TAM LUẬN TÔNG
Khai tổ: Bồ Tát Long Thụ vào khoảng thế kỷ 2 – 3 ở Ấn Độ, tiếp theo là
Ka-na-đề-bà vào khoảng thế kỷ 3.
Cưu-ma-la-thập truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ 5.
Huệ
Quán truyền sang Nhật Bản vào năm 625.
Giáo lý căn bản: Trung luận và Thập nhị môn luận của Bồ Tát Long Thụ.
Bách
luận của Ka-na-đề-bà.
Tông chỉ: Phát triển giáo lý trung đạo, xem đó là cứu cánh rốt ráo của
thiền định, xóa bỏ mọi ý tưởng về có và không.
LỊCH SỬ
Học phái này lấy ba bộ luận là Trung luận, Thập nhị môn luận và Bách
luận làm tông chỉ, vì vậy nên gọi là Tam luận tông. Phần luận thuyết
trong ba bộ luận này khá bao quát, nên tạo ra cho Tam luận tông một phạm
vi giáo lý rộng hơn so với một số tông khác chỉ gói gọn tông chỉ trong
một bộ kinh hoặc luận duy nhất.
Tam luận tông nhấn mạnh giáo lý trung đạo, không nghiêng hẳn về một bên.
Một mặt, giáo lý của tông này khác hẳn với các tông thuộc Tiểu thừa. Một
mặt, tuy không thuộc hẳn về Đại thừa nhưng luận thuyết của tông này lại
có tính cách rất gần gũi với các tông thuộc Đại thừa. Vì thế, học thuyết
Tam luận tông vừa có thể chỉ ra những chỗ sai lầm hoặc thiếu sót của
Tiểu thừa, vừa có thể giúp cho người học đạo dễ dàng hơn trong việc tiếp
thu giáo lý Đại thừa.
Cũng như Câu-xá tông và Thành thật tông, Tam luận tông ngày nay không
còn nữa. Nhưng ba bộ luận kể trên vẫn còn lưu truyền, và tên tuổi của Bồ
Tát Long Thụ vẫn mãi mãi được những người học Phật nhớ đến.
Bồ Tát Long Thụ, vị khai tổ của Tam luận tông, cũng là vị Tổ sư thứ mười
bốn của Thiền tông Ấn Độ. Ngài sống vào khoảng cuối thế kỷ 2, đầu thế kỷ
3, nhưng chưa xác định được niên đại chính xác. Trong ba bộ của Tam luận
tông, ngài là tác giả của hai bộ. Các luận sư đồng thời đều khâm phục
tài biện luận của ngài. Mặc dù tinh thông cả Tam tạng kinh điển, nhưng
ngài nghiêng về tạng Luận nhiều hơn. Người đương thời gọi ngài là Phật
Thích-ca tái thế. Tương truyền rằng ngài cũng chính là tác giả của kinh
Na-tiên Tỳ-kheo, một tác phẩm có nội dung biện luận với nhiều ý nghĩa
rất thú vị đối với cả những người mới học đạo cũng như những bậc uyên
bác về Phật học.
[37]
Trong kinh Lăng-già, quyển 9,
[38] đức Phật có nói
trước về sự ra đời của Bồ Tát Long Thụ trong một đoạn kệ như sau đây:
Dịch âm:
Như Lai diệt độ hậu,
Vị lai đương hữu nhân.
Đại Huệ, nhữ đế thính!
Hữu nhân trì ngã pháp,
Ư nam đại quốc trung,
Hữu đại đức tỳ kheo
Danh Long Thụ Bồ Tát
Năng phá hữu, vô kiến.
Vị nhân thuyết ngã pháp,
Đại thừa Vô thượng pháp.
Dịch nghĩa:
Như Lai nhập Niết-bàn,
Về sau sẽ có người.
Đại Huệ, hãy nghe kỹ!
Có người giữ đạo ta.
Ở miền Nam Ấn Độ,
Sẽ có đại tỳ-kheo,
Là Bồ Tát Long Thụ.
Phá chấp hữu, chấp vô,
Vì chúng sinh thuyết pháp,
Pháp Đại thừa Vô thượng.
Vì sự ra đời của Bồ Tát Long Thụ đã được nói trước trong kinh, nên việc
ngài xiển dương giáo pháp Đại thừa, trước tác kinh luận cũng là điều dễ
hiểu.
Bồ Tát Long Thụ truyền pháp cho Ka-na-đề-bà, cũng thường được gọi tắt là
Đề-bà, làm tổ sư thứ mười lăm của Thiền tông Ấn Độ. Vị này tiếp tục soạn
thêm một bộ luận nữa là bộ Bách luận.
