đó mà có lỗi lầm là sẽ bị chửi, bị
đánh, bị trói. Do đó, chăn bò cầm roi đến ngăn lại. Ta cũng như vậy,
sanh niệm dục, không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống khứ. Sanh
niệm nhuế, niệm hại cũng không thọ nhận, mà đoạn trừ, loại trừ, tống
khứ. Vì sao vậy? Vì Ta thấy nhân nơi đó mà sanh vô lượng pháp ác bất
thiện.
“Tỳ-kheo tùy theo sự tư duy, tùy theo sự suy
niệm của mình mà tâm sanh ham thích trong đó.
155. Cứu cánh chỉ có một
103.
‘Kinh Sư Tử Hống’
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: “Ở
đây có Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, Sa-môn thứ tư. Ngoài đây ra
không có Sa-môn, Phạm chí; Dị học hoàn toàn không cóSa-môn, Phạm chí.
Trong bất cứ chúng hội, các ngươi hãy chân chánh rống tiếng rống như sư
tử vậy. “Này các Tỳ-kheo, nếu có người Dị học đến hỏi
các ngươi, ‘Này chư Hiền, các ông có hành gì, lực gì, trí gì mà các
ông nói như vầy: ‘Ở đây có Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, Sa-môn thứ
tư. Ngoài đây ra không có Sa-môn, Phạm chí; Dị học hoàn toàn không có
Sa-môn, Phạm chí’. Trong bất cứ chúng hội các ông đều chân chánh rống
tiếng rống sư tử như vậy?”.
“Này các Tỳ-kheo, các ngươi nên trả lời Dị học
ấy như vầy: ‘Này chư Hiền, Đức Thế Tôn của tôi là bậc có trí, có kiến;
là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, thuyết giảng bốn pháp. Nhân
nơi bốn pháp này mà chúng tôi nói như vầy: ‘Ở đây có Sa-môn thứ nhất,
thứ hai, thứ ba, Sa-môn thứ tư. Ngoài đây ra không có Sa-môn, Phạm chí;
Dị học hoàn toàn không có Sa-môn, Phạm chí. Trong bất cứ chúng hội mà
chúng tôi đều chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy.’
“Bốn pháp đó là những gì? Này chư Hiền, chúng
tôi tin tưởng Đấng Tôn Sư, tin Pháp, tin sự thành mãn của giới đức,
đồng đạo có ái kính, có phụng sự chân thành.
“Này chư Hiền, Đức Thế Tôn của chúng tôi là
bậc có trí, có kiến, là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, thuyết
giảng bốn pháp này. Nhân bốn pháp này mà chúng tôi nói như vầy: ‘Ở đây
có Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, Sa-môn thứ tư. Ngoài ra không có
Sa-môn, Phạm chí; Dị học hoàn toàn không có Sa-môn, Phạm chí. Trong bất
cứ chúng hội chúng tôi đều chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy.’
“Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học cũng có thể lại
nói: ‘Này chư Hiền, chúng tôi cũng tin đấng Tôn sư, tức Tôn sư của
chúng tôi; tin pháp, tức pháp của chúng tôi; tin sự thành mãn của giới
đức, tức giới của chúng tôi; cũng ái kính bạn đồng đạo, phụng sự chân
thành, là bạn đồng đạo xuất gia và tại gia của chúng tôi. Này chư Hiền,
giữa hai lời nói này, của Sa-môn Cù-đàm và của chúng tôi, có gì hơn
chăng? Có ý gì chăng? Có sai biệt gì chăng?’ Thì này các Tỳ-kheo, các
ngươi nên hỏi Dị học như vầy: ‘Này chư Hiền, cứu cánh là một hay cứu
cánh là nhiều?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời như vầy: ‘Này chư
Hiền, cứu cánh chỉ có một, cứu cánh không có nhiều’. Thì này các
Tỳ-kheo, các ông hỏi tiếp Dị học: ‘Này chư Hiền, người có dục mà được
cứu cánh, hay người không có dục mới được cứu cánh?’Này các Tỳ-kheo,
nếu Dị học trả lời như vầy, ‘Này chư Hiền, người không có dục mới được
cứu cánh, không phải người có dục mà được cứu cánh’.
Thì này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy hỏi tiếp Dị
học, ‘Này chư Hiền, người có nhuế mà được cứu cánh, hay người không có
nhuế mà được cứu cánh?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời như vầy:
‘Này chư Hiền, người không có nhuế mà được cứu cánh, không phải người
có nhuế mà được cứu cánh’. Này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy hỏi tiếp Dị
học: ‘Này chư Hiền, người có si mà được cứu cánh hay người không có si
mà được cứu cánh?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời như vầy: ‘Này
chư Hiền, người không có si mà được cứu cánh, không phải người có si mà
được cứu cánh’. Thì này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy hỏi tiếp Dị học:
‘Này chư Hiền, người có ái, có thủ mà được cứu cánh, hay người không có
ái, không có thủ mà được cứu cánh?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời
như vầy: ‘Này chư Hiền, người không có ái, không có thủ mà được cứu
cánh, không phải người có ái, có thủ mà được cứu cánh’. Thì này các
Tỳ-kheo, các ngươi hãy hỏi tiếp Dị học: ‘Này chư Hiền, người không có
tuệ, không có thuyết tuệ mà được cứu cánh, hay người có tuệ, có thuyết
giảng tuệ mà được cứu cánh?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời như
vầy: ‘Này chư Hiền, người có tuệ, có thuyết tuệ mà được cứu cánh; không
phải người không có tuệ, không thuyết tuệ mà được cứu cánh’. Thì này
các Tỳ-kheo, các ngươi hãy hỏi tiếp Dị học: ‘Này chư Hiền, người có
tắng, có tránh mà được cứu cánh, hay người không có tắng có tránh mà
được cứu cánh?’ Này các Tỳ-kheo, nếu Dị học trả lời như vầy: ‘Này chư
Hiền, người không có tắng, không có tránh mà được cứu cánh; không phải
người có tắng có tránh mà được cứu cánh’. Thì này các Tỳ-kheo, các
ngươi hãy nói với Dị học như vầy: ‘Này chư Hiền, như vậy là các ông nói
có một cứu cánh, không phải nhiều cứu cánh.
“Người không có dục mà được cứu cánh, không
phải người có dục mà được cứu cánh. Người không có nhuế mà được cứu
cánh, không phải người có nhuế mà được cứu cánh. Người không có si mà
được cứu cánh, không phải người có si mà được cứu cánh. Người không có
ái, không có thủ được cứu cánh, không phải người có ái, có thủ mà được
cứu cánh. Người có tuệ, có thuyết tuệ mà được cứu cánh; không phải
người không có tuệ, không có thuyết tuệ mà được cứu cánh. Người không
có tắng, không có tránh mà được cứu cánh; không phải người có tắng, có
tránh mà được cứu cánh.
156. Pháp tu của phái loã thể
104.
‘Kinh Ưu Đàm Bà La’
Đức Thế Tôn trả lời: “Này Vô Nhuế! Hoặc có Sa-môn, Phạm chí
lõa hình, không y phục, hoặc dùng tay làm y phục, hoặc lấy lá làm y
phục, hoặc lấy hạt châu làm y phục; hoặc không múc nước bằng bình, hoặc
không múc nước bằng gáo; không ăn đồ ăn xốc xỉa bằng dao gậy, không ăn
đồ ăn lừa dối, không tự mình đến, không sai người đi, không làm khách
được mời, không làm khách được chào đón, không làm khách được lưu, không ăn từ giữa hai người đang ăn,
không ăn tại nhà có thai, không ăn từ nhà có nuôi chó, không ăn từ nhà
có lằng xanh bay đến; không ăn cá, không ăn thịt, không uống rượu,
không uống nước dấm, hoặc không uống gì cả, học tập hạnh không uống;
hoặc ăn một miếng, cho một miếng là đủ, hoặc ăn hai, ba, bốn, cho đến
bảy miếng, và cho bảy miếng là đủ, hoặc ăn bởi một lần nhận được, và
cho đến một lần nhận được là đủ, hoặc ăn bởi hai, ba bốn cho đến bảy
lần nhận được và cho bảy lần nhận được là đủ, hoặc ăn ngày một lần và
cho một lần là đủ, hoặc hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy ngày, nửa tháng,
hay một tháng, ăn một lần và cho một lần là đủ; hoặc ăn cỏ, hoặc ăn lúa
cỏ, hoặc ăn nếp tuế, hoặc ăn cám, hoặc ăn gạo đầu-đầu-la, hoặc ăn đồ
ăn thô; hoặc đến chỗ vô sự, y nơi vô sự; hoặc ăn rễ, hoặc ăn trái, hoặc
ăn quả tự rụng; hoặc mặc áo khâu đủ thứ vải, hoặc mặc áo lông, hoặc
mặc áo vải đầu-xá, hoặc mặc áo vải đầu-xá bằng lông, hoặc mặc bằng da
nguyên, hoặc mặc da có xoi lỗ, hoặc mặc da toàn xoi lỗ; hoặc để tóc xõa,
hoặc để tóc bện, hoặc để tóc vừa xõa vừa bện, hoặc chỉ cạo tóc, hoặc
chỉ cạo râu, hoặc cạo cả râu tóc, hoặc nhổ tóc, hoặc nhổ râu, hoặc nhổ
cả râu tóc, hoặc chỉ đứng thẳng không hề ngồi, hoặc đi chồm hổm, hoặc
nằm gai, lấy gai làm giường; hoặc nằm cỏ, lấy cỏ làm giường; hoặc thờ nước, ngày
đêm lấy tay vọc; hoặc thờ lửa, ngày đêm đốt lên; hoặc thờ mặt trời, mặt
trăng, thờ đấng Tôn hựu Đại đức, chắp tay hướng về kia. Những sự như
vậy thọ khổ vô lượng, học hạnh nóng bức.
157. Đức Phật không cấm bất cứ điều
gì, Ngài chỉ cấm những việc làm liên hệ đến tham sân và si
110.
‘Kinh Tự Quán Tâm’ (B)
Ta nói, không được cất chứa tất cả y nhưng
cũng nói được quyền cất chứa tất cả y áo. Loại y nào Ta nói không được
cất chứa? Nếu cất chứa y áo mà tâm tăng trưởng pháp ác bất thiện, suy
thoái pháp thiện, y áo như vậy Ta nói không được cất chứa. Loại y nào
Ta nói được quyền cất chứa? Nếu cất chứa y áo mà tăng trưởng pháp
thiện, suy thoái pháp ác bất thiện, y áo như vậy Ta nói được quyền cất
chứa”. Cũng như y áo, về uống ăn, giường chõng, thôn ấp cũng giống như
vậy.
“Ta nói không được quen thân tất cả mọi người,
nhưng cũng nói được quen thân tất cả mọi người. Người thế nào mà Ta
nói không được quen thân? Nếu quen thân người mà tăng trưởng pháp ác
bất thiện, suy thoái pháp thiện, người như vậy Ta nói không được quen
thân. Người thế nào mà Ta nói được quyền quen thân? Nếu quen thân
người, liền tăng trưởng pháp thiện, suy thoái pháp ác bất thiện, người
như vậy Ta nói được quyền quen thân.
“Vị ấy biết đúng như thật pháp nên tập hành,
cũng biết đúng như thật pháp không nên tập hành. Vị ấy biết đúng như
thật pháp nên tập hành và pháp không nên tập hành rồi, pháp không nên
tập hành thì không tập hành, pháp nên tập hành liền tập hành. Vị ấy
không tập hành pháp không nên tập hành, tập hành pháp nên tập hành rồi,
liền tăng trưởng pháp thiện, suy thoái pháp ác bất thiện.
158. Đề Bà Đạt Đa sanh vào địa ngục
112.
‘Kinh A Nô Ba’
Đức Thế Tôn ngoảnh lại, hỏi: “A-nan,
Đề-bà-đạt-đa vì phóng dật nên sẽ bị đọa lạc rất cực khổ, chắc chắn đến
chỗ ác, sanh vào địa ngục, ở đấy trọn kiếp, không thể cứu vớt. A-nan,
ông có nghe các Tỳ-kheo nói lại rằng Ta đã xác định Đề-bà-đạt-đa chắc
chắn đến chỗ ác, sanh vào địa ngục, ở đấy trọn kiếp, không thể cứu vớt
chăng?” …
159. Đi tìm lõi
cây
115.
‘Kinh Mật Hoàn Dụ’
“Này chư Hiền, ví như có người tìm lõi cây. Vì
muốn tìm lõi cây nên người ấy cầm búa vào rừng. Người ấy thấy cây đại
thọ đã thành rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa và lõi. Người ấy không đụng
đến rễ, thân, cành, lõi, mà chỉ đụng đến nhánh và lá. Những điều chư
Hiền nói cũng giống như vậy. Đức Thế Tôn đang ở đây mà chư Hiền lại bỏ
Ngài đến tôi để hỏi nghĩa này. Vì sao vậy? Này chư Hiền, nên biết, Đức
Thế Tôn là Bậc có mắt, là Bậc có trí. Ngài là Pháp, là Bậc Pháp Chủ, là
Pháp tướng, là Bậc nói nghĩa chân đế, hiển hiện tất cả nghĩa. Do đó
chư Hiền nên đi đến chỗ Đức Thế Tôn mà hỏi nghĩa này, rằng: ‘Bạch Thế
Tôn, điều này là thế nào? Điều này có nghĩa gì?’ Nếu như Đức Thế Tôn có
nói gì thì chư Hiền hãy khéo léo nhận lãnh và ghi nhớ”.
160. Sự kiện Cù Đàm Di xuất gia
116.
‘Kinh Cù Đàm Di’
Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái lại đi đến chỗ
Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi một bên mà bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, nữ nhân có thể đắc quả thứ tư
được chăng? Do nhân duyên này, nữ nhân có thể ở trong Pháp Luật chân
chánh này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo được
chăng?”
Đức Thế Tôn nói lại lần thứ ba: “Thôi!
Thôi! Cù-đàm-di, người chớ nên nghĩ rằng ‘Nữ nhân có thể ở trong Pháp
Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà
học đạo’. Cù-đàm-di, như vậy mà người đã tự cạo bỏ râu tóc, khoác áo
ca-sa, nguyện suốt đời tịnh tu phạm hạnh!”. Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái bị
Phật ngăn cản lần thứ ba, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh
ba vòng rồi lui ra.
Lúc bấy giờ, Cù-đàm-di Đại Ái chân cẳng bết
bùn, mình mẩy dính đầy bụi bặm, vô cùng mệt mỏi, đứng ngoài cửa buồn
rầu khóc lóc. Tôn giả A-nan trông thấy Cù-đàm-di Đại Ái chân cẳng bết
bùn, mình mẩy dính đầy bụi bặm, vô cùng mệt mỏi, đứng ngoài cửa buồn
rầu khóc lóc, liền hỏi: “Cù-đàm-di, vì cớ gì mà chân
cẳng bết bùn, mình mẩy dính đầy bụi
bặm, vô cùng mệt mỏi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc như vậy?”
Cù-đàm-di Đại Ái đáp: “Thưa Tôn giả A-nan, nữ nhân không được ở
trong Pháp Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không
gia đình mà học đạo”.
Tôn giả A-nan nói: “Cù-đàm-di,
hãy đứng dậy, để tôi đi đến Đức Phật thưa hỏi việc này cho”.
Cù-đàm-di Đại Ái Đạo bạch: “Kính
vâng, thưa Tôn giả A-nan”.
Rồi Tôn giả A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu
đảnh lễ sát chân Phật, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Bạch
Thế Tôn, nữ nhân có thể đắc quả thứ tư được chăng? Do nhân duyên này
nữ nhân có thể ở trong Pháp Luật chân chánh chí tín, lìa bỏ gia đình,
sống không gia đình mà học đạo được chăng?”
Đức Thế Tôn nói: “Thôi! Thôi! A-nan, người chớ nên nghĩ
rằng ‘Nữ nhân có thể ở trong Pháp Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ
gia đình, sống không gia đình mà học đạo’. A-nan, nếu cho nữ nhân được ở
trong Pháp Luật chân chánh này chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia
đình mà học đạo thì phạm hạnh này sẽ không tồn tại lâu dài. A-nan, ví
như gia đình có nhiều người nữ, ít người nam thì gia đình này có được
hưng thịnh lâu không?
“Bạch Thế Tôn, không thể vậy”.
“Cũng vậy, này A-nan, nếu có nữ nhân được ở
trong Pháp Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia
đình mà học đạo thì phạm hạnh sẽ không được tồn tại lâu dài.
“A-nan, ví như trong ruộng lúa dé, ruộng lúa
tẻ có sanh cỏ uế thì ruộng lúa kia chắc chắn bị hư hại. Cũng vậy, này
A-nan, nếu cho nữ nhân được ở trong Pháp Luật chân chánh này chí tín
lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì phạm hạnh này sẽ
không được tồn tại lâu dài”.
Tôn giả A-nan lại bạch rằng: “Bạch
Thế Tôn, Cù-đàm-di Đại Ái đã đem lại cho Thế Tôn nhiều lợi ích. Vì
sao? Vì sau khi thân mẫu Thế Tôn mất, Cù-đàm-di Đại Ái đã bảo dưỡng Đức
Thế Tôn”.
Đức Thế Tôn nói: “Đúng vậy,
A-nan! Đúng vậy, A-nan! Cù-đàm-di Đại Ái đã đem lại cho Ta nhiều lợi
ích, đã bảo dưỡng Ta sau khi thân mẫu Ta mất. Nhưng này A-nan, Ta cũng
đem lại cho Cù-đàm-di Đại Ái nhiều lợi ích…..
Rồi, này A-nan, giả như người này cúng dường
người kia y phục, ăn uống, tọa cụ, thuốc thang, các vật dụng cho cuộc
sống, cho đến trọn đời, chẳng lẽ nào lại không được đền ơn.
“Này A-nan, Ta vì nữ nhân mà tuyên bố tám pháp
tôn sư, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
“A-nan, ví như người thợ đánh cá và đệ tử của
người thợ đánh cá đắp đập ở khoảng nước sâu để giữ nước, không cho chảy
ra ngoài; cũng vậy, này A-nan, nay Ta vì nữ nhân mà tuyên bố tám pháp
tôn sư, nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
“Tám pháp đó là những gì?
(1). “A-nan, Tỳ-kheo-ni phải cầu thọ giới Cụ
túc nơi Tỳ-kheo. A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ
nhất. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
(2). “A-nan, Tỳ-kheo-ni cứ mỗi nửa tháng phải
đến thọ giáo nơi Tỳ-kheo. A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn
sư thứ hai. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt
đời.
(3). “A-nan, nếu nơi trụ xứ không có Tỳ-kheo thì
Tỳ-kheo-ni không được thọ hạ an cư. A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố
pháp tôn sư thứ ba. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng
trì suốt đời.
(4). “A-nan,
Tỳ-kheo-ni sau khi thọ hạ an cư phải đối trước hai bộ chúng thỉnh cầu
chỉ rõ về ba sự kiện, thấy, nghe và nghi. A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà
tuyên bố pháp tôn sư thứ tư. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải
phụng trì suốt đời.
(5). “A-nan,
nếu Tỳ-kheo không cho phép Tỳ-kheo-ni thưa hỏi thì Tỳ-kheo-ni không
được thưa hỏi Tỳ-kheo về Kinh-Luật hoặc A-tỳ-đàm. Nếu cho phép hỏi thì
Tỳ-kheo-ni mới được thưa hỏi về Kinh-Luật hoặc A-tỳ-đàm. A-nan, Ta đã
vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ năm. Nữ nhân không được trái
phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
(6). “A-nan,
Tỳ-kheo-ni không được nói điều trái phạm của Tỳ-kheo, nhưng Tỳ-kheo
được quyền nói điều trái phạm của Tỳ-kheo-ni. A-nan, Ta đã vì nữ nhân
mà tuyên bố pháp tôn sư thứ sáu. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân
phải phụng trì suốt đời.
(7). “A-nan,
Tỳ-kheo-ni nếu phạm Tăng-già-bà-thi-sa thì phải đối trước hai bộ chúng
hành bất mạn trong vòng mười lăm ngày. A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà
tuyên bố pháp tôn sư thứ bảy. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân
phải phụng trì suốt đời.
(8). “A-nan,
Tỳ-kheo-ni dù đã thọ giới Cụ túc lâu đến một trăm năm, nhưng đối với
trước Tỳ-kheo mới thọ giới Cụ túc vẫn phải khiêm cung cúi đầu làm lễ,
cung kính chắp tay thưa hỏi. A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố pháp
tôn sư thứ tám. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì
suốt đời.
“A-nan, Ta đã vì nữ
nhân tuyên bố tám pháp tôn sư này, nữ nhân không được trái phạm, nữ
nhân phải phụng trì suốt đời. A-nan, nếu Cù-đàm-di Đại Ái phụng trì tám
pháp tôn sư này thì được ở trong Pháp Luật chân chánh mà xuất gia học
đạo, được thọ giới Cụ túc, làm Tỳ-kheo-ni”.
