V.Chư Tổ sư Tây Thiên
Khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn, ngài truyền lại
cho đại đức Ca-diếp đứng đầu giáo hội mà hộ trì Chánh pháp ở Tây
thiên. Ngài biết rằng, trong tăng chúng, Ma-ha Ca-diếp là người xứng
đáng hơn hết, có thể lãnh lấy trách nhiệm. Như vậy, ngài Ca-diếp trở
thánh vị Tổ sư thứ nhất nối truyền pháp Phật.
Từ ngài Ca-diếp trở về sau, chư vị Tổ sư đều là những người tài cao đức
lớn, là những vị Bồ-tát xiển dương pháp giáo của Phật truyền lại. Trong
lịch sử đạo Phật ở Ấn Độ, có tất cả là hai mươi tám vị Tổ sư, bắt đầu từ
ngài Ca-diếp, cho đến ngài Bồ-đề Đạt-ma là cuối, vì Tổ Bồ-đề Đạt-ma
mang Chánh pháp sang truyền ở Trung Hoa, sau đó không thấy ghi chép việc
truyền nối ở Ấn Độ nữa.
Hai mươi tám vị Tổ sư đã từng làm cho cõi Ấn độ được vẻ vang về mặt đạo
lý, cho đến nay dấu xưa tích cũ hãy còn nơi những cảnh chùa tháp cũ. Dần
dần về sau, vì lòng từ bi muốn truyền rộng đạo giải thoát, chư vị đem
đạo Phật truyền ra các nước ngoài, cho đến vị Tổ thứ hai mươi tám thì
đạo Phật qua đến Trung Hoa.
Cho nên khi đạo Phật không còn được hưng thạnh lắm nơi xứ Ấn Độ, thì
ngọn đuốc huệ đã bắt đầu soi tỏ các nước khác trên toàn cõi Á châu. Và
mỗi nơi cũng đều nhờ ánh sáng đó mà làm nên những công trình vĩ đại, như
các nước Miến Điện, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên... đều chịu ảnh
hưởng sâu sắc của đạo Phật trong đời sống văn hóa và tinh thần. Còn như ở
Việt Nam ta, lần xem lại những trang sử hiển hách vinh quang của các
đời Lý, Trần, cũng có thể thấy rất rõ ảnh hưởng tích cực của đạo Phật.
HAI MƯƠI TÁM VỊ TỔ SƯ TÂY THIÊN
Phật Thích-ca bắt đầu truyền cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp là Tổ thứ nhất,
truyền tiếp qua hai mươi tám đời, đến tổ thứ hai mươi tám là Bồ-đề
Đạt-ma. Tên tuổi các vị được ghi đủ dưới đây:
01. Ma-ha Ca-diếp (Mahākāśyapa – 摩訶迦葉)
02. A-nan-đà (Ānanda – 阿難陀)
03. Thương-na Hòa-tu (Śānavāsin – 商那和修)
04. Ưu-bà-cúc-đa (Upagupta – 優婆掬多)
05. Đề-đa-ca (Dhītika – 提多迦)
06. Di-già-ca (Miśaka – 彌遮迦)
07. Bà-tu-mật (Theá Höõu, Vasumitra – 婆須密)
08. Phật-đà Nan-đề (Buddhanandi – 佛陀難提)
09. Phật-đà Mật-đa (Buddhamitra – 佛陀密多)
10. Bà-lật-thấp-bà(Hiếp Tôn giả, Pārśva –
婆栗濕婆)
11. Phú-na Dạ-xa (Punayaśa – 富那夜奢)
12. A-na Bồ-đề(Mã Minh, Ānabodhi –
阿那菩提, ,馬鳴)
13. Ca-tì-ma-la (Kapimala – 迦毘摩羅)
14. Long thụ(Nāgārjuna – 龍樹)
15. Ka-na-đề-bà(Thánh Thiên, Kānadeva –
迦那提婆 , 聖天)
16. La-hầu-la-đa(Rāhulabhadra – 羅睺羅多)
17. Tăng-già Nan-đề (Sanghanandi – 僧伽難提)
18. Tăng-già Xá-đa (Sanghayathata – 僧伽舍多)
19. Cưu-ma-la-đa (Kumāralāta –鳩摩羅多)
20. Xà-dạ-đa (Śayata – 闍夜多)
21. Thế Thân (Vasubandhu – 世親)
22. Ma-noa-la (Manorata – 摩拏羅)
23. Hạc-lặc-na (Haklenayaśa – 鳩勒那)
24. Sư Tử Bồ-đề (Sinhabodhi – 師子菩提)
25. Bà-xá Tư-đa (Baśanita –婆舍斯多)
26. Bất-như Mật-đa (Punyamitra – 不如密多)
27. Bát-nhã Đa-la (Prajnādhāra – 般若多羅)
28. Bồ-đề Đạt-ma (Bodhidharma – 菩提達磨)
Trong 28 đời Tổ Tây thiên, có bốn vị là hoàng tử vì mộ đạo giải thoát mà
bỏ ngôi vua, lìa mọi sự vinh hoa phú quí ở nhân gian. Ấy là:
1. Tổ đời thứ 17, Tăng-già Nan-đề, con vua Bảo Trang Nghiêm, thành Thất-la-phiệt.
2. Tổ đời thứ 22, Ma-noa-la con vua Thường Tự Tại, nước Ma-đề.
3. Tổ đời thứ 26, Bất-như Mật-đa, con vua Đắc Thắng ở miền Nam Ấn Độ.
4. Tổ đời thứ 28, Bồ-đề Đạt-ma, con vua Hương Chí miền Nam Ấn Độ.
Nếu kể luôn đức Phật Thích Ca, vốn là hoàng tử của vua Tịnh Phạn tại
Ca-tỳ-la-vệ, thì trong 29 đời Phật Tổ, có tất cả năm vị hoàng tử bỏ ngôi
vua chúa mà đi tu hành và truyền bá giáo lý.
Phật truyền đạo năm trăm năm trước Dương lịch. Các Tổ sư nối nhau mà giữ
mãi đến đời thứ hai mươi tám là năm trăm năm sau Dương lịch, nghĩa là
Phật pháp thạnh hành trong một ngàn năm ở Ấn độ.
Đạo Phật bắt đầu phát triển mạnh ở Trung Hoa kể từ một ngàn năm sau khi
Phật diệt độ, vì Tổ sư Đạt-ma sang Quảng đông vào năm 520. Bắt đầu từ
đây, Trung Quốc được truyền bá Phật giáo chân truyền, khỏi phải có những
sự lầm lạc như trước. Khoảng trăm năm sau nữa, ngài Huyền Trang qua Ấn
Độ để tìm học Phật pháp với các cao tăng Ấn Độ và thỉnh về Trung hoa rất
nhiều kinh điển.
1.
TỔ MA-HA CA-DIẾP
摩訶迦葉祖
Ngài sanh ra tại xứ Ma-ha-tích-tha, là đệ tử được Phật giao cho trách
nhiệm lãnh đạo và điều hành Giáo hội sau khi Phật nhập diệt.
Tên của ngài viết đầy đủ là Ca-diếp-ba, Hán dịch là Ẩm Quang. Ngài là
người giữ theo lời dạy của Phật rất nghiêm túc, từng được Phật khen là
Đầu đà đệ nhất, tức là tu theo lối khổ hạnh khắc khổ hơn hết trong các
đệ tử của Phật. Từ lúc nhỏ, lòng mộ đạo và tấm lòng thanh bạch của Ngài
đã nổi tiếng khắp nơi rồi.
Đến tuổi trưởng thành, ngài Ca-diếp thưa với cha mẹ rằng: “Khi cha mẹ
còn tại thế, xin cho con lo phần phụng dưỡng. Đến khi cha mẹ mãn phần,
con sẽ xuất gia cầu đạo.”
Bà mẹ lấy làm lo lắng về việc ấy, chỉ muốn ngài phải lập gia đình, sinh
con cái để nối nghiệp nhà. Ngài biết vậy, muốn tìm cách làm cho mẹ bớt
lo lắng, liền thuê người tạc một tượng mỹ nữ, mặc áo đẹp và trang điểm
giống như người thật. Rồi ngài mang tượng ấy cho mẹ xem và nói rằng:
“Thưa mẹ, khi nào con gặp một người giống như pho tượng này thì con xin
cưới làm vợ.” Ý ngài làm thế là muốn kiếm cớ để kéo dài thời gian, tránh
được sự thúc ép của cha mẹ về việc lập gia đình. Bởi vì, chỉ là một pho
tượng ngẫu nhiên làm ra, làm sao lại có người giống với tượng ấy?
Không ngờ bà mẹ tin thật lời ấy, liền nhờ mấy người Bà-la-môn đem pho
tượng ấy đi khắp nơi để tìm người. Họ đến xứ Xá-kiệt-la, để pho tượng ấy
bên bờ một con sông và ngồi cách đó xa xa nhìn.
Lúc ấy, người vú nuôi của cô Bạt-đà vừa đi xuống sông để tắm. Vú già
thấy pho tượng từ xa thì nghĩ rằng: “Quái lạ! Sao hôm nay tiểu thư lại
mặc y phục lạ thế này?” Vú già chạy lại xem, vả nhẹ trên má mới biết đó
chỉ là một pho tượng, mà sao giống hệt cô Bạt-đà. Mấy người Bà-la-môn
quan sát thấy hết mọi việc, mới đến gần vú già dọ hỏi. Bà vú già đưa họ
về nhà ông Cố-xi-da-gô-ta, được tiếp đãi rất niềm nở. Sau khi trình bày
việc đi tìm người của mình rồi, họ xin được lưu lại đó mấy hôm và gởi
thư về cho ông Ca-bi-la là cha của ngài Ca-diếp, trình bày việc đã tìm
được người và dặn ông nên đưa lễ sang hỏi cưới.
Ngài buộc lòng vâng lời cha mẹ mà cưới vợ. Nhưng cả ngài và cô Bạt-đà
đều không ai muốn kết dây ân ái. Vì vậy, trong hai mươi năm sống chung
một nhà, họ chỉ cư xử với nhau như hai người bạn mà bên ngoài không ai
biết cả.
Đến khi cha mẹ đã qua đời, ngài Ca-diếp và nàng Bạt-đà liền bàn nhau
cùng xuất gia nhập đạo. Ngài Ca-diếp nhờ đạo tâm vốn đã rất thuần thục,
nên chỉ vừa xuất gia được chín ngày đã chứng đắc thánh quả A-la-hán.
Về sau, ngài có làm bài kệ dưới đây để chỉ rõ sự lợi ích trong cuộc thoát trần:
Hễ là giữ phận nhà sư,
Việc đời dầu được, dầu hư chớ sờn.
Lánh mình nơi chốn lâm sơn,
Chẳng màng so sánh thua hơn làm gì.
Kẻ nào vui sướng ly bì.
Thì phần Chánh đạo lạc đi xa đàng.
Làm sư, danh lợi chớ màng,
Giữ mình cho khéo mới sang được bờ,
Chớ nên đày ải thể cơ,
Thân hình khổ nhọc, khó chờ tính an.
Đại đức Ma-ha Ca-diếp cũng có làm bài kệ sau đây để tả phong cảnh đẹp chỗ ngài ưa thích:
Mấy nhà hiền đức xưa nay,
Ai mà lại chẳng vui vầy cảnh xinh?
Những là sơn thủy hữu tình,
Rừng cao cây phủ tươi xanh bốn mùa.
Đá hoa rực rỡ chen đua,
Xa nghe có tiếng voi đùa cùng nhau.
Giọt mưa rỉ rả lào xào.
Ngồi trên hòn đá cảm bao nhiêu tầng!
Những là non núi bao giăng,
Thoảng chừng có bóng sư tăng qua vùng.
Tư bề êm ái vô cùng,
Lâu lâu nghe có tiếng công kêu chào.
Cảnh tình vui thích làm sao!
Tham thiền nhập định lúc nào cũng yên.
Ví mình muốn dứt nợ duyên,
Khá tìm cảnh tịnh mà chuyên dưỡng thần.
Non cao là chốn tu thân,
Hồng trần giải thoát, dự phần Phật Tiên.
Khi ngài Ca-diếp đã già, biết mình sắp tịch, liền gọi A-nan-đà đến và
dạy rằng: “Lúc trước, khi Phật nhập diệt, có dặn ta rằng về sau có thể
giao quyền chấp chưởng Giáo hội lại cho ngươi. Nay ngươi hãy cố gắng làm
tròn trách nhiệm ấy. Hiện nay trong thành Vương-xá có Thương-na-tu là
người trí huệ và đức hạnh, chính là người về sau có thể làm Tổ sư đời
thứ ba, tiếp nối cho ngươi đó.”