Trước khi soạn bộ Bách luận, Đề-bà nghĩ rằng: “Muốn cho chánh pháp được
truyền rộng, trước hết phải thu phục, giáo hóa nhà vua.” Nghĩ vậy, ông
liền tham gia vào quân đội của nhà vua. Chỉ trong một thời gian ngắn,
bằng tài năng vượt trội của mình, ông đã trở thành một vị soái tướng.
Ông chỉnh đốn quân ngũ, cải tiến quân luật thành giản tiện và rõ ràng,
khiến cho quân đội trở nên nghiêm minh và có tinh thần kỷ luật, luôn
phục tùng thượng cấp.
Nhà vua rất hài lòng, muốn ban thưởng cho ông, bèn hỏi rằng: “Khanh có
muốn điều chi không?” Ông đáp: “Tâu bệ hạ, kẻ hạ thần có học đạo lâu
năm, sự hiểu biết tưởng không đến nỗi cạn hẹp. Vậy hạ thần muốn xin bệ
hạ cho tổ chức một cuộc tranh biện giữa hạ thần với các vị luận sư của
những tông phái khác nhau trong nước. Xin bệ hạ đứng ra chứng kiến và
xác định việc hơn kém.” Nhà vua vui vẻ chấp thuận đề nghị ấy.
Đề-bà liền cho người lập một diễn trường giữa đô thị và niêm yết khắp
nơi một luận đề như sau:
1. Phật là bậc cao trổi hơn hết trong tất cả các bậc hiền triết.
2. Pháp Phật là chân chánh nhất trong tất cả các giáo pháp.
3. Tăng-già là đoàn thể tu tập vững chắc hơn hết trong tất cả các tổ
chức tu tập.
Ai có thể biện luận bác bỏ được ba điều trên, Đề-bà xin dâng nạp thủ
cấp.
Các luận sư của những giáo phái khác đều lấy làm bất bình. Họ tìm đến
xin tranh luận, và cam đoan rằng nếu thua thì họ cũng sẽ chịu mất đầu.
Nhưng Đề-bà đáp: “Mục đích của tôi chỉ là hiển bày chân lý và tỏ tình
hữu ái trong chốn nhân sanh, chứ không muốn hại mạng ai cả. Vì thế, tôi
chỉ có một yêu cầu là người nào thua tôi trong việc biện luận thì hãy
xuống tóc làm đệ tử của tôi.”
Các luận sư đều chấp nhận. Cuộc tranh biện bắt đầu. Lần lượt, từng người
đều bị Đề-bà khuất phục. Có người đuối lý ngay trong ngày đầu tiên, có
người cố tranh biện được đến ngày thứ hai, thứ ba... nhưng rồi cũng đều
bị khuất phục. Đề-bà trở thành người chiến thắng cuối cùng.
Được chứng kiến tất cả những cuộc tranh biện đó, nhà vua trở nên rất
nhiệt thành ủng hộ Phật pháp, luôn khuyến khích mọi người tu học. Ảnh
hưởng cũng lan rộng ra khắp nơi trong nước. Chỉ trong mấy tháng sau đó
đã có hơn một triệu người phát nguyện quy y Tam bảo.
Việc hoằng hóa đã thành tựu, Đề-bà từ bỏ tất cả để vào trong rừng sâu ẩn
cư, tu tập thiền định và ghi chép lại các bài thuyết pháp mà ông đã dùng
để khuất phục ngoại đạo. Do đó mà hình thành bộ Bách luận.
Ka-na-đề-bà truyền pháp cho ngài La-hầu-la-đa làm tổ sư đời thứ 16 của
Thiền tông Ấn Độ. Một trong các đệ tử của ngài La-hầu-la-đa là
Tân-già-la (Piṅgalanetra - người Trung Hoa gọi là Thanh Mục) sau đó
truyền giáo pháp Tam luận tông cho hai vị vương tử nước Sa-xa
[39]
là Tu-lợi-da-bạt-đà và Tu-lợi-da-tô-ma. Cả hai vị này đều rời bỏ hoàng
cung, xuất gia làm tăng sĩ. Về sau, ngài Cưu-ma-la-thập trên đường du
học có dừng lại ở nước Sa-xa một năm, nhân đó được hai vị
Tu-lợi-da-bạt-đà và Tu-lợi-da-tô-ma truyền dạy giáo pháp.
Khoảng đầu thế kỷ 5, ngài Cưu-ma-la-thập sang Trung Hoa, chuyển dịch các
bộ Trung luận, Thập nhị môn luận và Bách luận cùng với nhiều kinh văn
khác sang Hán văn. Từ đó giáo lý Tam luận tông được truyền ở Trung Hoa,
xem ngài Cưu-ma-la-thập là tổ khai sáng. Khi đến Trường An, ngài đã được
63 tuổi. Ngài lưu lại nơi đây từ năm 401 đến năm 412, chuyên tâm dịch
kinh điển và giảng thuyết giáo pháp Đại thừa.