161. Bố tát: Thế Tôn cùng các Tỷ kheo cùng Bố tát
121.
‘Kinh Thỉnh Thỉnh’
Bấy giờ vào ngày mười lăm trong tháng, là ngày
Đức Thế Tôn nói Tùng giải thoát vào giờ Tự tứ (Pāli: Pavāranā) .
Ngài đến trước chúng Tỳ-kheo trải tọa cụ ngồi xuống rồi nói với các
Tỳ-kheo: “Ta là Phạm Chí, đã chứng đắc tịch diệt, thành
Vô Thượng Y Vương, thọ thân này của Ta là thân tối hậu. Ta là Phạm
Chí, sau khi đã chứng đắc tịch diệt, thành Vô Thượng Y Vương, thọ thân
này của Ta là thân tối hậu, thì các ngươi là con chân chánh của Ta, thọ
sanh từ miệng, hóa sanh từ pháp. Các ngươi là con chân chánh của Ta,
thọ sanh từ miệng, hóa sanh từ pháp, thì các ngươi hãy dạy dỗ lẫn nhau,
răn dạy lẫn nhau.”
Bấy giờ Tôn giả Xá-lê Tử cũng đang hiện diện
trong chúng. Khi ấy, Tôn giả Xá-lê Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch
vai, sửa y, chắp tay hướng về Thế Tôn, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, như Thế Tôn vừa nói: ‘Ta là
Phạm Chí đã chứng đắc tịch diệt, thành Vô Thượng Y Vương, thọ thân này
của Ta là thân tối hậu. Ta là Phạm Chí, sau khi đã chứng đắc tịch diệt,
thành Vô Thượng Y Vương, thọ thân này của Ta là thân tối hậu, thì các
ngươi là con chân chánh của Ta, thọ sanh từ miệng, hóa sanh từ pháp.
Các ngươi là con chân chánh của Ta, thọ sanh từ miệng, hóa sanh từ
pháp, thì các ngươi hãy dạy dỗ lẫn nhau, răn dạy lẫn nhau’. Bạch Thế
Tôn, đối với những ai chưa điều ngự, Thế Tôn khiến cho điều ngự; những
ai chưa tịch tĩnh, khiến cho tịch tĩnh; những ai chưa độ thoát, khiến
cho độ thoát; những ai chưa giải thoát khiến cho giải thoát; những ai
chưa tịch diệt, khiến cho tịch diệt, chưa đắc đạo khiến cho đắc đạo,
chưa thi thiết phạm hạnh khiến cho thi thiết phạm hạnh. Thế Tôn là Bậc
Tri Đạo, Giác Đạo, Thức Đạo, Thuyết Đạo. Đệ tử của Thế Tôn sau đó được
đắc pháp, lãnh thọ khuyến giáo, lãnh thọ khiển trách. Sau khi lãnh thọ
khuyến giáo, lãnh thọ khiển trách sẽ vâng theo lời dạy của Thế Tôn mà
nhất hướng tu hành, được tự tại như ý, khéo biết Chánh pháp. Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn không phiền gì con đối với thân, khẩu, ý hành chăng?”
Khi ấy, Thế Tôn nói: “Này Xá-lê Tử, Ta không phiền gì đối với
thân, khẩu, ý hành của thầy cả. Vì sao vậy? Này Xá-lê Tử, thầy là bậc
thông tuệ, đại tuệ, tốc tuệ, tiệp tuệ, lợi tuệ, quảng tuệ, thân tuệ,
xuất yếu tuệ, minh đạt tuệ. Này Xá-lê Tử, thầy đã thành tựu thật tuệ.
Này Xá-lê Tử, ví như vua Chuyển luân vương có vị thái tử không trái
phạm lời khuyên dạy, tất bái lãnh sự truyền thừa của phụ vương và sau
này cũng có thể truyền thừa lại. Cũng vậy, này Xá-lê Tử, Ta chuyển vận
pháp luân, thầy cũng có thể chuyển vận pháp luân. Này Xá-lê Tử, vì vậy
nên Ta không phiền gì về thân, khẩu, ý hành của thầy.”
Tôn giả Xá-lê Tử chắp tay hướng về Thế Tôn,
thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không phiền gì về
thân, khẩu, ý hành của con; nhưng bạch Thế Tôn, Thế Tôn có phiền gì về
thân, khẩu, ý hành của năm trăm thầy Tỳ-kheo chăng?”
Đức Thế Tôn nói: “Này Xá-lê
Tử, Ta cũng không phiền gì về thân, khẩu, ý hành của năm trăm Tỳ-kheo
này. Vì sao vậy? Này Xá-lê Tử, năm trăm Tỳ-kheo này đều đã chứng đắc vô
trước, dứt trừ các lậu, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong,
đã đặt gánh nặng xuống, hữu kết đã tận và đã đạt được thiện nghĩa,
chánh trí, chánh giải thoát; chỉ trừ một Tỳ-kheo mà trước kia Ta đã thọ
ký cho rằng: ngay trong đời này sẽ chứng đắc cứu cánh trí, biết một
cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã
làm xong, không còn tái sanh nữa’. Này Xá-lê Tử, vì vậy nên Ta không
phiền gì về thân, khẩu, ý hành của năm trăm Tỳ-kheo này.”
Tôn giả Xá-lê Tử ba lần lặp lại chắp tay hướng
về Đức Thế Tôn thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không phiền gì về
thân, khẩu, ý hành của con và cũng không phiền gì về thân, khẩu, ý
hành của năm trăm Tỳ-kheo này. Như vậy, bạch Thế Tôn, trong số năm trăm
Tỳ-kheo này, có bao nhiêu thầy đã chứng đắc ba minh đạt? Bao nhiêu thầy
đã chứng đắc câu giải thoát? Bao nhiêu thầy đã chứng đắc tuệ giải
thoát?”
Thế Tôn nói: “Này Xá-lê Tử, trong số năm trăm
Tỳ-kheo này, chín mươi Tỳ-kheo đã chứng đắc ba minh đạt; chín mươi
Tỳ-kheo đã chứng đắc câu giải thoát; còn các Tỳ-kheo kia đều chứng đắc
tuệ giải thoát. Này Xá-lê Tử, trong chúng này không có nhánh, không có
cành lá, cũng không có đốt, mà chỉ có lõi chắc thật, thanh tịnh, đều đã
chân chánh trụ vị.”
162. Người mù dẫn người mù
152. ‘Kinh Anh V ũ’
Đức Thế Tôn nói: “Ví như một đám người mù dắt
nhau, người trước không thấy người ở sau, cũng không thấy người ở giữa;
người giữa không thấy người ở trước, cũng không thấy người ở sau;
người ở sau không thấy người ở giữa, cũng không thấy người ở trước. Này
Ma-nạp, Ta nói các Phạm chí cũng như vậy. Này Ma-nạp, trước ngươi nói
là do tin, sau đó ngươi nói là do nghe.”
163. Tu tập như lên giây đờn
123.
‘Kinh Sa Môn Nhị Thập Ức’
Đức Thế Tôn nói: “Sa-môn, nay
Ta hỏi ngươi; hãy tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Ý ngươi nghĩ sao,
khi ngươi sống tại gia, giỏi đánh đàn cầm nên tiếng đàn hòa điệu với
lời ca, lời ca ăn khớp với tiếng đàn; có phải vậy chăng?”
Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức thưa: “Bạch
Thế Tôn, đúng vậy.”
Thế Tôn lại hỏi: “Ý ngươi
nghĩ sao, nếu dây đàn căng quá thì tiếng hòa âm có đáng ưa không?”
Sa-môn Nhị Thập Ức đáp: “Bạch
Thế Tôn, không!”
Đức Thế Tôn lại hỏi: “Ý ngươi
nghĩ sao, nếu dây đàn chùng quá thì tiếng hòa âm có đáng ưa chăng?”
Sa-môn Nhị Thập Ức đáp: “Bạch
Thế Tôn, không.”
Đức Thế Tôn lại hỏi: “Ý ngươi
nghĩ sao, nếu dây đàn vừa phải, không căng quá, cũng không chùng quá,
thì tiếng đàn có đáng ưa không?”
Sa-môn Nhị Thập Ức đáp: “Bạch
Thế Tôn, đáng ưa.”
Đức Thế Tôn nói: “Cũng vậy,
này Sa-môn, quá sức tinh tấn sẽ khiến tâm rối loạn, nhưng chẳng tinh
tấn thì tâm sẽ biếng lười. Vì vậy ngươi hãy phân biệt thời gian nào nên
quán sát tướng nào, chớ nên buông lung.”
164. Bát nạn
124.
‘Kinh Bát nạn’ (Tương đương Tăng Nhất 36, “phẩm Bát Nạn”
kinh số 1.)
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: “Người
tu phạm hạnh có tám nạn, tám phi thời. Những gì là tám?
“Vào lúc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo
Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, xuất hiện ở thế gian, thuyết
pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều
Thiện Thệ dạy, thì người ấy lúc bấy giờ đang sanh vào chốn địa ngục.
Đó là nạn thứ nhất đối với người tu phạm hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, xuất hiện ở thế gian,
thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo,
những điều Thiện Thệ dạy, thì người ấy lúc bấy giờ đang sanh vào loài
súc sanh, vào loài ngạ quỷ, sanh vào cõi trời Trường thọ, sanh ở xứ
biên địa mọi rợ, không tín, vô ân, không biết báo đáp, không có
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Đó là nạn thứ năm đối với
người tu phạm hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu xuất hiện ở thế gian,
thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo,
những điều Thiện Thệ dạy, thì bấy giờ người ấy tuy sanh nhằm chốn văn
minh nhưng lại điếc, câm, ú ớ như dê kêu, dùng tay thay lời, không thể
nói nghĩa thiện ác. Đó là nạn thứ sáu, việc phi thời thứ sáu đối với
người tu phạm hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu xuất hiện ở thế gian,
thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo,
những điều Thiện Thệ dạy thì bấy giờ người ấy tuy sanh nhằm chốn văn
minh, không điếc, không câm, không ú ớ như dê kêu, không dùng tay thay
lời, có thể nói nghĩa thiện ác, nhưng lại có tà kiến và điên đảo kiến.
Người ấy thấy như vầy và nói như vầy, ‘Không bố thí, không trai tự,
không chú thuyết, không có nghiệp thiện ác, không có nghiệp báo của
thiện ác, không có đời này đời khác, không cha không mẹ, ở đời không có
bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo hướng, tự tri, tự giác,
tự tác chứng thế giới này và thế giới khác, thành tựu an trụ’. Đó là
nạn thứ bảy đối với người tu phạm hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu không xuất hiện ở thế
gian, cũng không thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa
đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy thì bấy giờ người ấy lại sanh
nhằm chốn văn minh, không điếc, không câm, không ú ớ như dê kêu, không
dùng tay thay lời, lại có thể nói nghĩa thiện ác và có chánh kiến,
không có điên đảo kiến. Người ấy thấy như vầy và nói như vầy, ‘Có bố
thí, có trai tự, cũng có chú thuyết, có nghiệp thiện ác, có nghiệp báo
của thiện ác, có đời này, có đời khác, có cha, có mẹ, ở đời có bậc chân
nhân, đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo hướng, tự tri, tự giác, tự tác
chứng thế giới này và thế giới khác, thành tựu an trụ’. Đó là nạn thứ
tám, việc phi thời thứ tám đối với người tu phạm hạnh.
Người tu phạm hạnh
có một điều không nạn, một việc đúng thời. Thế nào là một điều không
nạn, một việc đúng thời đối với người tu phạm hạnh? Lúc Như Lai Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu không xuất
hiện ở thế gian, cũng không thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch
diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy, thì bấy giờ người ấy
sanh nhằm chốn văn minh, không điếc, không câm, không ú ớ như dê kêu,
không dùng tay thay lời, lại có thể nói nghĩa thiện ác, có chánh kiến,
không có điên đảo kiến. Người ấy thấy như vầy và nói như vầy, ‘Có bố
thí, có trai tự, cũng có chú thuyết, có nghiệp thiện ác, có nghiệp báo
của thiện ác, có đời này, có đời khác, có cha, có mẹ, ở đời có bậc chân
nhân, đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo hướng, tự tri, tự giác, tự tác
chứng thế giới này và thế giới khác, thành tựu an trụ’. Đó là điều
không tai nạn, việc đúng thời đối với người tu phạm hạnh.”
165. 5 giới
128. ‘Kinh Ưu Bà Tắc’
“Này Xá-lê Tử, nếu thầy biết rằng bạch y Thánh
đệ tử gìn giữ, thực hành năm pháp một cách hoàn hảo và được bốn tăng
thượng tâm, hiện pháp lạc trú, dễ được chứ không phải khó được. Xá-lê
Tử, thầy nên xác nhậän rằng Thánh đệ tử này không còn đọa địa ngục,
cũng không còn sanh vào loài súc sanh, ngạ quỷ và các chỗ ác, được quả
Tu-đà-hoàn, không đọa ác pháp, nhất định thẳng tiến tới quả vị Chánh
giác, tối đa chịu bảy lần sanh tử nữa. Sau bảy lần qua lại cõi trời,
nhân gian, liền được chấm dứt khổ đau.
“Xá-lê Tử, thế nào là bạch y Thánh đệ tử
khéo giữ gìn và thực hành năm pháp? Đó là bạch y Thánh đệ tử xa lìa sát
sanh, vứt bỏ dao gậy, có tâm tàm quý, tâm từ bi, làm lợi ích cho tất
cả, cho đến loài côn trùng, người ấy đối với sự sát sanh, tâm đã tịnh
trừ. Đó là pháp thứ nhất mà bạch y Thánh đệ tử đã giữ gìn và thực hành
một cách hoàn hảo.
“Lại nữa, này Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử xa
lìa việc lấy của không cho, dứt trừ việc lấy của không cho. Khi nào cho
mới lấy, vui với việc cho mới lấy, thường ưa bố thí, hoan hỷ không keo
kiết, không mong đền trả, không tham lam, thấy tài vật của kẻ khác
không lấy về mình. Người ấy đối với việc không cho mà lấy tâm đã tịnh
trừ. Đó là pháp thứ hai mà bạch y Thánh đệ tử đã giữ gìn và thực hành
một cách hoàn hảo.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử xa lìa
tà dâm, dứt trừ tà dâm. Người nữ kia hoặc có cha giữ gìn, hoặc có mẹ
giữ, hoặc cả cha cả mẹ cùng giữ, hoặc anh em giữ, hoặc chị em giữ, hoặc
gia nương giữ, hoặc thân tộc giữ, hoặc người cùng họ giữ, hoặc là vợ
của người khác, hoặc có phạt gậy, khủng bố, hoặc đã có ước hẹn bằng tài
hóa, cho đến bằng một tràng hoa; đối với tất cả những người nữ ấy,
không xâm phạm đến. Người ấy đối với tà dâm, tâm đã tịnh trừ. Đó là
pháp thứ ba mà bạch y Thánh đệ tử đã giữ gìn và thực hành một cách hoàn
hảo.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử xa lìa
nói dối, dứt trừ nói dối; nói lời chân thật, ưa sự chân thật, an trụ
nơi sự chân thật, không dời đổi sai chạy. Tất cả những lời nói đều đáng
tin, không lừa dối thế gian. Người ấy đối với sự nói dối, tâm đã tịnh
trừ. Đó là pháp thứ tư mà bạch y Thánh đệ tử giữ gìn và thực hành một
cách hoàn hảo.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử lìa
rượu, bỏ rượu. Người ấy đối với việc uống rượu, tâm đã tịnh trừ. Đó là
pháp thứ năm mà bạch y Thánh đệ tử giữ gìn và thực hành một cách hoàn
hảo.
166. 4 pháp tăng thượng tâm
128. ‘Kinh Ưu Bà Tắc’
Này Xá-lê Tử, thế nào là bạch y Thánh đệ tử
được bốn tâm tăng thượng, hiện pháp lạc trú, dễ chứ không phải khó
được? Đó là bạch y Thánh đệ tử niệm tưởng Như Lai, Bậc Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Nhớ nghĩ Như
Lai như vậy rồi, nếu có những ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có
những điều bất thiện, nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt.
Bạch y Thánh đệ tử nương vào Như Lai, tâm tịnh được hỷ, nếu có những
điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện nhớp
nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt. Như vậy, bạch y Thánh đệ tử
được tâm tăng thượng thứ nhất, hiện pháp lạc trú, dễ được chứ không
phải khó được.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử niệm
tưởng Pháp được Thế Tôn khéo giảng, pháp chắc chắn đưa đến cứu cánh,
không phiền, không nhiệt, hằng hữu, không di động. Quán pháp như vậy,
biết pháp như vậy, nhớ nghĩ pháp như vậy rồi nếu có những điều ác dục
liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện nhớp nhơ, sầu
khổ, âu lo, cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ tử duyên vào pháp, tâm
tịnh được hỷ. Nếu có những điều ác dục, liền được tiêu diệt. Trong tâm
có những điều bất thiện nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo, cũng được tiêu diệt.
Như vậy, bạch y Thánh đệ tử được tâm tăng thượng thứ hai.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử niệm
chúng Tăng, Thánh chúng của Như Lai là những bậc thiện thú hướng, chánh
thú hướng, như lý hành, pháp tùy pháp hành, chúng ấy thật có A-la-hán
hướng, A-la-hán quả, có A-na-hàm hướng, A-na-hàm quả, có Tư-đà-hàm
hướng, Tư-đà-hàm quả, có Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả. Đó là bốn
cặp tám bậc, là chúng của Như Lai thành tựu giới, thành tựu định, thành
tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến, đáng
kính, đáng trọng, đáng phụng, đáng cúng, là ruộng phước an lành của
thế gian. Người ấy nhớ nghĩ chúng của Như Lai như vậy, nếu có những
điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện,
nhớp nhơ, âu lo, cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ tử duyên vào
chúng của Như Lai, tâm được hoan hỷ, nếu có những điều ác dục liền được
tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo
cũng được tiêu diệt. Như vậy, bạch y Thánh đệ tử được tâm tăng thượng
thứ ba, hiện pháp lạc trú dễ được chứ không phải khó được.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử tự
niệm tưởng giớ, giới này không sứt mẻ, không rách nát, không ô uế,
không cấu bẩn, vững như mặt đất, không hư vọng, đó là điều mà Đức Phật
ngợi khen, thọ trì đầy đủ tốt đẹp. Người ấy tự nhớ nghĩ giới như vậy,
nếu có những điều ác dục, liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều
bất thiện, sầu khổ, nhớp nhơ, âu lo cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh
đệ tử duyên vào giới, tâm định được hỷ. Nếu có những điều ác dục liền
được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ, sầu khổ,
âu lo cũng được tiêu diệt. Như vậy, bach y Thánh đệ tử được tâm tăng
thượng thứ tư, đối với hiện pháp lạc trú dễ được chứ không phải khó
được.
167. Sự bần cùng của người
xuất gia
125. ‘Kinh Bần Cùng’
“Đó là, ở đời, người có tham dục lại bần cùng
là đại bất hạnh. Ở đời, người có tham dục vay nợ tài vật của người khác
là đại bất hạnh. Ở đời, người có tham dục vay nợ tài vật của người
khác mà khất mãi là đại bất hạnh. Ở đời, người có tham dục bị chủ nợ
đòi nợ là đại bất hạnh. Ở đời, người có tham dục bị chủ nợ đòi mãi là
đại bất hạnh. Ở đời, người có tham dục bị chủ nợ bắt trói là đại bất
hạnh. Cũng vậy, nếu ai đối với Thánh pháp mà không tin ở thiện pháp,
không giữ cấm giới, không nghe nhiều, không bố thí, không trí tuệ; đối
với thiện pháp, dù có nhiều kim ngân, lưu ly, thủy tinh, ma ni, bạch
kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã não, đại môi xa cừ, bích ngọc, xích
thạch, tuyền châu, nhưng người ấy vẫn là kẻ nghèo nàn cô thế. Như vậy,
trong Thánh pháp của Ta, gọi là sự bần cùng, bất thiện.
168. Lời khuyên của đức
Phật dành cho người tại gia, sống gia đình
135.
‘Kinh Thiện Sanh’
Này con trai Cư sĩ, chúng sanh có bốn loại
nghiệp, bốn loại ô uế. Những gì là bốn? Này con trai Cư sĩ, sát sanh là
một loại nghiệp, một loại ô uế của chúng sanh; lấy vật không được cho,
tà dâm, vọng ngôn, là một loại nghiệp, một loại ô uế của chúng sanh.”
“Này con trai Cư sĩ, con người do bốn việc mà
bị nhiều tội lỗi. Bốn việc đó là gì? Đó là đi theo dục, đi theo sân
hận, đi theo sợ hãi và đi theo ngu si.”
“Này con trai Cư sĩ, con người do bốn việc mà
được nhiều phước. Bốn việc đó là gì? Đó là không đi theo dục, không đi
theo sân hận, không đi theo sợ hãi và không đi theo ngu si.”