Rồi ngài lại nói rằng:
“Ngày xưa, Phật có phó chúc Chánh pháp cho ta. Nay ta đem giao lại cho
ngươi. Vậy ngươi khéo hộ trì Chánh pháp ấy. Hãy nghe kệ đây:
Pháp pháp bổn lai pháp,
Vô pháp vô phi pháp.
Hà ư nhất pháp trung
Hữu pháp hữu phi pháp?
Dịch nghĩa
Pháp là pháp tự xưa nay
Pháp và phi pháp thảy rày vốn không.
Tại sao trong một pháp ròng,
Pháp và phi pháp thảy đồng dự chen?
Sau đó, ngài Ca-diếp đến từ biệt vua A-xà-thế nhưng không gặp vua, ngài
mới đi thẳng vào núi Kê-túc, chọn một chỗ hang động và phát lời nguyện
rằng: “Thân thể này nguyện sẽ còn mãi cho đến khi đức Di-lặc ra đời
thành Phật độ sanh.” Ngài phát nguyện xong, mặt đất rung rinh chấn động.
Hôm sau, vua A-xà-thế nằm ngủ, chiêm bao thấy cây trụ cái trên trời đột
nhiên gãy đổ. Vua hoảng hốt. Thức dậy mới hay tin rằng ngài Ca-diếp đã
tịch.
Vua cùng với Tổ A-nan-đà vào núi Kê-túc. Khi ấy cửa động liền tự mở ra
để hai người nhìn thấy được ngài Ca-diếp và lễ bái ngài lần cuối. Vua
than khóc rất lâu rồi mới trở về.
Đến nay người ta vẫn truyền rằng, trong núi Kê-túc, ngài Ca-diếp hiện
vẫn còn ngồi, thân thể không hề hoại mất, chờ khi đức Di-lặc đản sanh
ngài sẽ trở lại cõi thế.
2.
TỔ A-NAN-ĐÀ
阿難陀祖
Tổ sư A-nan-đà, thường gọi là A-nan, Hán dịch là Khánh hỷ, Hoan hỷ.
Ngài là đệ tử thân cận nhất của Phật, từng làm thị giả cho Phật rất lâu.
Ngài A-nan được Phật khen là đa văn nhất trong số các đệ tử. Nhờ làm
thị giả cho Phật, nên mỗi khi Phật thuyết pháp ở đâu, ngài A-nan-đà đều
có mặt để nghe đầy đủ. Vì vậy mà sau này, tất cả kinh điển được kết tập,
đều do ngài theo trí nhớ mà đọc lại cho các vị khác ghi chép, nên bao
giờ cũng phải mở đầu bằng câu: “Tôi nghe như thế này.”
Khi sắp tịch, ngài gọi đại đức Thương-na Hòa-tu đến dạy rằng: “Ngươi hãy
cố giữ lấy sự nghiệp Phật pháp. Nay ở xứ Ma-đột-la có một nhà gia thế,
sanh con tên Ưu-ba-cúc-đa. Đứa trẻ ấy là bậc pháp khí, sau này sẽ lãnh
trách nhiệm nối tiếp cho ngươi đó.”
Khi truyền pháp cho Thương-na Hòa-tu làm Tổ sư đời thứ ba, Tổ A-nan có đọc bài kệ dưới đây:
Bổn lai phó hữu pháp,
Phó liễu ngôn vô Pháp;
Các các tu tự ngộ,
Ngộ liễu vô vô Pháp.
本來付有法
付了言無法
各各須自悟
悟了無無法。
Dịch nghĩa
Xưa nay pháp có mới truyền,
Truyền rồi lại nói pháp truyền là không.
Mọi người nên tỉnh ngộ lòng,
Ngộ rồi không đó, là không pháp nào.
3.
TỔ THƯƠNG-NA HÒA-TU
商那和修祖
Tôn giả Thương-na Hòa-tu vốn là người nước Ma-đột-la.
Thuở xưa, trong tiền kiếp có lần ngài làm chủ một đoàn khách buôn lữ
hành. Một hôm, trong khi đi đường, ngài gặp một thầy tu khổ hạnh có
bệnh, nằm một mình không ai săn sóc. Ngài động lòng thương, ngừng đoàn
buôn lại, và đi kiếm thuốc cho nhà sư. Ngài ra công săn sóc, tốn kém rất
nhiều tiền của mới cứu được thầy.
Theo “Kế đăng lục” quyển nhất, Thương-na Hòa-tu họ Tỳ-xá-da, cha tên là
Lâm Thắng, mẹ tên là Kiều-xa-da. Ngài là một vị La-hán thánh nhân giáng
sanh, ở trong thai mẹ đến sáu năm mới ra đời.
Tục truyền ngài Thương-na Hòa-tu vừa sanh ra đã sẵn có áo mặc nơi thân.
Khi lớn lên dần thì áo cũng lớn theo. Đến khi A-nan, Tổ thứ hai độ cho
Thương-na Hòa-tu xuất gia, thì cái áo ấy hóa ra thành pháp phục. Đến lúc
ngài Thương-na Hòa-tu thọ Cụ túc giới, thì áo tự nhiên biến thành áo
Tăng-già-lê. Khi gần tịch diệt, Tôn giả Thương-na Hòa-tu có phát nguyện
lưu cái áo ấy lại cho đến chừng nào đạo của đức Phật Thích-ca truyền
lại phải dứt đi thì áo cà-sa ấy mới bị hoại diệt.
Trong Kế Đăng Lục, quyển nhất ghi lại rằng:
“Khi Thương-na Hòa-tu được Tổ A-nan truyền pháp rồi, ngài đi hóa độ đã
lâu, đến xứ Trá-lỵ gặp Ưu-ba-cúc-đa. Ngài hỏi rằng: Nhà ngươi được bao
nhiêu tuổi? Đáp rằng: Mười bảy. Lại hỏi: Thân mười bảy hay Tánh mười
bảy? Đáp: Thân mười bảy, chẳng phải Tánh mười bảy.
Tổ Thương-na Hòa-tu biết là bậc pháp khí, liền xuống tóc cho. Về sau, nhận cho thọ giới cụ túc làm tỳ-kheo.
Một hôm, Tổ gọi Ưu-ba-cúc-đa đến dạy rằng: Chánh pháp của Như lai thuở
xưa, lần hồi truyền đến ta. Nay ta truyền Chánh pháp ấy cho ngươi và bài
kệ dưới đây:
Phi pháp diệc phi tâm,
Vô tâm diệc vô pháp.
Thuyết thị tâm pháp thời,
Thị pháp phi tâm pháp.
非法亦非心
無心亦無法
說是心法時
是法非心法。
Dịch nghĩa
Chẳng phải pháp, chẳng phải tâm,
Không có tâm, cũng không pháp.
Ngay khi nói tâm pháp,
Chẳng phải là tâm pháp.
4.
TỔ ƯU-BA-CÚC-ĐA
優婆掬多祖
Tổ sư là người thông minh từ rất sớm, đã phát huệ khi mới mười hai tuổi.
Về sau, nhờ có Tổ đời thứ ba truyền dạy, ngài tu học rất mau tiến bộ.
Chẳng những về đạo lý ngài tiến rất nhanh, mà về đức hạnh ngài cũng nêu
gương sáng chói, không một chỗ tỳ vết.
Theo Kế Đăng Lục, quyển nhất, ngài Ưu-ba-cúc-đa là người nước Trá-lỵ, họ
Thủ-đà, cha tên là Thiện Ý. Ngài xuất gia hồi mười bảy tuổi, đến hai
mươi tuổi thì chứng quả. Ngài hóa độ được rất nhiều đệ tử và tín đồ.
Sách còn chép lại rằng, lúc nhỏ ngài đã khéo dùng một phương pháp để
thống trị tâm trí, kiểm điểm tự tâm và trau dồi đức hạnh. Ngài lấy những
viên đá trắng làm biểu trưng cho tư tưởng tốt và những viên đá đen biểu
trưng cho tư tưởng xấu. Mỗi ngày, khi có nghĩ đến việc gì xấu thì ngài
đặt một viên đá đen. Ngược lại, khi nghĩ đến việc tốt thì đặt một viên
đá trắng. Lúc đầu, đá đen vượt hơn đá trắng rất nhiều, ngài nhờ đó mà
chú tâm kiểm điểm những tư tưởng xấu để gạt bỏ. Dần dần về sau, đá đen
ngày một ít đi, và đá trắng mỗi ngày mỗi nhiều. Cho đến khi chỉ còn đá
trắng mà không có đá đen nữa. Cũng chính nhờ sự rèn luyện, tu tập đức
hạnh từ nhỏ như vậy, nên về sau ngài trở thành một bậc đại đức, nối tiếp
sự nghiệp do Phật truyền phó mà làm Tổ sư đời thứ tư.
Vì ngài Ưu-ba-cúc-đa rất tinh tấn làm Phật sự, nên người đương thời còn xưng tụng ngài bằng danh hiệu là Vô Tướng Hảo Phật.
Khi ngài còn chưa xuất gia, tại xứ Ma-đột-la có một cô gái làng chơi
nổi tiếng tên là Hoa-xá-hoa-đà. Con hầu của cô này thường đến mua hương
phấn tại hiệu của Ưu-ba-cúc-đa. Cô biết chuyện, hỏi rằng: “Chắc em ưa
thích cậu ấy lắm, nên mới thường đến mua đồ chỗ ấy phải không?” Con hầu
đáp rằng: “Thưa cô, không phải thế. Cậu ấy là một người khôi ngô tuấn
tú, hiền lành, tài trí, lại thường noi theo đạo lý mà cư xử, nên ai gặp
rồi cũng đều mến phục.” Cô Hoa-xá-hoa-đà nghe nói, đem lòng yêu chàng.
Cô sai con hầu đến nói với Ưu-ba-cúc-đa rằng: “Cô tôi muốn gặp cậu và
mong rằng sẽ được giao duyên với cậu.” Ưu-ba-cúc-đa liền bảo con hầu về
thưa lại với cô chủ rằng chưa phải lúc gặp nhau.
Hồi ấy, khách làng chơi mỗi lần đến với cô Hoa-xá-hoa-đà đều phải mất
đến năm trăm đồng tiền vàng. Cô nghĩ rằng chàng Ưu-ba-cúc-đa từ chối hẳn
là vì không muốn tốn năm trăm đồng tiền vàng. Cô liền sai con hầu đến
lần nữa, nói rằng: “Cô tôi không lấy tiền cậu đâu, chỉ muốn được chung
vui với cậu mà thôi.” Nhưng chàng Ưu-ba-cúc-đa cũng đáp lại như lần
trước, rằng chưa phải lúc cô có thể gặp chàng.
Ngày kia, có người con của một ông nhà giàu lớn đến nghỉ chơi ở chỗ cô
Hoa-xá-hoa-đà. Cùng lúc ấy, lại có một đại thương gia từ miền Bắc mới
đến, đem theo năm trăm con ngựa vào thành Ma-đột-la để bán, hỏi thăm
muốn tìm những chỗ làng chơi nổi tiếng trong xứ. Người ta chỉ đến cô
Hoa-xá-hoa-đà. Người thương gia liền đến viếng cô, chịu trả cho cô đủ
năm trăm đồng tiền vàng với rất nhiều quà tặng quý giá. Vì lòng tham, cô
liền giết chết chàng trai con ông nhà giàu kia, mang xác ra giấu dưới
đống đồ dơ sau nhà, để có thể giao tình với khách mới. Vài hôm sau, cha
mẹ chàng kia cho người tìm được xác con mình dưới đống đồ dơ sau nhà cô,
liền đi tố cáo việc con mình bị giới. Vua tra xét ra chính cô
Hoa-xá-hoa-đà là kẻ giết người, liền xử phạt chặt đứt tay chân, cắt lỗ
tai, lỗ mũi, rồi mang bỏ cô nơi nghĩa địa.
Bấy giờ, Ưu-ba-cúc-đa nghe biết việc ấy. Chàng suy nghĩ rằng: “Ngày
trước, người đàn bà ấy muốn gặp ta đẻ thỏa lòng dục vọng, nhưng ta không
muốn cho gặp. Bây giờ cô ta đã mất hết tay chân, lỗ tai, lỗ mũi rồi.
Chính là lúc mà người ấy phải gặp ta vậy.”