Giáo pháp Tam luận tông được truyền về sau đến thời ngài Cát Tạng thì
được chấn hưng mạnh mẽ. Cát Tạng vốn là người gốc An Tức, thuộc Ấn Độ
nhưng tổ tiên vì tránh kẻ thù nên di cư sang sống tại vùng Giao Quảng.
[40]
Sau lại dời đến ở đất Kim Lăng rồi mới sinh ra Cát Tạng vào năm 549. Từ
nhỏ ngài đã có căn lành, được cha đưa đến gặp ngài Chơn Đế. Ngài Chơn Đế
vừa gặp đã biết là bậc pháp khí về sau, nên mới đặt tên cho là Cát Tạng.
Cha ngài sau cũng xuất gia, pháp danh là Đạo Lượng.
Cát Tạng 7 tuổi đã xuất gia, theo học với ngài Pháp Lãng. Năm 14 tuổi đã
được Pháp Lãng dạy cho học bộ Bách luận. Từ đó về sau học một biết mười,
thông tuệ hơn người. Sau khi thọ Cụ túc giới càng được rất nhiều người
kính phục theo học. Trần Quế Dương Vương lúc bấy giờ hết sức tôn kính,
đặc biệt đối đãi như bậc thánh tăng.
Nhà Trần suy sụp, quân Tùy đánh lấy Kiến Khương, xã hội cực kỳ hỗn loạn.
Ngài không sợ nguy hiểm, đi khắp các tự viện thâu góp kinh luận Phật
giáo, vì sợ binh lửa hủy hoại mất đi. Đến khi chiến tranh tạm yên, ngài
lại bỏ công đọc lại và chỉnh lý tất cả những kinh luận đã thâu góp được.
Cũng nhờ vậy mà học lực của ngài trở nên uyên bác không ai sánh bằng.
Sau ngài đến ở chùa Gia Tường, hoằng dương chánh pháp. Người theo học
rất đông, lúc nào cũng có đến hơn ngàn người. Người bấy giờ tôn xưng
ngài là Gia Tường Đại sư. Ngài có trước tác bộ Tam luận huyền nghĩa,[41]
giảng rõ yếu lý trong cả ba bộ luận của Tam luận tông, cùng với nhiều
chỗ kiến giải mới, nên người đời thường gọi là Tân Tam luận. Ngài viên
tịch vào năm 623.
Trong số đệ tử của ngài Cát Tạng, có một vị tăng người Cao Ly[42]
tên là Huệ Quán, theo học với ngài ở chùa Gia Tường, nắm được yếu nghĩa
của Tam luận. Về sau, Huệ Quán mang giáo pháp Tam luận tông sang truyền
bá ở Nhật Bản, trở thành vị Sơ tổ của Tam luận tông tại Nhật Bản. Huệ
Quán cũng là người cùng với Khuyến Lặc khai sáng Thành thật tông ở Nhật
Bản.
HỌC THUYẾT
A. Hai sự cực đoan: Ngay từ thời đức Phật, đã có rất nhiều người học
Phật rơi vào hai sự cực đoan.
Khi Phật dạy pháp Tứ đế, chỉ ra rằng cuộc đời này đầy dẫy những khổ đau,
một số người liền chấp chặt vào thực tại đau khổ đó. Họ cho rằng mục
đích của việc tu tập là phải làm sao trừ hết những sự đau khổ, vì chúng
là thật có, vì thế giới này là thật có. Những người này đã rơi vào phía
cực đoan gọi là “chấp có”. Do không nắm hiểu trọn vẹn giáo pháp mà Phật
giảng dạy, họ sinh tâm nhàm chán, sợ sệt những khổ đau trong cuộc sống
và xuất gia tu tập để mong tránh né sự đau khổ. Họ không hiểu rằng sự tu
tập là để dứt trừ tận gốc rễ của khổ đau chứ không phải là để tránh né
chúng. Do sự phát tâm sai lầm như thế, những người này chỉ có thể đạt
được những sự thanh thản, an vui giả tạo, nhất thời khi sống theo đời
sống xuất gia, nhưng thật sự về lâu dài thì họ vẫn quay vòng mãi trong
những khổ đau của cuộc đời, vì sự tu tập sai lầm của họ không thể giúp
họ giải thoát trọn vẹn được.
