HOA NGHIÊM TÔNG
Khai tổ: Bồ Tát Mã Minh vào khoảng thế kỷ 1 và Bồ Tát Long Thụ khoảng
thế kỷ 2, 3 ở Ấn Độ.
Giác
Hiền (Bodhibhadra) dịch kinh Hoa nghiêm vào khoảng đầu thế kỷ 5. Đỗ
Thuận truyền bá Hoa nghiêm tông ở Trung Hoa vào thế kỷ 7.
Đạo
Tuyền truyền sang Nhật Bản từ năm 736.
Giáo lý căn bản: Kinh Hoa nghiêm
Tông chỉ: Tất cả các pháp đều do duyên khởi và phụ thuộc lẫn nhau, cái
này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt, không một pháp
nào có thể tồn tại độc lập trong thế giới này, cho đến giữa một hạt bụi
nhỏ nhất với một cõi thế giới to lớn nhất trong vũ trụ cũng đều có sự
tương quan mật thiết với nhau.
LỊCH SỬ
Tông này lấy bộ kinh Hoa nghiêm làm nền tảng, nên gọi tên là Hoa nghiêm
tông. Kinh Hoa nghiêm có tên gọi đầy đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa
nghiêm Kinh, là một trong những bộ kinh rất uyên áo, sâu xa. Sau khi
thành đạo, đức Phật đã vì các vị Đại Bồ Tát như Văn-thù, Phổ Hiền... mà
thuyết giảng kinh này chứ không phải dành cho những vị đệ tử mới học
đạo. Tương truyền khi kết tập kinh điển thì kinh này đã thất truyền.
Phải đến khoảng 700 năm sau, khi Bồ Tát Long Thụ ra đời, sau khi chứng
ngộ mới dùng thần thông hiện đến cung điện của Long vương, tìm thấy nơi
ấy có cất giữ ba bản kinh Hoa nghiêm. Tuy nhiên, trong đó có hai bản
nghĩa lý quá sâu xa huyền diệu, trí huệ của người đời không thể nhận
hiểu nổi. Ngài liền xem qua bản thứ ba, thấy có một trăm ngàn bài kệ,
chia làm 48 phẩm (có thuyết nói là 38), nghĩa lý có thể truyền dạy cho
người đời được, liền mang về Ấn Độ. Tuy nhiên, có thuyết khác nói rằng
trước đó, Bồ Tát Mã Minh cũng là người thông hiểu về kinh Hoa nghiêm.
Vào đời Đông Tấn, năm Nghĩa Hy thứ 14 (418), ngài Phật-đà-bạt-đà-la
(Buddhabhadra - Giác Hiền) là một tăng sĩ từ Ấn Độ sang Trung Hoa, lần
đầu tiên dịch kinh Hoa nghiêm sang Hán văn, có 60 quyển. Về sau, người
ta gọi bản dịch này là Cựu Hoa nghiêm kinh.
Đến đời Đường, vào năm 699, ngài Thật-xoa-nan-đà lại dịch kinh Hoa
nghiêm sang Hán văn. Bản dịch lần này có 80 quyển, về sau được gọi là
Tân Hoa nghiêm kinh.
Nhưng phải đến ngài Đỗ Thuận thì Hoa nghiêm tông mới chính thức được
khai sáng, trở thành một trong các tông phái lớn của Trung Hoa.
Ngài Đỗ Thuận sinh năm 557, viên tịch ngày rằm tháng 11 năm Trinh Quán
thứ 14 (640) tại chùa Nghĩa Thiện ở Nam Giao.
Ngài họ Đỗ, tên húy là Pháp Thuận, hiệu là Đế Tâm Tôn giả, đương thời
tôn xưng là Đôn Hoàng Bồ Tát. Ngài tư chất thông minh, đạo hạnh cao vời,
người bấy giờ đều tin rằng ngài chính là Bồ Tát Văn-thù giáng thế.
Năm 18 tuổi ngài xuất gia tại chùa Nhân Thánh, theo học Thiền với ngài
Tăng Trân. Về sau, ngài vào ẩn cư trong núi Chung Nam, xiển dương giáo
lý Hoa nghiêm, người tìm đến học với ngài rất đông, có cả hai giới xuất
gia và tại gia. Vua Đường Thái Tông nghe biết về đức độ của ngài, truyền
thỉnh vào cung diện kiến, đối đãi rất cung kính. Về sau, trong thời gian
cuối đời ngài đi khắp mọi nơi, khuyên người niệm Phật A-di-đà và có
trước tác văn xưng tán Tịnh độ.