Chàng liền cùng một đứa tiểu đồng đi thẳng đến nghĩa địa. Con hầu của
nàng Hoa-xá-hoa-đà là người có nghĩa, nhớ ơn chủ nên vẫn theo đến nghĩa
địa mà đuổi không cho loài diều quạ đến gần làm hại nàng. Khi thấy chàng
Ưu-ba-cúc-đa đến, con hầu liền nói với nàng rằng: “Thưa cô, chính là
người mà trước đây cô đã nhiều lần sai tôi đến mời nhưng không chịu đến,
giờ đây đang đi chỗ chúng ta đó.” Nghe con hầu nói, cô than rằng: “Em
ơi, giờ đây ta đã mất hết nhan sắc xinh đẹp ngày nào, trở thành một cục
thịt nhầy nhụa ghê tởm nằm trên chỗ đất dơ nơi nghĩa địa này, có còn
chút lạc thú nào có thể mang lại cho người mà người tìm đến đây?”
Lúc ấy, chàng Ưu-ba-cúc-đa đi tới đứng ngay trước mặt nàng
Hoa-xá-hoa-đà. Nàng thấy vậy, nói rằng: “Chàng ơi, ngày trước thân thể
em còn xinh đẹp, khỏe mạnh, em rất thích sự khoái lạc ái tình với chàng,
đã nhiều lần sai người tìm chàng, nhưng chàng đều từ chối, bảo rằng
chưa phải lúc. Giờ đây em đã bị chặt mất hết chân tay, lại bị cắt mất cả
lỗ tai, lỗ mũi, khác nào một đống thịt nhầy nhụa, máu me ghê tởm, lẽ
nào chàng lại cho là phải lúc mà đến đây sao?”
Chàng Ưu-ba-cúc-đa đáp rằng:
“Này cô, tôi không phải vì ham thích tình ái mà đến với cô. Bởi vậy, khi
cô còn tràn đầy lòng dục, thật là chẳng phải lúc cho tôi đến gặp. Nay
thân thể cô đã không còn đầy đủ, xinh đẹp như xưa, chính là lúc tôi có
thể đến để nhắc nhở cô về sự giả tạm, không thật và nhơ nhớp của thân
thể con người. Nay cô đã thấy được điều đó, lẽ nào còn mê đắm trong
những ý nghĩ về dục lạc?”
Được nghe lời thuyết giảng của chàng Ưu-ba-cúc-đa đúng vào lúc ấy, cô
gái hoàn toàn tỉnh ngộ, hết sức hối hận. Ngay khi ấy, lòng cô dứt bỏ hết
các mối tình ái, tham dục, tâm hồn được an lạc, thoát khỏi mọi phiền
não ràng buộc trong tâm trí.
Về sau, ngài chọn được một vị đệ tử tài đức là Đề-đa-ca, người rất
thông đạt. Ngài truyền lại cho Đề-đa-ca làm Tổ đời thứ năm, có bài kệ
truyền pháp như dưới đây:
Tâm tự bổn lai Tâm,
Bổn Tâm phi hữu Pháp;
Hữu Pháp hữu bổn Tâm,
Phi Tâm phi bổn Pháp.
心自本來心
本心非有法
有法有本心
非心非本法。
Dịch nghĩa
Tâm là vốn tự xưa nay,
Bổn Tâm chẳng có pháp này pháp kia.
Nếu có pháp, tâm chẳng lìa,
Không tâm thì pháp chẳng hề hiện ra.
5.
TỔ ĐỀ-ĐA-CA
提多迦祖
Tổ sư thứ năm là người nước Ma-già-đà. Tên thật của ngài là Hương
Tượng, đến khi thọ giới xuất gia thì Tổ thứ tư là ngài Ưu-ba-cúc-đa mới
ban cho pháp danh là Đề-đa-ca.
Khi ngài Đề-đa-ca mới sanh ra, cha ngài nằm chiêm bao, thấy điềm mộng
thế này. Ông thấy một vành mặt trời màu vàng ròng, từ trong nhà hiện ra,
chiếu sáng trời đất. Phía trước có một hòn núi lớn bằng các món báu
trang sức xinh đẹp. Từ trên đỉnh núi, có bốn nguồn suối phun nước ra và
chảy xuống mãi.
Sau đó, ông gặp Ưu-ba-cúc-đa, Tổ đời thứ tư. Ông đem điềm mộng trên kể
với Tổ, Tổ giải thích rằng: “Hòn núi bằng các món báu, tức là thân
người. Dòng suối chảy mãi, tức là Pháp giáo vô tận. Mặt trời từ trong
nhà hiện ra, tức là người con của ông sau này sẽ xuất gia nhập đạo. Mặt
trời ấy chiếu sáng trời đất, tức là người con ấy sau sẽ chứng đắc trí
huệ sáng suốt.” Đó là điềm ứng trước về Tổ Đề-đa-ca vậy.
Lúc ngài cầu xuất gia, Tổ thứ tư có hỏi ngài rằng: “Thân ngươi xuất gia hay tâm ngươi xuất gia?”
Ngài đáp rằng: “Con đến xuất gia, đều chẳng phải thân, chẳng phải tâm.
Tâm chẳng sanh, chẳng diệt, tức là thường đạo, chư Phật cũng là thường.
Tâm không hình tướng, thân cũng như vậy.”
Về sau, trước khi tịch, ngài phó chúc đạo pháp cho Tổ thứ sáu là ngài Di-già-ca, có truyền bài kệ rằng:
Thông đạt bổn pháp tâm,
Vô pháp, vô phi pháp;
Ngộ liễu đồng vị ngộ,
Vô tâm diệc vô pháp.
通達本法心
無法無非法
悟了同未悟
無心亦無法。
Dịch nghĩa
Nếu thông nguồn cội pháp, tâm,
Pháp và phi pháp chẳng cầm làm chi.
Ngộ và chưa ngộ đồng ghi,
Cả tâm và pháp hai bề đều không.
6.
TỔ DI-GIÀ-CA
彌遮迦祖
Tôn giả vốn người miền trung Ấn Độ. Sau khi được Tổ sư thứ năm truyền pháp, ngài thường du hành lên miền Bắc mà giáo hóa.
Tổ vốn biết rằng có một người tên là Bà-tu-mật sẽ nối tiếp làm Tổ đời
thứ bảy, nên vẫn có ý đi tìm. Khi đi đến miền Bắc Ấn Độ, Tổ gặp một
người đang cầm bầu rượu trong tay. Tổ nói rằng: “Ai đụng tới bầu rượu
ấy, thì trái với lẽ trong sạch.”
Người ấy hỏi Tổ rằng: “Ngài có biết tôi chăng?”
Tổ đáp: “Ta không biết. Người thử nói tên họ, rồi ta sẽ chỉ nói rõ căn
duyên cho nghe.” Người ấy đáp: “Tôi họ Phả-la-đọa, tên Bà-tu-mật.” Tổ
vui mừng nói rằng: “Thầy ta là Đề-đa-ca có nói rằng, thuở trước khi Thế
Tôn vân du đến miền Bắc có nói với A-nan rằng: ‘Ba trăm năm sau khi ta
nhập diệt, ở xứ này sẽ ra đời một bực thánh nhân, họ Phả-la-đọa, tên
Bà-tu-mật. Người ấy sẽ làm Tổ sư đời thứ bảy.’ Đức Thế Tôn đã có lời báo
trước như vậy, nay ngươi nên xuất gia nhập đạo.”
Bà-tu-mật liền buông bầu rượu xuống mà đảnh lễ Tổ sư, theo hầu làm đệ tử của ngài.
Về sau, khi truyền pháp lại cho Bà-tu-mật, Tổ Di-già-ca có bài rằng:
Vô tâm vô khả đắc,
Thuyết đắc bất danh đắc.
Nhược liễu tâm phi tâm,
Thủy liễu tâm, tâm pháp.
無心無可得
說得不名得
若了心非心
始 了心心法。
Dịch nghĩa
Vô tâm thì chẳng thể đắc,
Nói là chứng đắc, thật đâu đắc gì?
Nếu rõ biết tâm, phi tâm,
Tâm và tâm pháp tức thì rõ thông.
7.
TỔ BÀ-TU-MẬT
婆須密祖
Ngài vốn người miền Bắc Ấn Độ. Trước khi thọ pháp xuất gia, ngài thường
rong chơi đó đây trong các thôn xóm, tay cầm bầu rượu, miệng thì ca ngâm
và kêu la lớn tiếng. Người ta cho ngài là người điên.
Cho đến khi ngài gặp đức Lục Tổ Di-già-ca.
Tổ nhắc lại lời nói của đức Như Lai, đã báo trước rằng Bà-tu-mật sẽ
giáng sanh ở miền Bắc và làm Tổ sư đời thứ bảy. Ngài tỉnh ngộ và nhớ lại
tiền duyên của mình, liền qui y, thọ giáo pháp. Về sau, ngài được
truyền y bát, làm Tổ đời thứ bảy.
Tổ Bà-tu-mật trên đường hoằng hóa Phật pháp đến xứ Ca-ma-la, gặp một bậc
trí giả tên là Phật-đà Nan-đề. Đôi bên đối đáp về đạo lý, Tổ vượt trội
hơn Phật-đà Nan-đề một bậc. Nhân đó, ngài thu phục Phật-đà Nan-đề làm đệ
tử, sau lại truyền phó cho làm Tổ sư đời thứ tám. Khi truyền pháp, ngài
có đọc bài kệ này:
Tâm đồng hư không giới,
Thị đẳng hư không pháp;
Chứng đắc hư không thời,
Vô thị, vô phi pháp.
心同虚空界
是等虚空法
證得虚空時
無是無非法。
Dịch nghĩa
Tâm này như cõi hư không,
Đó đây các pháp, hư không đó mà.
Hư không nếu đã chứng qua,
Thị, phi mọi pháp đều là bặt tăm.
Tôn giả Bà-tu-mật lại dạy rằng: “Chánh pháp nhãn tạng của Như Lai, nay ta giao phó lại cho ngươi, vậy ngươi khá hộ trì.”
Phó pháp và truyền kệ xong, Tổ Bà-tu-mật vào thiền định Tam-muội, thị
hiện Niết-bàn. Đại chúng mai táng ngài và xây tháp thờ toàn thân của
ngài. Sau đó, Phật-đà Nan-đề nối tiếp mà làm Tổ đời thứ tám.
8.
TỔ PHẬT-ĐÀ NAN-ĐỀ
佛陀難提祖
Vị Tổ thứ tám này người xứ Ca-ma-la, họ Cồ-đàm. Ngài có một cục thịt
trồi lên trên đỉnh đầu cũng giống như của đức Phật. Ngài có tài biện
luận thông suốt mọi việc và rất nhanh lẹ, sáng suốt.
Vì muốn độ cho vị Tổ tương lai là Phật-đà Mật-đa, lúc ây đang ở xứ
Đề-già xa xôi, ngài liền tìm đến đó. Khi ngài đến nơi, vào trong thành
ấy, có một vị trưởng lão đến làm lễ thưa hỏi rằng: “Bạch đại đức, ngài
cần việc chi?” Tổ đáp: “Ta cần một người thị giả.” Vị trưởng lão ấy bạch
rằng: “Tôi có một đứa con trai tên Phật-đà Mật-đa. Năm nay đã năm mươi
tuổi, nhưng miệng chưa từng nói ra lời, chân chưa hề cất bước đi.” Tổ
nói: “Theo như lời cụ nói đó, người ấy thật là đệ tử của ta.”
Vị trưởng lão liền mời Tổ sư về nhà. Đến nơi, vừa nghe giọng nói của Tổ
sư, Phật-đà Mật-đa liền đứng dậy bước đi bảy bước. Vị trưởng lão vui
mừng lắm, liền cho con mình xuất gia thọ giới.
Về sau, Phật-đà Mật-đa quả là bậc đệ tử kiệt xuất, được Tổ cho truyền
nối Chánh pháp. Khi truyền pháp, Tổ Phật-đà Nan-đề có dạy rằng: “Chánh
pháp Nhãn tạng của Như Lai, nay ta phó chúc cho đệ tử.” Nhân đó, ngài
đọc kệ rằng:
Hư không vô nội ngoại,
Tâm pháp diệc như thử.
Nhược liễu hư không cố,
Thị đạt chân như lý.
虚空無内外
心法亦如此
若了虚空故
是達眞如理。
Dịch nghĩa
Hư Không chẳng ở trong, ngoài,
Pháp tâm cũng thế, chẳng ngoài, chẳng trong.
Nếu ai hiểu được hư không,
Chân như diệu lý tự thông đạt liền.
9.
