Câu hỏi 1: Buổi tối niệm Phật, có lúc phát hiện thường hay
có 1 số hiện tượng kỳ quái hoặc là 1 số việc kỳ lạ xảy ra xin hỏi đó là do
nguyên nhân gì?
Có rất nhiều chúng sinh đang tồn tại mà mắt thịt chúng ta
không thể nhìn thấy. Chúng sinh ở đường ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh; chư thiên
cũng thuộc chúng sinh,… Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, hay nói cách khác,
tất cả chúng sinh trong vô lượng kiếp ở quá khứ hầu như đều đã từng tiếp xúc
với Phật pháp. Vậy đã tiếp xúc Phật pháp, tại sao còn có thể đọa lạc vào ác
đạo? Vấn đề này mỗi chúng ta hãy tự hỏi chính mình. Gặp Phật pháp nhưng không
cố gắng tu hành, đời sau vẫn đọa. Ngạn ngữ có câu “trước cửa địa ngục tăng đạo
nhiều”, đã tiếp xúc Phật pháp, cho dù hiểu lý, nhưng không tu hành vẫn không
thể kháng lại nghiệp lực, vẫn bị nghiệp lực lôi kéo. Cho nên khi chúng ta niệm
Phật hay giảng kinh, có rất nhiều chúng sinh mà mắt thịt không thể nhìn thấy,
đều đang ở xung quanh. Số lượng của họ vượt hơn nhiều đại chúng hiện tiền.
Người thần khí mạnh sẽ không có cảm giác, vì khi đó vượng khí vượt qua họ. Thế
nhưng khi thần khí chúng ta suy, thần khí của họ sẽ vượt qua, chúng ta liền có
cảm giác. Cảm giác đó cho biết những người này không phải là ác quỷ, tuyệt đối
không làm ác, chúng sinh ác không thể đến được chỗ này. Đạo tràng có thần hộ
pháp, đều rất lương thiện, cùng tham gia tu học với chúng ta. Cho nên chúng ta
cảm giác có một số quỷ quái đang tồn tại, chúng ta niệm Phật hồi hướng cho họ
đồng thời nhắc nhở chính mình. Nếu không cố gắng tu học, tương lai cũng sẽ
giống họ. Thực tế quỷ quái hiện tại cũng đang nghe kinh, cũng đang học Phật.
Một số Phật tử đến Trung Quốc thọ giới, sau khi trở về kể với chúng tôi, đã gặp
quỷ quái nhập thân, nói rõ họ hiện tại ở một số người này đang cùng học Phật,
cùng tụng kinh Vô lượng Thọ.
Câu hỏi 2: Nạo phá thai, tụng kinh Địa Tạng như thế nào để
hồi hướng?
Nạo phá thai là vấn đề nghiêm trọng, là nghiệp chướng.
Trong kinh Phật nói, con cái và cha mẹ là cái duyên rất sâu dầy. Nếu không có
duyên sẽ không cùng chung sống một nhà. Trong cái duyên này có hai loại.
Có báo ân mà đến: ngày trước chúng ta có ân đức với họ,
đời này họ đến trở thành hiếu tử hiền tôn. Nạo thai là đem giết họ đi, ân lập
tức biến thành thù. Không những ân không còn, lại kết thêm oán thù, khi lần sau
gặp lại, họ sẽ báo thù.
Đến để báo oán: nếu đem giết chết họ, oán kia lại chồng
thêm oán, oán thù này càng kết càng sâu, đời đời kiếp kiếp, tương báo lẫn nhau
không hề ngừng dứt.
Thông thường người trong xã hội không tin tưởng đạo lý
này, vậy không còn cách nào. Không phải nói không tin thì không có thật, nếu
“không tin thì không có”, chúng tôi cũng sẽ không tin. Dù không tin, nhưng sự
thật vẫn là sự thật, cho nên chúng ta nhất định phải cẩn trọng. Phải rất tốn
sức nếu muốn giải mở oan kết này. Cách nêu trong kinh Địa Tạng rất có hiệu quả,
không phải tụng vài bộ kinh Địa Tạng là xong. Xem cách thức siêu độ người thân
của nữ Quang Mục và nữ Bà La Môn. Sau khi người nhà của họ chết đọa vào địa
ngục, họ đã dốc sức tu học dũng mãnh tinh tấn, oan kết liền được khai mở. Khi
giảng kinh Địa Tạng, chúng tôi đã nói rất rõ ràng tường tận, nữ Bà La môn niệm
Phật đến nhất tâm bất loạn, rồi dùng công đức hồi hướng cho người thân. Nếu
không có công phu, làm thế nào siêu độ cho họ.