Sau ngài Đỗ Thuận, Hoa nghiêm tông tiếp tục được truyền nối và phổ biến.
Tổ thứ hai là ngài Vân Hoa Trí Nghiễm, tổ thứ ba là ngài Hiền Thủ Pháp
Tạng. Ngài Hiền Thủ có công lớn trong việc hoàn chỉnh phần giáo lý Hoa
nghiêm tông do các vị Tổ sư đời trước truyền lại, khiến cho tông này
được hưng thịnh, nên người bấy giờ cũng gọi Hoa nghiêm tông là Hiền Thủ
tông.
Ngài Thanh Lương Trừng Quán tiếp nối làm tổ thứ tư, có soạn bản Đại sớ
sao chú giải về kinh Hoa nghiêm rất tinh vi, rành mạch, giúp cho người
học có thể tiếp thu giáo lý Hoa nghiêm tông một cách dễ dàng hơn. Nhờ
vậy, tông này vào thời của ngài càng thêm phát triển, cũng được người
đời gọi là Thanh Lương tông.
Vị tổ thứ năm là ngài Khuê Phong Tông Mật, là một vị thiền sư. Ngài Khuê
Phong thông hiểu kinh Viên giác, có soạn sớ giải cho kinh này. Ngài cũng
kết hợp phần giáo lý kinh Viên giác với kinh Hoa nghiêm để giúp người tu
tập thể nhập vào một cảnh giới giải thoát cao siêu hơn.
Sau khi ngài Tông Mật viên tịch không lâu thì gặp phải pháp nạn đời
Đường Võ Tông vào năm 845, kinh luận bị thiêu hủy rất nhiều, Hoa nghiêm
tông từ đó phải tạm suy vi.
Phải đợi đến đời Tống mới có ngài Tử Tuyền đứng ra trùng hưng Hoa nghiêm
tông. Ngài sinh năm 965, viên tịch năm 1038. Đệ tử của ngài là Tịnh
Nguyên cũng có soạn sớ giải kinh, lại thêm có bốn vị Đạo Đình, Quan
Phục, Sư Hội, Hy Địch, mỗi vị đều có soạn chú giải về năm phần giáo của
Hoa nghiêm tông. Nhờ đó mà tông này được hưng thịnh trở lại. Người đời
tôn xưng bốn vị này là Tứ đại gia đời Tống.
Truyền nối về sau, Hoa nghiêm tông tiếp tục có rất nhiều bậc danh tăng
đạo cao đức trọng, như đời Nguyên (1279 – 1368) có các ngài Phổ Thuỵ,
Viên Giác, Bổn Hao, Bàn Cốc, Văn Tài, Đạt Ích Ba... ; đời Minh (1368 –
1644) có các vị Đức Thanh, Cổ Đình, Lý Trác Ngô, Đạo Thông, Như Phi, Tổ
Trụ...; sang đời nhà Thanh còn có các vị Chu Khắc Phục, Tục Pháp...
Đó là lược nói qua về sự truyền nối tông Hoa nghiêm ở Trung Hoa. Còn Hoa
nghiêm tông ở Nhật Bản thì Tổ sư khai sáng là ngài Đạo Tuyền. Ngài sinh
năm 702, viên tịch năm 760, quê ở Hứa Châu, Hà Nam, Trung Hoa. Ngài xuất
gia từ nhỏ, thọ Cụ túc giới và theo học Luật tạng với ngài Định Tân, sau
mới theo ngài Phổ Tịch học giáo lý Hoa nghiêm và Thiền học.
Tháng 11 năm 722, thiên hoàng Nhật Bản lần đầu tiên cho sao chép bản Tân
Hoa nghiêm kinh (bản dịch của ngài Thật-xoa-nan-đà) tại Nhật Bản. Đến
tháng 7 năm 736, thỉnh ngài Đạo Tuyền sang Nhật Bản thuyết pháp. Ngài
mang theo rất nhiều các bản chú giải kinh Hoa nghiêm sang thuyết giảng ở
Nhật, đệ tử theo học rất đông. Sau đó ngài thường đi khắp nơi giảng dạy
về giới luật, từng nhận lời đến ở chùa Đông Đại (Todaiji) giảng thuyết
pháp yếu. Đối với sự nghiệp hoằng truyền Phật giáo ở Nhật Bản vào khoảng
đầu thời kỳ Nại Lương, ngài là người có công rất lớn. Ngài không chỉ
khai sáng Hoa nghiêm tông ở Nhật Bản, mà còn là tổ sư thứ hai của Thiền
tông tại Nhật Bản.