TỔ PHẬT-ĐÀ MẬT-ĐA
佛陀密多祖
Tổ sư thứ chín là Phật-đà-mật-đa, người nước Đề-già, họ Tỳ-xá-lỵ. Khi
được truyền nối làm Tổ thứ chín, ngài tự nghĩ rằng: “Thầy ta là Tổ
Phật-đà Nan-đề đã giao cho ta trọng trách nối truyền Phật pháp. Vậy ta
phải truyền bá đạo đức ra khắp nơi và cứu độ chúng sanh. Hiện nay, vua
nước này là người chẳng có đức tin, ta trước hết phải nên làm cho người
qui phục mới được.”
Ngài liền nhân lúc vua ngự giá đi trong thành, cầm một cây phướn mà đi trước xa giá.
Vua thấy lạ, hỏi: “Ngươi là ai vậy?”
Ngài đáp: “Tâu bệ hạ, bần tăng là một nhà hiền triết rất ham biện luận và muốn đem sự hiểu biết của mình trình lên bệ hạ.”
Vua liền cho triệu tập tất cả những thầy Bà-la-môn, những nhà thông thái trong nước, để tranh biện với ngài.
Bao nhiêu những bậc trí giả, học thức, đều quy tụ về đền vua. Vua cho
làm một tòa nhà rộng lớn, có đủ chỗ ngồi. Tổ sư Phật-đà Mật-đa bước lên
đài và khởi sự thuyết lý. Người ra tranh luận với ngài nhiều lắm. Nhưng
chỉ trong chốc lát, ngài làm cho những kẻ đối nghịch đều phải lặng thinh
vì thua lý.
Nhân dịp ấy, vua được nghe sự tranh luận giữa các học phái và tôn giáo
khác nhau, và lấy làm lạ là không ai có thể lập luận vững chãi hơn để
thắng được Tổ sư. Vô cùng kính phục, vua đảnh lễ ngài xin được quy y Tam
bảo. Sau khi vua trở thành tín đồ thuần thành của đạo Phật, đạo Phật
mới dễ dàng lan rộng ra khắp nước. Tổ sư rộng lòng tiếp độ và giáo hóa
cho rất nhiều người.
Tổ Phật-đà Mật-đa về sau truyền pháp cho Hiếp Tôn giả làm Tổ đời thứ mười, có để lại bài kệ như sau:
Chân lý bổn vô danh,
Nhân danh hiển chân lý.
Thọ đắc chân thậtpháp,
Phi chân diệc phi ngụy.
眞理本無名
因名顯眞理
受得眞實法
非眞亦非僞。
Dịch nghĩa
Chân lý vốn thật không tên,
Muốn bày chân lý mượn tên mà dùng.
Pháp chân thật đã thọ xong,
Không chân, không ngụy là Trung đạo này.
10.
TỔ BÀ-LẬT THẤP-BÀ
婆栗濕婆祖
Ngài là Tổ sư đời thứ mười, vốn người miền Trung Ấn. Tương truyền rằng
ngài ở trong thai mẹ đến sáu mươi năm. Khi vừa sanh ra thì râu và lông
mày đều đã bạc trắng. Vì vậy nên người trong gia đình của ngài gọi ngài
là Nan Sanh. Ngày Nan Sanh sắp ra đời, người cha mộng thấy một con voi
trắng lớn, trên lưng có tòa báu, trên tòa báu có một hạt minh châu sáng
rực, chiếu khắp mười phương. Con voi ấy từ ngoài cửa đi thẳng vào nhà.
Ông lão giật mình tỉnh giấc thì vừa đúng lúc ấy bà mẹ sanh ra Nan Sanh.
Từ ngày sanh ra, Nan Sanh đã nhàm chán cả ngũ dục, không giống như
người thường. Ngài không thích cảnh sống trong gia đình, tự mình tìm đến
chùa ra mắt vị Tổ sư thứ chín là Phật-đà Mật-đa, lễ bái cầu được xuất
gia. Khi làm lễ truyền giới cho ngài, có ánh sáng tự nhiên chiếu sáng
chỗ ngài đang ngồi, và trên không trung có ánh sáng lấp lánh tỏa xuống
như mưa ngọc xá-lỵ.
Ngài tu hành rất tinh tấn, dũng mãnh, chưa từng có lúc nào đặt lưng
xuống chiếu để nằm ngủ. Vì thế, mặc dù hiệu của ngài là Bà-lật Thấp-bà,
nhưng người đời thường xưng tụng là Hiếp Tôn giả.
Một hôm, ngài đi đến xứ Hoa-thị, ngồi nghỉ nơi cội cây, chỉ tay xuống
đất nói với chúng đệ tử rằng: “Khi nào chỗ đất này hóa ra vàng ròng, sẽ
có bậc thánh nhân xuất hiện.”
Ngài nói vừa dứt lời, chỗ đất ấy tức thì hóa ra màu vàng rực. Cùng lúc
ấy, có một người tên là Phú-na Dạ-xa từ xa đi đến trước mặt Tổ mà lễ
bái. Hiếp Tôn giả biết ý cầu pháp của Phú-na Dạ-xa và cơ duyên đã đến,
bèn độ cho xuất gia và trao giới cụ túc. Về sau Phú-na Dạ-xa trở thành
vị Tổ sư thứ mười một.
Khi truyền pháp cho Tổ Phú-na Dạ-xa, Hiếp Tôn giả dạy rằng: “Chánh Pháp
Nhãn tạng của Như Lai, nay giao phó cho ngươi. Vậy ngươi hãy khéo giữ
gìn và truyền lại cho đời sau.” Rồi ngài nói kệ rằng:
Chân thể tự nhiên chân,
Nhân chân thuyết hữu lý.
Lãnh đắc chân chân pháp,
Vô hành diệc vô chỉ.
眞體自然眞
因眞說有理
領得眞眞法
無行亦無止。
Dịch nghĩa
Này chân thể tự nhiên chân,
Nói năng có lý nhờ chân thật bồi.
Chân chân pháp lãnh hội rồi,
Không đi lại, cũng không ngồi đứng chi.
11.
TỔ PHÚ-NA DẠ-XA
富那夜奢祖
Vị Tổ sư thứ mười một này gốc người xứ Hoa-thị, nơi mà trước kia vua
A-Dục khai hội kết tập để bảo tồn Chánh pháp. Ngài họ Cồ-đàm. Cha tên
là Bảo Thân.
Nghe danh Tổ thứ mười là Hiếp Tôn giả tu hành rất tinh tấn, ngài đến đảnh lễ. Tôn giả hỏi rằng:
“Ngươi ở đâu đến đây?”
Ngài đáp:
“Tâm con chẳng phải đến.”
“Rồi ngươi sẽ đi đâu?”
“Tâm con chẳng có đi.”
“Ngươi không an định sao?”
“Chư Phật cũng như thế.”
“Nhưng ngươi không phải là chư Phật.”
“Chư Phật lại cũng chẳng phải.”
Nhận biết là bậc pháp khí, Tổ thứ mười bèn độ cho xuất gia, truyền giới
cụ túc, và về sau truyền y bát cho ngài làm Tổ thứ mười một.
Tổ Phú-na Dạ-xa sau khi được truyền pháp, liền đi khắp nơi truyền pháp
độ sanh, trong chúng hội có rất nhiều người được chứng thánh quả. Ngày
kia, ngài lập đàn thuyết pháp tại xứ Ba-la-nại. Trong lúc đang giảng
pháp bỗng có một người đến sau. Tổ dừng lại hỏi chúng đệ tử rằng: “Các
ngươi có biết người mới đến là ai chăng?” chúng đệ tử không ai biết. Tổ
liền nói tiếp: “Xưa kia đức Thế Tôn có lời di ngôn rằng: Sau khi ta diệt
độ chừng 600 năm, sẽ có một vị Bồ-tát tên là Mã Minh ra đời tại xứ
Ba-la-nại, ở trong thành Hoa Thị mà thuyết pháp độ sanh, số đông vô kể.”
Rồi Tổ lại nói: “Trước đây khi ta nhập định có nhìn thấy nước trong biển
lớn tràn cả về một góc. Trong chốc lát lại tràn chảy khắp mọi nơi. Này
các ngươi, ấy là cảnh ứng trước với hôm nay đây. Người mới đến chính là
biển lớn. Người ấy tên là Mã Minh, sẽ theo ta xuất gia và đem giáo pháp
của Phật truyền độ cho khắp muôn người. Ấy là nước chảy tràn khắp nơi đó
vậy.”
Mã Minh nghe Tổ sư gọi đúng tên mình, hết sức thán phục, tin nhận, liền bước ra lễ bái Tổ và hỏi:
“Con muốn biết Phật, thế nào là Phật?”
Tổ sư đáp:
“Ngươi muốn biết Phật, cái chẳng biết là phải.”
Mã Minh nói:
“Đã chẳng biết Phật, làm sao biết là phải?”
Tổ hỏi lại:
“Như ngươi chẳng biết Phật, sao lại biết là chẳng phải?”
Mã Minh liền nói:
“Đây chỉ là nghĩa cưa.”
Tổ nói:
“Đó là nghĩa cây. Ngươi nói nghĩa cưa là thế nào?”
Mã Minh đáp:
“Là con và thầy chia nhau mỗi người một nửa. Còn thầy nói nghĩa cây là thế nào.”
Tổ đáp:
“Ngươi bị ta xẻ rồi.”
Mã Minh ngay khi ấy tỉnh ngộ, liền chí thành lễ bái cầu xin xuất gia.
Tổ Phú-na Dạ-xa nhận cho Mã Minh làm đệ tử rồi, về sau trở thành một vị
cao tăng lừng lẫy trong giới học Phật. Người người đều tôn xưng là Mã
Minh Đại Sĩ hoặc Bồ-tát Mã Minh. Khi truyền pháp lại cho Mã Minh, Tổ đọc
kệ rằng:
Mê, ngộ như ẩn, hiển,
Minh, ám bất tương ly;
Kim phó, ẩn, hiển pháp,
Phi nhất diệc phi nhị.
迷悟如隱顯
明暗不相離
今付隱顯法
非一亦非二。
Dịch nghĩa
Mê ngộ như ẩn hiện,
Sáng tối chẳng lìa nhau.
Nay truyền pháp ẩn hiện.
Chẳng một, cũng chẳng hai.
12.
TỔ A-NA BỒ-ĐỀ
阿那菩提祖
Tổ sư sanh ra ở xứ Ba-la-nại, thuộc dòng tộc Bà-la-môn. Ngài vốn là một
học giả rất uyên thâm về văn chương, triết lý và mỹ thuật, thường được
nhiều người biết đến hơn với danh hiệu là Bồ-tát Mã Minh. Ngài từng làm
chức Đạo sư, cố vấn tinh thần ở triều Đại đế Ca-nhị-sắc-ca. Lúc ấy là
khoảng đầu thế kỷ thứ hai Dương lịch, công nghiệp của ngài đã rực rỡ lắm
rồi. Trong nền văn chương Phật giáo Đại thừa, tên tuổi ngài nổi bật lên
trên hết. Ngài là người học Phật, mà vua Ca-nhị-sắc-ca, người bạn tinh
thần của ngài, lại cũng là một người hâm mộ Phật giáo, nên ngài có nhiều
điều kiện để khảo cứu kinh sách và truyền bá tư tưởng cho chúng dân.
Hai con người kiệt xuất ấy cùng hiệp sức mà làm cho triều vua
Ca-nhị-sắc-ca trở thành ra một thời kỳ vẻ vang về Phật học. Hai thế kỷ
trước, đã có nhà vua Ménandre hộ trì tăng chúng. Lúc này lại có vua
Ca-nhị-sắc-ca là một nhà vua trọng đạo kính tăng. Lại nhờ có ngài Mã
Minh xiển dương chánh giáo, nên nhà vua làm được rất nhiều điều công
ích. Vua cho xây dựng nhiều tháp thờ dấu tích của Phật, xây dựng chùa ở
các địa phương cho tăng chúng có chỗ tu học, tụng niệm. Vua còn cho đúc
tượng Phật và khi đúc tiền còn cho in hình Phật lên đó nữa.
Kinh sách do Mã Minh Đại sĩ viết, về sau người ta in bằng chữ Phạn đến
nay thất lạc rất nhiều, một số chỉ còn những bản đã dịch sang chữ Hán mà
thôi. Trong số đó có bộ Phật sở hành tán được viết theo lối ca kệ, đến
nay vẫn còn. Trong sách ấy kể rõ lịch sử đức Phật Thích-ca từ khi đản
sanh cho đến khi thành Chánh giác. Đây là bộ Phật sử sớm nhất bằng Phạn
ngữ, chỉ tiếc là nguyên tác Phạn ngữ không còn nữa. Tương truyền rằng bộ
Đại thừa khởi tín luận cũng là do ngài soạn, mặc dù có nhiều học giả
cho rằng bộ ấy xuất hiện quá xa về sau này nên có thể là tác phẩm của
Phật giáo Trung Quốc.