Khi niệm Phật đến công phu thành khối, nữ Bà La Môn đạt
cảnh giới trong định, không phải trong mộng, cô liền đến địa ngục. Có hai loại
người có thể thấy được địa ngục. Thứ nhất là người tạo tội nghiệp, phải đọa vào
địa ngục để chịu quả báo. Loại người thứ hai là bồ tát, bồ tát có thể vào điạ
ngục để tham quan, hóa độ chúng sinh. Nữ Bà La Môn niệm đến nhất tâm bất loạn
liền có năng lực đi tham quan địa ngục, quỷ vương nhìn thấy gọi cô là bồ tát.
Như vậy, không phải chỉ đọc qua loa kinh Địa Tạng là được, mà phải y theo đạo
lý của kinh điển tu hành, nâng cảnh giới của chính mình từ phàm phu lên thành
bồ tát, oan gia trái chủ liền thảy đều được độ.
Nữ Quang Mục đạt cảnh giới trong mộng, tuy thấp hơn một
bậc, chưa đạt đến nhất tâm bất loạn nhưng có thể nói công phu của cô cũng đã
thành khối, cũng đạt cảm ứng thù thắng. Do đây có thể biết, phương pháp lý luận
kinh điển nói đều không sai. Chúng ta lơ là qua loa, luôn xem kinh điển là sai.
“Thọ trì đọc tụng vì người diễn nói”. Thọ là đem lý luận phương pháp trong kinh
điển để tiếp nhận, y giáo phụng hành. Không áp dụng trong cuộc sống thường ngày
của chính mình thì không gọi là thọ trì. Mỗi ngày đọc tụng một hai bộ kinh, thọ
trì là tự lợi, diễn nói là lợi tha. Tự độ độ người, công phu chân thật ngay nơi
đó, sau đó hồi hướng. Lúc đó quỉ thần cầu giúp đỡ, chúng ta mới có thể giúp
được. Bằng không, việc giải oan kết không thể được tiếp nhận. Cho nên khi gặp
người muốn nạo thai thì hãy khuyên họ nhất định đừng tạo oan nghiệp này, vì sẽ
vô cùng phiền phức.
Câu hỏi 3: Lần chuỗi niệm Phật mỗi khi nghe giảng pháp hay
khi trò chuyện. Làm như vậy có đúng không?
Trong kinh không hề nói không được lần chuỗi niệm
Phật khi nói chuyện. Phật không hề nói như vậy. Lần chuỗi hay không đều tốt cả.
Lần chuỗi là nhắc nhở chính mình niệm Phật, cầm chuỗi cũng có thể độ được rất
nhiều chúng sinh. Chúng tôi thường khuyên người học Phật, hay các tín đồ Phật
giáo tay cầm tràng hạt khi đi trên đường dù niệm hay không niệm. Người khác
nhìn thấy sẽ có ấn tượng chúng ta đang niệm Phật. Ấn tượng đó thâm nhập vào A
Lại Da thức của họ, trồng vào A Lại Da thức họ một hạt giống Phật. Đó là việc
tốt tuy không phải là một vấn đề lớn.
Câu hỏi 4: Trong nhà tu tịnh độ có thể cúng tờ phướng Án
Ma Ni Bát Di Hồng hay không?
Việc này không quan trọng nhưng phải nên biết ý nghĩa của
câu chú này. Đây là lục tự đại minh chú của bồ tát Quan Thế Âm. Ý nghĩa chú này
rất hay, dạy chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều phải chân thành,
thanh tịnh, bình đẳng. “An” là thân bao gồm cả pháp thân, báo thân, ứng hóa
thân. “Ma Ni” tiếng Phạn gọi là hoa sen. “Bát di” là giữ gìn. “Hồng” là ý.
Chiếu theo ý tứ của mặt chữ mà giảng giải là “gìn giữ thân tâm mình như đóa hoa
sen”. Hoa sen thanh tịnh tuy sinh ra từ bùn nhưng không bị ô nhiễm. Cho nên khi
cúng dường, chúng ta cần hiểu ý này, nhắc nhở chính mình thân tâm thanh tịnh,
không nhiễm một trần mới có thể cúng.