Khi Phật dạy pháp Thập nhị nhân duyên, chỉ ra rằng tất cả mọi hiện tượng
trong thế giới này đều chỉ là do các nhân duyên giả hợp mà thành, một số
người khác liền chấp chặt vào tính chất không thật có ấy. Họ cho rằng vì
tất cả chỉ là sự giả hợp tạm thời của các nhân duyên, nên không có gì là
thật có. Thế giới này là không, mọi sự đau khổ hay giải thoát cũng đều
là không. Những người này đã rơi vào phía cực đoan thứ hai gọi là “chấp
không”. Do không nắm hiểu trọn vẹn giáo pháp mà Phật giảng dạy, họ sinh
tâm giải đãi, cho rằng tất cả đều chỉ là trống rỗng, hư vô, nên không có
gì cần thiết phải nỗ lực tu tập hay thực hiện các điều lành. Khi nhìn
cuộc đời theo cách này, nhất thời họ có thể xả bỏ được rất nhiều sự tham
đắm, trói buộc, và cảm thấy nhẹ nhõm đi rất nhiều vì không còn phải chạy
theo những thôi thúc của tham dục hay sân hận. Tuy nhiên, đó không phải
là chỗ giải thoát rốt ráo mà pháp Phật nhắm đến, bởi vì trải qua thời
gian thì sự sai lầm của họ sẽ bộc lộ ra khi họ nhận biết rằng mình không
có bất cứ động lực chính đáng nào để tinh tấn tu tập cả.
Dù là chấp có hay chấp không, những cách hiểu cực đoan này đều không
phải là chân lý, bởi sự thật là chúng không thể giúp người tu đạt đến sự
giải thoát. Vì chúng sinh chìm đắm trong bể khổ mà hoàn toàn không nhận
biết rằng mình đang khổ, nên đức Phật mới gióng lên hồi chuông Tứ đế,
trước hết chỉ ra cho họ thấy rằng cuộc đời này vốn đầy dẫy những khổ
đau. Vì chúng sinh chìm đắm trong sự tham lam, sân hận, nên đức Phật mới
gióng lên hồi chuông Thập nhị nhân duyên, chỉ ra cho họ thấy rằng những
thứ mà họ say mê, ôm ấp, giành giật lẫn nhau, thật ra chẳng có gì đáng
để như thế cả. Chúng chỉ là những bóng dáng hư ảo, sự giả hợp tạm thời
của các nhân duyên, và vì thế không hề thật có.
Giáo pháp Tứ đế hay Thập nhị nhân duyên đều là chân thật, đúng đắn. Chỉ
có sự sai lầm ở phía người học đạo, không nắm rõ được yếu nghĩa của giáo
pháp nên mới rơi vào sự cực đoan. Nếu nhận biết cuộc đời là đau khổ để
tiếp tục tu tập các pháp diệt khổ, thực hành Bát chánh đạo, thì đến một
lúc nào đó người tu sẽ tự mình nhận biết rằng chính những đau khổ trong
cuộc đời này tự nó cũng là không thật có. Khi đó, họ sẽ được giải thoát
khỏi tư tưởng chấp có. Nếu nhận biết rằng cuộc đời này chỉ là nhân duyên
giả hợp, hư ảo, để tiếp tục tu tập phá trừ vô minh, chặt đứt chuỗi mắt
xích 12 nhân duyên, thì lúc đó người tu sẽ nhận ra rằng tuy tất cả là hư
ảo, không thật, nhưng sự tu tập giải thoát, Niết-bàn an lạc vẫn là thật
có; bên ngoài các pháp thế gian do nhân duyên hội tụ, vẫn còn có các
pháp xuất thế gian không phải do nhân duyên hợp thành, và vì thế mà
thường hằng bất biến.
Có và không chỉ là những khái niệm tương đối do chính con người dựng lên
để mô tả thế giới này. Khi nhìn nhận được bản chất thực sự của đời sống,
của thực tại, thì cho dù chúng ta có gọi đó là có hay là không cũng vẫn
không làm thay đổi bản chất thực sự của nó. Chính vì vậy, chân lý rốt
ráo của người học đạo phải là sự vượt thoát ra khỏi cả hai khái niệm có
và không. Bởi vì cả hai sự chấp chặt đó đều là cực đoan và sai lầm.
B. Giáo lý Tam luận: Trước hết là bộ Trung luận, nói đủ là Trung quán
luận. Trung tức là khoảng giữa, trung bình, không nghiêng về hai bên;
quán là quán xét, thường là bằng phương pháp tham thiền. Như vậy, trung
quán có nghĩa là quán xét về cái mức độ trung bình, cái khoảng giữa
trong sự tu tập, để không thiên lệch về bất cứ bên nào.
Vì được viết theo thể luận, nên trọng tâm của tác phẩm này là nêu lên
những lý lẽ của những người chấp có và chấp không để chỉ rõ những chỗ
sai lầm, rồi từ đó dẫn dắt người đọc đạt đến chỗ khoảng giữa, tức là một
cách nhìn nhận đúng mức, hợp chân lý. Toàn bộ Trung luận có hai mươi bảy
phẩm. Hai mươi lăm phẩm đầu biện bác những ý tưởng sai lầm nghiêng về
chấp không của một số người học theo Trung thừa, và hai phẩm sau biện
bác những ý tưởng sai lầm nghiêng về chấp có của một số người học theo
Tiểu thừa.