Ngài Mã Minh có soạn bộ Sutrlamkra là một bộ sách đã có dịch ra chữ Hán
và bản Phạn ngữ cũng vẫn còn. Vào đầu thế kỷ thứ hai mà soạn bộ
Sutrlamkra quả thật là một công trình vĩ đại, cũng là dấu hiệu cho thấy
rằng Phật giáo Đại thừa sắp đến giai đoạn thịnh hành vậy. Dưới đây xin
trích dịch một số bài trong bộ sách này để giới thiệu cùng quý độc giả.
MỰC TRUNG
Ta nhờ trí huệ trau dồi,
Nên đường lầm lạc tránh rồi nẻo xa.
Làm người biết rõ chánh tà,
Cần gì hành xác mới là chân tu.
Muốn cho thấu đạt huệ mầu,
Trước là giữ Giới, kế sau Định thần.
Ta đây sống ở cõi trần,
Đã toan thoát nạn thì cần dưỡng tâm.
Phải nên ăn uống vừa tầm,
Áo quần đủ ấm, giường nằm thảnh thơi,
Nhưng mà không lấy làm chơi,
Không ham no ấm, nghỉ ngơi quá đà.
Tránh xa hai mức vượt phần,
Chớ ưa nóng nảy, chớ cầu lạnh thân,
Đừng gần với lửa cháy rần,
Cũng đừng ở chỗ tuyết vây quanh mình.
Ai mà biết cách dưỡng sinh,
Cuộc đời được khỏi gập ghềnh, lao xao.
SỰ BỐ THÍ
Con người chẳng hiểu làm doan,
Hễ nghe bố thí thì toan cho liền,
Nhưng trong cách giúp của tiền,
Ai mà biết giúp, phước hiền mới cao.
Ta từng để mắt trông vào,
Thấy cha cùng mẹ, đồng bào giúp nhau.
Mọi người cố ý về sau,
Mong chờ món nợ trả vào tận nơi.
Nếu mình biết thí lâu dài,
Ở đời tránh khỏi nạn tai dập dồn.
Lòng lành bố thí luôn luôn,
Thì phần phước lại như luồn bóng theo.
Đi đâu cũng khỏi hiểm nghèo,
Dẫu cho cảnh khó, lái lèo cũng yên.
Gió, mưa, tuyết, lạnh liên miên,
Nhưng nhờ bố thí mà yên ổn lòng,
Nhằm khi phải bước xa trông,
Có đồ vật dụng là lòng thương yêu,
Trong cơn mệt nhọc buồn hiu,
Mình mà bố thí đỡ nhiều phần suy.
Giữa khi đường sá hiểm nguy,
Tấm lòng bố đức, bạn đi với mình.
Rủi cơn nạn khổ thình lình,
Lòng từ bố thí sức lành cứu cho.
Hoặc xa giặc nghịch, cường đồ,
Làm doan là có gươm to đỡ liền.
Phải cơn bịnh hoạn chẳng hiền
Đức lành là món thuốc tiên cứu thường.
Đến khi qua nẻo hố hang,
Lòng nhân là gậy đỡ đàng vững chân.
HAI NGƯỜI ĐÀN BÀ ĂN XOÀI
Hai người đàn bà kia, mỗi người được mấy trái xoài.
Một người ăn trái rồi vất bỏ hạt, còn người kia ăn xong lại giữ hạt.
Người sau này thấy xoài ăn rất ngon, mới đem hạt ra trồng ngoài chỗ đất
tốt. Người trông nom và năng tưới cây. Về sau được rất nhiều trái ngon.
Ở đời cũng thế, có nhiều biết người gieo giống tốt. Họ gieo được nhiều
nhân tốt thì về sau họ có quả tốt và được hưởng quả ngon. Còn người đàn
bà ăn trái mà không giữ hạt giống, có khác nào những người không hiểu
nghiệp quả là gì, nên không lo gieo cấy quả lành, đến sau hối hận thì đã
muộn rồi.
Nên có bài kệ rằng:
Kìa người được hưởng quả ngon,
Ăn rồi liệng hột, chẳng khôn đâu là.
Đến sau nhìn thấy người ta,
Hưởng nhiều quả tốt, lòng mà tiếc than.
Còn người gieo hạt chứa chan,
Quả ngon là phước lo toan bởi mình.
Vui thay kẻ chứa đức lành!
SỰ GIẢI THOÁT
Phật rằng có ái, có ly,
Đã thương thì sớm muộn gì cũng xa.
Vô thường, số mạng người ta
Cùng trong muôn vật chịu là luật chung.
Xem qua, ta luống hãi hùng,
Khắp trong Tam giới cháy bùng như than.
Người yêu ta đến số ngàn,
Người mà ta mến cũng tràn khắp nơi.
Nhưng ta có thể tách rời,
Cam lòng ly biệt những người yêu thương.
Cõi đời là chốn ngục đường,
Là nơi u ám, là trường nạn nguy.
Con người chẳng biết nghĩ suy,
Cứ ham thương mến, dứt đi không đành,
Chết kia nào có vị tình,
Lại mong đánh đổ, tranh giành, cướp đi.
Yêu nhau ví chẳng biệt ly,
Cần chi giải thoát tu trì nữa chăng?
Càng nhiều âu yếm lăng xăng,
Thì giờ vĩnh quyết lại càng đến mau.
Hiền nhân là đấng chí cao,
Tìm đường giải thoát, chẳng cầu trí ai.
BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHẬT PHÁP
Thế tôn là đấng Đại bi,
Sang giàu, nghèo khó chẳng vì chẳng phân.
Phái môn, giai cấp chẳng cần,
Chỉ coi theo nghiệp kiếp trần đã qua.
Ai gây tội lỗi gian tà,
Khó trông giải thoát đặng ra cõi ngoài.
Sanh, già, bệnh, chết, bi ai,
Cùng là vui, khổ chung vai ở đời.
Bà-la-môn được thảnh thơi,
Còn người các cấp sao thời lại không?
Bà-la-môn học rất thông,
Còn người các cấp cũng trông biết nhiều.
Qua sông, chỗ cạn thuận chiều,
Bà-la-môn, các cấp đều được đi.
Bà-la-môn động tác chi,
Người trong các cấp cũng bì dự lây.
Qui y theo Phật từ đây,
Vì chưng Phật pháp chẳng tây vị gì.
Công bình với các tăng, ni,
Giúp trong dân chúng, hộ trì các nơi.
Chẳng như ngoại đạo dối đời,
Lạc lầm, tăm tối, chia rời chúng sanh.
Lấy lòng bác ái công minh,
Chẳng hề thóa mạ, ghét khinh ai nào.
Đến khi thuyết giáo thanh cao,
Đem điều công lý chỉ vào tận nơi.
Đạo ta ngay thẳng, rạng ngời,
Ấy là đường chánh giúp đời, giúp dân.
Chợ đông bán đủ thứ cần,
Đạo ta cũng cả ngàn phần món mua.
Ta không so tính phân bua,
Không chia giai cấp, hơn, thua, hèn, hào.
Đạo ta chẳng khác suối trào,
Nước trong lại ngọt, cấp nào cũng tôn:
Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn,
Thủ-đà, Phệ-xá ôn tồn uống theo.
Lựa là nhân loại bấy nhiêu,
Chúng sanh tất cả cũng đều uống đa.
Chẳng riêng nam, nữ xuất gia,
Đạo ta là để giúp qua toàn cầu,
Tiên, phàm chi khỏi khổ đau,
Ta cho linh dược về sau thì lành.
Tổ Mã Minh trong khi đi giáo hóa có gặp một nhà đạo trưởng trong phái
ngoại đạo tên là Ca-tỳ-ma-la. Người này dùng tà thuật hóa ra một con
rồng vàng lớn, làm chấn động cả vùng, muốn làm cho Tổ phải sợ sệt. Tổ
ngồi điềm nhiên, rồng chẳng làm hại chi được. Ca-tỳ-ma-la lại dở ra
nhiều tà thuật nữa, nhưng đều bị Tổ hàng phục. Cuối cùng ông này liền
chịu phục, lễ bái Tổ mà cầu xin được xuất gia theo học Phật.
Về sau, Tổ phó chúc lại cho Ca-tỳ-ma-la nối tiếp mà làm Tổ đời thứ mười ba. Có bài kệ truyền pháp rằng:
Ẩn, hiển tức bổn pháp,
Minh, ám nguyên bất nhị.
Kim phó ngộ liễu pháp,
Phi thủ diệc phi ly.
Dịch nghĩa
Ẩn hiện đều là gốc pháp,
Sáng tối vốn thật chẳng hai.
Nay truyền trao pháp liễu ngộ,
Chẳng giữ, cũng chẳng lìa bỏ.
13.
TỔ CA-TỲ-MA-LA
迦毘摩羅祖
Trong quyển “Phật tổ thống ký”, có chép rằng Tổ sư đời thứ mười ba
Ca-tỳ-ma-la là người nước Ma-yết-đà. Trước khi về quy y Phật, ngài tu
theo ngoại đạo, có đến ba ngàn đệ tử. Ngài thông suốt kinh điển, lại có
nhiều phép thần bí. Nhân một cuộc đối đầu với Tổ thứ mười hai là Mã
Minh, Ca-tỳ-ma-la dùng nhiều tà thuật nhưng không thắng được Tổ sư, liền
chịu khuất phục, lễ bái xin theo làm đệ tử. Sau được truyền pháp rồi,
ngài đi lần xuống miền Nam mà hóa đạo, cứu độ chúng sanh.
Ngài thu phục được Long Thọ Bồ-tát là một nhà học giả thông thái lúc bấy
giờ. Sau, ngài truyền pháp cho Long Thọ, nối tiếp mà làm Tổ đời thứ
mười bốn. Ngài có truyền cho Long Thọ bài kệ sau đây:
Phi ẩn phi hiển pháp,
Thuyết thị chân thật tế.
Ngộ thử ẩn hiển pháp,
Phi ngu diệc phi trí.
非隱非顯法
說是眞實際
悟此隱顯法
非愚亦非智。
Dịch nghĩa
Pháp chẳng ẩn, chẳng hiện.
Thuyết lẽ chân thật ấy.
Ngộ pháp ẩn hiện này,
Chẳng ngu, cũng chẳng trí.
14.
TỔ LONG THỤ
龍樹祖
Là vị Tổ sư thứ mười bốn, ngài ra đời vào thế kỉ thứ hai Dương lịch.
Tiểu sử của ngài có lắm chuyện kỳ lạ, trong đó có nhiều phần thật, mà
cũng có lắm sự khó tin. Nhưng người ta biết chắc rằng ngài sanh tại xứ
Bérar, thuộc dòng tộc Bà-la-môn, và ngài hưởng thọ được chừng sáu mươi
tuổi.
Ngài soạn nhiều sách, nhưng đã thất lạc đi rất nhiều, không thể nào tìm lại đủ.
Tác phẩm của ngài được dịch sang chữ Hán rất nhiều. Tên tuổi ngài nổi
bật trong lịch sử văn chương Phật giáo. Tương truyền chính ngài đã soạn
cuốn “Di-lan-đà vấn đạo” hay còn gọi là kinh Na-tiên Tỳ-kheo, là một
quyển kinh rất có giá trị. Nhưng một số người khác không đồng ý, cho
rằng kinh ấy xuất hiện về sau nên không thể do ngài trước tác được.
Ngài là người sáng lập ra phái Trung luận, một trong các học phái quan
trọng của Đại thừa. Đệ tử của ngài rất đông, đều giỏi lý thuyết cao
siêu.
Trong những cuộc thuyết pháp của ngài, người nghe phần đông là những
người Bà-la-môn học rộng, và vua cũng về phái Bà-la-môn. Ngài luận
thuyết rất cao siêu và đánh đổ được hết những kẻ muốn chống lại giáo lý
Phật đà. Học phái Trung luận của ngài lấy thuyết Không làm điểm cốt lõi
để phát triển luận thuyết.
Những đoạn mà chúng tôi trích dịch sau đây đều là trước tác của ngài Long Thụ.
QUẢ VỊ BỒ TÁT
Đức tánh cốt yếu của chư Bồ-tát là lòng từ ái tràn đầy và lên đến cực
điểm. Các ngài thương tất cả chúng sanh, vạn vật. Bởi vậy cho nên không
muốn riêng hưởng cảnh Niết-bàn. Dù tâm trí các ngài đã được an hòa,
thanh tịnh, nhưng các ngài vẫn vì tình thương mà làm những việc lành,
không phải bởi tham hưởng quả tốt về sau. Tuy thế, công đức của các ngài
tự nhiên giúp cho các ngài được an nhiên, tự tại.