Câu hỏi 5: Quy y Tam Bảo thay cho người thân có được
không?
Không thể được. Quy y phải do chính mình phát tâm, không
thể làm thay. Nếu ở nơi hẻo lánh, không có tự viện, không có pháp sư, chính
mình phải chân thật phát tâm quy y, thọ năm giới, mười giới đều có thể ở trước
tượng Phật, tự mình tuyên thệ. Quy y nhất định phải hiểu đạo lý của quy y. Từ
chỗ nào mà quy, y theo cái gì? Phải thật rõ ràng, thông suốt thì việc phát tâm
liền có hiệu quả. Mơ mơ hồ hồ quyết định quy y, việc quy y này không có lợi
ích. Chúng tôi có một quyển sách nhỏ “Truyền thọ Tam quy” và đĩa VCD nói rõ nội
dung này. Tóm lại, nếu chân thật phát tâm quy y thì ở trước hình tượng Phật Bồ
Tát tự mình cũng có thể tuyên thệ quy y.
Câu hỏi 6: Cách thức lẫn chuỗi hạt thế nào cho đúng, lần
đến đầu Phật thì phải làm sao?
Đó là nơi tiếp nối của đầu chuỗi mà nhiều người gọi là đầu Phật. Khi lần đến
đây thì cứ thế mà lần qua. Thế nhưng có một số người cho rằng không nên lần qua
hoặc sờ qua đầu Phật. Lời nói này cũng có đạo lý. Nhiều chuỗi hạt, hạt đầu có
tượng Phật, cho nên không nên lần tay qua tượng Phật. Còn những loại chuỗi hạt
thông thường không có tượng Phật, thì có thể lần qua. Hạt chuỗi đầu có tượng
Phật, khi niệm đến đây thì chuyển tay để biểu thị cung kính.
Câu hỏi 7: Tôi muốn cầu xin ngài giúp đỡ siêu độ cho oan
gia trái chủ của con gái. Oan gia trái chủ tạo nên bệnh cho con gái tôi. Tôi tu
hành không được tốt nên không có năng lực siêu độ. Trong túi chỉ có mấy ngàn,
năng lực kinh tế không đủ để làm lễ siêu độ.
Việc siêu độ mà cần phải có mấy ngàn đồng e rằng sẽ
không linh, vì sao? Đó là mua bán. Siêu độ không cần tiền mới linh. Bỏ tiền ra
sẽ không có hiệu quả. Có rất nhiều phương pháp siêu độ. Đại sư Ấn Quang đã làm
gương cho chúng ta. Ngài in kinh ấn tống hồi hướng công đức, rất lợi ích. Kinh
điển chúng ta in sẽ có nhiều người đọc tụng, tương lai nếu một người nào đó từ
kinh điển này chân thật nhận được lợi ích, được khai ngộ, công đức đó không thể
nghĩ bàn. Cho nên cả đời Ấn tổ, bốn chúng cúng dường, toàn bộ ngài đều đem đi
in kinh ấn tống. Đó là tấm gương lớn trong thời kỳ mạt pháp.
Trở lại vấn đề nêu trong câu hỏi, căn gốc bệnh tật
của tất cả chúng sinh, bệnh đau tuy nhiều, quy nap nguyên do chỉ có ba loại.
Loại thứ nhất là bệnh sinh lý do đi đứng ăn uống không
điều độ. Người xưa thường nói “bệnh từ miệng vào”, chúng ta ăn uống không vệ
sinh, không khoa học; ở, ăn mặc không lưu ý nên bị cảm mạo phong hàn. Những thứ
bệnh này thuộc về sinh lý cần tìm bác sĩ chẩn đoán trị liệu.
Loại bệnh thứ hai, như câu hỏi vừa nêu, oan gia trái
chủ tìm đến thân. Loại bệnh này không thuộc sinh lý, thuốc thang sẽ không có
hiệu quả, thầy thuốc cũng không thể trị hết. Chỉ có phương pháp duy nhất, đó là
hòa giải cùng oan gia trái chủ để họ tiếp nhận, đồng ý và rời khỏi. Cho nên
pháp sự siêu độ thông thường dụng ý chính là hòa giải, tiếp nhận cũng có không
ít. Thế nhưng trường hợp không tiếp nhận cũng có, làm cho vấn đề trở nên khó
khăn hơn.