Bộ Thập nhị môn luận có mười hai chương, gọi là mười hai môn, nên có tên
là “Thập nhị môn”. Về nội dung, bộ luận này hiển bày nghĩa “không” của
Đại thừa, có thể chia làm ba phẩm. Phẩm thứ nhất nói về tánh không, phẩm
thứ hai nói về lý vô tướng, phẩm thứ ba nói về lý vô tác. Tựu trung cả
bộ luận đều nhằm nói lên lý “vô sinh” của tất cả các pháp, và do đó tất
cánh đều là không. Về cấu trúc, toàn bộ luận được biên soạn dựa trên 26
bài kệ chính cùng với phần giải thích các bài kệ đó. Người đời sau phân
tích các bài kệ này, thấy có 17 bài trích từ bộ Trung luận, 2 bài trích
từ bộ Thất thập không tánh luận, có ý kiến cho rằng đây là tác phẩm của
ngài Tân-già-la (Piṅgalanetra - Thanh Mục) chứ không phải của Bồ Tát
Long Thụ. Dù sao, đây cũng chỉ là giả thuyết mà thôi, vẫn chưa xác định
chắc chắn được.
Bộ Bách luận của Đề-bà được soạn sau khi biện bác tất cả những lập luận
của các phái ngoại đạo, nên nội dung chính là ghi lại những lý lẽ đã
dùng để chỉ ra sự sai lầm của bọn họ. Bộ luận này nguyên khi mới soạn ra
có 20 phẩm, mỗi phẩm gồm có 5 bài kệ và phần luận thích, tổng cộng 100
bài kệ nên gọi là Bách luận. Tuy nhiên, hiện nay bản Phạn văn đã mất,
bản dịch Hán văn của ngài Cưu-ma-la-thập gồm lại thành mười phẩm, chia
ra 2 quyển. Ngoài việc biện bác các quan điểm của ngoại đạo, còn có
những phần chỉ ra các ý tưởng sai lầm của chính những người học Phật.
C. Học thuyết: Học thuyết của Tam luận tông nhấn mạnh vào ý nghĩa trung
đạo, phá trừ hết những ý kiến chấp có và chấp không. Đạt được nhận thức
đúng như vậy gọi là thấu triệt được tánh không của vạn pháp.
Đúng như tên gọi, Tam luận tông là một học phái đặc biệt chú trọng đến
sự biện luận, bác bỏ những kiến giải sai lầm. Người học đạo nếu trừ bỏ
hết những kiến giải sai lầm, không rơi vào tà kiến, thì trí tuệ tự nhiên
hiển lộ, nhận rõ được chân lý. Chính Bồ Tát Long Thụ khi khai sáng tông
này cũng chủ yếu là dùng tài biện bác để phá trừ mọi luận thuyết sai
lầm. Chính nhờ ngài phá trừ hết các ý tưởng sai lầm mà các đệ tử của
ngài tự nhiên nhìn rõ ra được ý nghĩa trung đạo, thấu hiểu được lý chân
không, tức là tánh không chân thật.
Học thuyết của Tam luận tông tuy nói là dựa vào ba bộ luận của các vị Tổ
sư, nhưng kỳ thật các bộ luận này cũng là y cứ nơi các kinh Đại thừa mà
lập thuyết. Giáo pháp uyên thâm rộng lớn, khó có thể nói khái quát được
hết, nhưng tựu trung có hai phần giáo lý có thể xem là đặc thù nhất so
với các tông khác:
1. Vô sở đắc: Tam luận tông chủ trương chân lý rốt ráo không có tu
chứng, không phải do dụng công mà đạt được. Về bản chất, hết thảy chúng
sinh vốn đều sẵn có tánh Phật, không có mê, không có ngộ, thật tánh các
pháp đều trạm nhiên tịch diệt, thật không hề có cái gọi là “Phật” để tu
chứng mà thành. Tất cả chỉ là những khái niệm hư dối do con người đặt ra
để gọi tên các pháp, từ đó phân ra thế này là mê, thế này là ngộ, thế
này là thành, thế này là chẳng thành... Tánh Phật tuy sẵn có, nhưng hết
thảy chúng sinh căn trí bất đồng, có kẻ lợi căn sáng trí, có người độn
căn thấp trí. Do đó mà chỗ giác ngộ có mau có chậm, thành ra khác biệt
nhau. Tất cả đều là do phiền não khách trần che lấp, khiến cho phải trôi
lăn trong sinh tử. Chỉ cần trừ sạch những bụi bặm che lấp ấy, tâm ý tự
nhiên trở về trạm nhiên tịch tĩnh, tánh giác ban sơ tự nhiên hiển lộ. Đó
gọi là thành Phật, gọi là giác ngộ, nhưng kỳ thật không có gì là thành,
không có gì là được cả. Cho nên nói là vô sở đắc.