“Này con trai Cư sĩ, kẻ mong cầu của cải nên
biết sáu điều phi đạo. Sáu điều đó là gì? Một là với mọi chơi bời mà
mong cầu tài vật là phi pháp. Hai là rong chơi không phải lúc mà mong
cầu tài vật là phi pháp. Ba là đam mê rượu chè mà mong cầu tài vật là
phi pháp. Bốn là gần gũi ác tri thức mà mong cầu tài vật là phi pháp.
Năm là đam mê kỹ nhạc mà mong cầu tài vật là phi pháp. Sáu là quen lười
biếng mà mong cầu tài vật là phi pháp.
“Này con của vị Cư sĩ, với kẻ chơi bời bài
bạc, nên biết có sáu tai họa. Sáu tai họa đó là gì? Một là, thắng thì
sanh oán thù. Hai là, thua thì sanh xấu hổ. Ba là, mắc nợ thì ngủ không
yên. Bốn là, khiến kẻ thù vui mừng. Năm là, khiến thân thuộc lo âu.
Sáu là, nói giữa đám đông không ai tin dùng. Này con trai Cư sĩ, người
chơi bài bạc thì làm việc không kinh doanh. Làm việc không kinh doanh
thì công nghiệp không thành. Tài vật chưa có được thì không thể có
được. Tài vật đã có sẵn thì càng lúc càng tiêu hao.
“Này con trai Cư sĩ, với người rong chơi
không phải lúc, nên biết có sáu món tai họa. Sáu món đó là gì? Một là
không tự giữ mình. Hai là không giữ gìn tài vật. Ba là không giữ gìn vợ
con. Bốn là bị người nghi ngờ[. Năm là sanh nhiều khổ hoạn. Sáu là bị người hủy bang. Này con trai Cư sĩ, người rong chơi
không phải lúc thì việc làm không kinh doanh. Việc làm không kinh doanh
thì công nghiệp không thành. Tài vật chưa có được thì không thể có.
Tài vật đã có sẵn thì càng lúc càng tiêu hao.
“Này con của vị Cư sĩ, với người đam mê rượu
chè, nên biết có sáu món tai họa. Sáu món đó là gì? Một là tài sản hiện
tại bị tổn thất. Hai là thân bị nhiều bệnh hoạn. Ba là đấu tranh càng
tăng trưởng. Bốn là để lộ chỗ kín. Năm là tổn thất danh tiếng. Sáu là
mất trí, thành ngu. Này con của vị Cư sĩ, người đam mê rượu thì việc
làm không kinh doanh được. Việc làm không kinh doanh thì công nghiệp
không thành. Tài vật chưa có được thì không thể có. Tài vật đã có sẵn
thì càng lúc càng bị tiêu hao.
“Này con nhà Cư sĩ, người gần gũi tri thức ác,
nên biết có sáu món tai họa. Sáu món đó là gì? Một là thân cận giặc
cướp. Hai là thân cận kẻ lừa gạt. Ba là thân cận kẻ say sưa. Bốn là
thân cận kẻ buông lung. Năm là tụ hội chơi bời. Sáu là lấy đó làm thân
hữu, lấy đó làm bạn đồng hành. Này con nhà Cư sĩ, người gần gũi ác tri
thức thì việc làm không kinh doanh. Việc làm không kinh doanh thì công
nghiệp không thành. Tài vật chưa có được thì không thể có. Tài vật đã
có sẵn thì càng lúc càng bị tiêu hao.
Này con trai Cư sĩ, với người đam mê kỹ
nhạc, nên biết có sáu món tai họa. Sáu món đó là gì? Một là mê nghe ca.
Hai là mê xem vũ. Ba là mê đánh nhạc. Bốn là mê xem lắc chuông. Năm là
thích vỗ tay. Sáu là thích tụ hội đông người. Này con nhà Cư sĩ, người
đam mê kỹ nhạc không phải lúc thì việc làm không kinh doanh. Việc làm
không kinh doanh thì công nghiệp không thành. Tài vật chưa có được thì
không thể có. Tài vật đã có sẵn thì càng lúc càng bị tiêu hao.
Này con nhà Cư sĩ, với người lười biếng, nên
biết có sáu tai họa. Sáu món đó là gì? Một là quá sớm, không làm việc.
Hai là quá trễ, không làm việc. Ba là quá lạnh, không làm việc. Bốn là
quá nóng, không làm việc. Năm là quá no, không làm việc. Sáu là quá
đói, không làm việc. Này con nhà Cư sĩ, người lười biếng không phải lúc
thì việc làm không kinh doanh được. Việc làm không kinh doanh thì công
nghiệp không thành. Tài vật chưa có được thì không thể có. Tài vật đã
có sẵn thì càng lúc càng bị tiêu hao.”
“Này con nhà Cư sĩ, có bốn hạng người không
thân cận, tuồng như thân cận. Bốn hạng người đó là gì? Một là biết
việc, thì chẳng phải thân cận in tuồng thân cận (Tuệ Sĩ: Pāli: aññadatthu-haro, hạng người vật gì
cũng lấy. Hình như, trong bản Hán, aññad (khác) được hiểu là aññā(d)
(biết); atthu, động từ khả năng cách: mong nó là; được hiểu là attha:
sự việc.). Hai là trước mặt nói lời dịu
ngọt, thì chẳng phải thân cận in tuồng như thân cận. Ba là lời nói thì
chẳng thân cận in tuồng như thân cận. Bốn là bạn đưa đến chỗ ác thì
chẳng thân cận in tuồng như thân cận.
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn trường hợp nên
người biết việc dù chẳng phải thân cận in tuồng như thân cận. Bốn
trường hợp ấy là gì? Một là do biết việc mà đoạt của. Hai là cho ít lấy
nhiều. Ba là hoặc vì sợ mà làm. Bốn là hoặc vì lợi mà hùa theo.”
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn trường hợp, trước
mặt nói lời dịu ngọt, dù chẳng thân cận in tuồng như thân cận. Bốn
trường hợp đó là gì? Một là bày ra những việc hay đẹp. Hai là xúi làm
các việc ác. Ba là trước mặt ngợi khen. Bốn là sau lưng nói việc xấu.”
“Này con nhà Cư sĩ, có bốn trường hợp, ngôn
ngữ dù chẳng phải thân cận in tuồng như thân cận. Bốn trường hợp đó là
gì? Một là chấp nhận việc đã qua. Hai là bàn bạc việc ngày ma. Ba là
dối trá không nói thật. Bốn là việc hiện tại thì hỏng; nhận nói rằng
‘tôi sẽ làm’ nhưng không làm.”
“Này con nhà Cư sĩ, có bốn trường hợp bạn dẫn
đến chỗ ác, dù chẳng phải thân cận in tuồng như thân cận. Bốn trường
hợp đó là gì? Một là xúi các việc bài bạc. Hai là xúi đi rong chơi
không phải thời. Ba là xúi uống rượu. Bốn là xúi thân cận kẻ ác.”
“Này con nhà Cư sĩ, nên biết, có bốn hạng bạn
lành. Những gì là bốn? Một là cùng chịu khổ vui, nên biết đó là bạn
lành. Hai là thương tưởng, nên biết đó là bạn lành. Ba là khuyên điều
lợi, nên biết đó là bạn lành. Bốn là giúp đỡ, nên biết đó là bạn lành.
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn việc mà cùng khổ
cùng vui. Bốn trường hợp đó là gì? Một là quên mình, vì bạn. Hai là
quên tài sản vì bạn. Ba là quên vợ con vì bạn. Bốn là biết nghe lời.”
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn việc mà thương
tưởng, nên biết là bạn lành. Những gì là bốn? Một là dạy cho diệu pháp.
Hai là ngăn cấm ác pháp. Ba là khen ngợi trước mặt. Bốn là khước từ
oán gia.
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn việc mà cầu lợi,
nên biết là bạn lành. Những gì là bốn? Một là bộc lộ việc kín ra. Hai
là không che giấu việc kín. Ba là được lợi nên vui mừng. Bốn là không
được lợi, không buồn.”
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn việc mà giúp đỡ,
nên biết bạn lành. Những gì là bốn? Một là biết bạn hết của cải. Hai là
biết của cải hết, liền cung cấp vật. Ba là thấy buông lung nên khuyên
ngăn. Bốn là thường thương tưởng.”
“Này con nhà Cư sĩ, trong pháp luật của bậc
Thánh, có sáu phương: Đông, Nam, Tây, Bắc, Trên, Dưới.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như đối với phương
Đông, con đối với cha mẹ cũng vậy. Người con phải có năm điều thờ kính,
phụng dưỡng cha mẹ. Năm điều đó là gì? Một là tăng thêm của cải. Hai
là cáng đáng mọi việc. Ba là dâng lên cha mẹ những gì người muốn. Bốn
là không tự tác, không trái ý. Năm là tất cả vật riêng của mình đều
dâng hết cha mẹ. Người con làm năm việc như trên để phụng dưỡng, thờ
kính cha mẹ.
“Cha mẹ cũng lấy năm việc để chăm sóc các con.
Năm việc đó là gì? Một là thương yêu con cái. Hai là cung cấp không
thiếu. Ba là khiến con không mang nợ. Bốn là gả cưới xứng đáng. Năm là
cha mẹ có của cải vừa ý đều giao hết cho con. Cha mẹ bằng năm điều ấy
mà chăm sóc các con.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Đông có hai
trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc
Thánh, phương Đông là giữa con và cha mẹ. Này con nhà Cư sĩ, nếu người
từ hiếu với cha mẹ, chắc chắn có sự tăng ích, chứ không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Đông,
phương Nam có hai trường hợp phân biệt. “Học trò đối với thầy nên biết
năm điều thờ kính, phụng dưỡng thầy. Năm điều đó là gì? Một là khéo
cung kính vâng lời. Hai là khéo giúp đỡ, hầu hạ. Ba là hăng hái. Bốn là
nghề nghiệp giỏi. Năm là hay thờ kính thầy. Đệ tử lấy năm điều ấy cung
kính, phụng dưỡng Sư trưởng.
“Sư trưởng cũng dùng năm việc săn sóc đệ tử.
Năm việc đó là gì? Một là dạy cho nên nghề. Hai là dạy dỗ nhanh chóng.
Ba là dạy hết những điều mình biết. Bốn là đặt để ở những chỗ lành. Năm
là gửi gấm bậc thiện tri thức. Sư trưởng lấy năm điều ấy mà săn sóc đệ
tử.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Nam có hai
trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh,
phương Nam là giữa học trò và thầy. Này con nhà Cư sĩ, nếu người từ
thuận đối với Sư trưởng, chắc chắn có sự tăng ích chứ không có sự suy
hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Tây, người
chồng đối với vợ cũng vậy. Người chồng nên lấy năm việc mà yêu thương,
cấp dưỡng vợ. Năm việc đó là gì? Một là thương yêu vợ. Hai là không
khinh rẻ. Ba là sắm các thứ chuỗi ngọc, đồ trang điểm. Bốn là ở trong
nhà để vợ được tự do. Năm là xem vợ như chính mình. Người chồng lấy năm
việc để thương yêu, cấp dưỡng vợ.
“Người vợ phải lấy mười ba điều khéo léo kính
thuận chồng. Mười ba điều ấy là gì? Một là thương yêu kính trọng
chồng. Hai là cung phụng, kính trọng chồng. Ba là nhớ nghĩ đến chồng.
Bốn là trông nom các công việc. Năm là khéo tiếp đãi bà con. Sáu là
trước mặt đưa mắt hầu đợi. Bảy là sau lưng thì cử chỉ yêu thương. Tám
là lời nói thành thật. Chín là không khóa kín cửa phòng. Mười là thấy
đến thì ca ngợi. Mười một là trải sẵn giường mà đợi. Mười hai là bày
dọn đồ ăn uống ngon lành, sạch sẽ, dồi dào. Mười ba là cúng dường
Sa-môn, Phạm chí. Người vợ lấy mười ba việc ấy để khéo léo kính trọng
chồng.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Tây có hai
trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh,
phương Tây là giữa vợ với chồng. Này con nhà Cư sĩ, nếu người từ mẫn
với vợ, chắc có sự tăng ích, chứ không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Bắc, chủ
nhà đối với tôi tớ cũng như vậy. Người chủ nhà nên lấy năm điều thương
mến chu cấp cho tôi tớ. Năm điều ấy là gì? Một là tùy sức mà sai làm
việc. Hai là tùy lúc mà cho ăn. Ba là tùy lúc cho uống. Bốn là hết ngày
thì cho nghỉ. Năm là bệnh hoạn cho thuốc thang. Chủ nhà lấy năm việc
trên mà thương xót cung cấp cho tôi tớ.
“Tôi tớ cũng nên lấy chín điều mà phụng sự chủ
nhà. Chín điều ấy là gì? Một là tùy thời mà làm việc. Hai là chuyên
tâm vào công việc. Ba là làm tất cả việc. Bốn là trước mặt thì đưa mắt
hầu đợi. Năm là sau lưng thì thương kính mà làm. Sáu là nói lời thành
thật. Bảy là khi chủ hoạn nạn thì không bỏ đi. Tám là đi phương xa thì
nên khen ngợi chủ. Chín là khen chủ nhà là dễ dãi. Tôi tớ lấy chín điều
ấy khéo léo phụng sự chủ nhà.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Bắc có hai
trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh,
phương Bắc là giữa chủ nhà và tôi tớ. Này con nhà Cư sĩ, nếu có người
thương xót tôi tớ, chắn chắn có sự tăng ích chứ không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Dưới, bằng
hữu đối với bằng hữu cũng vậy. Thân hữu nên lấy năm việc để ái kính
cung cấp thân hữu. năm việc ấy là gì? Một là ái kính. Hai là không
khinh mạn. Ba là không dối gạt. Bốn là cho tặng đồ quý. Năm là tìm cách
giúp đỡ. Thân hữu lấy năm việc trên để ái kính, cung cấp thân hữu.
“Thân hữu này cũng lấy năm việc để nhớ nghĩ
đến thân hữu. Năm việc đó là gì? Một là biết của cải hết. Hai là khi
biết của cải hết thì cung cấp của cải. Ba là thấy buông lung thì khuyên
răn. Bốn là thương nhớ. Năm là gặp hoạn nạn thì cho nương tựa. Thân
hữu lấy năm việc ấy để nhớ nghĩ đến thân hữu.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy, phương Dưới có
hai trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong pháp luật của bậc
Thánh là thân hữu đối với thân hữu vậy. Này con nhà Cư sĩ, nếu người
thương xót thân hữu, chắc chắn có sự tăng ích chứ không phải có sự suy
hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Trên, thí
chủ đối với Sa-môn, Phạm chí cũng vậy. Thí chủ nên lấy năm điều để tôn
kính, cúng dường Sa-môn, Phạm chí. Năm điều đó là gì? Một là không đóng
kín cửa. Hai là thấy đến thì tán thán. Ba là trải giường mà đợi. Bốn
là làm các món ăn uống ngon sạch, dồi dào, mà cúng. Năm là đúng như
pháp mà hộ trì. Người thí chủ lấy năm điều trên cung kính cúng dường
Sa-môn, Phạm chí.
“Sa-môn, Phạm chí cũng lấy năm việc để khéo
nhớ nghĩ đến thí chủ. Năm việc ấy là gì? Một là dạy cho có tín, hành
tín và niệm tín. Hai là dạy các giới cấm. Ba là dạy nghe rộng. Bốn là
dạy bố thí. Năm là dạy cho có tuệ, hành tuệ và lập tuệ. Sa-môn, Phạm
chí lấy năm việc ấy để nhớ nghĩ đến thí chủ.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Trên có hai
trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc
Thánh, phương trên là giữa thí chủ và Sa-môn, Phạm chí. Này con nhà Cư
sĩ, nếu người nào tôn kính cúng dường Sa-môn, Phạm chí thì chắc chắn có
sự tăng ích chứ không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, có bốn nhiếp sự. Bốn việc
ấy là gì? Một là huệ thí. Hai là lời nói khả ái. Ba là làm lợi cho
người. Bốn là có lợi cùng chia.”
169. Tại gia: Người
kiếm tài vật tối thượng
126. ‘Kinh Hành Dục’
Đức Thế Tôn dạy: “Này
Cư sĩ, ở đời gồm có mười hạng người hành dục. Những gì là mười?
“Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải
một cách phi pháp vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một cách phi pháp vô
đạo, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy
tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên
cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời sống lâu. Đó là
một hạng người hành dục.
“Lại nữa, này Cư sĩ, có hạng người hành dục
tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một
cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha
mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, nhưng không cúng dường Sa-môn,
Phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi
trời, sống lâu. Đó là một hạng người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm
cầu của cải một cách phi pháp vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một cách
phi pháp vô đạo, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, nuôi cha mẹ, vợ con,
đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên
cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Đó là
một hạng người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm
cầu của cải một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp. Sau khi tìm cầu của cải
một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ,
cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng
dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo,
sanh vào cõi trời, sống lâu. Đó là một hạng người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm
cầu của cải một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp. Sau khi tìm cầu của cải
một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ,
cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, nhưng không cúng
dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh
vào cõi trời, sống lâu. Đó là một hạng người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm
cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một
cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha
mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường Sa-môn, Phạm
chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống
lâu. Đó là một hạng người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm
cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một
cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha
mẹ, vợï con, dầy tớ, người giúp việc, nhưng không cúng dường Sa-môn,
Phạm chí để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời,
sống lâu. Đó là một hạng người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm
cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một
cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha
mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí
để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
Nhưng khi có của cải rồi lại bị đắm nhiễm, hệ lụy. Khi đã bị hệ lụy,
đắm nhiễm, không thấy được tai hoạn, không biết đến sự xuất yếu mà tiêu
dùng. Đó là một hạng người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm
cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một
cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha
mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí
để được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu.
Khi có của cải rồi, không đắm nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy,
không đắm nhiễm, thấy được tai hoạn, biết được sự xuất yếu mà tiêu
dùng. Đó là một hạng người hành dục.
“Này Cư sĩ, nếu có người hành dục tìm cầu của
cải một cách phi pháp vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một cách phi pháp
vô đạo, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy
tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được
lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu, thì kẻ
hành dục này so với các người hành dục khác là thấp hèn nhất.
“Này Cư sĩ, nếu có người hành dục tìm cầu của
cải một cách vừa hợp pháp vừa phi pháp. Sau khi tìm cầu của cải một
cách vừa hợp pháp vừa phi pháp, kẻ ấy tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha
mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí
để được lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu,
thì kẻ hành dục này so với các người hành dục khác là tối thượng.
“Này Cư sĩ, nếu có người hành dục tìm cầu của
cải một cách hợp pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một cách hợp
pháp, phải lẽ, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợ
con, đầy tớ, người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được
lên cõi an vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Khi có
của cải rồi, không đắm nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy, không đắm
nhiễm, thấy được tai hoạn, biết sự xuất yếu khi tiêu dùng, thì kẻ hành
dục này so với các người hành dục khác là tối đệ nhất, tối đại, tối
thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu.
170. Hữu học và vô học
127. ‘Kinh Phước Điền’
Đức Thế Tôn dạy: “Này
Cư sĩ, ở đời có hai hạng người phước điền. Những hạng người nào là
hai? Một là hạng học nhân (Pāli: sekha),
hai là hạng vô học nhân (Pāli: asekha).
“Hạng hữu học có mười tám, hạng vô học có
chín.
“Này Cư sĩ, mười tám hạng người hữu học là
những ai? Là tín hành, pháp hành, tín giải thoát, kiến đảo, thân chứng,
gia gia(Pāli:
Kolankola), nhất chủng, hướng Tu-đà-hoàn,
đắc Tu-đà-hoàn; hướng Tư-đà-hàm, đắc Tư-đà-hàm; hướng A-na-hàm, đắc
A-na-hàm, trung Bát-niết-bàn, sanh Bát-niết-bàn, hành Bát-niết-bàn, vô
hành Bát-niết-bàn, thượng lưu sắc cứu cánh (Pāli: uddhamsota-akanittha-gāmī). Đó là mười tám hạng hữu học.
“Này Cư sĩ, chín hạng người vô học là những
ai? Tư pháp, thăng tấn pháp, bất động pháp, thối pháp, bất thối pháp,
hộ pháp, hộ tắc bất thối bất hộ tắc thối, thật trụ pháp, tuệ giải
thoát, câu giải thoát. Đó là chín hạng vô học.”
171. 7 điều không tốt cho người có tâm nóng
giận
129. ‘Kinh Oán Gia’
“Oán gia thì không muốn oán gia có sắc đẹp.