Phẩm vị của các ngài cao hơn phẩm vị của hàng Thanh văn La-hán. Các ngài
đi đến đâu cũng đều cứu vớt cho chúng sanh, không muốn để họ còn chịu
khổ não khi mình đã đi qua rồi. Các ngài làm việc xuất phát từ tâm đại
từ đại bi, hướng đến quả Phật Như Lai.
Các ngài cũng lấy lòng thương mà nhìn xuống chúng sanh đang chịu hành
khổ dưới địa ngục A-tỳ, vì họ đã làm những việc gian ác. Chính địa ngục
là một cõi vô cùng vô tận, mà lại ở đó, sự khổ cũng là vô số tùy theo
các nghiệp ác của chúng sanh chiêu cảm lấy. Bồ-tát là đấng đại từ đại
bi, thấy chúng sanh chịu khổ, lấy làm thương xót và muốn chịu khổ thay
cho họ.
Nhưng các ngài đã chứng đắc được chân lý này: những sự khổ não hành hạ
người ta, một phần là không có thật, chỉ như bào ảnh, mộng ảo vậy thôi,
và một phần là có thật. Các ngài cũng biết rằng những bậc thấu rõ lý
Không của vạn vật đều biết được rằng tại sao nghiệp quả khi thì như thế
này, có khi lại như thế khác.
Bởi thế cho nên muốn cứu độ chúng sanh khỏi mọi cảnh khổ, chư Bồ-tát
luôn dùng hết sức lực và tinh thần, dấn mình vào vòng sanh tử. Tuy các
ngài tự nguyện đi vào cõi luân hồi, mà lòng các ngài không hề uế trược
vì tội lỗi, và cũng không có những hệ lụy chốn trần tục. Các ngài như
hoa sen trong sạch, tuy mọc trong đám bùn mà không vấy bùn.
Trong khi tu tập dần lên cho đến địa vị toàn giác, các ngài luôn lấy
lòng đại từ đại bi mà cứu độ, không muốn để còn có một chúng sanh nào
phải chịu khổ nảo. Các ngài luôn quán sát vạn vật chỉ là hư không, song
việc làm của các Ngài vẫn là ở trong cảnh trần ác lụy, khổ nguy, đặng tế
độ cho chúng sanh vậy.
THƯ KHUYẾN THIỆN
Đây là một bức thơ mà ngài Long Thụ dâng lên vua, vì vua là người mộ
đạo, thường gần gủi và nghe lời khuyến thiện của ngài. Bởi thấy vua hâm
mộ đạo đức và triết lý, nên đại đức vui lòng đem chân lý mà giải bày với
vua.
“Nên giữ thân thể, lời nói và tâm ý theo Mười điều lành. Không nên uống rượu say. Hãy dùng phương thế chân thật mà sống đời.
Nên hiểu rằng tiền của tan rã và mau đổi dời. Tốt hơn là nên bố thí cho
kẻ nghèo, cứu giúp bè bạn khi khó khăn và cúng dường cho những bậc tu
hành. Không có gì quí bằng nhân đức. Lòng nhân là bạn quí của mình, nó
trợ tiếp mình trong những đời sau.
Nên trân trọng lấy sự tinh khiết. Không nên tự bôi nhọ mình, tự làm xấu
lấy mình bằng những hành động thô bỉ, đê hèn. Tinh khiết ở tâm ý là nền
tảng các đức tánh, cũng như đất là nền tảng chịu lấy tất cả động vật và
thực vật.
Nên giữ lấy nhân đức, tinh khiết, bền chí, sốt sắng, nghiêm trang, giữ
cho được vô cùng, vô tận. Và nếu có đạo đức làm cho mình mạnh thêm, tiếp
giúp với mình thì mình có thể lướt qua biển trầm luân để mau thành quả
Phật.
Phải kính trọng cha mẹ, bằng hữu hiền lành và thầy dạy mình. Biết kính
trọng người làm cho mình có được thanh danh và làm cho mình được hạnh
phúc đời sau.
Không nên nói hành, đánh đập, trộm cắp, láo xược, phạm đều nhơ nhuốc,
say sưa, ham ăn trái giờ, ham ngủ chỗ nệm cao mền ấm, hát xướng ca múa
và lòe loẹt se sua.
Nếu được như vậy thì có thể bước theo đúng đường của chư vị La-hán, được
dự phần vào cõi thánh, và nên dùng những lời khuyên ấy mà truyền dạy
cho thiện nam tín nữ.
Nên coi là giặc nghịch những tánh bỏn sẻn, gian trá, tham lam, cộc cằn,
ghét ganh, giận dữ, tự cao tự đại vì giai cấp, của tiền, tuổi trẻ và sự
thông hiểu. Nên coi quyền cao là giặc nghịch.
Những ai trước đã phóng đãng chơi bời và tham ác, nhưng sau tự thấy mình
sai lầm liền sửa đổi tánh tình, sẽ được tốt đẹp như mặt trăng không còn
bị mây che phủ.
Không có khổ hạnh nào hơn sự kiên nhẫn. Vậy không nên để sự giận dữ thắng được mình.
Nếu mình nghĩ rằng: “Những kẻ chửi mắng, rầy rà, ăn xén của mình làm cho
mình nghèo hèn.” Nghĩ như vậy sẽ sanh ra oán giận. Vậy mình nên sớm từ
bỏ những điều so đo ấy và nghỉ ngơi cho yên tĩnh.
Nên biết rằng những hình ảnh lộ trên tâm trí giống như nước, đất hoặc
kho tàng. Khi những tình dục làm xao xuyến tâm thức, thì ta cho chúng nó
giống như nước. Còn tư tưởng chân thật thì ta coi giống như kho tàng.
Có ba thứ lời nói: Lời ngọt ngào, lời chân thật và lời xảo trá. Loại đầu
tiên giống như mật. Loại thứ hai giống như hoa. Và loại cuối cùng như
những thứ đồ dơ nhớp. Nên tránh xa và từ bỏ loại này.
Trong nhân loại, có những người khởi đầu từ chỗ sáng đi đến chỗ sáng. Có
kẻ lại từ chỗ tối đi đến chỗ tối. Cũng có người từ chỗ sáng đi đến chỗ
tối. Và lại có người từ chỗ tối đi đến chỗ sáng. Nên học theo những
người luôn vươn đến chỗ sáng vậy.
Nên hiểu rằng con người như trái xoài. Người thì có vẻ như chín mà
không chín. Có kẻ giống như chín mà lại không chín. Có kẻ không chín mà
dường như muốn chín. Và có kẻ chín, nhìn có thể biết là chín. Phải khéo
biết rõ mà phân biệt.”
PHÓ PHÁP VÀ TRUYỀN KỆ
Long Thụ Bồ-tát giáo hóa đạo pháp rất thạnh. Nghe ngài giảng thuyết
Chánh pháp, rất nhiều người đốn ngộ pháp vô sanh. Nhiều người khác phát
nguyện xuất gia để cầu giải thoát.
Về sau, ngài gọi đệ tử lớn là Ca-na-đề-bà đến dạy rằng: “Nay ta đem
Chánh pháp nhãn tạng của Như Lai mà phó chúc cho ngươi. Vậy ngươi hãy
khéo hộ trì.” Và ngài đọc bài kệ rằng:
Vị minh ẩn hiển pháp,
Phương thuyết giải thoát lý.
Ư pháp tâm bất chứng,
Vô sân diệc vô hỷ.
爲明隱顯法
方說解脫理
於法心不證
無瞋亦無喜。
Dịch nghĩa
Muốn rõ pháp ẩn hiện,
Nên nói lý giải thoát.
Tâm không chứng đắc pháp,
Không giận cũng không vui.
Tổ Ca-na-đề-bà
迦那提婆祖
Sau khi ngài Long Thọ tịch, vị Tổ sư nối tiếp là Ca-na-đề-bà, hay Bồ-tát Đề-bà, làm Tổ sư thứ mười lăm.
Ngài là người miền Nam Ấn Độ, họ Tỳ-xá-la, thuộc dòng tộc Bà-la-môn.
Thuở nhỏ, ngài đã rất thông minh và giỏi biện luận, lại hay làm việc
phước thiện. Truyện kể lại rằng, có một lần ngài đến viếng đền thờ thần
Đại Tự tại Thiên, nhìn thấy tượng thần nghiêm sức đầy những vàng ngọc,
châu báu, ngài liền quở trách rằng: “Thần linh là những vị dùng linh khí
để nhiếp phục người. Nay ngươi lại nghiêm sức thân mình bằng những thứ
châu báu quý giá như thế, làm sao không hao tốn nhiều tiền của trong
dân? Thật đáng trách lắm.”
Mấy hôm sau, ngài trở vào đền thờ ấy, thấy hình tượng của thần dường như
tiều tụy, đổi khác, con mắt trái trủng sâu vào. Ngài thương cảm, liền
nói: “Thần linh không nên để thân thể khiếm khuyết như thế, để ta cho
ngươi con mắt trái vậy.”
Vừa nói, ngài vừa tự tay móc con mắt bên trái của mình mà cho thần.
Nhưng ngài vừa móc ra thì lại sanh một con mắt khác, hoàn y như cũ. Liền
đó, trên không trung nghe có tiếng ca ngợi rằng: “Đại bồ-tát! Đáng phục
thay tâm bố thí của ngài.”
Khi Bồ-tát Long Thụ đi giáo hóa đến miền Nam Ấn Độ, ngài tự mình tìm đến
ra mắt, cầu được xuất gia theo làm đệ tử và được Tổ sư thâu nhận.
Bồ-tát Đề-bà đem tài biện luận của mình mà xiển dương Chánh pháp, khuất
phục hết thảy hàng trí giả ngoại đạo, cứu độ cho rất nhiều người. Về sau
ngài có soạn bộ Bách luận, nói rộng thêm học thuyết Trung đạo của thầy
mình. Nhân bộ luận ấy, về sau người ta xem ngài là người sáng lập ra
Tam luận tông.
Theo Kế Đăng Lục, quyển nhất, Tổ Ca-na-đề-bà đi hóa đạo đến xứ Ca-tỳ-la
có gặp một vị trưởng giả tên là Phạm-ma Tịnh-đức. Ông này rất giàu có,
có hai người con trai là La-hầu-la-điểm và La-hầu-la-đa. Trong vườn ông
trưởng giả này có một thân cây sanh ra một loại nấm lạ, ăn rất ngon.
Nhưng kỳ dị một điều là chỉ có riêng ông với người con thứ là
La-hầu-la-đa mới có thể nhìn thấy và ăn được loại nấm ấy, còn tất cả
những người khác không ai nhìn thấy cả.
Trong nhiều năm, ông Tịnh-đức và người con thứ của ông ôm ấp thắc mắc về
loại nấm lạ ấy, tìm hỏi rất nhiều người mà không ai có thể giải thích
được. Người con thứ là La-hầu-la-đa có làm bài kệ rằng:
Thử mộc sanh kỳ nhĩ,
Ngã thực bất khô khao.
Trí giả giải thử nhân,
Ngã hồi hướng Phật đạo.
此木生奇耳
我食不枯犒
智者觧此因
我迴向佛道。
Dịch nghĩa
Cây sanh ra nấm lạ,
Ăn hoài vẫn không hết.
Bậc trí nói rõ được,
Ta theo về Phật đạo.
Ấy là lời báo trước nhân duyên xuất gia của người con này vậy.
Khi Tổ Ca-na Đề-bà đi hóa đạo đến nơi ấy, ông trưởng giả Tịnh-đức liền
cùng với người con thứ tìm đến ra mắt, lễ bái cúng dường. Sau, ông mới
đem câu chuyện nấm lạ mà thưa hỏi. Tổ thấu rõ nhân duyên việc ấy, liền
nói cho ông Tịnh-đức biết như sau:
“Ngày trước, khi còn trẻ ngươi thường thỉnh một vị tỳ-kheo về nhà mà
cúng dường. Tỳ-kheo ấy tuy cũng có phần giới hạnh, nhưng quả thật chưa
tỏ ngộ được đạo lý. Thế mà thọ nhận sự cúng dường trọng hậu của ngươi,
thành ra một món nợ. Nay vị ấy đã thác, phải sanh làm loại nấm kia để
trả nợ cho ngươi. Lại nữa, khi ngươi cúng dường cho tỳ-kheo ấy, người
trong nhà không ai tán đồng, tùy hỷ, chỉ có riêng người và người con thứ
phát tâm cung kính, đem lòng thành mà cúng dường thôi. Vì nhân duyên
ấy, ngày nay chỉ có riêng ngươi và đứa con ấy được ăn loại nấm này.”