Đến năm 740, thiên hoàng Nhật Bản lại thỉnh một vị tăng người Triều Tiên
là Thẩm Tường sang giảng Kinh Hoa nghiêm tại chùa Đông Đại (Todaiji). Vị
này giảng thuyết kinh Hoa nghiêm tại đó trong ba năm.
Hoa nghiêm tông ở Nhật sau đó truyền đến vị tăng Nhật Bản là Lương Biện,
được Thánh Võ Thiên hoàng (724 – 749) rất tôn kính, ra sắc chỉ cho xây
dựng chùa Đông Đại thành tổ đình của Hoa nghiêm tông. Sau đó truyền đến
các vị Thật Trung, Đẳng Định, Chánh Tấn... đều là những bậc cao tăng.
Cho đến đời ngài Quang Trí thì Hoa nghiêm tông trở nên rất hưng thịnh.
Ngài có xây dựng Tôn Thắng Viện để làm nơi chuyên tu tập giáo nghĩa Hoa
nghiêm.
Cho đến nay, tại Nhật Bản vẫn còn rất nhiều vị cao tăng tinh thông giáo
lý Hoa nghiêm tông, hiện ở Nhật hiện nay có 27 ngôi chùa thuộc tông này,
48 vị tăng, 200 vị cư sĩ tu tập tại gia và 22.000 tín đồ kính ngưỡng
thường lui tới lễ bái cúng dường.[43]
HỌC THUYẾT
A. Tánh Phật trong giáo lý Hoa nghiêm: Theo giáo lý Hoa nghiêm, hết thảy
vạn pháp trong vũ trụ đều có chung một thể tánh căn bản, tuyệt đối, đó
là tánh Phật. Cho dù là những pháp thuộc về tinh thần hay vật chất, cho
dù là chư Phật, người phàm, các loài súc sinh hay vạn vật vô tình, cũng
đều là chung một thể tánh ấy, không hề sai khác. Thể tánh tuyệt đối ấy
gọi là tánh Phật, cũng gọi là chân như.
Tuy là cùng một thể tánh, nhưng do những nhân duyên trần cảnh khác nhau
mà biểu hiện ra thành muôn hình vạn trạng khác nhau. Ví như nước biển
thì ở đâu cũng giống nhau, nhưng ta thấy có vùng biển êm sóng lặng, lại
có vùng biển động sóng xô. Tuy là rất khác biệt nhau nhưng kỳ thật vẫn
là cùng chung một thể tánh. Tánh Phật hay chân như cũng ví như cái tánh
chung của nước biển, đâu đâu cũng đều giống nhau, nhưng tùy theo điều
kiện thời tiết, gió bão, vị trí vùng biển... mà chúng ta thấy có sự yên
tĩnh hay xao động, thậm chí có khi cuồng nộ như sóng thần...
Học thuyết của Hoa nghiêm tông rất sâu xa, huyền diệu, không thể tóm lại
một cách khái quát cho hết được. Tuy nhiên, nếu phải nêu lên những điểm
cốt yếu nhất thì đó chính là nguyên lý tương sinh tương khởi, dựa trên
khái niệm về thể tánh nhất như của vạn pháp như vừa nói trên.
Nguyên lý tương sinh tương khởi chỉ ra rằng hết thảy vạn vật trong vũ
trụ đều có quan hệ mật thiết với nhau, không có bất cứ một vật thể, một
hiện tượng tinh thần hay thể chất nào lại có thể tự nó sinh khởi và tồn
tại, cho đến một hạt bụi rất nhỏ cũng không thoát ra ngoài nguyên lý
này. Vì thế, sự sinh khởi của một sự vật có liên quan đến mọi sự vật
khác, và ngược lại, nó cũng chịu sự chi phối của tất cả. Nguyên lý này
thường được phát biểu một cách khái quát như sau: “Cái này sinh thì cái
kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt.”
Sự tương sinh tương khởi như vậy thường được gọi là “y tha khởi”, nghĩa
là mọi sự sinh khởi đều phải dựa vào “cái khác”. Một cách hình tượng
hơn, các nhà nghiên cứu kinh Hoa nghiêm thường gọi tên nguyên lý này là
“trùng trùng duyên khởi”.
Đối với những ai chưa từng tiếp xúc với giáo lý này, có thể sẽ thấy rằng
nó hơi mơ hồ và khó hiểu. Tuy nhiên, sự thật là nó nêu lên một chân lý
bao trùm cả vũ trụ này, cho nên cũng luôn diễn ra quanh ta trong cuộc
sống hằng ngày chứ không hề xa lạ hay mơ hồ.