Vì sao oán gia không muốn oán gia có sắc đẹp? Người hay sân nhuế bị tác
động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không xả bỏ sân nhuế,
thì người ấy tuy luôn tắm gội, dùng danh hương thoa mình, nhưng sắc
thân vẫn xấu. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ
sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ nhất gây thành oán gia khi mà bọn nam
nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia ngủ
nghỉ an lành. Vì sao oán gia không muốn oán gia ngủ nghỉ an lành? Người
hay sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm
không bỏ sân nhuế, thì người ấy tuy nằm trên giường vua, trải bằng thảm
lông chim, phủ bằng gấm vóc lụa là, có nệm mềm, hai đầu kê gối, được
phủ bằng thảm quý, bằng da sơn dương, nhưng giấc ngủ vẫn âu lo, đau
khổ. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân
nhuế. Đó là pháp oán gia thứ hai để gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ
nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia có
lợi lớn. Vì sao oán gia không muốn oán gia có lợi lớn? Người hay sân
nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ
sân nhuế, thì người ấy đáng lẽ được lợi, hai điều ấy không trái nhau,
thật là bất lợi lớn. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm
không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ ba để gây thành oán gia khi
mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia có
bằng hữu. Vì sao oán gia không muốn oán gia có bằng hữu? Người hay sân
nhuế bị tác động bởi tâm sân nhuế, bị chi phối bởi tâm sân nhuế, tâm
không bỏ sân nhuế, thì người ấy nếu có bằng hữu thân thiết, họ cũng tìm
cách lánh mặt bỏ đi. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm
không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ tư để gây thành oán gia khi
mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia có sự
khen ngợi. Vì sao oán gia không muốn oán gia có sự khen ngợi? Người
hay sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm
không bỏ sân nhuế, người ấy danh ô tiếng xấu đồn khắp. Vì sao như vậy?
Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia
thứ năm để gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia quá
giàu sang. Vì sao oán gia không muốn oán gia quá giàu sang? Người hay
sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không
bỏ sân nhuế, người ấy tạo nghiệp thân, khẩu, ý như vậy khiến mất nhiều
tài vật. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân
nhuế. Đó là pháp oán gia thứ sáu để gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ
nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn để oán gia
khi thân hoại mạng chung được đến chỗ an lành, sanh ở cõi trời. Vì sao
oán gia không muốn oán gia đến chỗ an lành? Người hay sân nhuế bị tác
động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế,
thân khẩu ý tạo ác nghiệp. Người ấy sau khi thân, khẩu, ý tạo ác
nghiệp, thân hoại mạng chung chắc chắn đến chỗ ác, sanh trong địa ngục.
Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó
là pháp oán gia thứ bảy để gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên
sân nhuế.
172. Tỷ kheo bị cư sĩ
đuổi ra khỏi chùa
130. ‘Kinh Giáo Đàm Di’
Bấy giờ, Tôn giả Đàm-di (Pāli: Dhammika thera), vị tôn trưởng địa phương làm chủ Phật-đồ (Pāli:
sattasu āvāsesu), được mọi người tôn sùng,
tánh tình hung bạo, nóng nảy, rất cộc cằn thô lỗ, hay mắng nhiếc các vị
Tỳ-kheo. Vì vậy, các vị Tỳ-kheo địa phương đều bỏ đi, không muốn sống ở
đó. Các Ưu-bà-tắc địa phương thấy các vị Tỳ-kheo địa phương đều bỏ đi,
không muốn ở đó, liền nghĩ rằng: “Các vị Tỳ-kheo địa phương này vì sao
lại bỏ đi, không muốn sống ở đây?” Rồi các vị Ưu-bà-tắc địa phương nghe
được rằng: “Tôn giả Đàm-di, vị tôn trưởng địa phương, làm chủ Phật-đồ,
được mọi người tôn sùng, tánh tình hung bạo, nóng nảy, rất cộc cằn thô
lỗ, hay mắng nhiếc các Tỳ-kheo. Vì vậy các Tỳ-kheo địa phương đều bỏ
đi, không muốn sống ở đó.”
Các vị Ưu-bà-tắc nghe việc ấy rồi, liền cùng
nhau kéo đến Tôn giả Đàm-di, xua đuổi ông ra khỏi các chùa địa phương.
173. Thời kỳ A hàm người Ấn đã dung
thuyền vươn ra biển cả
136. ‘Kinh Thương Nhân cầu tài’
Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: “Thuở xưa, tại châu
Diêm-phù, có một số đông thương nhân cùng nhau tụ tập tại nhà khách
buôn. Họ suy nghĩ như vầy: “Chúng ta hãy dong một chiếc thuyền đi biển
mà vào biển lớn, tìm kiếm tài bảo mang về cung cấp những chi dụng trong
gia đình.”
Họ lại suy nghĩ rằng: “Này các bạn, việc đi
biển không thể biết trước là an ổn hay không an ổn. Vậy mỗi người trong
chúng ta nên chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ làm phao nổi trên biển, tức
là gồm túi bằng da dê đen, trái bầu lớn và mững bè.”
Sau đó mỗi người trong bọn họ đều chuẩn bị đầy
đủ các dụng cụ làm phao nổi trên biển, gồm túi bằng da dê đen, trái
bầu lớn và mững bè rồi đi vào biển cả.
“Khi họ đi vào biển cả, vua cá là Ma-kiệt phá
vỡ chiếc thuyền ấy. Các thương nhân này mỗi người đều tự nương vào các
dụng cụ làm phao nổi như túi bằng da dê đen, trái bầu lớn hay mững bè,
rồi trôi đi về các phía.
174. Phương tiện tìm phương hướng của
người xưa khi đi biển
130. ‘Kinh Giáo Đàm Di’
Đàm-di, thuở xưa, ở
châu Diêm-phù này có các thương nhân đi thuyền ra biển, mang theo con ó
tìm bờ. Bọn người ấy ra biển chưa bao xa, họ thả con ó tìm bờ. Nếu con ó
tìm bờ đến được bờ của biển cả, nó sẽ vĩnh viễn không trở lại thuyền.
Nếu con ó tìm bờ không đến được bờø của biển cả, nó sẽ trở lại thuyền.
Ngươi cũng vậy, này Đàm-di, bởi vì ngươi bị các Ưu-bà-tắc địa phương
xua đuổi ra khỏi các chùa địa phương nên ngươi mới trở về chỗ Ta. Thôi,
đủ rồi Đàm-di, còn cần gì phải nói điều đó nữa.”
175.
Tuổi thọ càng ngày càng giảm, đời sống càng ngày càng túng thiếu là do
lòng tham lam của con người
130. ‘Kinh Giáo Đàm Di’
Đức Thế Tôn dạy: “Này
Đàm-di, thuở xưa, khi con người sống đến tám vạn tuổi. Đàm-di, khi con
người sống đến tám vạn tuổi, châu Diêm-phù này cực kỳ giàu sang hạnh
phúc, dân cư đông đúc, thôn ấp gần nhau bằng khoảng một con gà bay.
“Khi con người sống đến tám vạn tuổi, con gái
đến năm trăm tuổi mới lấy chồng. Đàm-di, khi con người sống đến tám vạn
tuổi, chỉ có các bệnh như vầy: đại tiện, tiểu tiện, lòng dục, ăn uống
và già.
“Đàm-di, khi con người sống đến tám vạn tuổi,
có một vị vua tên là Cao-la-bà, thông minh trí tuệ, làm Chuyển luân
vương, có bốn loại binh chủng chỉnh trị thiên hạ; là Pháp vương hành
theo chánh pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu là bánh xe báu, voi báu,
ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu; đó là bảy báu.
Có đủ một ngàn người con, tướng mạo đoan chánh, dũng mãnh vô úy, có thể
khuất phục mọi kẻ địch. Vua ấy thống lãnh tất cả cõi đất đai cho đến
biển cả, không cai trị bằng dao gậy mà chỉ bằng chánh pháp trị hóa,
khiến được an ổn.
“Đàm-di, vua Cao-la-bà có một gốc cây tên là
Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương. Đàm-di, Thiện trụ ni-câu-loại thọ
vương có năm cành. Cành thứ nhất dành cho vua và hoàng hậu ăn. Cành thứ
nhì dành cho thái tử và các quan ăn. Cành thứ ba dành cho nhân dân
trong nước ăn. Cành thứ tư dành cho Sa-môn, Phạm chí ăn. Cành thứ năm
dành cho cầm thú ăn. Đàm-di, quả của cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ
vương lớn bằng cái hủ hai thăng, mùi vị như mật nguyên chất. Đàm-di,
quả Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương không ai canh giữ mà cũng chẳng ai
trộm cắp. Về sau có một người đói khát gầy còm, nhan sắc tiều tụy, muốn
được ăn quả, nó đến cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương ăn quả rồi bẻ
gãy cành cây hái quả đem về. Trên cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương có
một vị trời nương ở đó. Ông ấy nghĩ rằng: ‘Lạ thay, người ở châu
Diêm-phù vô ân, không biết báo đáp. Vì sao? Vì nó ăn quả nơi cây Thiện
trụ ni-câu-loại thọ vương rồi bẻ gãy cành cây, hái quả đem về. Mong cho
cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương không có quả, không sanh quả nữa!’
Tức thì cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương không có quả, cũng không
sanh quả.
“Rồi lại có một người đói khát, gầy còm, nhan
sắc tiều tụy, muốn được ăn quả, đi đến cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ
vương không có quả, cũng không sanh quả, tức thì đến vua Cao-la-bà tâu
rằng: ‘Tâu Thiên vương, nên biết, cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương
không có quả, cũng không sanh quả nữa’. ……………
176. Chuyện ma quỷ
131. ‘Kinh Hàng Ma’
Lúc bấy giờ Đại Mục-kiền-liên đang coi việc
dựng thiền thất cho Phật. Trong lúc Tôn giả đang kinh hành trên khoảng
đất trống, bấy giờ Ma vương hóa hình nhỏ xíu, chui vào trong bụng của
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên. Lúc đó, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nghĩ như
vầy, “Bụng ta cảm thấy nặng, giống như đang ăn phải hạt đậu. Ta hãy
nhập Như kỳ tượng định, bằng Như kỳ tượng định ta nhìn vào bụng xem.”
Rồi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đi đến cuối
đường kinh hành, trải ni-sư-đàn, ngồi xếp kiết già, nhập như kỳ tượng
định, bằng như kỳ tượng định mà nhìn vào bụng mình, Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên thấy Ma vương đang ở trong đó. Tôn giả bèn ra khỏi định,
nói với Ma vương:
“Này Ba-tuần, ngươi hãy đi ra! Này
Ba-tuần, ngươi hãy đi ra! Chớ có xúc nhiễu Như Lai, cũng chớ xúc nhiễu
đệ tử của Như Lai. Đừng sống mãi trong sự vô nghĩa, vô ích mà phải tái
sanh ác xứ, thọ vô lượng khổ.”
177. Ma Ba Tuần phá hoại Phật
pháp
131. ‘Kinh Hàng Ma’
Này Ba-tuần, lúc ấy ác ma nghĩ rằng: ‘Sa-môn
trọc đầu này bị da đen trói chặt, bị tuyệt chủng, không con cái, học
thiền, dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét. Giống
như con lừa trọn ngày mang nặng, bị cột lại trong tàu, không được ăn
lúa mạch, nó dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét;
Sa-môn trọc đầu này bị da đen trói chặt, tuyệt chủng, không con cái,
chúng nó học thiền, dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng
dò xét.
“‘Giống như con mèo ngồi rình bên hang chuột,
vì muốn bắt chuột nên nó dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong
ngóng dò xét; cũng vậy, Sa-môn trọc đầu này bị da đen trói chặt, tuyệt
chủng không con cái, chúng nó học thiền, dò xét, ngong ngóng dò xét,
luôn luôn ngong ngóng dò xét.
“ ‘Cũng giống như con cú mèo ở giữa đống củi
khô, vì muốn bắt chuột nên nó dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn
ngong ngóng dò xét; cũng vậy, Sa-môn trọc đầu này bị da đen trói chặt,
tuyệt chủng không con cái, chúng nó học thiền, dò xét, ngong ngóng dò
xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét.
“ ‘Giống như con chim hạc ở bên bờ nước, vì
muốn bắt cá nên nó dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò
xét; cũng vậy, Sa-môn trọc đầu này bị da đen trói chặt, bị tuyệt chủng
không con cái, chúng nó học thiền, dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn
luôn ngong ngóng dò xét.
“‘Chúng dò xét cái gì? Dò xét với mục đích gì?
Dò xét để mong cái gì? Chúng nó loạn trí, phát cuồng, bại hoại. Ta
chẳng biết chúng nó ở đâu đến, cũng chẳng biết chúng nó đi về đâu,
chẳng biết chúng nó sống ở đâu, chẳng biết chúng nó chết như thế nào,
sanh như thế nào? Ta hãy dạy bảo các Phạm chí, Cư sĩ rằng: ‘Ngươi hãy
đi đến mà chửi, mà đập, mà phá, mà rủa xả Sa-môn tinh tấn kia’. Vì sao
vậy? Khi bị chửi, bị đập, bị phá, bị rủa xả, biết đâu chúng nó chẳng
nổi ác tâm để ta dễ lợi dụng’.
“Bấy giờ ác ma bèn xúi dục các Cư sĩ, Phạm
chí. Các Cư sĩ, Phạm chí ấy chửi, đập phá, rủa xả Sa-môn tinh tấn. Các
Cư sĩ, Phạm chí ấy hoặc dùng cây đánh, hoặc lấy đá ném, hoặc vác gậy
đập, có khi gây thương tích Sa-môn tinh tấn, có khi làm rách toạc áo,
có khi làm bể bình bát. Bấy giờ trong số Cư sĩ Phạm chí ấy do nhân
duyên này thân hoại mạng chung phải đến ác xứ, sanh trong địa ngục.
Chúng sanh vào đó rồi, suy nghĩ như vầy, ‘Ta phải thọ khổ này, lại phải
thọ cực khổ hơn nữa. Vì cớ sao? Vì chúng ta đã đối xử tàn ác với
Sa-môn tinh tấn vậy’.
….
Này ma Ba-tuần, lúc đó ác ma lại nghĩ: ‘Bằng
sự việc ấy ta muốn lợi dụng Sa-môn tinh tấn mà không thể được. Bây giờ
ta hãy xúi dục các Cư sĩ, Phạm chí rằng: ‘Các người hãy đến phụng kính,
cúng dường, lễ sự Sa-môn tinh tấn’. Biết đâu do sự phụng kính, cúng
dường, lễ sự Sa-môn tinh tấn, chúng nó chẳng nổi ác tâm để ta dễ dàng
lợi dụng’.
“Này Ma Ba-tuần, các Cư sĩ, Phạm chí kia sau
khi bị ác ma xúi dục, họ đến phụng kính, cúng dường, lễ sự Sa-môn tinh
tấn. Họ lấy áo trải lên mặt đất mà nói rằng ‘Sa-môn tinh tấn, xin đạp
lên mà đi. Sa-môn tinh tấn thường làm những việc khó làm, khiến cho
chúng tôi mãi mãi được lợi ích, được an ổn khoái lạc’. Hoặc có Phạm chí
trải tóc lên mặt đất, nói rằng ‘Sa-môn tinh tấn, xin đạp lên tóc mà
đi. Sa-môn tinh tấn thường làm những việc khó làm, khiến cho chúng tôi
mãi mãi được lợi ích, được an ổn khoái lạc’. Hoặc có Cư sĩ, Phạm chí
hai tay bưng đủ các loại ẩm thực, đứng bên dưới đợi và nói rằng ‘Sa-môn
tinh tấn, xin nhận vật thực này, xin cứ mang đi tùy ý mà thọ dụng, để
cho tôi mãi mãi được lợi ích, được an ổn khoái lạc’. Các Cư sĩ, Phạm
chí thành tín thấy Sa-môn tinh tấn, cung kính bồng bế vào nhà, đem đủ
thứ tài vật ra cho Sa-môn tinh tấn và nói rằng: ‘Xin thọ nhận cái này,
xin thọ dụng cái này, xin mang cái này đi, tùy ý mà thọ dụng’. Lúc bấy
giờ trong số các Cư sĩ, Phạm chí đó có người chết, do nhân duyên này
thân hoại mạng chung được đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời. Sau khi
sanh vào đó, họ bèn nghĩ ‘Ta đáng thọ hưởng sự an lạc này, lại sẽ thọ
hưởng cực lạc hơn nữa. Vì sao thế? Vì chúng ta đã làm các việc lành với
Sa-môn tinh tấn vậy’
“Này ma Ba-tuần, đệ tử của Đức
Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, sau
khi được phụng kính, cúng dường, lễ sự, họ đi đến Đức
Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác. Lúc
đó Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác
đang thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn đệ tử vây quanh. Khi Đức
Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác trông thấy
từ xa các đệ tử được phụng kính, cúng dường, lễ sự đang đi đến, thấy
vậy, ngài bảo các Tỳ-kheo rằng: ‘Các ngươi có thấy chăng? Ác ma xúi dục
các Cư sĩ, Phạm chí rằng ‘Các ngươi hãy đến phụng kính, cúng dường, lễ
sự Sa-môn tinh tấn’. Biết đâu do phụng kính, cúng dường, lễ sự Sa-môn
tinh tấn, chúng sẽ nổi ác tâm để ta dễ dàng lợi dụng. Này các Tỳ-kheo,
các ngươi hãy quán các hành vô thường, quán các pháp hưng suy, quán vô
dục, quán xả ly, quán diệt, quán đoạn để cho bọn ác ma không thể lợi
dụng’…
178.
Lễ lạy 6 phương và quan điểm của Phật đối với vấn đề này
135. ‘Kinh Thiện Sanh’
Khi người cha sắp lâm chung, nhân sáu phương
mà trối trăn, khéo dạy khéo quở rằng: “Này
Thiện Sanh! Sau khi cha mất, con phải chắp tay mà lạy sáu phương rằng:
‘Ở phương Đông, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính,
cúng dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng
hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.
“Cũng như vậy, phương Nam, phương Tây, phương
Bắc, trên, dưới, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính,
cúng dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng
hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi’.”
Thiện Sanh, con trai Cư sĩ, nghe cha dạy xong,
thưa rằng: “Con xin vâng theo lời cha dạy bảo.”
Sau khi cha mất, vào mỗi sáng sớm, Thiện Sanh
tắm gội xong, mặc áo sô-ma mới, tay cầm lá câu-xá còn tươi, đi đến bờ
sông, chắp tay lạy sáu phương: “Ở
phương Đông, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính,
cúng dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết
lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.
“Cũng như vậy, phương Nam, phương Tây, phương
Bắc, trên, dưới, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính,
cúng dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng
hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.”….
Đức Thế Tôn sau khi nghe như vậy, Ngài nói
rằng: “Này con trai Cư sĩ, Ta nói có sáu phương, chớ không nói là không
có. Này con trai Cư sĩ, nếu có người khéo phân biệt sáu phương, xa lìa
những nghiệp ác bất thiện ở bốn phương, người đó ngay trong đời này
đáng được cung kính, tôn trọng. Sau khi thân hoại mạng chung, chắc chắn
sẽ sanh đến thiện xứ, sanh vào cõi trời. Này con trai Cư sĩ, chúng
sanh có bốn loại nghiệp, bốn loại ô uế. Những gì là bốn? Này con trai
Cư sĩ, sát sanh là một loại nghiệp, một loại ô uế của chúng sanh; lấy
vật không được cho, tà dâm, vọng ngôn, là một loại nghiệp, một loại ô uế
của chúng sanh.”
Này con trai Cư sĩ, con người do bốn việc mà
bị nhiều tội lỗi. Bốn việc đó là gì? Đó là đi theo dục, đi theo sân
hận, đi theo sợ hãi và đi theo ngu si”
“Này con trai Cư sĩ, con người do bốn việc mà
được nhiều phước. Bốn việc đó là gì? Đó là không đi theo dục, không đi
theo sân hận, không đi theo sợ hãi và không đi theo ngu si.”
“Này con trai Cư sĩ, kẻ mong cầu của cải nên
biết sáu điều phi đạo. Sáu điều đó là gì? Một là với mọi chơi bời mà
mong cầu tài vật là phi pháp. Hai là rong chơi không phải lúc mà mong
cầu tài vật là phi pháp. Ba là đam mê rượu chè mà mong cầu tài vật là
phi pháp. Bốn là gần gũi ác tri thức mà mong cầu tài vật là phi pháp.
Năm là đam mê kỹ nhạc mà mong cầu tài vật là phi pháp. Sáu là quen lười
biếng mà mong cầu tài vật là phi pháp.
….
“Này con nhà Cư sĩ, trong pháp luật của bậc
Thánh, có sáu phương: Đông, Nam, Tây, Bắc, Trên, Dưới.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như đối với phương
Đông, con đối với cha mẹ cũng vậy. Người con phải có năm điều thờ kính,
phụng dưỡng cha mẹ. Năm điều đó là gì? Một là tăng thêm của cải. Hai
là cáng đáng mọi việc. Ba là dâng lên cha mẹ những gì người muốn. Bốn
là không tự tác, không trái ý. Năm là tất cả vật riêng của mình đều
dâng hết cha mẹ. Người con làm năm việc như trên để phụng dưỡng, thờ
kính cha mẹ.
“Cha mẹ cũng lấy năm việc để chăm sóc các con.