2. Bát bất trung đạo: Tam luận tông chủ trương phá tà để hiển chánh, nên
đưa ra thuyết “bát bất trung đạo” để chỉ rõ những sự mê lầm của người
đời. Thuyết này phủ nhận tám điều là không có (bát bất) để hiển lộ ra
con đường trung đạo ở khoảng giữa. Tám điều ấy chia làm bốn cặp
đối đãi nhau, gồm có: sinh – diệt, thường – đoạn, nhất – dị, lai – xuất.
Những cặp đối đãi này xét cho cùng đều dựa vào nhau mà có. Không có sinh
ra thì không thể có diệt mất; không có thường tồn thì không thể có ngắn
ngủi, không có đồng nhất thì không thể có khác biệt; không có tìm đến
thì không thể có rời đi. Nhận biết được tánh không của các pháp thì có
thể thấy rõ được tất cả những khái niệm ấy chỉ là danh từ giả lập, không
thật có. Vì thế, Tam luận tông dạy người tu tập quán xét tám điều này là
bất sinh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất
xuất. Trong đó, quán xét các lẽ không sinh, không diệt, không thường,
không đoạn là để phá bỏ kiến chấp sai lầm về thời gian. Còn quán xét các
lẽ không đồng nhất, không khác biệt, không tìm đến, không rời đi là để
phá bỏ kiến chấp sai lầm về không gian. Người tu quán xét tám điều này
đến chỗ rốt ráo thì có thể nhận biết được lý trung đạo, hay là tánh
không chân thật của các pháp.
HỌC THUYẾT
A. Hai sự cực đoan: Ngay từ thời đức Phật, đã có rất nhiều người học
Phật rơi vào hai sự cực đoan.
Khi Phật dạy pháp Tứ đế, chỉ ra rằng cuộc đời này đầy dẫy những khổ đau,
một số người liền chấp chặt vào thực tại đau khổ đó. Họ cho rằng mục
đích của việc tu tập là phải làm sao trừ hết những sự đau khổ, vì chúng
là thật có, vì thế giới này là thật có. Những người này đã rơi vào phía
cực đoan gọi là “chấp có”. Do không nắm hiểu trọn vẹn giáo pháp mà Phật
giảng dạy, họ sinh tâm nhàm chán, sợ sệt những khổ đau trong cuộc sống
và xuất gia tu tập để mong tránh né sự đau khổ. Họ không hiểu rằng sự tu
tập là để dứt trừ tận gốc rễ của khổ đau chứ không phải là để tránh né
chúng. Do sự phát tâm sai lầm như thế, những người này chỉ có thể đạt
được những sự thanh thản, an vui giả tạo, nhất thời khi sống theo đời
sống xuất gia, nhưng thật sự về lâu dài thì họ vẫn quay vòng mãi trong
những khổ đau của cuộc đời, vì sự tu tập sai lầm của họ không thể giúp
họ giải thoát trọn vẹn được.
Khi Phật dạy pháp Thập nhị nhân duyên, chỉ ra rằng tất cả mọi hiện tượng
trong thế giới này đều chỉ là do các nhân duyên giả hợp mà thành, một số
người khác liền chấp chặt vào tính chất không thật có ấy. Họ cho rằng vì
tất cả chỉ là sự giả hợp tạm thời của các nhân duyên, nên không có gì là
thật có. Thế giới này là không, mọi sự đau khổ hay giải thoát cũng đều
là không. Những người này đã rơi vào phía cực đoan thứ hai gọi là “chấp
không”. Do không nắm hiểu trọn vẹn giáo pháp mà Phật giảng dạy, họ sinh
tâm giải đãi, cho rằng tất cả đều chỉ là trống rỗng, hư vô, nên không có
gì cần thiết phải nỗ lực tu tập hay thực hiện các điều lành. Khi nhìn
cuộc đời theo cách này, nhất thời họ có thể xả bỏ được rất nhiều sự tham
đắm, trói buộc, và cảm thấy nhẹ nhõm đi rất nhiều vì không còn phải chạy
theo những thôi thúc của tham dục hay sân hận. Tuy nhiên, đó không phải
là chỗ giải thoát rốt ráo mà pháp Phật nhắm đến, bởi vì trải qua thời
gian thì sự sai lầm của họ sẽ bộc lộ ra khi họ nhận biết rằng mình không
có bất cứ động lực chính đáng nào để tinh tấn tu tập cả.
Dù là chấp có hay chấp không, những cách hiểu cực đoan này đều không
phải là chân lý, bởi sự thật là chúng không thể giúp người tu đạt đến sự
giải thoát. Vì chúng sinh chìm đắm trong bể khổ mà hoàn toàn không nhận
biết rằng mình đang khổ, nên đức Phật mới gióng lên hồi chuông Tứ đế,
trước hết chỉ ra cho họ thấy rằng cuộc đời này vốn đầy dẫy những khổ
đau. Vì chúng sinh chìm đắm trong sự tham lam, sân hận, nên đức Phật mới
gióng lên hồi chuông Thập nhị nhân duyên, chỉ ra cho họ thấy rằng những
thứ mà họ say mê, ôm ấp, giành giật lẫn nhau, thật ra chẳng có gì đáng
để như thế cả. Chúng chỉ là những bóng dáng hư ảo, sự giả hợp tạm thời
của các nhân duyên, và vì thế không hề thật có.