Loại bệnh thứ ba là bệnh nghiệp chướng, không phải
sinh lý cũng không phải oan gia trái chủ mà do chính mình tạo nghiệp quá nặng.
Loại bệnh này rất phiền phức, thầy thuốc chào thua, siêu độ cũng không tác
dụng. Đức Phật nói, loại bệnh nghiệp chướng này chỉ có một phương pháp đối trị,
chính là chân thành sám hối. Bồ tát Phổ Hiền dạy chúng ta sám trừ nghiệp
chướng, bệnh liền có thể hết. Trong Phật pháp, nếu biết được căn nguyên của
bệnh này, hiểu được phương pháp đối trị, chúng ta không cần phải tốn nhiều tiền
oan uổng, quan trọng nhất phải dùng tâm chân thành sám hối, tụng kinh niệm Phật
hồi hướng.
Thế nhưng điều trị vẫn là phương thức cần thiết. Nó có thể
giúp chúng ta hồi phục sức khỏe, quan trọng vẫn từ nơi nội tâm mà sám hối, đoạn
ác tu thiện.
Cư sĩ Lý Mộc Nguyên, mười hai năm trước bị bệnh ung thư
nghiêm trọng. Tế bào ung thư của ông gần như phát tán khắp cơ thể. Hiện ông còn
giữ lại hơn 30 tấm phim chụp X quang. Lúc đó, bác sĩ chẩn đoán ông thọ mạng chỉ
còn ba tháng. Bắt đầu từ đó ông thực sự hồi đầu. Ông đem sự nghiệp của gia
đình, mọi thứ thảy đều giao phó hết. Ông đến cư sĩ Lâm làm công quả và đợi
chết. Chờ đợi đến nay là mười hai năm, thân thể của ông ngày càng khỏe mạnh.
Như vậy, từ nơi nguyện lực của thân đã làm cho nghiệp lực được thay đổi.
Thọ mạng bệnh khổ của con người chúng ta là nghiệp báo, cư
sĩ Lý phát thệ nguyện quá lớn, nguyện lực siêu vượt qua nghiệp lực, ông toàn
tâm toàn lực làm việc vì Phật pháp, xả mình vì người. Đạo tràng cư sĩ Lâm này
từ tay ông mà hưng vượng, cống hiến rất lớn đối với Phật giáo. Mỗi ngày đều
giảng kinh, từ đầu năm đến cuối năm không hề gián đoạn. Niệm Phật đường 24 giờ
cũng không hề gián đoạn. Thời gian gần đây, đạo tràng lại phát tâm mở lớp bồi
huấn nhân tài hoằng pháp, đoàn kết chín tôn giáo của Singapore. Chủ nhật hàng tuần,
giảng đường chật ních đại biểu các tôn giáo khác tụ về giảng đạo. Đại đoàn kết
tôn giáo trong lịch sử trước đây chưa từng có. Những công đức này có thể chuyển
được nghiệp báo
Chuyển nghiệp báo nhất định phải dựa vào chính mình, không
thể dựa vào người khác. Nếu người khác có thể thay chúng ta chuyển nghiệp báo
thì cha có thể chuyển nghiệp báo thay cho con. Hay nói cách khác, Phật Bồ Tát
liền có năng lực chuyển nghiệp báo của chúng ta, chúng ta cần gì phải tu hành?
Cho nên nhất định phải hiểu lý, nghiệp báo là do chính mình tạo, thì chính mình
phải quay đầu tiêu trừ nghiệp chướng.
Xem trong hội Lăng Nghiêm, A Nan gặp phải nạn ma Đăng già.
Đó là một ví dụ rất rõ ràng, Thích Ca Mâu Ni Phật không thể giúp được. Ngạn ngữ
có câu “ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, không tu không đắc”, không cách gì thay
thế. Gặp được người cao minh, gặp Phật Bồ Tát, các ngài dạy chúng ta phương
pháp, giúp đỡ chúng ta hiểu lý luận, sau đó chính mình chăm chỉ nỗ lực tu hành,
sửa chữa hành vi sai lầm, nghiệp chướng của chúng ta liền được tiêu trừ, vận
mạng liền được thay đổi. Chúng tôi cũng thường khuyên các vị đồng tu đem nghiệp
báo của thân chuyển biến thành nguyện lực của thân thì chúng ta được tự tại,
được chư Phật Bồ Tát hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ.