Năm việc đó là gì? Một là thương yêu con cái. Hai là cung cấp không
thiếu. Ba là khiến con không mang nợ. Bốn là gả cưới xứng đáng. Năm là
cha mẹ có của cải vừa ý đều giao hết cho con. Cha mẹ bằng năm điều ấy
mà chăm sóc các con.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Đông có hai
trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc
Thánh, phương Đông là giữa con và cha mẹ. Này con nhà Cư sĩ, nếu người
từ hiếu với cha mẹ, chắc chắn có sự tăng ích, chứ không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Đông,
phương Nam có hai trường hợp phân biệt. “Học trò đối với thầy nên biết
năm điều thờ kính, phụng dưỡng thầy. Năm điều đó là gì? Một là khéo
cung kính vâng lời. Hai là khéo giúp đỡ, hầu hạ. Ba là hăng hái. Bốn là
nghề nghiệp giỏi. Năm là hay thờ kính thầy. Đệ tử lấy năm điều ấy cung
kính, phụng dưỡng Sư trưởng.
“Sư trưởng cũng dùng năm việc săn sóc đệ tử.
Năm việc đó là gì? Một là dạy cho nên nghề. Hai là dạy dỗ nhanh chóng.
Ba là dạy hết những điều mình biết. Bốn là đặt để ở những chỗ lành. Năm
là gửi gấm bậc thiện tri thức. Sư trưởng lấy năm điều ấy mà săn sóc đệ
tử.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Nam có
hai trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc
Thánh, phương Nam là giữa học trò và thầy. Này con nhà Cư sĩ, nếu người
từ thuận đối với Sư trưởng, chắc chắn có sự tăng ích chứ không có sự
suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Tây, người
chồng đối với vợ cũng vậy. Người chồng nên lấy năm việc mà yêu thương,
cấp dưỡng vợ. Năm việc đó là gì? Một là thương yêu vợ. Hai là không
khinh rẻ. Ba là sắm các thứ chuỗi ngọc, đồ trang điểm. Bốn là ở trong
nhà để vợ được tự do. Năm là xem vợ như chính mình. Người chồng lấy năm
việc để thương yêu, cấp dưỡng vợ.
“Người vợ phải lấy mười ba điều khéo léo kính thuận chồng. Mười ba điều ấy là
gì? Một là thương yêu kính trọng chồng. Hai là cung phụng, kính trọng
chồng. Ba là nhớ nghĩ đến chồng. Bốn là trông nom các công việc. Năm là
khéo tiếp đãi bà con. Sáu là trước mặt đưa mắt hầu đợi. Bảy là sau
lưng thì cử chỉ yêu thương. Tám là lời nói thành thật. Chín là không
khóa kín cửa phòng. Mười là thấy đến thì ca ngợi. Mười một là trải sẵn
giường mà đợi. Mười hai là bày dọn đồ ăn uống ngon lành, sạch sẽ, dồi
dào. Mười ba là cúng dường Sa-môn, Phạm chí. Người vợ lấy mười ba việc
ấy để khéo léo kính trọng chồng.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Tây có hai
trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh,
phương Tây là giữa vợ với chồng. Này con nhà Cư sĩ, nếu người từ mẫn
với vợ, chắc có sự tăng ích, chứ không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Bắc, chủ
nhà đối với tôi tớ cũng như vậy. Người chủ nhà nên lấy năm điều thương
mến chu cấp cho tôi tớ. Năm điều ấy là gì? Một là tùy sức mà sai làm
việc. Hai là tùy lúc mà cho ăn. Ba là tùy lúc cho uống. Bốn là hết ngày
thì cho nghỉ. Năm là bệnh hoạn cho thuốc thang. Chủ nhà lấy năm việc
trên mà thương xót cung cấp cho tôi tớ.
“Tôi tớ cũng nên lấy chín điều mà phụng sự chủ
nhà. Chín điều ấy là gì? Một là tùy thời mà làm việc. Hai là chuyên
tâm vào công việc. Ba là làm tất cả việc. Bốn là trước mặt thì đưa mắt
hầu đợi. Năm là sau lưng thì thương kính mà làm. Sáu là nói lời thành
thật. Bảy là khi chủ hoạn nạn thì không bỏ đi. Tám là đi phương xa thì
nên khen ngợi chủ. Chín là khen chủ nhà là dễ dãi. Tôi tớ lấy chín điều
ấy khéo léo phụng sự chủ nhà.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Bắc có hai
trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh,
phương Bắc là giữa chủ nhà và tôi tớ. Này con nhà Cư sĩ, nếu có người
thương xót tôi tớ, chắn chắn có sự tăng ích chứ không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Dưới, bằng
hữu đối với bằng hữu cũng vậy. Thân hữu nên lấy năm việc để ái kính
cung cấp thân hữu. năm việc ấy là gì? Một là ái kính. Hai là không
khinh mạn. Ba là không dối gạt. Bốn là cho tặng đồ quý. Năm là tìm cách
giúp đỡ. Thân hữu lấy năm việc trên để ái kính, cung cấp thân hữu.
“Thân hữu này cũng lấy năm việc để nhớ nghĩ
đến thân hữu. Năm việc đó là gì? Một là biết của cải hết. Hai là khi
biết của cải hết thì cung cấp của cải. Ba là thấy buông lung thì khuyên
răn. Bốn là thương nhớ. Năm là gặp hoạn nạn thì cho nương tựa. Thân
hữu lấy năm việc ấy để nhớ nghĩ đến thân hữu.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy, phương Dưới có
hai trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong pháp luật của bậc
Thánh là thân hữu đối với thân hữu vậy. Này con nhà Cư sĩ, nếu người
thương xót thân hữu, chắc chắn có sự tăng ích chứ không phải có sự suy
hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Trên, thí
chủ đối với Sa-môn, Phạm chí cũng vậy. Thí chủ nên lấy năm điều để tôn
kính, cúng dường Sa-môn, Phạm chí. Năm điều đó là gì? Một là không đóng
kín cửa. Hai là thấy đến thì tán thán. Ba là trải giường mà đợi. Bốn
là làm các món ăn uống ngon sạch, dồi dào, mà cúng. Năm là đúng như
pháp mà hộ trì. Người thí chủ lấy năm điều trên cung kính cúng dường
Sa-môn, Phạm chí.
“Sa-môn, Phạm chí cũng lấy năm việc để khéo
nhớ nghĩ đến thí chủ. Năm việc ấy là gì? Một là dạy cho có tín, hành
tín và niệm tín. Hai là dạy các giới cấm. Ba là dạy nghe rộng. Bốn là
dạy bố thí. Năm là dạy cho có tuệ, hành tuệ và lập tuệ. Sa-môn, Phạm
chí lấy năm việc ấy để nhớ nghĩ đến thí chủ.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Trên có hai
trường hợp phân biệt. Này con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc
Thánh, phương trên là giữa thí chủ và Sa-môn, Phạm chí. Này con nhà Cư
sĩ, nếu người nào tôn kính cúng dường Sa-môn, Phạm chí thì chắc chắn có
sự tăng ích chứ không có sự suy hao.
179.
Giáo pháp
của Thế Tôn chỉ là những phương tiện đưa người đến giải thoát
136.
‘Kinh Thương Nhân Cầu Tài’
“Này các Tỳ-kheo, Ta nói ví dụ này là muốn cho
biết nghĩa. Ví dụ ấy là nói nghĩa này:
“Pháp của Ta được thuyết giảng khéo léo, phơi
bày sâu rộng, khéo giữ gìn không trống, không khuyết, cũng như cầu, bè,
các dụng cụ làm phao nổi, được lưu bố cùng khắp đến cả trời, người.
“Pháp của Ta được khéo giảng thuyết như vậy,
phơi bày sâu rộng như vậy, khéo giữ gìn, không trống, không khuyết như
vậy, cũng như cầu, bè, các dụng cụ làm phao nổi, được lưu bố cùng khắp
đến cả trời người, đối với pháp ấy, nếu có Tỳ-kheo nào nghĩ rằng ‘Con
mắt là ta; ta sở hữu con mắt. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý là ta; ta sở
hữu ý’; Tỳ-kheo ấy chắc chắn sẽ bị hại, giống như bọn thương nhân bị
quỷ La-sát ăn thịt.
“Pháp của Ta được giảng thuyết khéo léo, phơi
bày sâu rộng như vậy, khéo giữ gìn, không trống, không khuyết như vậy,
cũng như cầu, bè, các dụng cụ làm phao nổi, được lưu bố cùng khắp đến
cả trời người. Nếu có Tỳ-kheo nào nghĩ rằng ‘Mắt không phải là ta. Ta
không sở hữu con mắt. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý không phải là ta. Ta
không sở hữu con mắt’; Tỳ-kheo ấy chắc chắn được an ổn. Ví như thương
nhân cỡi trên Mao mã vương an ổn mà giải thoát nạn.
“Pháp của Ta khéo nói, khéo giảng thuyết như
vậy, phơi bày sâu rộng như vậy, khéo giữ gìn, không trống, không khuyết
như vậy, cũng như cầu, bè, các dụng cụ làm phao nổi, được lưu bố cùng
khắp đến cả trời người. Nếu có Tỳ-kheo nào nghĩ rằng: ‘Sắc là ta. Ta sở
hữu sắc. Thanh, hương, vị, xúc và pháp là Ta. Ta sở hữu pháp’; Tỳ-kheo
ấy chắc chắn sẽ bị hại, giống như bọn thương nhân bị quỷ La-sát ăn
thịt.
“Pháp của Ta khéo nói, phơi bày sâu rộng, khéo
giữ gìn, không trống, không khuyết, ví như chiếc cầu nổi, được lưu bố
cùng khắp đến cả trời người. Nếu các Tỳ-kheo nào nghĩ rằng ‘Sắc không
phải là ta. Ta không sở hữu sắc. Thanh, hương, vị, xúc và pháp không là
Ta. Ta không sở hữu pháp’, Tỳ-kheo ấy chắc chắn được an ổn, giống như
thương nhân kia cỡi trên Mao mã vương mà an ổn được thoát nạn.
“Pháp của Ta khéo nói, phơi bày sâu rộng, khéo
giữ gìn, không trống, không khuyết, ví như chiếc cầu nổi, được lưu bố
cùng khắp đến cả trời người. Nếu có Tỳ-kheo nghĩ rằng ‘Sắc ấm là ta. Ta
sở hữu sắc ấm. Thọ, tưởng, hành, và thức ấm là ta. Ta sở hữu thức ấm’;
Tỳ-kheo ấy chắc chắn sẽ bị hại, giống như thương nhân bị quỷ La-sát ăn
thịt.
“Pháp của Ta khéo nói, phơi bày sâu rộng,
khéo giữ gìn, không trống, không khuyết, ví như chiếc cầu nổi, được lưu
bố cùng khắp đến cả trời người. Nếu có Tỳ-kheo nghĩ rằng ‘Sắc ấm không
là ta. Ta không sở hữu sắc ấm. Thọ, tưởng, hành, và thức ấm không là
ta. Ta không sở hữu thức ấm’, Tỳ-kheo ấy chắc chắn được an ổn, giống
như thương nhân cỡi trên Mao mã vương mà an ổn thoát nạn.
“Pháp của Ta khéo nói, phơi bày sâu rộng, khéo
giữ gìn, không trống, không khuyết, ví như chiếc cầu nổi, được lưu bố
cùng khắp đến cả trời người. Nếu có Tỳ-kheo nghĩ rằng ‘Đất là ta. Ta sở
hữu đất. Cho đến nước, lửa, gió, không và thức là ta. Ta sở hữu thức’,
Vị Tỳ-kheo kia chắc chắn bị hại, giống như thương nhân bị quỷ La-sát
ăn thịt.
“Pháp của Ta khéo nói, phơi bày sâu rộng,
khéo giữ gìn, không trống, không khuyết, ví như chiếc cầu nổi, được lưu
bố cùng khắp đến cả trời người. Nếu có Tỳ-kheo nghĩ rằng ‘Đất là không
ta. Ta không sở hữu đất. Cho đến nước, lửa, gió, không và thức không
là ta. Ta không sở hữu thức’, vị Tỳ-kheo kia chắc chắn được an ổn,
giống như thương nhân nhờ ngồi trên lưng Mao mã vương đưa đến chỗ an
lành.”
180. Pháp nào là pháp cần phải và không cần phải tránh
169.
‘Kinh Câu Lâu Sấu Vô tránh’
“‘Pháp hữu tránh và pháp vô tránh’. Sao gọi là
pháp hữu tránh? Nếu có lạc tương ưng với dục, cùng đi với, là nghiệp
rất hèn hạ, là hạnh phàm phu, pháp này là hữu tránh. Vì những sự kiện
gì mà pháp này là hữu tránh. Vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt
não, có ưu sầu, thuộc về tà hạnh, cho nên nói pháp này là hữu tránh.
Nếu tự thân khổ hạnh, rất khổ, không phải chánh hạnh, không tương ưng
với nghĩa, thì pháp này là hữu tránh. Vì pháp này có khổ, có phiền lao,
có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc về tà hạnh, cho nên nói pháp này là hữu
tránh. Xa lìa hai cực đoan ấy, có trung đạo, tác thành con mắt, tác
thành trí tự tại, thành định, đưa đến trí tuệ, đưa đến giác ngộ và
Niết-bàn, pháp này là vô tránh.
“Vì những sự kiện nào mà pháp này là vô
tránh? Vì pháp này không khổ, không phiền lao, không nhiệt não, không ưu
sầu, thuộc về chánh hạnh, cho nên nói pháp này là vô tránh. Kết sử hữu
mà không đoạn tận, pháp này là hữu tránh. Vì những sự kiện nào mà nói
pháp này là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não,
có ưu sầu, thuộc về tà hạnh, cho nên nói pháp này là hữu tránh.
“Kết sử hữu diệt tận, pháp này là vô tránh. Vì
những sự kiện nào mà nói pháp này là vô tránh? Vì pháp này không khổ,
không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc chánh hạnh, cho
nên nói pháp này không tranh chấp, không mong cầu nội lạc.
“Không cầu nội lạc, pháp ấy là hữu tránh. Vì
những sự kiện nào mà gọi pháp ấy là hữu tránh? Vì pháp này có khổ, có
phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc về tà hạnh, nên nói pháp này
là hữu tránh.
“Mong cầu ở nội lạc, pháp này là vô tránh. Vì
những sự kiện nào mà nói pháp này là vô tránh? Vì pháp này không khổ,
không phiền lao, không nhiệt não, không ưu sầu, thuộc về chánh hạnh,
cho nên nói pháp này là vô tránh.
“Trong đó, nếu có sự lạc nào không phải là
Thánh lạc mà là phàm phu lạc, là gốc của bệnh, gốc của ung nhọt, gốc
của mũi tên châm chích, có thức ăn, có sống chết, không nên tu, không
nên tập, không nên phát triển. Ta nói pháp ấy không nên tu. Pháp này là
hữu tránh. Vì những sự kiện nào mà nói pháp này là hữu tránh? Vì pháp
này có khổ, có phiền lao, có nhiệt não, có ưu sầu, thuộc về tà hạnh,
cho nên nói pháp này là hữu tránh.
“Trong đó nếu có sự lạc nào là lạc của bậc
Thánh, sự lạc nào của vô dục, lạc do ly dục, lạc của tịch tịnh, của
chánh giác, không thức ăn, không có sống chết, nên tu nên tập, nên phát
triển. Ta nói pháp ấy nên tu, pháp này là pháp vô tránh. Vì những sự
kiện nào mà nói pháp này là vô tránh? Vì pháp này không khổ, không có
phiền lao, không có nhiệt não, không có ưu sầu, thuộc về chánh hạnh,
cho nên nói pháp này là vô tránh.
181. Lời dạy của Thế Tôn là
chân thật
137. ‘Kinh Thế Gian’
Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: “Như Lai đã tự mình giác ngộ về thế gian và cũng nói lại cho
người khác. Như Lai biết thế gian. Như Lai tự giác ngộ về sự tập khởi
của thế gian và cũng nói lại cho người khác. Như Lai đoạn trừ thế gian
tập. Như Lai tự giác ngộ sự diệt tận của thế gian và cũng nói cho người
khác. Như Lai chứng ngộ thế gian diệt. Như Lai tự giác ngộ đạo tích
của thế gian và cũng nói cho người khác. Như Lai tu thế gian đạo tích.
“Nếu có tất cả những gì cần đuơc hiểu biết một
cách toàn diện, tất cả những gì điều đó Như Lai đã biết, thấy, giác,
ngộ, chứng đắc. Vì sao vậy? Như Lai từ đêm chứng ngộ Vô thượng chánh
đẳng chánh giác cho đến ngày hôm nay vào lúc ban đêm sẽ đi vào tịch
diệt trong Vô dư Niết-bàn giới; trong khoảng thời gian giữa đó, nếu
những gì được nói ra, được ứng đối từ chính miệng của Như Lai, tất cả
những điều ấy đều là chắc thật, không hư vọng, không ra ngoài sự Như,
cũng không phải là điên đảo. Đó là sự chắc thật, là sự chân thật.
“Nếu nói về sư tử như thế nào, thì hãy nói về
Như Lai cũng như vậy. Vì sao vậy? Như Lai ở giữa đại chúng nếu có giảng
thuyết thì đó chính là tiếng rống của Sư tử.
“Đối với tất cả thế gian, Thiên, Ma, Phạm,
Sa-môn, Phạm chí, từ trời đến người, Như Lai là Phạm Hữu. Như Lai là
Bậc Chí Lãnh vì không phiền cũng không nhiệt. Như Lai là Bậc Chân Thật
không hư vọng.
182.
Nước Ma Kiệt Đà và Bạt Kỳ thù nghịch nhau
142. ‘Kinh Vũ Thế’
Bấy giờ vua nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán
Bệ-đà-đề Tử (Pāli:
Ajātasattu Vedehiputta, Ajātasattu, con trai của bà Vedehi.) cùng với nước Bạt-kỳ (Pāli: Vajjī)thù nghịch nhau, thường ở giữa quyến thuộc nhiều
lần nói rằng: “Người nước Bạt-kỳ có đại như ý túc, có đại oai đức, có
đại phước hựu, có đại oai thần, nhưng ta sẽ diệt trừ giống người
Bạt-kỳ, tàn phá Bạt-kỳ, làm cho nhân dân nước Bạt-kỳ gặp vô số tai
ách.”
183. Đức Phật khuyên vua A Xà Thế không đánh nước Bạt Kỳ vì 7
yếu tố
142. ‘Kinh Vũ Thế’
Đại thần Vũ Thế cùng với Đức Thế Tôn nói lời
chào hỏi rồi ngồi sang một bên, thưa rằng: “Thưa
Cù-đàm, vua nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề Tử thăm hỏi Thánh
thể có được an vui không bệnh, sức lực có được bình thường chăng? Bạch
Sa-môn Cù-đàm, vua nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề Tử, cùng với
nước Bạt-kỳ thù nghịch nhau, thường ở giữa quyến thuộc và nhiều lần
nói rằng: ‘Người nước Bạt-kỳ có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại
phước hựu, có đại oai thần, nhưng ta sẽ diệt trừ giống người Bạt-kỳ,
tàn phá Bạt-kỳ, làm cho nhân dân nước Bạt-kỳ gặp vô số tai ách’. Bạch
Sa-môn Cù-đàm, về vấn đề này Ngài dạy như thế nào?”
“Đức Thế Tôn nghe rồi, bảo rằng: “Này Vũ Thế, xưa kia Ta đã từng đi đến nước Bạt-kỳ. Nước đó có
ngôi chùa tên là Giá-hòa-la. Lúc ấy, này Vũ Thế, Ta giảng nói pháp
không suy thoái cho người nước Bạt-kỳ nghe. Người nước Bạt-kỳ có thể
vâng thọ và thực hành bảy pháp không suy thoái đó. Này Vũ Thế, nếu
người dân nước Bạt-kỳ thực hành được bảy pháp không suy thoái mà không
trái phạm thì nước Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không thể suy vi được.”
Đại thần Vũ Thế bạch Đức Thế Tôn: “Sa-môn Cù-đàm, về việc này chỉ nói một cách tóm tắt, chứ không
phân biệt rộng rãi. Chúng con không thể hiểu được nghĩa này. Kính xin
Sa-môn Cù-đàm phân biệt rộng rãi để chúng con được biết ý nghĩa này.”
Đức Thế Tôn bảo: “Này
Vũ Thế, hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ. Ta sẽ giảng nói rộng rãi ý nghĩa
này cho ông nghe.”
Đại thần Vũ Thế vâng lời, lắng nghe.
Lúc ấy, Tôn giả A-nan đang cầm quạt đứng hầu
Phật, Đức Thế Tôn quay lại hỏi A-nan rằng: “Ngươi
có từng nghe người nước Bạt-kỳ thường xuyên hội họp và tụ tập đông đảo
chăng?
Tôn giả A-nan bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ thường xuyên hội họp
và tụ tập đông đảo.”