Giáo pháp Tứ đế hay Thập nhị nhân duyên đều là chân thật, đúng đắn. Chỉ
có sự sai lầm ở phía người học đạo, không nắm rõ được yếu nghĩa của giáo
pháp nên mới rơi vào sự cực đoan. Nếu nhận biết cuộc đời là đau khổ để
tiếp tục tu tập các pháp diệt khổ, thực hành Bát chánh đạo, thì đến một
lúc nào đó người tu sẽ tự mình nhận biết rằng chính những đau khổ trong
cuộc đời này tự nó cũng là không thật có. Khi đó, họ sẽ được giải thoát
khỏi tư tưởng chấp có. Nếu nhận biết rằng cuộc đời này chỉ là nhân duyên
giả hợp, hư ảo, để tiếp tục tu tập phá trừ vô minh, chặt đứt chuỗi mắt
xích 12 nhân duyên, thì lúc đó người tu sẽ nhận ra rằng tuy tất cả là hư
ảo, không thật, nhưng sự tu tập giải thoát, Niết-bàn an lạc vẫn là thật
có; bên ngoài các pháp thế gian do nhân duyên hội tụ, vẫn còn có các
pháp xuất thế gian không phải do nhân duyên hợp thành, và vì thế mà
thường hằng bất biến.
Có và không chỉ là những khái niệm tương đối do chính con người dựng lên
để mô tả thế giới này. Khi nhìn nhận được bản chất thực sự của đời sống,
của thực tại, thì cho dù chúng ta có gọi đó là có hay là không cũng vẫn
không làm thay đổi bản chất thực sự của nó. Chính vì vậy, chân lý rốt
ráo của người học đạo phải là sự vượt thoát ra khỏi cả hai khái niệm có
và không. Bởi vì cả hai sự chấp chặt đó đều là cực đoan và sai lầm.
B. Giáo lý Tam luận: Trước hết là bộ Trung luận, nói đủ là Trung quán
luận. Trung tức là khoảng giữa, trung bình, không nghiêng về hai bên;
quán là quán xét, thường là bằng phương pháp tham thiền. Như vậy, trung
quán có nghĩa là quán xét về cái mức độ trung bình, cái khoảng giữa
trong sự tu tập, để không thiên lệch về bất cứ bên nào.
Vì được viết theo thể luận, nên trọng tâm của tác phẩm này là nêu lên
những lý lẽ của những người chấp có và chấp không để chỉ rõ những chỗ
sai lầm, rồi từ đó dẫn dắt người đọc đạt đến chỗ khoảng giữa, tức là một
cách nhìn nhận đúng mức, hợp chân lý. Toàn bộ Trung luận có hai mươi bảy
phẩm. Hai mươi lăm phẩm đầu biện bác những ý tưởng sai lầm nghiêng về
chấp không của một số người học theo Trung thừa, và hai phẩm sau biện
bác những ý tưởng sai lầm nghiêng về chấp có của một số người học theo
Tiểu thừa.
Bộ Thập nhị môn luận có mười hai chương, gọi là mười hai môn, nên có tên
là “Thập nhị môn”. Về nội dung, bộ luận này hiển bày nghĩa “không” của
Đại thừa, có thể chia làm ba phẩm. Phẩm thứ nhất nói về tánh không, phẩm
thứ hai nói về lý vô tướng, phẩm thứ ba nói về lý vô tác. Tựu trung cả
bộ luận đều nhằm nói lên lý “vô sinh” của tất cả các pháp, và do đó tất
cánh đều là không. Về cấu trúc, toàn bộ luận được biên soạn dựa trên 26
bài kệ chính cùng với phần giải thích các bài kệ đó. Người đời sau phân
tích các bài kệ này, thấy có 17 bài trích từ bộ Trung luận, 2 bài trích
từ bộ Thất thập không tánh luận, có ý kiến cho rằng đây là tác phẩm của
ngài Tân-già-la (Piṅgalanetra - Thanh Mục) chứ không phải của Bồ Tát
Long Thụ. Dù sao, đây cũng chỉ là giả thuyết mà thôi, vẫn chưa xác định
chắc chắn được.