Khi chưa gặp Phật pháp, chúng ta khởi tâm động niệm đều là
tự tư tự lợi. Sau khi học Phật mới hiểu ra cái chấp trước này là sai lầm, là
tạo nghiệp luân hồi. Phật dạy bảo chúng ta đem ý niệm chuyển đổi lại, từ đây về
sau không vì chính mình, buông bỏ ý niệm tự tư tự lợi. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên đã
buông bỏ, quyết không vì chính mình, tất cả vì Phật pháp, vì chúng sinh. Khi
vừa chuyển đổi nghiệp lực biến thành nguyện lực, sức mạnh hiệu quả rất lớn.
Oan gia trái chủ báo thù, muốn gây phiền phức, đó là vì
chúng ta còn có lòng riêng tư. Khi vừa chuyển đổi ý niệm, oan gia trái chủ
không những không dám tìm đến gây phiền phức mà còn giúp đỡ, ủng hộ. Họ không
thể báo thù, chúng ta vì tất cả chúng sinh, nếu họ hại chết chúng ta có nghĩa
là họ sẽ hại tất cả chúng sinh, tội này cực trọng, họ sẽ không thể gánh vác
nổi. Nhưng nếu chúng ta không có ý niệm vì chúng sinh, vì Phật pháp, mà vì tự
tư tự lợi, họ sẽ có biện pháp đối phó. Hiểu rõ đạo lý này, hãy làm thế nào
chuyển nghiệp báo một cách hiệu quả.
Bản thân chúng tôi cũng được chuyển biến. Khi tôi còn trẻ,
mẫu thân và những thân thích xem tướng đoán mạng đều nói tôi không vượt qua 45
tuổi. 26 tuổi tôi bắt đầu học Phật, cũng không cầu trường thọ. Đến năm 45 tuổi,
tôi bị một trận bệnh hết một tuần lễ. Tôi biết thời gian đang đến nên cũng
không tìm bác sĩ, không uống thuốc. Mỗi ngày niệm Phật đợi vãng sinh. Niệm hết
một tháng bệnh liền khỏi, cả đời từ đó về sau không hề bị bệnh nữa. Cho nên tôi
không có bệnh án trong bệnh viện. Chuyển biến nghiệp lực không vì chính mình.
Vì chính mình là con đường tử lộ, vì chúng sinh là con đường sinh lộ.
Chúng tôi thường khuyên đồng tu buông bỏ tự tư tự lợi,
khởi tâm động niệm vì tất cả chúng sinh, tất cả vì xã hội, vì chánh pháp cửu
trụ. Nhà Phật thường nói “thừa nguyện tái lai”. Thân chúng ta là thừa nguyện
trở lại, không phải là thân nghiệp báo. Sau khi chuyển đổi, phải tinh tấn, nỗ
lực, quyết không giải đãi, không tạo tội nghiệp, mỗi ngày phải đọc tụng kinh
điển tiếp nhận giáo hóa của Phật Bồ Tát, và y giáo phụng hành. Mỗi ngày đọc một
bộ kinh, từ sơ phát tâm đọc đến thành Phật đều không chán, vì mỗi biến luôn có
ý mới, mỗi biến đều có chỗ ngộ mới. Đọc tụng chân thật sẽ mang lại an vui vô
cùng, giúp chúng ta hoạt động, làm việc, đối nhân xử thế tiếp vật, lợi ích rộng
lớn vô tận.
Câu hỏi 8: Đạo tràng khoảng 700 m2 mới khi đưa vào sử dụng
có cần phải làm tịnh đàn hay không? Nếu có, nên mời người như thế nào, hoặc cần
tụng bộ kinh nào?
Khi bắt đầu sử dụng đạo tràng mới, chỉ nên cử hành nghi
thức sái tịnh là được. Thỉnh pháp sư càng tốt, nếu không, cư sĩ cũng có thể
làm. Đạo lý then chốt nhất là “Tâm tịnh thời cõi Phật tịnh”. Phải dùng tâm
thanh tịnh để thực hiện nghi thức này thì mới có hiệu quả. Tâm lượng không
thanh tịnh, có làm nghi thức này vẫn không hữu dụng. Đạo tràng mới xây, phải
nên giảng một bộ kinh Địa Tạng, bởi vì đất này hàm chứa bảo tạng vô tận. Đối
với chúng tôi, bất cứ đạo tràng mới xây nào, bộ kinh thứ nhất nhất định phải
giảng là “Địa Tạng bồ tát bổn nguyện kinh”. Trong pháp thế gian, kinh Địa Tạng
chủ trương xây dựng tâm lý, xây dựng nền tảng.