Tổ sư lại hỏi: “Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?”
Đáp: “Đệ tử 79 tuổi.”
Tổ sư đọc kệ rằng:
Nhập đạo bất thông lý,
Phục thân hoàn tín thí.
Nhữ niên bát thập nhất,
Thử thụ diệc vô nhĩ.
入道不通理
復身還信施
汝年八十一
此樹亦無耳。
Dịch nghĩa
Tu hành không rõ lý,
Thác sanh trả nợ người.
Năm ngươi tám mốt tuổi,
Cây ấy không còn nấm.
Ông trưởng giả Tịnh-đức nhớ lại sự việc quả có đúng như lời Tổ sư nói, hết sức kính phục, quỳ lạy thưa rằng:
“Con nay tuổi già sức yếu, tiếc rằng không thể theo phụng sự thầy. Nay
đứa con thứ của con, chí ý mộ việc tu hành từ nhỏ, xin cho được theo làm
thị giả cho thầy.”
Tổ sư liền quay sang hỏi người con thứ rằng: “Ngươi tên là gì?” Đáp: “Con tên La-hầu-la-đa.”
Tổ sư vui mừng nói; “Quả đúng như lời Thế Tôn xưa kia đã nói. Ngươi xuất gia sẽ mau chứng đạo.”
Tổ liền nhận cho xuất gia, truyền giới cụ túc cho La-hầu-đa-la.
Về sau, La-hầu-la-đa trở thành đệ tử lớn nhất của Tổ sư, được ngài
truyền cho làm Tổ sư thứ mười sáu. Khi truyền pháp, ngài có bài kệ rằng:
Bổn đối truyền pháp nhân,
Vị thuyết giải thoát lý;
Ư pháp thật vô chứng,
Vô chung diệc vô thủy.
本對傳法人
為說解脫理
於法實無證
無終亦無始。
Dịch nghĩa
Trước khi truyền pháp cho ai,
Hãy đem giải thoát đề tài giảng sâu.
Thật mình không chứng pháp đâu,
Không chung không thủy, đuôi đầu vốn không.
15.
TỔ LA-HẦU-LA-ĐA
羅睺羅多祖
Tổ sư đời thứ mười sáu sanh ra tại xứ Ca-tỳ-la. Theo quyển “Phật Tổ lịch
đại thông tải”, khi du hành hóa độ đến thành Thất-la-phiệt, sông Kim
thủy. Ngài nói với chúng đệ tử rằng: “Ở nơi kia có thánh nhân tên là
Tăng-già-nan-đề. Phật có nói trước rằng người ấy sẽ là Tổ sư đời thứ
mười bảy.”
Ngài bèn bảo đệ tử đưa thuyền cho ngài lên nguồn sông. Đến nơi, ngài
thấy Tăng-già-nan-đề đang an tọa nhập định. Đủ hai mươi mốt ngày, ông
này ra khỏi cơn thiền. Hai vị sư bèn biện luận nghĩa lý phép định.
Tăng-già-nan-đề hội được ý Tổ, Tổ bèn phó cho pháp nhãn, truyền làm Tổ
sư đời thứ mười bảy. Có truyền bài kệ này:
Ư Pháp thật vô chứng,
Bất thủ diệc bất ly;
Pháp phi hữu vô tướng,
Nội ngoại vân hà khởi?
於法實無證
不取亦不離
法非有無相
內外云何起
Dịch nghĩa
Thật là không chứng pháp chi,
Chẳng cầm giữ cũng chẳng lìa bỏ đâu.
Pháp không các tướng có không,
Nội tâm ngoại cảnh há lay động mình?
16.
TỔ TĂNG-GIÀ NAN-ĐỀ
僧伽難提祖
Tổ sư thứ mười bảy vốn là một vị hoàng tử, con vua Bảo Trang Nghiêm,
sanh ra tại thành Thất-la-phiệt. Tục truyền rằng khi ngài mới vừa sanh
ra thì đã biết nói, thường xưng tán Phật sự.
Trong quyển “Phật Tổ chánh tông đạo ảnh” có chép rằng:
Sau khi xuất gia, tôn giả tìm đến một cái động đá, vào ngồi trong ấy mà
nhập định. Sau khi xuất định, ngài nhìn thấy Tổ sư thứ mười sáu là
La-hầu-la-đa đang đứng trước mặt mình. Tổ sư hỏi rằng:
“Thân ngươi định hay tâm ngươi định?”
Đáp rằng:
“Cả thân và tâm đều định.”
“Thân và tâm đều định thì cái gì xuất nhập?”
“Tuy có xuất và nhập, mà không mất cái tướng định.”
Nhân được luận bàn với Tổ sư trong dịp ấy, ngài liễu ngộ được bổn tâm,
được Tổ sư ấn chứng và truyền pháp cho, làm Tổ sư đời thứ mười bảy.
Về sau, Tổ Tăng-già-nan-đề truyền pháp lại cho Tăng-già-da-xá, kế nghiệp
cho ngài mà làm Tổ thứ mười tám. Ngài có truyền kệ rằng:
Tâm địa bổn vô sanh,
Nhân địa tùng duyên khởi;
Duyên chủng bất tương phường,
Hoa quả diệc phục nhĩ.
心地本無生
因地從緣起
緣種不相妨
華果亦復爾。
Dịch nghĩa
Này tâm địa vốn vô sanh,
Nhân là cảnh đắc duyên hình khởi lên.
Nhân duyên chẳng ngại mọi bên,
Hoa và quả cũng kết trên nhánh cành.
17.
TỔ TĂNG-GIÀ XÁ-ĐA
僧伽舍多祖
Ngài sanh ra tại nước Ma-đề, họ Uất-đầu-lam, cha tên là Thiên-cái mẹ tên
là Phương-chánh. Trong quyển “Phật Tổ chánh tông đạo ảnh” có ghi rằng:
Khi Tổ đời thứ mười bảy, Tăng-già-nan-đề du hành và hằng hóa đến nước
Ma-đề, ngài gặp một đứa trẻ cầm kính đi tới phía ngài. Tổ bèn hỏi rằng:
“Ngươi mấy tuổi?”
Đứa trẻ đáp:
“Một trăm tuổi.”
Tổ hỏi:
“Ngươi còn thơ ấu mà sao nói là một trăm tuổi?”
Đáp rằng:
“Có kẻ sống đến một trăm tuổi mà không hội được cơ duyên của chư Phật.
Chẳng bằng người sanh ra chưa đầy một ngày mà đã quyết liễu được ý đạo.”
Lúc ấy, có gió thổi làm cho tiếng chuông treo trên điện ngân lên. Tổ hỏi:
“Đó là chuông kêu hay là gió kêu?”
Đứa trẻ đáp:
“Không phải gió kêu, cũng không phải chuông kêu. Chính tại tâm mình kêu vậy.”
“Tâm lại là cái gì?”
“Tâm vốn là tịch tĩnh.’
Tổ khen rằng:
“Lành thay! Lành thay!”
Liền đó, Tổ thu nhận đứa trẻ ấy làm đệ tử. Về sau, lại đem Chánh pháp
nhãn tạng mà truyền phó cho. Đứa trẻ ngày ấy chính là ngài Tăng-già
Xá-đa.
Về sau, Tổ Tăng-già Xá-đa du hóa đến xứ Nguyệt Chi, độ cho ngài
Cưu-ma-la-đa. Ngài truyền phó Chánh pháp cho Cưu-ma-la-đa làm Tổ đời thứ
mười chín, có truyền bài kệ dưới đây:
Hữu chủng, hữu tâm địa,
Nhân duyên năng phát manh.
Ư duyên bất tương ngại,
Đương sanh sanh bất sanh,
有種有心地
因緣能發萌
於緣不相礙
當生生不生。
Dịch nghĩa
Có giống sẵn, có đất tâm,
Nhân duyên đầy đủ thì đâm mộng liền.
Nếu không trở ngại các duyên,
Lần hồi sanh nảy, nhưng tuyền chẳng sanh.
18.
TỔ CƯU-MA-LA-ĐA
鳩摩羅多祖
Ngài thuộc dòng tộc Bà-la-môn, sanh tại nước Đại Nguyệt-chi.
Theo quyển “Phật Tổ lịch đại thông tải”, khi Tăng-già Xá-đa, Tổ sư đời
thứ mười tám du hóa đến nước Nguyệt-chi, ngài nhìn thấy từ nơi nhà một
người Bà-la-môn có luồng khí lạ xông lên. Tổ định bước vào nhà ấy. Vừa
lúc đó, Cưu-ma-la-đa bước ra, hỏi rằng:
“Ngài là đồ chúng nào?”
“Ta là đệ tử Phật.”
Cưu-ma-la-đa vừa nghe tiếng Phật thì tâm thần hoảng hốt, liền đóng cửa
lại. Tổ chờ một hồi lâu, kế đến gỏ cửa. Cưu-ma-la-đa nói:
“Không có ai ở nhà cả.”
“Không có, vậy ai nói đó?”
Nghe tiếng nói, biết là bậc dị nhân, Cưu-ma-la-đa liền mở cửa và đón tiếp rất cung kính.
Tổ nói rằng: “Đức Phật có nói trước rằng: Sau khi ta nhập diệt, rồi sẽ
có một bực đại sĩ xuất hiện tại nước Nguyệt-chi. Nay gặp ngươi đây, quả
thật đúng theo lời ấy.”
Lúc ấy, ngài Cưu-ma-la-đa phát sanh Túc mạng trí, nhớ biết được các đời
trước của mình, liền cầu được xuất gia và thọ giới cụ túc với Tổ sư.
Về sau, ngài đến miền Bắc Ấn Độ, thâu nhận được người đệ tử kế nghiệp là
Xà-dạ-đa. Ngài truyền pháp cho Xà-dạ-đa làm Tổ đời thứ hai mươi. Nhân
đó, ngài có truyền bài kệ này:
Tánh thượng bổn vô sanh,
Vị đối cầu nhân thuyết;
Ư pháp ký vô đắc,
Hà hoài quyết bất quyết.
性上本無生
為對求人說
於法既無得
何懷決不決。
Dịch nghĩa
Tánh nguyên là một không sanh
Có ai cầu pháp, vị tình nói ra.
Không đắc pháp, thấy rõ là,
Quyết và chẳng quyết thì ta lo gì?
19.
TỔ XÀ-DẠ-ĐA
闍夜多祖
Tổ sư đời thứ hai mươi là ngài Xà-dạ-đa người miền Bắc Ấn Độ, trí huệ cao sâu, hóa độ được rất nhiều người.
Trong quuyển “Phật Tổ chánh tông đạo ảnh” có ghi lại rằng:
Khi gặp Tổ Cưu-ma-la-đa vào nước mình, ngài Xà-dạ-đa hỏi rằng:
“Cha mẹ tôi ở nhà thuở nay có lòng tin mộ Tam bảo, thế mà thường vướng
phải tật bệnh luôn; còn hễ khuếch trương làm việc gì thì đều thất bại
cả. Gần nhà tôi lại có một người chiên-đà-la mà thân thể được tráng
kiện, làm việc chi cũng được toại ý. Chẳng biết kẻ ấy có phước chi và
chúng tôi có tội gì?”
Ngài Cưu-ma-la-đa đáp rằng:
“Nhân quả thiện ác vay trả trong ba đời. Kẻ phàm phu chỉ thấy người
nhân từ chết yểu, kẻ ác sống thọ, hoặc kẻ vô ân gặp may mắn, người có
nghĩa phải hoạn nạn, bèn cho là không có nhân quả, tội phước. Họ có biết
đâu ảnh hưởng của việc thiện ác đeo mãi theo mình, dẫu cho đến muôn
kiếp cũng không tan mất.”
Nghe xong, Xà-dạ-đa liền dứt sự nghi ngờ. Tổ Cưu-ma-la-đa lại giảng thêm rằng:
“Tuy ngươi đã tin nghiệp báo trong ba đời, nhưng mà chưa rõ rằng nghiệp
quả cũng là theo nơi chỗ mê lầm mà ra. Nhân nơi thức mà lầm, thức tùy
theo chỗ không giác ngộ, chỗ không giác ngộ tùy theo nơi tâm. Mà bổn
tánh của tâm thì thanh tịnh, không sanh diệt, không tạo tác, không báo
ứng, không hơn thua, tịch nhiên, linh nhiên. Nếu ngươi nhập diệu pháp
môn ấy thì ngươi với chư Phật đâu có khác gì? Khi ấy các sự thiện ác, vô
vi, hữu vi đều là mộng huyễn cả.”