Đức Thế Tôn liền bảo đại thần Vũ Thế: “Nếu người nước Bạt-kỳ thường xuyên hội họp và tụ tập đông đảo
thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan: “Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ cùng chung hội họp, cùng
chung làm công việc của người Bạt-kỳ và cùng giải tán?”
“Bạch Đức Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ
cùng chung hội họp, cùng chung làm công việc của người Bạt-kỳ và cùng
giải tán.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế: “Nếu người nước Bạt-kỳ cùng chung hội họp, cùng chung làm công
việc của người Bạt-kỳ và cùng giải tán thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không
thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan: “Ngươi có từng nghe nước Bạt-kỳ đối với những
điều chưa thi thiết thì không thi thiết thêm, những điều đã thi thiết
thì không cải đổi, những pháp cũ xưa của nước Bạt-kỳ thì được nghiêm
chỉnh phụng hành chăng?”
“Bạch Đức Thế Tôn, con nghe nước Bạt-kỳ đối
với những điều chưa thi thiết thì không thi thiết thêm; những điều đã
thi thiết thì không cải đổi; những pháp cũ xưa của nước Bạt-kỳ thì được
nghiêm chỉnh phụng hành.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế: “Nếu nước Bạt-kỳ đối với những điều chưa thi thiết thì không
thi thiết thêm; những điều đã thi thiết thì không cải đổi; những pháp cũ
xưa của nước Bạt-kỳ thì được nghiêm chỉnh phụng hành, thì nước Bạt-kỳ
tất thắng, không thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan: “Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ không ỷ thế mà xâm phạm
vợ của người và con gái của người khác chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ
không ỷ thế mà xâm phạm vợ của người và con gái của người khác.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế: “Nếu người nước Bạt-kỳ không ỷ thế mà xâm phạm
vợ của người và con gái của người khác thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không
thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan: “Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ nếu có những bậc danh đức
đáng tôn trọng thì những người nước Bạt-kỳ cùng nhau tôn kính, cung
phụng, cúng dường chăng? Và họ có nghe lời dạy của những bậc ấy mà làm
theo chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ nếu
có những bậc danh đức đáng tôn kính thì những người nước Bạt-kỳ cùng
nhau tôn kính, cung phụng, cúng dường và họ nghe theo lời dạy của những
bậc ấy mà làm theo.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế: “Này Vũ Thế, nếu người nước Bạt-kỳ có những bậc danh đức đáng
tôn trọng thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau tôn kính, cung phụng, cúng
dường và họ nghe lời dạy của những bậc ấy mà làm theo, thì nước Bạt-kỳ
tất thắng, không thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan: “Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ nếu có chùa cũ nào thì
người nước Bạt-kỳ cùng nhau tu bổ, tuân phụng cúng dường, lễ bái, thường
không bỏ bê những tế tự đã có, không giảm thiểu tập tục đã làm chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ nếu
có chùa cũ nào thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau tu bổ, tuân phụng cúng
dường, lễ bái, thường không bỏ bê những tế tự đã có, không giảm thiểu
tập tục đã làm.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế: “Nếu nước Bạt-kỳ có chùa cũ nào thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau
tu bổ, tuân phụng, cúng dường, lễ bái, thường không bỏ bê những tế tự
đã có, không giảm thiểu tập tục đã làm, thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không
thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan: “Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ thảy đều ủng hộ các vị
A-la-hán và vô cùng kính mến, thường mong muốn các vị A-la-hán chưa đến
thì đến, đã đến rồi thì mong hằng an trụ lâu dài, thường không để các
vị ấy thiếu thốn các nhu dụng sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường
chõng, thuốc thang chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ thảy
đều ủng hộ các vị A-la-hán và vô cùng kính mến, thường mong muốn các
vị A-la-hán chưa đến thì đến, đã đến rồi thì mong hằng an trụ lâu dài,
thường không để các vị ấy thiếu thốn các nhu dụng sinh sống như quần
áo, đồ ăn uống, giường chõng, thuốc thang.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế: “Nếu người nước Bạt-kỳ thảy đều ủng hộ các vị A-la-hán và vô
cùng kính mến, thường mong muốn các vị A-la-hán chưa đến thì đến, đã đến
rồi thì mong hằng an trụ lâu dài, thường không để các vị ấy thiếu thốn
các nhu dụng sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường chõng, thuốc
thang, thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi được.
“Này Vũ Thế, người nước Bạt-kỳ đã thực hành
bảy pháp không suy thoái này. Nếu vâng giữ bảy pháp không suy thoái này
thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi được.”
184. 7 nguyên tắc làm cho Tăng già không bị
suy yếu
142. ‘Kinh Vũ Thế’
Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng Tôn giả A-nan đi đến
giảng đường, trải chỗ ngồi trước chúng Tỳ-kheo rồi nói với các thầy
Tỳ-kheo: “Nay Ta sẽ nói cho các ngươi nghe về bảy pháp
không suy thoái. Các ngươi hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ kỹ.”
Lúc ấy các Tỳ-kheo bạch Phật rằng: “Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
(1) “Nếu chúng Tỳ-kheo thường xuyên hội họp,
tụ tập đông đảo thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy
thoái.
(2) “Nếu chúng Tỳ-kheo cùng chung hội, cùng
chung làm việc chung và cùng giải tán thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững
mạnh, không thể suy thoái.
(3) “Nếu chúng Tỳ-kheo đối với những việc chưa
thi thiết thì không thêm; những việc đã thi thiết thì không thay đổi;
những giới luật do Ta nói ra được phụng hành nghiêm chỉnh; thì chúng
Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
(4) “Nếu chúng Tỳ-kheo không bị chi phối bởi
hữu ái đưa đến vị lai, hiện hành với hỷ dục, ái lạc đời sống như vầy
như kia, thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
(5) “Nếu chúng Tỳ-kheo có bậc trưởng lão
thượng tôn đồng học phạm hạnh, các Tỳ-kheo thảy đều tôn kính, cung
phụng, cúng dường và nghe theo lời dạy của các vị ấy, thì chúng Tỳ-kheo
chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
(6) “Nếu chúng Tỳ-kheo đối với rừng vắng, sườn
núi cao, chỗ thanh tịnh nhàn cư, vắng bặt không có tiếng động, xa lánh
sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà tĩnh tọa, hoan lạc an trụ
không rời, thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
(7) “Nếu chúng Tỳ-kheo thảy đều ủng hộ các vị
phạm hạnh, hết sức tôn trọng, ái kính, thường mong muốn các vị phạm
hạnh chưa đến thì đến, đã đến rồi thì hằng mong an trụ lâu dài, thường
không để các vị ấy thiếu thốn những nhu dụng sinh sống như quần áo, đồ
ăn uống, giường chõng, thuốc thang, thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững
mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành bảy pháp không
suy thoái này, thọ trì, không trái phạm thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn
vững mạnh, không thể suy thoái.”
185. Có 4 hiện tượng khiến chúng ta tin tưởng
Thế Tôn
146. ‘Kinh Tượng Tích Dụ’
Phạm chí Sanh Văn hỏi: “Có
biết Sa-môn Cù-đàm ở nơi trống vắng yên tĩnh học trí tuệ chăng?”
Dị học Ti-lô đáp: “Phạm
chí, hạng người nào mà có thể biết Thế Tôn ở nơi trống vắng yên tĩnh
học trí tuệ? Này Phạm chí, nếu biết Thế Tôn ở nơi trống vắng yên tĩnh,
học trí tuệ thì cũng phải bằng Thế Tôn. Nhưng, này Phạm chí, kinh thơ
mà tôi đọc có bốn cú nghĩa (Pāli: Samanne Gotame cattāri padāni,
bốn dấu chân nơi Sa-môn Gatama.) và do bốn
cú nghĩa này mà tôi nhất định tin tưởng Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được nói bởi Thế Tôn là toàn thiện, Thánh
chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng.
“Này Phạm chí, cũng như thợ săn voi rành nghề,
đi rảo trong một khu rừng, ở giữa rừng cây nhìn thấy dấu chân voi to
lớn, thấy rồi thì nhất định tin tưởng con voi này phải là rất lớn mới
có dấu chân như vậy. Này Phạm chí, tôi cũng như vậy. Trong kinh thơ mà
tôi đọc có bốn cú nghĩa, do bốn cú nghĩa này mà tôi nhất định tin rằng
Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được nói bởi
Thế Tôn là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú hướng.
“Bốn cú nghĩa ấy là thế nào?
“Này Phạm chí, các luận sĩ Sát-lợi có trí tuệ,
học rộng, quyết định, có thể khuất phục người đời, không thứ gì là
không biết, rồi đem những điều được thấy mà tạo tác văn chương, lưu
hành trong thế gian. Họ nghĩ như vầy, ‘Ta đến chỗ Sa-môn Cù-đàm hỏi sự
việc như vầy, nếu trả lời được, Ta lại hỏi nữa. Nếu không trả lời được,
Ta khuất phục rồi bỏ đi’. Họ nghe Thế Tôn đang trú tại một thôn ấp nào
đó, bèn tìm đến. Sau khi gặp Thế Tôn, hỏi còn không dám, há lại nói
đến sự khuất phục. Này Phạm chí, kinh thư mà tôi đã đọc dùng được cho
cú nghĩa thứ nhất này. Nhân ý nghĩa này, tôi nhất định tin rằng Thế Tôn
là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được nói bởi Thế Tôn
là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú hướng.
“Cũng vậy, những Phạm chí có trí tuệ, những Cư
sĩ có trí tuệ, những luận sĩ Sa-môn có trí tuệ, đa văn, quyết định, có
khả năng khuất phục người đời, không điều gì là không biết, rồi đem
những điều được thấy tạo tác văn chương lưu hành thế gian. Họ nghĩ như
vầy, ‘Ta đến chỗ Sa-môn Cù-đàm hỏi sự việc như vầy, nếu trả lời được,
Ta lại hỏi nữa. Nếu không trả lời được, Ta khuất phục rồi bỏ đi’. Họ
nghe Thế Tôn đang trú tại một thôn ấp nào đó, bèn tìm đến. Sau khi gặp
Thế Tôn, hỏi còn không dám, há lại nói đến sự khuất phục. Này Phạm chí,
kinh thư mà tôi đã đọc dùng được cho cú nghĩa thứ tư này. Nhân ý nghĩa
này, tôi nhất định tin rằng Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, pháp được nói bởi Thế Tôn là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử
của Như Lai khéo thú hướng.
“Này Phạm chí, kinh thơ mà tôi được đọc có bốn
cú nghĩa này. Tôi do bốn cú nghĩa này mà nhất định tin tưởng rằng Thế
Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được Thế Tôn nói
là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng.”
186. Sự khác biệt giữa người tu tập và không tu tập
147. ‘Kinh Văn Đức
Này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử ban ngày làm
các công nghiệp cốt để mưu cầu lợi ích, nhưng công nghiệp của họ thất
bại, không thành. Khi những công nghiệp của họ thất bại không thành, họ
không ưu sầu, phiền muộn, khóc than; không vật mình, áo não; cũng
không phát cuồng. Này Phạm chí, nếu Đa văn Thánh đệ tử ban ngày làm các
công nghiệp mà những công nghiệp ấy thất bại không thành; dù những
công nghiệp ấy đã thất bại không thành, họ vẫn không ưu sầu phiền muộn,
khóc than; không vật mình áo não; cũng không phát si phát cuồng, này
Phạm chí, đó là bác văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử có
những yêu thương mà bị đổi thay, tán thất, không còn sum họp, cách biệt
chia lìa, nhưng vẫn không ưu sầu phiền muộn, khóc than; không vật mình
áo não, cũng không phát si phát cuồng. Này Phạm chí, nếu da văn Thánh
đệ tử có những yêu thương mà bị đổi thay, tán thất, không còn sum họp,
cách biệt, chia lìa, nhưng vẫn không ưu sầu, phiền muộn, khóc than;
không vật mình áo não, cũng không phát si phát cuồng, này Phạm chí, đó
là bác văn tụng tập mà có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử
biết rằng những tài vật sở hữu này thảy đều vô thường, nên nghĩ đến sự
xuất gia học đạo. Này Phạm chí, nếu Đa văn Thánh đệ tử biết rằng những
tài vật sở hữu thảy đều vô thường nên nghĩ đến sự xuất gia học đạo, này
Phạm chí, đó là bác văn tụng tập mà có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử sau
khi biết rằng tài vật sở hữu thảy đều vô thường, bèn cạo bỏ râu tóc,
chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo. Này Phạm chí,
nếu Đa văn Thánh đệ tử sau khi biết rằng những sở hữu tài vật thảy đều
vô thường, bèn cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình
sống không gia đình học đạo, này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập mà có
sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử
có thể nhẫn nại đói khát, lạnh nóng, muỗi mòng, chí rận, gió nắng bức
bách, tiếng dữ, gậy hèo cũng có thể nhẫn; thân thể gặp các thứ bệnh tật
rất đau đớn đến gần như tuyệt mạng và những điều không khả lạc thảy đều
có thể nhẫn nại. Này Phạm chí, nếu Đa văn Thánh đệ tử có thể kham nhẫn
đói khát, lạnh nóng, muỗi mòng, chí rận, gió nắng bức bách, tiếng dữ,
gậy hèo cũng có thể nhẫn; thân thể gặp các bệnh tật rất đau đớn đến gần
như tuyệt mạng và những điều không khả lạc thảy đều có thể nhẫn nại,
thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập mà có sự sai biệt, có công đức
này………..
187. Nỗi khổ của người tại gia và xuất gia khác nhau
148. ‘Kinh Hà Khổ’
Phạm chí Sanh Văn bèn hỏi: “Cù-đàm, người tại gia
có những sự khổ nào? Và người xuất gia có những khổ nào?”
Đức Thế Tôn trả lời rằng: “Người tại gia vì không
được tự do mà khổ. Người xuất gia vì tự do mà khổ.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi: “Cù-đàm, tại sao người
tại gia vì không được tự do mà khổ? Và tại sao người xuất gia vì tự do
mà khổ?”
Thế Tôn đáp: “Nếu người tại gia mà
tiền tài không tăng trưởng, kim ngân, chơn châu, lưu ly, thủy tinh thảy
đều không tăng trưởng; súc mục, lúùa, gạo cùng nô tỳ, sai dịch cũng
không tăng trưởng; lúc bấy giờ người tại gia ưu sầu, khổ não. Do sự
kiện này mà người tại gia có nhiều ưu tư khổ nhọc, trong lòng mang nhiều
sầu bi.
“Này Phạm chí, nếu người xuất gia học đạo mà
sống theo dục vọng, theo sân nhuế, ngu si, lúc bấy giờ xuất gia học đạo
có nhiều ưu sầu khổ não. Do sự kiện này mà có người xuất gia có nhiều
ưu tư khổ nhọc, trong lòng chất nhiều sầu bi.
“Này Phạm chí, như vậy người tại gia vì không
được tự do mà khổ, và người xuất gia học đạo vì tự do mà khổ.”
188. Niềm vui của người tại gia và xuất gia
khác nhau
148. ‘Kinh Hà Khổ’
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi: “Cù-đàm, tại gia có
những gì là hoan lạc? Và xuất gia học đạo có những gì là hoan lạc?”
Thế Tôn đáp: “Tại gia vì tự do mà
được hoan lạc, xuất gia học đạo vì không tự do mà được hoan lạc”.
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi: “Cù-đàm, tại sao tại gia
vì tự do mà được hoan lạc? Và tại sao xuất gia học đạo vì không tự do
mà được hoan lạc?”
Thế Tôn đáp: “Này Phạm chí, nếu người
tại gia mà được tiền tài tăng trưởng, kim ngân, chơn châu, lưu ly,
thủy tinh đều được tăng trưởng; súc mục, lúa gạo và nô tỳ, sai dịch
cũng đều được tăng trưởng. Lúc bấy giờ tại gia là khoái lạc, hoan hỷ.
Do sự kiện này mà người tại gia có nhiều khoái lạc hoan hỷ.
“Này Phạm chí, người xuất gia học đạo sống
không tùy theo dục vọng, không tùy theo sân nhuế, lúc bấy giờ xuất gia
học đạo là khoái lạc hoan hỷ. Do sự kiện này mà người xuất gia học đạo
có nhiều khoái lạc hoan hỷ.
“Này Phạm chí, như vậy người tại gia vì tự do
mà được hoan lạc, người xuất gia vì không tự do mà được hoan lạc.”
189.
Ước mơ của
vua là gì?
149. ‘Kinh Hà Dục’
Phạm chí Sanh Văn hỏi rằng: “Cù-đàm, người Sát-lợi ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập
bằng cái gì? Y cứ trên sự gì? Có mục đích gì?”
Thế Tôn đáp:
“Người Sát-lợi ước muốn được tài vật, thực hành nơi trí tuệ, thiết lập
bằng gươm dao, y cứ trên nhân dân, lấy tự do làm mục đích.”
190.
Ước mơ của
cư sĩ là gì?
149. ‘Kinh Hà Dục’
Phạm chí Sanh Văn hỏi: “Người
Cư sĩ ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ trên sự
gì? Có mục đích gì?”
Thế Tôn đáp:
“Người Cư sĩ ước muốn được tài vật. Thực hành nơi trí tuệ. Thiết lập
bằng kỹ thuật. Y cứ trên nghề nghiệp. Lấy sự cứu cánh của nghề nghiệp
làm mục đích
191.
Ước mơ của
người nữ là gì?
149. ‘Kinh Hà Dục’
Phạm chí Sanh Văn hỏi: “Cù-đàm,
đàn bà ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ trên sự
gì? Có mục đích gì?”
Thế Tôn đáp: “Đàn bà ước muốn được đàn ông. Thực hành sự
trang điểm. Thiết lập bằng con cái. Y cứ trên sự không đối thủ. Lấy tự
do làm mục đích.”
192.
Ước mơ của
kẻ cướp là gì?
149. ‘Kinh Hà Dục’
Phạm chí Sanh Văn hỏi: “Cù-đàm,
trộm cướp ước muốn cái gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ
trên sự gì? Có mục đích gì?
Thế Tôn đáp:
“Trộm cướp ước muốn lấy của không cho. Thực hành nơi chỗ lén lút. Thiết
lập bằng gươm dao. Y cứ nơi bóng tối. Lấy sự không bị khám phá làm mục
đích”.
193.
Ước mơ của
Sa-môn là gì?
149. ‘Kinh Hà Dục’
Phạm chí Sanh Văn hỏi: “Sa-môn
ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ trên sự gì? Có
mục đích gì?”
Thế Tôn đáp:“Sa-môn ước muốn được chân lý,
thực hành nơi trí tuệ, thiết lập bằng giới, y cứ trên vô xứ, lấy
Niết-bàn làm mục đích.”
194. Giai
cấp Bà La Môn
151.
‘Kinh Phạm Chí A Nhiếp Hoà’ (Pāli M.93 Assalāyana-sutta)
“Dòng Phạm chí là
hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng, ngoài ra đều là
da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí thì không được
thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm thiên, được hóa
sanh bởi Phạm thiên.”
195. Trong 4 giai cấp, giai cấp nào phục vụ cho giai cấp nào
150. ‘Kinh Uất Sấu Ca La’
Phạm chí Uất-sấu-ca-la bèn hỏi rằng: “Thưa Cù-đàm, Phạm chí thiết lập bốn loại phụng sự cho bốn
chủng tánh, tức thiết lập loại phụng sự cho Phạm chí, loại phụng sự cho
Sát-lợi, cho Cư sĩ (Pāli: Vessa),
cho Công sư (Pāli: Sudda Thủ-đà-la),).
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại phụng sự
cho Phạm chí, tức là Phạm chí phải phụng sự Phạm chí; Sát-lợi, Cư sĩ và
Công sư cũng phải phụng sự Phạm chí. Này Cù-đàm, bốn chủng tánh này
phải phụng sự Phạm chí.
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại phụng sự
cho Sát-lợi tức là Sát-lợi phải phụng sự cho Sát-lợi; Cư sĩ và Công sư
cũng phải phụng sự cho Sát-lợi. Này Cù-đàm, ba chủng tánh này phải
phụng sự Sát-lợi.
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại phụng sự
cho Cư sĩ, tức là Cư sĩ phải phụng sự Cư sĩ, Công sư cũng phải phụng sự
Cư sĩ. Này Cù-đàm, hai chủng tánh này phải phụng sự cho Cư sĩ.
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại phụng sự
cho Công sư, tức là Công sư phải phụng sự Công sư. Ai thấp hèn hơn nữa
để được chủ trương phải phụng sự Công sư? Duy chỉ có Công sư phụng sự
Công sư.”
151.
‘Kinh Phạm Chí A Nhiếp Hoà’
“Này Ma-nạp, chúng tôi một số đông các Phạm
chí ở Câu-tát-la nhóm họp tại học đường, cùng nhau bàn luận như thế
này, ‘Dòng Phạm chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí
da trắng, ngoài ra đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải
Phạm chí thì không được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ
miệng Phạm thiên, được hóa sanh bởi Phạm thiên. Nhưng Sa-môn Cù-đàm
nói: bốn chủng tánh thảy đều thanh tịnh, với sự giảng giải, hiển thị’.