Câu hỏi 9: Có phải tất cả thương tích bên ngoài đều do nghiệp nhân chiêu
cảm? Mỗi lần nhiếp tâm niệm Phật thì chướng ngại xuất hiện rất nhiều. Có người
khuyên không nên phát tâm mà hãy tùy duyên, nên hồi hướng công đức cho oan gia
trái chủ. Vậy nên làm thế nào để có thể thành tựu?
Thương tích bên ngoài đôi khi do chúng ta không cẩn thận,
chưa hẳn là nhân quả báo ứng. Người Trung Quốc xưa giảng hiếu đạo, hiếu thân
không nên làm cho cha mẹ lo lắng. Tất cả hành động cẩn thận tỉ mỉ, không để
thân thể chính mình bị tổn thương gây lo buồn cho cha mẹ.
Oan gia trái chủ, mỗi người đều có, hơn nữa còn có vô số kể từ nhiều kiếp trong
quá khứ. Đức Phật dạy chúng ta phương pháp rất hay, chúng ta tu hành không phải
vì chính mình. Nếu tu vì chính mình, oan gia trái chủ vẫn tìm đến gây phiền
phức. Vì chúng ta còn mang tâm tự tư tự lợi. Tu vì tất cả chúng sinh bao gồm
các oan gia trái chủ, oan nghiệp này lập tức liền được hóa giải. Chúng ta đoạn
ác không vì chính mình mà đoạn ác; tu thiện không vì chính mình mà tu thiện;
phá mê không vì chính mình mà phá mê, khai ngộ không vì chính mình mà khai ngộ;
thành Phật cũng không vì chính mình mà thành Phật. Chỉ cần có tâm muốn độ tất
cả chúng sinh, thì hiệu quả của việc hồi hướng này sẽ rất rõ ràng trong đời
sống chúng ta.
Cho nên tâm lượng phải lớn, lượng lớn phước lớn. Tâm lượng
nhỏ, phước báu sẽ nhỏ. Phải hiểu rõ đạo lý này để mở rộng tâm lượng giống như
chư Phật Bồ Tát, tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới.
Câu hỏi 10: Có phải nhất định bồ tát Địa Tạng làm kiến
chứng hay không? Có phải bày trí bài vị của oan gia trái chủ mới có thể triệt
để tiêu trừ tích oán của nhiều đời nhiều kiếp?
Tiêu trừ không nổi. Việc này không thể tiêu trừ.
Singapore cũng có phong khí này, cúng không
ít bài vị của oan gia trái chủ. Cư sĩ Lâm mỗi năm đều đặn tổ chức mấy lần pháp
hội siêu độ. Người đến cúng oan gia trái chủ rất nhiều. Phần lớn đều thỉnh pháp
sư đến chủ trì pháp hội. Trong số những pháp sư này, một số đã từng được bồi
dưỡng nên hiểu được đạo lý, phương pháp, cũng có thể giảng kinh vì mọi người
khai thị, cho nên hiệu quả của siêu độ tương đối thù thắng. Có thể lập bài vị
siêu độ oan gia trái chủ, nhưng quan trọng nhất phải hiểu được lý luận như vừa
nêu. Vì an định phồn vinh của xã hội, vì thế giới hòa bình, vì nhân dân hạnh
phúc, chỉ cần phát tâm như vậy thì luôn được lợi ích, được chư Phật hộ niệm,
quỷ thần cũng tán thán, ủng hộ. “Người cùng tâm này, tâm cùng lý này”, gặp được
người như vậy, chúng ta cũng kính phục tận đáy lòng, cho dù cùng với mình có
ngang trái gì, chúng ta cũng không dám giữ tâm báo thù, bởi vì họ là người
thiện, vì xã hội làm rất nhiều việc thiện. Việc thiện của họ làm cũng đồng như
chính chúng ta làm, cho nên quỷ thần cũng hiểu và tùy hỉ công đức.
Pháp Sư
Tịnh Không
Giảng tại
Cư sĩ Lâm Phật giáo Singapore ngày 30-10-2000
Cẩn Dịch:
Vọng Tây Cư Sĩ
Biên Tập:
PT. Giác Minh Duyên