Bộ Bách luận của Đề-bà được soạn sau khi biện bác tất cả những lập luận
của các phái ngoại đạo, nên nội dung chính là ghi lại những lý lẽ đã
dùng để chỉ ra sự sai lầm của bọn họ. Bộ luận này nguyên khi mới soạn ra
có 20 phẩm, mỗi phẩm gồm có 5 bài kệ và phần luận thích, tổng cộng 100
bài kệ nên gọi là Bách luận. Tuy nhiên, hiện nay bản Phạn văn đã mất,
bản dịch Hán văn của ngài Cưu-ma-la-thập gồm lại thành mười phẩm, chia
ra 2 quyển. Ngoài việc biện bác các quan điểm của ngoại đạo, còn có
những phần chỉ ra các ý tưởng sai lầm của chính những người học Phật.
C. Học thuyết: Học thuyết của Tam luận tông nhấn mạnh vào ý nghĩa trung
đạo, phá trừ hết những ý kiến chấp có và chấp không. Đạt được nhận thức
đúng như vậy gọi là thấu triệt được tánh không của vạn pháp.
Đúng như tên gọi, Tam luận tông là một học phái đặc biệt chú trọng đến
sự biện luận, bác bỏ những kiến giải sai lầm. Người học đạo nếu trừ bỏ
hết những kiến giải sai lầm, không rơi vào tà kiến, thì trí tuệ tự nhiên
hiển lộ, nhận rõ được chân lý. Chính Bồ Tát Long Thụ khi khai sáng tông
này cũng chủ yếu là dùng tài biện bác để phá trừ mọi luận thuyết sai
lầm. Chính nhờ ngài phá trừ hết các ý tưởng sai lầm mà các đệ tử của
ngài tự nhiên nhìn rõ ra được ý nghĩa trung đạo, thấu hiểu được lý chân
không, tức là tánh không chân thật.
Học thuyết của Tam luận tông tuy nói là dựa vào ba bộ luận của các vị Tổ
sư, nhưng kỳ thật các bộ luận này cũng là y cứ nơi các kinh Đại thừa mà
lập thuyết. Giáo pháp uyên thâm rộng lớn, khó có thể nói khái quát được
hết, nhưng tựu trung có hai phần giáo lý có thể xem là đặc thù nhất so
với các tông khác:
1. Vô sở đắc: Tam luận tông chủ trương chân lý rốt ráo không có tu
chứng, không phải do dụng công mà đạt được. Về bản chất, hết thảy chúng
sinh vốn đều sẵn có tánh Phật, không có mê, không có ngộ, thật tánh các
pháp đều trạm nhiên tịch diệt, thật không hề có cái gọi là “Phật” để tu
chứng mà thành. Tất cả chỉ là những khái niệm hư dối do con người đặt ra
để gọi tên các pháp, từ đó phân ra thế này là mê, thế này là ngộ, thế
này là thành, thế này là chẳng thành... Tánh Phật tuy sẵn có, nhưng hết
thảy chúng sinh căn trí bất đồng, có kẻ lợi căn sáng trí, có người độn
căn thấp trí. Do đó mà chỗ giác ngộ có mau có chậm, thành ra khác biệt
nhau. Tất cả đều là do phiền não khách trần che lấp, khiến cho phải trôi
lăn trong sinh tử. Chỉ cần trừ sạch những bụi bặm che lấp ấy, tâm ý tự
nhiên trở về trạm nhiên tịch tĩnh, tánh giác ban sơ tự nhiên hiển lộ. Đó
gọi là thành Phật, gọi là giác ngộ, nhưng kỳ thật không có gì là thành,
không có gì là được cả. Cho nên nói là vô sở đắc.
2. Bát bất trung đạo: Tam luận tông chủ trương phá tà để hiển chánh, nên
đưa ra thuyết “bát bất trung đạo” để chỉ rõ những sự mê lầm của người
đời. Thuyết này phủ nhận tám điều là không có (bát bất) để hiển lộ ra
con đường trung đạo ở khoảng giữa. Tám điều ấy chia làm bốn cặp
đối đãi nhau, gồm có: sinh – diệt, thường – đoạn, nhất – dị, lai – xuất.
Những cặp đối đãi này xét cho cùng đều dựa vào nhau mà có. Không có sinh
ra thì không thể có diệt mất; không có thường tồn thì không thể có ngắn
ngủi, không có đồng nhất thì không thể có khác biệt; không có tìm đến
thì không thể có rời đi. Nhận biết được tánh không của các pháp thì có
thể thấy rõ được tất cả những khái niệm ấy chỉ là danh từ giả lập, không
thật có. Vì thế, Tam luận tông dạy người tu tập quán xét tám điều này là
bất sinh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất
xuất. Trong đó, quán xét các lẽ không sinh, không diệt, không thường,
không đoạn là để phá bỏ kiến chấp sai lầm về thời gian. Còn quán xét các
lẽ không đồng nhất, không khác biệt, không tìm đến, không rời đi là để
phá bỏ kiến chấp sai lầm về không gian. Người tu quán xét tám điều này
đến chỗ rốt ráo thì có thể nhận biết được lý trung đạo, hay là tánh
không chân thật của các pháp.