Những vị ấy nghĩ như thế này, ‘Này chư Hiền, ai là người có khả năng
đến Sa-môn Cù-đàm, đem sự kiện này đúng như pháp mà cật vấn?’ Họ lại
nghĩ như thế này, ‘A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp được cha mẹ sinh ra
với sự thọ sanh thanh tịnh, cho đến bảy đời cha mẹ không dứt tuyệt
dòng họ, đời đời không có tiếng xấu, nghe nhiều hiểu rộng, đọc thuộc
bốn kinh điển, thấu suốt nhân duyên, chánh văn, hí truyện ngũ, cú
thuyết. A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp có khả năng để có thể đến
Sa-môn Cù-đàm, đem sự kiện này đúng như pháp mà cật vấn’.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp nói với các
Phạm chí rằng: “Này chư Hiền, Sa-môn Cù-đàm đúng như
pháp mà thuyết pháp. Nếu đúng như pháp mà thuyết pháp thì không thể cật
vấn.”
Số đông Phạm chí ở Câu-tát-la nói rằng:
“Này Ma-nạp, ngươi chưa bị khuất phục thì chưa thể tự mình
chịu khuất phục trước. Vì sao? Vì A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp do
cha mẹ sinh ra với sự thọ sanh thanh tịnh, cho đến bảy đời cha mẹ không
dứt tuyệt dòng họ, đời đời không làm các việc ác, nghe nhiều hiểu
rộng, đọc thuộc bốn bộ kinh điển, thấu suốt nhân duyên, chánh văn, hí
truyện ngũ, cú thuyết. A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp có khả năng để
có thể đến Sa-môn Cù-đàm, đem sự kiện này đúng như pháp mà cật vấn.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bèn im lặng
nhận lời số đông Phạm chí ở Câu-tát-la. Rồi
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp cùng với số đông Phạm chí ở Câu-tát-la
đến chỗ Phật, cùng chào hỏi, rồi ngồi qua một bên mà bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, con có
điều muốn hỏi, mong Ngài nghe cho chăng?”
Đức Thế Tôn nói rằng: “Này
Ma-nạp, hãy tùy ý mà hỏi.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp hỏi rằng:
“Thưa Cù-đàm, các Phạm chí nói như thế này, ‘Dòng tộc Phạm
chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng, ngoài
ra đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí thì
không được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm
thiên, được hóa sanh bởi Phạm thiên’. Nhưng chưa biết Sa-môn Cù-đàm sẽ
nói như thế nào?”
Đức Thế Tôn nói rằng: “Nay Ta
hỏi ngươi, hãy tùy theo sự hiểu biết mà trả lời.
“Này Ma-nạp, ngươi có nghe nói ở nước Dư-ni (Pāli: Yoni, tên một nước ở Tây bắc Ấn-độ) và Kiếm-phù (Pāli: Kamboja, tên nước,
thuộc địa phương A-phú-hãn ngày nay) chỉ có
hai chủng tánh là chủ nhân và đầy tớ; sau khi làm chủ nhân, lại trở
thành đầy tớ; sau khi làm đầy tớ lại trở thành chủ nhân chăng?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng: “Bạch Cù-đàm, con nghe tại hai nước
Dư-ni và Kiếm-phù có hai chủng tánh, chủ nhân và đầy tớ; chủ nhân làm
đầy tớ, đầy tớ làm chủ nhân.”
“Như vậy, này Ma-nạp, nếu Phạm chí có thú
hướng chân chánh thì Phạm chí ấy được hiểu biết rõ và tự tri đúng như
pháp. Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư nếu hướng đến chân chánh cũng được sự
hiểu biết khéo léo và tự tri đúng như pháp.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, thật là thích
thú với ví dụ này. Nhưng các Phạm chí vẫn nói như thế này, ‘Dòng tộc
Phạm chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng,
ngoài ra đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí
thì không được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm
thiên, được hóa sanh bởi Phạm thiên’.”
Đức Thế Tôn hỏi rằng: “Này
Ma-nạp, ngươi nghĩ sao? Phải chăng chỉ độc nhất có Phạm chí đối với hư
không này mà không bị dính, không bị trói, không bị xúc chạm, không bị
ngăn ngại; còn Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư thì không như vậy sao?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, Phạm chí đối với hư không này không bị dính,
không bị trói, không bị xúc chạm, không bị ngăn ngại; Sát-lợi, Cư sĩ
hay Công sư cũng vậy.”
“Như vậy, này Ma-nạp, nếu Phạm chí có thú
hướng chân chánh thì Phạm chí ấy được hiểu biết rõ và tự tri đúng như
pháp. Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư nếu hướng đến chân chánh cũng được sự
hiểu biết khéo léo và tự tri đúng như pháp.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, thật là thích
thú với ví dụ này. Nhưng các Phạm chí vẫn nói như thế này, ‘Dòng tộc
Phạm chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng,
ngoài ra đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí
thì không được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm
thiên, được hóa sanh bởi Phạm thiên’.”
Đức Thế Tôn hỏi rằng: “Này
Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Phải chăng chỉ có Phạm chí mới có thể hành từ
tâm, không kết, không oán, không nhuế, không tránh? Còn Sát-lợi, Cư sĩ
hay Công sư thì không như vậy?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, Phạm chí
có thể hành từ tâm, không kết, không oán, không nhuế, không tránh.
Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư cũng như vậy.”
“Như vậy, này Ma-nạp, nếu Phạm chí có thú
hướng chân chánh thì Phạm chí ấy được hiểu biết rõ và tự tri đúng như
pháp. Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư nếu hướng đến chân chánh cũng được sự
hiểu biết khéo léo và tự tri đúng như pháp.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, thật là thích
thú với ví dụ này. Nhưng các Phạm chí vẫn nói như thế này, ‘Dòng tộc
Phạm chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng,
ngoài ra đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí
thì không được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm
thiên, được hóa sanh bởi Phạm thiên’.”
Đức Thế Tôn hỏi rằng: “Này
Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Nếu có những người thuộc một trăm chủng tộc
khác nhau đến, và có người nói với họ rằng, ‘Các ngươi hãy đến đây. Nếu
ai sanh trong chủng tộc Sát-lợi hay chủng tộc Phạm chí thì những người
ấy mới có thể mang bột tắm đến nước mà tắm, tắm rửa thật sạch cấu
bẩn’. Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Chỉ những người trong chủng tộc
Sát-lợi hay chủng tộc Phạm chí thì những người ấy mới có thể mang bột
tắm đến nước tắm rửa cho thật sạch các cấu bẩn chăng? Hay những người
trong chủng tộc Cư sĩ, chúng tộc Công sư, những người này không thể
mang bột tắm đến nước mà tắm rửa cho thật sạch các cấu bẩn? Hay tất cả
mọi người trong một trăm chủng tộc khác nhau vẫn có thể mang đậu tắm
đến nước mà tắm rửa thật sạch các cấu bẩn?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, tất cả mọi
người trong trăm chủng tộc khác nhau ấy đều có thể mang đậu tắm đến
nước mà tắm rửa thật sạch các cấu bẩn.
“Như vậy, này Ma-nạp, nếu Phạm chí có thú
hướng chân chánh thì Phạm chí ấy được hiểu biết rõ và tự tri đúng như
pháp. Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư nếu hướng đến chân chánh cũng được sự
hiểu biết khéo léo và tự tri đúng như pháp.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, thật là thích
thú với ví dụ này. Nhưng các Phạm chí vẫn nói như thế này, ‘Dòng tộc
Phạm chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng,
ngoài ra đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí
thì không được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm
thiên, được hóa sanh bởi Phạm thiên’.”
Đức Thế Tôn hỏi rằng: “Này
Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Nếu có người thuộc một trăm chủng tộc khác
nhau đến, và có người nói với họ rằng, ‘Các người hãy đến đây. Nếu ai
sanh trong chủng tộc Sát-lợi hay chủng tộc Phạm chí, chỉ những người ấy
mới có thể dùng nhánh sa-la rất khô hay gỗ chiên-đàn làm mồi lửa, rồi
lấy dùi mà dùi cho lửa phát ra và cháy lớn lên’. Này Ma-nạp, ý ngươi
nghĩ sao? Chỉ những người trong chủng tộc Sát-lợi và chủng tộc Phạm
chí, những người này mới có thể dùng nhánh sa-la rất khô hay gỗ
chiên-đàn làm mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát ra lửa và cháy lớn
lên chăng? Hay những người trong chủng tộc Cư sĩ, chủng tộc Công sư,
những người này cũng sẽ dùng nhánh sa-la rất khô, hay gỗ chiên đàn làm
mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát ra lửa và cháy lớn lên? Hay những
người thuộc một trăm chủng tộc khác nhau đều có thể dùng bất cứ loại gì
mà làm mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát ra lửa và cháy lớn lên?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, tất cả những người trong một trăm chủng tộc
khác nhau kia đều có thể dùng bất cứ loại gỗ nào làm mồi lửa, rồ lấy
dùi mà dùi cho phát ra lửa và cháy lớn lên.”
196.
Thế nào gọi là giai cấp Bà La Môn
158.
‘Kinh Đầu Na’
Này Cù-đàm nếu ai
đáng xưng là Phạm chí, thì người ấy phải được cha mẹ sanh ra với sự thọ
sanh thanh tịnh, cho đến bảy đời cha mẹ không tuyệt chủng tộc, đời đời
không ác, học rộng, trì chú, tụng đọc tinh thông bốn bộ điển kinh, thấu
triệt nhân duyên, chánh văn, truyện giải trí, thứ năm là văn phạm. Này
Cù-đàm, người đáng gọi là Phạm chí thì chính là tôi vậy. Vì sao? Vì
tôi được cha mẹ thọ sanh thanh tịnh, cho đến bảy đời cha mẹ, chủng tộc
không tuyệt, đời đời không ác, học rộng, trì chú, tinh thông bốn bộ
điển kinh, thấu triệt nhân duyên, chánh văn, truyện giải trí và văn
phạm.”
197. Thế Tôn không chấp nhận chế độ phụng sự của 4 giai cấp
150. ‘Kinh Uất Sấu Ca La’ (Tham khảo
154. ‘Kinh Bà La Bà Đường’, 158. ‘Kinh Đầu Na’)
Thế Tôn hỏi rằng: “Này
Phạm chí, các Phạm chí có tự mình biết rõ khi thiết lập bốn loại phụng
sự cho bốn chủng tánh này; thiết lập loại phụng sự cho Phạm chí, thiết
lập loại phụng sự cho Sát-lợi, cho Cư sĩ, cho Công sư?”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la đáp: “Không biết rõ, Cù-đàm. Nhưng các Phạm chí tự nói như vầy, ‘Ta ở
trong đời này, chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người đến
trời, Phạm chí không tự mình biết rõ khi thiết lập bốn loại phụng sự cho
bốn chủng tánh, tức thiết lập loại phụng sự cho Phạm chí, thiết lập
loại phụng sự cho Sát-lợi, thiết lập loại phụng sự cho Cư sĩ, thiết lập
loại phụng sự cho Công sư’.”
Thế Tôn nói: “Này Phạm chí, cũng như một người
đưa cho người khác một miếng thịt, bắt ép và nói rằng ‘Này ông bạn,
hãy ăn đi và hãy trả tiền cho tôi’. Này Phạm chí, ngươi nói cho các
Phạm chí ấy cũng giống như vậy. Vì sao? Vì Phạm chí không tự mình biết
rõ khi thiết lập bốn loại phụng sự cho bốn chủng tánh, tức thiết lập
loại phụng sự cho Phạm chí, thiết lập loại phụng sự cho Sát-lợi, cho Cư
sĩ, cho Công sư.”
Thế Tôn lại hỏi: “Này
Phạm chí, thế nào là phụng sự? Có loại phụng sự, do sự phụng sự này mà
chỉ có hạ liệt, chứ không có sự ưu thắng. Loại phụng sự này chăng? Có
loại phụng sự, do sự phụng sự này mà có sự ưu thắng, chứ không có sự hạ
liệt. Loại phụng sự này chăng?
“Này Phạm chí, nếu phụng sự Phạm chí và do sự
phụng sự này mà có sự hạ liệt chứ không có sự ưu thắng. Loại phụng sự
này chăng?
“Phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư, do sự phụng
sự này mà có sự hạ liệt chứ không có sự ưu thắng. Loại phụng sự này
chăng?
“Này Phạm chí, nếu phụng sự Phạm chí, do sự
phụng sự này mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt. Loại phụng sự
này chăng?
“Phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư, do sự phụng
sự này mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt. Loại phụng sự này
chăng?”
Uất-sấu-ca-la đáp:“Cù-đàm, nếu tôi phụng sự và
do sự phụng sự này mà có sự hạ liệt chứ không có sự ưu thắng, tôi
không nên phụng sự như vậy.
“Nếu tôi phụng sự, do sự phụng sự này mà có sự
ưu thắng chứ không có sự hạ liệt, tôi nên phụng sự như vậy.
“Này Cù-đàm, nếu phụng sự Phạm chí và do sự
phụng sự này mà có sự hạ liệt chứ không có sự ưu thắng, tôi không nên
theo loại phụng sự này.
“Nếu phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự
phụng sự này mà có sự hạ liệt chứ không có sự ưu thắng, tôi không nên
phụng sự như vậy.
“Này Cù-đàm, nếu phụng sự Phạm chí và do sự
phụng sự này mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt, tôi nên phụng
sự như vậy.
“Nếu phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự
phụng sự này mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt, tôi nên phụng
sự như vậy.”………..
198. Chân lý không tùy thuộc vào quan điểm chủ
trương
152.
‘Kinh Anh Vũ’
Ma-nạp Anh Vũ thưa: “Bạch
Cù-đàm, mong Ngài khéo nghe cho. Bạch Cù-đàm, Phạm chí chủ trương thứ
nhất là pháp Chân đế, có quả báo lớn, có công đức lớn, tạo phước được
thiện; pháp thứ hai là Tụng tập; pháp thứ ba là Nhiệt hành; pháp thứ tư
là Khổ hạnh. Bạch Cù-đàm, Phạm chí chủ trương pháp thứ năm là Phạm
hạnh có quả báo lớn, có công đức lớn, tạo phước, được thiện.”
Đức Thế Tôn nói: “Nếu các
Phạm chí chủ trương năm pháp này có quả báo lớn, có công đức lớn, tạo
phước, được thiện; vậy trong số những Phạm chí ấy, có Phạm chí nào nói
như thế này: ‘Tôi đối với năm pháp này, ngay trong đời hiện tại, sau
khi đã tự tri, tự giác, tự tác chứng, tôi nói lên kết quả của chúng.’?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn: “Bạch
Cù-đàm, không có.”
Thế Tôn nói: “Có vị Tôn sư
hay Tổ sư nào, cho đến bảy đời cha mẹ nói như thế này, ‘Tôi đối với năm
pháp này, ngay trong đời hiện tại, sau khi đã tự tri, tự giác, tự tác
chứng, tôi nói lên kết quả của chúng.’?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn: “Bạch
Cù-đàm, không có.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi: “Này
Ma-nạp, xưa kia có những Phạm chí tuổi thọ hết, mạng chung, đã tụng
trì kinh thư, đã truyền bá kinh thư, đã tụng tập kinh điển: một là
Dạ-tra (Pāli: Aṭṭhaka), hai là Bà-ma (Pāli: Vāmaka), ba là Bà-ma-đề-bà (Pāli: Vāmadeva), bốn là Tỳ-xa-mật-đa-la (Pāli:
Vessāmitta), năm là Dạ-bà-đà-kiền-ni (Pāli:
Yamataggi), sáu là Ứng-nghi-la-bà (Pāli:
Angīrasa), bảy là Bà-tư-tra (Pāli:
Vāseṭṭha), tám là Ca-diếp (Pāli:
Kassapa), chín là Bà-la-bà (Pāli:
Bhāradvājā), mười là Bà-hòa. Nay các Phạm
chí đối với các kinh điển ấy tụng tập, thọ trì, học hỏi. Nhưng họ có
nói như thế này: ‘Tôi đối với năm pháp này, ngay trong đời hiện tại, sau
khi đã tự tri, tự giác, tự tác chứng, tôi nói lên kết quả của
chúng.’?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn: “Không có.
Nhưng các Phạm chí ấy do tin mà thọ trì.”
Đức Thế Tôn nói: “Trong các Phạm chí, không có
một Phạm chí nào nói như vầy, ‘Tôi đối với năm pháp này, ngay trong
đời hiện tại, sau khi đã tự tri, tự giác, tự tác chứng, tôi nói lên kết
quả của chúng.” Và cũng không có vị Tôn sư hay Tổ sư nào, cho đến bảy
đời cha mẹ nói như thế này, ‘Tôi đối với năm pháp này, ngay trong đời
hiện tại, sau khi đã tự tri, tự giác, tự tác chứng, tôi nói lên kết quả
của chúng.’
“Xưa kia có những Phạm chí tuổi thọ hết, mạng
chung, đã tụng trì kinh thư, đã truyền bá kinh thư, đã tụng tập điển
kinh: một là Dạ-tra, hai là Bà-ma, ba là Bà-ma-đề-bà, bốn là
Tỳ-xa-mật-đa-la, năm là Dạ-bà-đà-kiền-ni, sáu là Ứng-nghi-la-bà, bảy là
Bà-tư-tra, tám là Ca-diếp, chín là Bà-la-bà, mười là Bà-hòa. Nay các
Phạm chí đối với các kinh điển ấy, tụng tập, thọ trì, học hỏi, nhưng họ
không nói như vầy, ‘Tôi đối với năm pháp này, ngay trong đời hiện tại,
sau khi đã tự tri, tự giác, tự tác chứng, tôi nói lên kết quả của
chúng.’ Thế thì này Ma-nạp, các Phạm chí ấy há không vì sự kiện này mà
trong sự tin tưởng có thiếu căn bản chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch: “Bạch Cù-đàm, thật sự
không căn bản. Nhưng các Phạm chí nghe rồi thọ trì.”
Đức Thế Tôn nói: “Ví như một đám người mù dắt
nhau, người trước không thấy người ở sau, cũng không thấy người ở giữa;
người giữa không thấy người ở trước, cũng không thấy người ở sau;
người ở sau không thấy người ở giữa, cũng không thấy người ở trước. Này
Ma-nạp, Ta nói các Phạm chí cũng như vậy. Này Ma-nạp, trước ngươi nói
là do tin, sau đó ngươi nói là do nghe.”
Ma-nạp Anh Vũ liền tức giận Đức Thế Tôn, hằn
học, không vui, phỉ báng Thế Tôn, chỉ trích Thế Tôn, mạ lỵ Thế Tôn, và
nghĩ rằng, ‘Cần phải phỉ báng Cù-đàm, cần phải chỉ trích Cù-đàm, cần
phải hạ nhục Cù-đàm.’ Liền nói với Đức Thế Tôn:
“Này Cù-đàm, có một Phạm chí tên là
Phất-ca-sa-sa-la, thuộc chủng tánh thuần khiết, không gián đoạn, nói
như thế này: ‘Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào cho rằng mình đã thấy, đã
biết, đã chứng đắc pháp Thượng nhân; sau khi nghe như vậy, Ta bèn cả
cười, không thể chấp nhận được. Đó là sự láo khoét, không chân thật,
không đúng như pháp. Làm sao con người sanh trong loài người mà tự nói
là được pháp Thượng nhân? Nếu ai nói rằng: Tôi biết, tôi thấy pháp
Thượng nhân, thì sự kiện ấy là không hợp lý.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nghĩ như thế này:
“Ma-nạp Anh Vũ, con ông Đô-đề phẫn nộ đối với Ta, hằn học, không vui,
phỉ báng Ta, chỉ trích Ta, mạ lỵ Ta, nghĩ rằng: ‘Cần phải phỉ báng
Cù-đàm, cần phải chỉ trích Cù-đàm, cần phải hạ nhục Cù-đàm.’ Liền nói
với Đức Thế Tôn: ‘Này Cù-đàm, có một Phạm chí tên là Phất-ca-sa-sa-la,
thuộc chủng tánh thuộc chủng tánh thuần khiết, không gián đoạn, nói như
thế này: ‘Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào cho rằng mình đã thấy, đã biết,
đã chứng đắc pháp Thượng nhân; sau khi nghe như vậy, Ta bèn cả cười,
không thể chấp nhận được. Đó là sự láo khoét, không chân thật, không
đúng như pháp. Làm sao con người sanh trong loài người mà tự nói là
được pháp Thượng nhân? Nếu ai nói rằng: Tôi biết, tôi thấy pháp Thượng
nhân, thì sự kiện ấy là không hợp lý’.”