Nếu để tâm suy xét kỹ, ta sẽ thấy quanh ta luôn có những mối tương quan
mật thiết gắn liền với tất cả. Khi ta nhả ra một hơi khói thuốc, và ta
có thể cho là chẳng có gì đáng nói. Nhưng ta có biết đâu sự ô nhiễm của
khói thuốc là có thật, và chừng nào ta chưa ngưng việc hút thuốc lá thì
môi trường quanh ta vẫn còn bị ô nhiễm hơn ở một mức độ nhất định mà ta
không thể phủ nhận. Nếu chúng ta hình dung có hàng triệu, hay thậm chí
là hàng tỷ người đang cùng lúc nhả khói thuốc như ta, và ta biết chắc
rằng bầu khí quyển của chúng ta là một môi trường khép kín, thì ta sẽ dễ
dàng biết được ngay là vấn đề không đơn giản chút nào! Tương tự như vậy,
sự sinh khởi hay diệt mất của bất cứ sự vật nào trong vũ trụ này cũng
đều có mối liên quan nhất định với tất cả những sự vật khác.
Và vì có mối quan hệ như thế, nên sự giác ngộ của mỗi một vị Phật trong
vũ trụ này tất yếu cũng là có liên quan đến tất cả chúng sinh; và ngược
lại, sự mê lầm của mỗi chúng sinh cũng đều có liên quan đến tất cả chư
Phật. Tánh giác của chư Phật hiện hữu trong toàn vũ trụ, cho đến hiện
hữu ngay trong một hạt bụi rất nhỏ. Vì thế, trong mỗi một hạt bụi đều có
đủ cả hằng hà sa số thế giới Phật.
Không những thế, mối tương quan này không chỉ là về mặt không gian, mà
còn là cả về mặt thời gian nữa. Mỗi một sự vật đang hiện hữu đều bao hàm
trong nó cả quá khứ và tương lai. Chúng ta không thể hình dung có một
cây xoài đứng trước mặt ta nếu trong quá khứ chưa từng có hạt xoài, cây
xoài con... Cho nên, trong cây xoài hiện tại cũng hàm chứa cả quá khứ
của nó. Và tương tự như vậy, nó cũng sẵn có trong đó một cây xoài già
cỗi của tương lai. Hết thảy vạn vật trong vũ trụ đều là như thế. Chư
Phật quá khứ cũng có mặt trong chư Phật hiện tại, và cũng sẵn có chư
Phật vị lai. Nói tóm lại, nếu nhìn bằng đôi mắt quán xét theo giáo lý
Hoa nghiêm, chúng ta sẽ có thể nhận thấy được toàn thể vũ trụ từ vô thủy
đến vô chung đều hiển hiện trong một hạt bụi nhỏ; cũng như trong toàn
thể vũ trụ đều có ảnh hiện hạt bụi ấy.
Khi vị tổ thứ ba của Hoa nghiêm tông là Hiền Thủ Đại sư giảng về giáo lý
Hoa nghiêm, có lần ngài nhận thấy đại chúng còn hoang mang không hiểu.
Ngài liền sai mang đến một số gương soi và xếp dọc theo hai bên tường,
sao cho tấm gương ở vị trí cuối cùng cũng phản chiếu được tất cả những
tấm khác trong đó. Như vậy, khi nhìn vào bất cứ tấm gương nào, người ta
cũng thấy được hết thảy những tấm gương khác. Khi ấy, các vị đệ tử liền
nhận ra được thế nào là tính chất tương quan của vạn vật trong toàn thể
pháp giới.
Nguyên lý tương sinh tương khởi giúp người tu tập có một tầm nhìn bao
quát và đúng thật về thực tại. Nó cũng mở rộng mục đích giải thoát theo
đúng hướng của giáo nghĩa Đại thừa. Bởi vì không thể có sự giải thoát
rốt ráo khi chúng sinh còn mê lầm, cho nên các vị Bồ Tát mới phát tâm độ
tận chúng sinh trước khi thành chánh giác, hoàn toàn khác hẳn với tinh
thần của Tiểu thừa luôn hướng đến sự giải thoát cho tự thân.
Về mặt khái quát, tổng thể là như vậy, còn về cấu trúc chi tiết thì phần
giáo lý hoàn chỉnh của Hoa nghiêm tông được chia ra là năm phần giáo,
phù hợp với các mức độ tu tập từ thấp lên cao của tất cả chúng sinh.
B. Hoa nghiêm ngũ phần giáo: Từ bậc khởi đầu cho đến phần giáo lý rốt
ráo sau cùng của Hoa nghiêm tông được các vị Tổ sư phân chia thành năm
bậc, gọi là Hoa nghiêm ngũ phần giáo.