Đức Thế Tôn biết thế nên nói: “Này Ma-nạp, có
phải Phạm chí tên là Phất-ca-sa-sa-la, thuộc chủng tánh thuần khiết,
không gián đoạn, ông ấy biết điều mong nghĩ trong tâm của hết thảy
Sa-môn, Phạm chí rồi mới nói như thế này: ‘Nếu có Sa-môn, Phạm chí nào
cho rằng mình đã thấy, đã biết, đã chứng đắc pháp Thượng nhân; sau khi
nghe như vậy, Ta bèn cả cười, không thể chấp nhận được. Đó là sự láo
khoét, không chân thật, không đúng như pháp. Làm sao con người sanh
trong loài người mà tự nói là được pháp Thượng nhân? Nếu ai nói rằng:
Tôi biết, tôi thấy pháp Thượng nhân, thì sự kiện ấy là không hợp
lýchăng?’”
Ma-nạp Anh Vũ đáp: “Bạch Cù-đàm, Phạm chí Phất-ca-sa-sa-la,
thuộc chủng tánh thuần khiết, không gián đoạn, có một nữ tỳ tên là
Bất-ni nhưng đối với tâm niệm của nữ tỳ tên là Bất-ni. Nhưng đối với
tâm niệm của nữ tỳ này, ông còn không thể biết, huống nữa là biết tâm
tư của tất cả Sa-môn, Phạm chí! Nếu cho rằng ông ấy biết, thì sự kiện
này không thể có.”
Thế Tôn nói: “Cũng như người sanh ra đã mù;
người ấy nói như thế này, ‘Không có màu đen, màu trắng, cũng không thấy
màu đen, màu trắng; không có sắc tốt, sắc xấu, cũng không thấy sắc
tốt, sắc xấu; không có sắc ngắn, sắc dài, cũng không thấy sắc ngắn, sắc
dài; không có sắc gần, sắc xa, cũng không thấy sắc gần, sắc xa; không
có sắc thô, sắc tế, cũng không thấy sắc thô, sắc tế; vì ta không bao
giờ thấy, không bao giờ biết, cho nên nói không có màu sắc.’ Người mù
bẩm sinh kia nói như vậy là đúng sự thật chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn: “Bạch Cù-đàm, không phải vậy. Vì sao? Vì
có màu đen, màu trắng, cũng có người thấy màu đen, màu trắng; có sắc
tốt, sắc xấu, cũng có người thấy sắc tốt, sắc xấu; có sắc ngắn, sắc
dài, cũng có người thấy sắc ngắn, sắc dài; có sắc gần, sắc xa, cũng có
người thấy sắc gần, sắc xa; có sắc thô, sắc tế, cũng có người thấy sắc
thô, sắc tế. Nếu nói, ‘Tôi không hề thấy, không hề biết, cho nên nói
không có màu sắc,’ thì người mù bẩm sinh nói như vậy là không đúng sự
thật.”
“Này Ma-nạp, Phạm chí Phất-ca-sa-sa-la, thuộc
chủng tánh thuần khiết, không gián đoạn; lời nói của ông ấy có khác gì
hạng người mù bẩm sinh, không có mắt kia chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn: “Bạch Cù-đàm,
như mù vậy.”
Đức Thế Tôn nói: “Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ
sao? Nếu xưa kia có những Phạm chí, tuổi thọ hết, mạng chung, đã tụng
trì kinh thư, đã truyền bá kinh thư, đã tụng tập điển kinh; đó là các
Phạm chí Thương-già, Phạm chí Sanh Văn, Phạm chí Phất-ca-sa-sa-la và
Đô-đề, thân phụ ngươi; những điều mà họ nói, được chấp nhận hay không
được chấp nhận? Chân thật hay không chân thật? Có cao, có thấp chăng?”
Ma-nạp Anh Vũ bạch Đức Thế Tôn: “Nếu xưa kia
có những Phạm chí, tuổi thọ hết, mạng chung, đã tụng trì kinh thư, đã
truyền bá kinh thư, đã tụng tập điển kinh, đó là các Phạm chí Thương
gia, Phạm chí Sanh Văn, Phạm chí Phất-ca-sa-sa-la và Đô-đề, thân phụ
con; những điều được nói ấy; thì theo ý con, họ mong được chấp nhận,
không mong không được chấp nhận; mong là chân thật, không mong không
phải là chân thật; mong là sự cao thượng, không mong là sự thấp hèn.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi: “Này Ma-nạp, Phạm chí
Phất-ca-sa-sa-la, thuộc chủng tánh thuần khiết, không gián đoạn; điều
mà ông ấy nói, há không phải là không được chấp nhận, không có sự được
chấp nhận? Là không chân thật, không có sự chân thật? Há không phải là
rất thấp hèn, không có cái gì cao?”
Ma-nạp Anh Vũ thưa Đức Thế Tôn: “Thật vậy,
bạch Cù-đàm.”
“Lại nữa, này Ma-nạp, có năm pháp gây chướng
ngại, gây che lấp, làm cho mù, không có mắt, có thể diệt mất trí tuệ,
gây ra sự nhọc nhằn vô ích, không chứng đắc Niết-bàn. Những gì là năm?
Này Ma-nạp, pháp thứ nhất là dục, gây chướng ngại, gây che lấp, làm cho
mù, không có mắt, có thể diệt mất trí tuệ, gây ra sự nhọc nhằn vô ích,
không chứng đắc Niết-bàn. Này Ma-nạp, sân nhuế, thân kiến, giới thủ và
thứ năm là nghi, gây chướng ngại, gây che lấp làm cho mù, không có
mắt, có thể diệt mất trí tuệ, gây ra sự nhọc nhằn vô ích, không chứng
đắc Niết-bàn.
199. Bố thí
đúng pháp
155.
‘Kinh Tu Đạt Đa’
Đức Thế Tôn bảo: “Này Cư sĩ,
dù bố thí những thức thô xấu, hay bố thí những thức mỹ diệu, thì đều có
quả báo. Nhưng này Cư sĩ, nếu bố thí những thức thô xấu, không tín mà
bố thí, không cố tâm bố thí, không tự tay bố thí, không tự mình đến bố
thí, không tư duy mà bố thí, không do tín mà bố thí, không quán nghiệp
và quả báo mà bố thí, thì nên quán rằng sẽ thọ báo đúng như thế, tâm
không muốn được nhà đẹp, không muốn được xe đẹp, không muốn áo chăn
đẹp, không muốn được đồ ăn thức uống ngon, không muốn được ngũ dục công
đức tốt. Vì sao? Vì không chí tâm mà hành bố thí. Này Cư sĩ, nên biết
rằng, sẽ thọ báo đúng như thế.
“Này Cư sĩ, nếu bố thí những thức thô xấu
nhưng có tín mà bố thí, có tâm bố thí, tự tay bố thí, tự mình đến bố
thí, tư duy mà bố thí, do tín mà bố thí, quán nghiệp và quả báo mà bố
thí, thì nên quán rằng sẽ thọ báo đúng như thế, là do tâm muốn được nhà
đẹp, muốn được xe đẹp, muốn được áo chăn đẹp, muốn được đồ ăn thức
uống ngon, muốn được ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Vì chí tâm mà bố
thí. Này Cư sĩ, nên biết rằng, sẽ thọ báo đúng như thế.
“Này Cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu,
không tín mà bố thí, không cố tâm bố thí, không tự tay bố thí, không tự
mình đến bố thí, không tư duy mà bố thí, không do tín mà bố thí, không
quán nghiệp và quả báo mà bố thí, thì nên quán rằng sẽ thọ báo đúng
như thế, tâm không muốn được nhà đẹp, không muốn được xe đẹp, không
muốn áo chăn đẹp, không muốn được đồ ăn thức uống ngon, không muốn được
ngũ dục công đức tốt. Vì sao? Vì không chí tâm mà hành bố thí. Này Cư
sĩ, nên biết rằng, sẽ thọ báo đúng như thế.
“Này Cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu, lại
có tín mà bố thí, tự tay bố thí, tự mình đến bố thí, tư duy mà bố thí,
do tín mà bố thí, quán nghiệp và quả báo mà bố thí, thì nên quán rằng
sẽ thọ báo đúng như thế, là do tâm muốn được nhà đẹp, muốn được xe đẹp,
muốn áo chăn đẹp, muốn đồ ăn thức uống ngon, muốn được ngũ dục công
đức tốt đẹp. Vì sao? Vì chí tâm mà bố thí. Này Cư sĩ, nên biết rằng, sẽ
thọ báo đúng như thế.
200. Quá khứ hiện tại và vị lai
165.
‘Kinh Ôn Tuyên Lâm Tuyền’
Này chư Hiền, nếu vậy xin hãy nghe tôi nói.
“Này chư Hiền, thế nào là Tỳ-kheo truy niệm quá khứ? Này chư
Hiền, Tỳ-kheo quả thật có sắc được biết bởi mắt, khả hỷ, ý niệm, sắc
ái, tâm lạc tương ưng với dục, tâm mò bắt cái gốc. Gốc tức quá khứ vậy.
Thức quá khứ vị ấy bị nhiễm trước dục; do thức nhiễm trước dục, vị ấy
hoan lạc. Do hoan lạc, vị ấy truy niệm quá khứ. Tai, mũi, lưỡi và thân
cũng vậy. Quả thật có sắc được biết bởi mắt, khả hỷ, ý niệm, sắc ái,
tâm lạc tương ưng với dục, tâm mò bắt cái gốc. Gốc tức quá khứ vậy.
Thức quá khứ vị ấy bị nhiễm trước dục; do thức nhiễm trước dục, vị ấy
hoan lạc. Do hoan lạc, vị ấy truy niệm quá khứ.
“Này chư Hiền, sao gọi là Tỳ-kheo không truy
niệm quá khứ? Này chư Hiền, Tỳ-kheo quả thật có sắc được biết bởi mắt,
khả hỷ, ý niệm, sắc ái, tâm lạc tương ưng với dục, tâm mò bắt cái gốc.
Gốc tức quá khứ vậy. Thức quá khứ vị ấy không bị nhiễm trước dục; do
thức không bị nhiễm trước dục, nên không hoan lạc nơi đó. Do không hoan
lạc nơi đó nên không truy niệm quá khứ. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy,
quả thật có sắc được biết bởi mắt, khả hỷ, ý niệm, sắc ái, tâm lạc
tương ưng với dục, tâm mò bắt cái gốc. Gốc tức quá khứ vậy. Thức quá
khứ vị ấy không bị nhiễm trước dục; do thức không nhiễm trước dục, vị
ấy không hoan lạc. Do không hoan lạc, vị ấy không truy niệm quá khứ.
Này chư Hiền, như vậy đó là Tỳ-kheo không truy
niệm quá khứ.
“Này chư Hiền, sao gọi là Tỳ-kheo mong ước vị
lai? Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo có mắt, sắc và thức con mắt, đối với vị
lai những gì chưa được thì muốn được, đã được rồi thì tâm mong ước. Do
tâm mong ước nên hoan lạc nơi đó. Do hoan lạc nên mong ước vị lai. Tai,
mắt, nũi, lưỡi, thân cũng như vậy. Đối với vị lai, những gì chưa được
thì muốn được. Đã được thì tâm mong ước. Do tâm mong ước nên tâm hoan
lạc nơi đó. Do hoan lạc nên mong ước vị lai. Này chư Hiền, như vậy đó
là Tỳ-kheo mong ước vị lai.
“Này chư Hiền, sao gọi là Tỳ-kheo không mong
ước vị lai? Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo có mắt, sắc và thức con mắt, đối
với vị lai những gì chưa được thì không muốn được, đã được rồi thì tâm
không mong ước. Do tâm không mong ước nên không hoan lạc nơi đó. Do
không hoan lạc nơi đó nên không mong ước vị lai. Này chư Hiền, như vậy
đó gọi là Tỳ-kheo mong ước vị lai.
“Này chư Hiền, sao gọi là Tỳ-kheo chấp thủ
pháp hiện tại? Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo có mắt, sắc và thức con mắt,
đối với hiện tại, vị ấy thức hiện tại bị nhiễm trước dục. Do thức bị
nhiễm trước dục nên hoan lạc nơi ấy. Do hoan lạc nên chấp thủ pháp hiện
tại. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy, nếu có ý, pháp và ý thức, đối với
hiện tại, vị ấy thức hiện tại bị nhiễm trước dục. Do bị nhiễm trước dục
nên hoan lạc nơi ấy. Do hoan lạc nên chấp thủ pháp hiện tại. Này chư
Hiền, như vậy đó là Tỳ-kheo chấp thủ pháp hiện tại.
“Này chư Hiền, sao gọi là Tỳ-kheo không chấp
thủ pháp hiện tại? Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo có mắt, sắc và thức con
mắt, đối với hiện tại, vị ấy thức hiện tại không bị nhiễm trước dục. Do
thức không bị nhiễm trước dục nên không hoan lạc nơi ấy. Do hoan lạc
nên không chấp thủ pháp hiện tại. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy, nếu ý,
pháp và ý thức, đối với hiện tại, vị ấy thức hiện tại không bị nhiễm
trước dục. Do thức không bị nhiễm trước dục nên hoan lạc nơi ấy. Do
không hoan lạc nên không chấp thủ pháp hiện tại. Này chư Hiền, như vậy
đó là Tỳ-kheo không chấp thủ pháp hiện tại.
166.
‘Kinh Thích Trung Thiền Thất Tôn’
Đức Thế Tôn nói cho các Tỳ-kheo nghe bài kệ
Tôn giả Lô-di-cường-kỳ như vầy:
Cẩn thận, đừng nghĩ quá khứ;
Tương lai cũng chớ mong cầu.
Quá khứ đã qua, đã mất,
Tương lai chưa đến, còn xa.
Hiện tại những gì đang có
Thì nên quán sát suy tư.
Niệm niệm mong manh không chắc,
Người khôn biết vậy nên tu.
Nếu có làm theo hạnh Thánh,
Ai hay nỗi chết ưu sầu.
Nhất định tránh xa sự chết;
Hiểm nguy, khổ lớn dứt trừ.
Như vậy thực hành tinh tấn,
Ngày đêm không chút biếng lười.
Vì vậy phải thường tụng đọc
Bạt-địa-la-đế kệ này
[1]
Pāli: svākkhato bhagavato
dhammo suppaṭipanno sāvakasaṅgho, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, Tăng đệ tử của Thế
Tôn khéo thực hành.
[2]
Danh tánh chủng, chỉ Tỳ-kheo
chỉ có danh tự, chứ không có thực chất (?). Pāli: Gotrabhuno.
[3]
Tức bốn hành: không an ổn, an
ổn, điều phục và tịch tịnh. Chúng đệ tử Phật hành ba loại sau. Tham
chiếu Pāli, D. 33. Saṅgīti-suttanta: catasso paṭipadā: akkhamā paṇipadā (không
kham nhẫn), khamā paṭipadā (kham nhẫn), damā paṭipadā (điều phục), samā paṭipadā (tịch tĩnh).
[4]
Trừ sự, trong kinh 215, tám thắng xứ được
gọi là tám trừ xứ, nhưng ở đây trừ sự có thể chỉ cho bốn thông hành
(xem kinh số 215 ở sau).
[5]
Hành lai du, tham khảo Pháp Uẩn 3 (No.1537,
Đại 26, trang 463 b), được gọi là Pháp tùy, tức tám chi
Thánh đạo. Chúng đệ tử của Phật tùy thuận du lịch thiệp hành trong
đó.
[6]
Mười sự thành tựu trên đây,
trừ những thành tựu: nhu nhuyến, nhẫn và lạc,
còn lại có thể so với những đức tánh Tăng bảo thường được tán
thán, mà theo văn của Tập Dị và Pháp Uẩn như vầy: “Cụ túc diệu
hành, chất trực hành, pháp tùy pháp hành, hòa kỉnh hành, tùy pháp
hành”.
[7]
Kiến lai kiến quả; Xem Tập Dị (No.1536, Đại 26, trang
402): hữu y kiến, hữu quả kiến.
[8]
Thị xứ phi xứ:
trường hợp đúng và trường hợp
sai.
[9]
Pāli: thānāthānakusala (xứ phi
xứ thiện xảo).
[10]
Kiến đế nhân, đây chỉ vị
Tu-đà-hoàn.
[11]
Mạng hành thanh tịnh, sinh
hoạt, hay sự nuôi sống, thanh tịnh. Pāli: parisuddho ājīvo.
[12]
Vị phẫn tránh cố 謂
忿 諍 故; vì sự phẫn nộ và tranh cãi. Pāli: yatvādhikaraṇam enam…, do nguyên nhân gì
mà… Trong bản Hán, adhikaraṇa,
nguyên nhân, được hiểu là sự tranh cãi
[13]
Thú hướng bỉ cố 趣 向 彼 故; Pāli: (akusalā dhammā) anvāssaveyyṃ, (các pháp bất thiện) có thể khởi lên (trôi chảy vào
tâm).
[14]
Yển tọa 燕 坐; ngồi nơi chỗ vắng vẻ. Pāli:
patisallāna.
[15]
Nội hành chỉ 內 行 止. Pāli:
ajjhattaṃ cetosamathānuyutto.
[16]
Chỉ Tỳ-kheo A-lan-nhã, tu theo
hạnh chỉ sống trên rừng. Pāli: araññaka.
[17]
Pāli: cittaṃ vasaṃ vatteti, no... cittassa vasena
vatteti, (Tỳ-kheo chế ngự tâm chứ không phải bị tâm chế ngự).
[18]
Hành chân thật không bất điên
đảo. Pāli: Yathābhuccā avipallatthā parisuddhā sunnatāvakkam. Thâm
nhập không tánh, chân thật, thanh tịnh, không điên đảo. Bốn từ này ở
đây được coi là đồng nghĩa.
[19]
Hán: niệm nhất vô sự tưởng
念 一 無 事 想. Pāli:
araññasaññaṃ paṭicca manasi
karoti ekattaṃ, duyên vào ý tưởng về khu rừng mà
tác ý cái một. Duyên vào ý tưởng rừng mà tập trung trên một đối
tượng duy nhất, nhất tánh.
[20]
Phiền sư, Pāli:
ācariyūpaddava, bất hạnh, hay nguy hại cho thầy.
[21]
Mâu-lê-phá-quần-na
牟 犁 破 群 那. Pāli: Moliyaphagguna.
[22]
Ngũ
ngôn đạo 五 言 道 hay
ngũ ngữ lộ 五 語 珞.
Xem Tập Dị 13, No.1536, Đại 26, tr.421c). Pāli: Pañca Vacanapathā.
[23]
Ca-la-lại 迦 羅 賴. Pāli: Kīṭagiri.
[24]
Câu giải thoát tức Câu phần
giải thoát 俱 分 解 脫. Gọi là Cu phần vì có hai phần
chướng, phiền não phần chướng và giải thoát phần chướng (xem Tập Dị
Môn Luận 17, Đại 26 tr.436a). Pāli: Ubhatobhāgavimutta.
[25]
Thân xúc 身 觸; Tập Dị (đd.,nt.): Thân dĩ chứng 身 已 證. Pāli:
santā vimokhā atkkama rūpe āruppā te kāyena phassitvā viharati, tịch
tịnh giải thoát, vượt qua các sắc và vô sắc, sau khi thể nghiệm bằng
thân, vị ấy an trụ.
[26]
Tuệ kiến, Pāli: paññāya cassa
divā, sau khi thấy bằng tuệ.
[27]
Kiến đáo 見 到, cũng gọi là kiến chí. Pāli: diṭṭhipatto.
[28]
Tức là bậc Thánh này căn cứ
trên địa vị tùy pháp hành (xem dưới) chứng đắc Đạo loại trí, với sự
bén nhạy của tuệ (Tập Dị đd., tr.435c Cu-xá đd., nt.). Pāli:
paññāya vodiṭṭhā honti vocaritā, do tuệ mà quán
sát và thấu triệt.
[29]
Sa-di Châu-na 沙 彌 周 那. Pāli: Cunda samaṇuddesa. Được
đồng với Mahā-Cunda em ruột ngài Sāriputta và đắc quả A-na-hàm trong
lúc là Sa-di.
[30]
Đạo và đạo tích. Pāli: magge
vā hi patipadāya, tranh chấp trong các vấn đề liên hệ Thánh đạo và
sự tu tập Thánh đạo.
[31]
Có 18 tránh sự, theo các Luật
tạng. Trong đây chỉ nêu 16. Hai điều thuyết và phi thuyết đề cập
riêng.
[32]
Chỉ tránh 止 諍 hay nói là diệt tránh pháp 滅 諍 法; Pāli:
adhikaraṇa-samathā.
[33]
Thuật ngữ theo Luật Tứ Phần:
1. Hiện tiền tì-ni (Pāli: sammukhāvinaya), 2. Ức niệm tì-ni
(sativinaya), 3. Bất si tì-ni (amūḷhavinaya), 4.
Tự ngôn trị (paṭiññayā kāretabbaṃ), 5. Đa nhân ngữ (yebhuyyasikā), 6. Tội xứ sở
(tassapāyikā), 7. Như thảo phú địa (tiṇavatthāraka)ø.
[34]
Thánh bát chi trai
聖 八 支 齋. Pāli: atthaṅga samannāgato upasatho hay
ariyūposatha.