Bậc thấp nhất là Tiểu thừa giáo được dùng để tiếp nhận những người sơ
cơ, căn trí thấp kém, vì thế chỉ dạy những điều dễ hiểu, dễ tiếp nhận,
có ý nghĩa giúp người ta xa dần các tư tưởng ác và hướng nhiều hơn đến
các điều lành. Tiểu thừa giáo có thể nói là phần giáo lý mà chỉ cần có
đức tin là ai cũng theo học và thực hiện được.
Bậc thứ hai là Đại thừa Thủy giáo, dạy về tánh không của các pháp, giúp
người tu lìa bỏ những kiến chấp hạn hẹp của Tiểu thừa mà mở rộng dần
sang giáo lý Đại thừa.
Bậc thứ ba là Chung giáo, dạy về tánh Phật sẵn có nơi tất cả chúng sinh,
và do đó mà xác quyết rằng bất cứ ai cũng có thể thành Phật. Giáo lý này
dạy rằng, dù có mê lầm trôi lăn trong sinh tử, nhưng tánh Phật vẫn không
bao giờ mất đi. Do nơi tánh Phật này mà tất cả chúng sinh đều tương đồng
với chư Phật, đều có thể làm Phật trong tương lai. Nhận hiểu được điều
này, người tu tập dù trải qua bao nhiêu gian khó hay nghịch cảnh cũng
không nản lòng, vì tin chắc rằng sẽ có một ngày hiển lộ được tánh Phật
của chính mình.
Bậc thứ tư là Đốn giáo, dạy về khả năng đốn ngộ, hay giác ngộ tức thời.
Giáo lý này dạy rằng chỉ cần giũ sạch mọi phiền não khách trần che lấp
thì tự tánh giác ngộ sẽ tự nhiên hiển bày. Điều này phụ thuộc nơi sự
trực nhận tánh giác của chúng ta chứ không phải do sự khổ công tu hành
mà được. Vì vậy, nếu có thể trực nhận thì ngay tức thời chỉ trong một
sát-na đã có thể đồng với chư Phật, bằng không thể trực nhận thì dù có
trải qua muôn kiếp tu hành cũng vẫn là ở trong vòng mê muội. Đây là phần
giáo lý cao siêu chỉ dành cho các bậc thượng căn thượng trí, nếu người
sơ cơ mà tiếp nhận giáo lý này thì chắc chắn sẽ dẫn đến những sự lầm lạc
rất nguy hại. Các nhà học Phật thường so sánh phần giáo lý này của Hoa
nghiêm tông với thuyết đốn ngộ của Thiền Nam tông, được xiển dương kể từ
Lục tổ Huệ Năng.
Bậc thứ năm là Viên giáo, phần giáo lý được xem là rốt ráo, trọn vẹn
nhất, cũng như một cái vòng tròn, không thể thêm vào hay bớt đi bất cứ
một điểm nào trên đó mà không làm mất đi tính chất tròn trịa của nó.
Tính chất tròn đầy này thể hiện ở việc hành giả chỉ cần tu tập trọn vẹn
một phần công hạnh nào đó thì tất cả những công hạnh khác cũng tự nhiên
đầy đủ. Chỉ cần dứt sạch được một sự mê lầm nào đó thì tất cả mọi sự mê
lầm khác cũng tự nhiên tan biến hết. Như người ngủ mê nhìn thấy đủ mọi
hình tượng, mọi sự việc trong giấc mộng. Chỉ cần tỉnh giấc thì tất cả
mọi hình tượng, sự việc ấy đều mất hết. Cho dù sự tỉnh thức của người ấy
là nhờ vào bất cứ lý do gì, thì những điều trong mộng cũng đều tự nhiên
không còn nữa.
Hơn thế nữa, giáo lý này còn chỉ ra rằng không chỉ không gian mà cả thời
gian cũng chỉ là những ý niệm sai lầm do tình thức[44]
mê muội của chúng sinh tạo thành. Do đó, một khi đã giác ngộ thì có thể
thấy được trọn cả vô lượng kiếp quá khứ, hiện tại và vị lai trong chỉ
một sát-na. Và vì thế, cho dù là vô lượng kiếp cũng không phải là dài
lâu, mà chỉ một sát-na cũng không phải là ngắn ngủi. Đây là phần giáo lý
cao siêu nhất, chỉ có thể nhận hiểu bằng sự tu tập hành trì để trực nhận
chứ không phải thông qua sự suy diễn lý luận như đối với các học thuyết
thế gian thông thường.