Liền đó, Xà-dạ-đa phát khởi túc huệ, thọ pháp với Tổ sư và sau được truyền làm Tổ đời thứ 20.
Tổ là người trí huệ sâu rộng, hóa đạo được vô số đệ tử và tín đồ. Ngài
đến thành La-phiệt, xiển dương giáo lý Đại thừa. Trong hàng đệ tử, có
một vị biện luận cao tài hơn hết tên là Bà-tu-bàn-đầu. Người này hỏi
rằng: “Tự ngài đã đắc pháp Vô não hay chưa?”
Tổ Xà-dạ-đa đáp: “Ta nhớ rằng đã bảy kiếp rồi, ta thường sanh nơi An lạc
quốc. Mỗi khi ta nghe lời ác, dường như gió thoảng, tiếng dội, không
động được ta. Huống chi nay ta được uống nước cam lộ vô thượng, thì làm
sao còn sanh nhiệt não được nữa?”
Bà-tu-bàn-đầu thưa: “Xin đấng đại bi đem diệu đạo mà truyền dạy cho con.”
Tổ sư nói:
“Ngươi đã trồng cội lành từ lâu, sẽ là người tiếp nối ta mà truyền mối đạo. Hãy nghe bài kệ này:
Ngôn hạ hiệp vô sanh,
Đồng ư pháp giới tánh.
Nhược năng như thị giải,
Thông đạt sự lý cánh.
言下合無生
同於法界性
若能如是解
通達事理竟。
Dịch nghĩa
Nghe giảng, hiểu lẽ vô sanh,
Tánh linh cõi pháp với mình như nhau.
Lẽ như vậy nếu hiểu làu,
Đạt thông sự lý cạn sâu đủ rồi.
20.
TỔ BÀ-TU-BÀN-ĐẦU
婆修盤頭祖
Bà-tu-bàn-đầu, cũng phiên âm là Phật-tô-bàn-độ, thường gọi theo những
tên khác nữa là Thiên Thân hay Bồ-tát Thế Thân, là Tổ sư đời thứ hai
mươi mốt.
Ngài sanh vào đầu thế kỷ thứ năm Dương lịch, nơi xứ Càn-đà-la, tại
thành Purushapura là nơi rất thạnh về Phật pháp. Anh ruột ngài là
A-tăng-già, cũng gọi Bồ-tát Vô Trước. Lúc ban đầu, cả hai anh em đều
theo học giáo lý Tiểu thừa, nhưng về sau thấy Tiểu thừa không thích hợp
với mình, và nhận ra được sự cao siêu, thâm diệu của Đại thừa, hai ngài
bèn chuyển sang tu theo Đại thừa.
Bồ-tát Vô Trước nhập Đại thừa trước, sau mới hóa độ cho em cùng vào theo.
Ngài Thế Thân lúc nhỏ có sang xứ Khắc-thập-mễ-nhĩ, thọ giáo một học giả
thông thái của Tiểu thừa tên là Tăng Hiền. Ngài học trong mấy năm, và
sau khi đã thành một vị Pháp sư, ngài qua xứ Oudh ở một thời gian. Bấy
giờ, ngài theo phái Tát-bà-đa-bộ của Tiểu thừa, thường dùng tài biện
luận của mình mà kích bác triết lý Du-già của Đại thừa một cách hùng hồn
lắm.
Ngài Vô Trước lúc ấy đã tin theo Đại thừa rồi, có ý muốn hóa độ cho em.
Ngài hẹn với Thế Thân đến một ngôi chùa ở xứ A-du-đà. Khi Thế Thân đến,
vị trụ trì liền mời tiếp rất tử tế và cùng trò chuyện mấy việc tầm
thường qua loa. Rồi sau khi ăn, ngài đưa Thế Thân lên một căn phòng cất
trên đồi cao, nhìn ngay xuống sông Hằng. Đêm ấy nhằm mùa thu, trời thanh
cảnh tốt, không có một cụm mây. Đứng trên nhìn xuống, thấy mấy cây da,
mấy cây dừa đưa cành, rọi bóng xuống hồ sen, nước sông đầy tràn, bóng
trăng soi sáng cả mặt sông. Có một tỳ-kheo đứng nơi cửa sổ phòng bên
dưới, giả vờ như vô tình ngâm nga một bài kệ hàm chứa ý nghĩa rất cao
siêu. Ngài Thế Thân vừa nghe liền chú ý, cảm nhận ngay được ý nghĩa bài
kệ, sau lại càng hiểu sâu hơn, bừng ngộ ra ý nghĩa đại thừa. Ngài cảm
động đến chảy nước mắt. Bấy giờ, ngài mới thấy giáo lý Tiểu thừa là nhỏ
hẹp, hạn cuộc. Nhớ lại lúc trước đã từng hết lòng công kích giáo lý Đại
thừa, ngài lấy làm ân hận, định tự tay cắt lưỡi mình. Khi ấy ngài Vô
Trước liền xuất hiện, cản lại và nói rằng: “Không nên cắt lưỡi, từ đây
nó sẽ giúp em rộng truyền chân lý vậy.”
Quả thật, sau khi theo giáo lý Đại thừa, ngài Thế Thân trở thành một bậc
học giả uyên thâm, thông thái hơn hết ở Ấn Độ. Ngài đến làm giảng sư
tại viện Na-lan-đà, cùng chung sức với ngài Vô Trước soạn nhiều kinh
sách rất giá trị. Viện Na-lan-đà là trường Phật học lớn hơn hết ở Ấn độ,
rèn đúc các vị cao tăng, và chư vị Tổ sư nối nhau mà truyền Đạo, phần
nhiều đều giảng dạy tại trường ấy. Đệ tử của hai ngài Vô Trước và Thế
Thân vẫn nối tiếp nhau mà làm thượng tọa tại Na-lan-đà. Khi ngài Huyền
Trang từ Trung Hoa sang Ấn Độ vào năm 633, có đến viện Na-lan-đà này học
đạo với luận sư Giới Hiền. Ngài Giới Hiền chính là đệ tử của hai vị Vô
Trước và Thế Thân, lúc ấy đã hơn trăm tuổi, nhưng vì một điềm mộng báo
trước việc ngài Huyền Trang từ Trung Hoa sang cầu pháp, nên ngài vẫn
chưa viên tịch, chính là muốn nán lại để truyền dạy cho vị tăng sĩ người
Trung Hoa này.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài Thế Thân để lại là A-tỳ-đạt-ma
Câu-xá-luận. Câu-xá tông cho rằng bộ luận này là do đức Di-lặc truyền
dạy cho ngài. Ngài còn soạn rất nhiều sách khác nữa, trong mỗi quyển,
đều có phần giảng giải về giáo lý Đại thừa. Quyển Duy thức luận của
Pháp tướng tông cũng do ngài soạn.
LÀM THẾ NÀO ĐƯỢC BỒ ĐỀ TÂM?
… Chư Phật trong mười phương, ba đời, khi mới bước chân lên đường đạo
để đến cõi toàn giác, đều không tránh khỏi những chỗ lầm lỗi như ta bây
giờ. Nhưng đến sau, các ngài đều được Giác ngộ hoàn toàn và thành những
Đấng cao thượng hơn hết trong chúng sanh.
Chư Phật nhờ dùng hết nghị lực trong tâm nên mới có thể đạt được sự toàn
giác. Nếu các ngài có thể đạt được sự toàn giác, thì ta sao chúng lại
không thể được?
Trong khi chư Phật đưa đuốc huệ lên cao để dắt dẫn chúng sanh ra khỏi
nơi hắc ám vô minh và giữ lòng từ bi hỷ xả, thì các ngài cam chịu biết
bao khổ hạnh, rồi mới thoát khỏi nghiệp chướng trong Tam giới. Bây giờ
ta cứ bước lần theo chân Phật, rồi đây ta cũng sẽ được giải thoát vậy.
Chư Phật đều lướt qua biển khổ não sanh tử, chúng ta đây là những bậc
trí giả, ta cũng có thể lướt qua biển trầm luân, sao lại không được?
Chư Phật dùng sức mạnh trong nội tâm mà dứt bỏ những của cải, thân danh,
hy sinh cả mạng sống để đạt đến chỗ khoát nhiên đại ngộ, thấy biết mọi
việc. Ta đây cũng có thể noi các gương vẻ vang ấy vậy, để cùng được
khoát nhiên đại ngộ như các ngài…
Đời sống xác thịt của thân Ngũ uẩn và Tứ đại này của ta, đã phạm biết
bao nhiêu việc xấu. Ta cần phải dứt bỏ nó đi. Đời sống bằng xác thịt với
chín lỗ đưa ra những món uế trược tanh hôi, ta cần phải dứt bỏ nó đi.
Đời sống bằng xác thịt chất chứa những sự giận hờn, tham lam, ngạo mạn
và biết bao tánh xấu khác. Nó làm cho tâm ta bỏ việc lành theo việc ác,
ta cần phải dứt bỏ nó đi. Cái mạng sống bằng xác thịt của ta tựa hồ như
một chút hơi, một bọt nước, nó ngày càng mòn mỏi đi dần. Ta quí gì nó mà
chẳng bỏ nó đi? Cái xác thịt của ta chìm đắm trong cõi dốt nát vô minh,
nó cứ gây nghiệp xấu làm cho ta quanh lộn mãi trong sáu đường luân hồi.
… Các chúng sanh đều làm nô lệ cho sự vô minh. Họ ham mê theo tánh ngu
dại và kiêu căng của họ, nên bị đau khổ rất nặng nề. Không tin theo luật
nghiệp báo, họ cứ làm ác thêm hoài. Tách xa đường ngay nẻo chánh, họ cứ
theo đạo tà. Say đắm trong vòng tình dục, họ cứ chìm mất trong bốn biển
tội ác.
Họ bị các sự đau khổ hành hạ. Họ sợ mãi những nỗi sanh, lão, bệnh, tử.
Cái sợ đó đâu có đỡ cho họ chút nào, vì họ không tìm theo đường giải
thoát. Họ những đau ốm mỏi mòn, vì sầu ưu, xao xuyến, mà nào họ có chừa
bỏ những việc gian ác đâu. Tham muốn được gần gủi với kẻ yêu thương và
lấy làm sợ những cuộc biệt ly, họ nào có hiểu cuộc sống là giả dối, tạm
bợ. Cuộc sống giả ấy há đáng để ý sao? Họ muốn tránh những sự tham lam,
sân hận, si mê và khổ não, nhưng họ cứ gieo thêm những sự ấy mãi mãi…
Chư Phật Như Lai hạnh đức đủ đầy, có những vẻ nghiêm trang đoan chánh,
khiến cho những kẻ trông thấy liền tưởng việc hiền lành mà lánh xa nạn
khổ. Pháp thân của chư Phật và trường tồn không hoại mất, thanh bạch,
không bận những nỗi luyến ái thấp hèn. Chư Phật Như Lai đều hiền đức,
thanh tịnh, có đủ trí huệ và thoát khỏi trần tục. Tâm trí các ngài không
phải xao xuyến vì những lý thuyết thành kiến, mà là những ngôi đền chứa
những đức quí hóa tinh sạch. Các ngài có đến mười lực thần trí, bốn đức
oai hùng chẳng sợ. Các ngài đại từ bi và có đủ ba phép thiền định. Các
ngài thấy biết mọi việc, và lòng thương những sanh vật đau khổ tràn trề
khiến cho những chúng sanh lầm lạc đều trở lại đường ngay.
Bài thuyết pháp của Bồ-tát Thế Thân
PHÓ PHÁP VÀ TRUYỀN KỆ
Theo quyển “Phật Tổ chánh tông Đạo ảnh”, khi Tổ sư đời thứ hai mươi mốt,
Bà-tu-bàn-đầu vào đến nước Ma-đề của vua Thường Tự Tại, thì vua thỉnh
vào đền. Tổ nói rằng: “Đức Phật có nói trước rằng: Chưa được một ngàn
năm sau khi ta nhập Niết-bàn, sẽ có hai vị đại sĩ ra đời ở xứ Na-đề, làm
lợi lạc cho chúng sanh nhiều vô kể. Hai người ấy, một người là
Ma-noa-la, con thứ của bệ hạ. Người thứ hai là ta đây, tuy đức bạc nhưng
cũng đang nắm giữ giềng mối Chánh pháp mà hóa độ chúng sanh.”
Vua nghe Tổ sư nói vậy, khẩn khoản cầu xin cho hoàng tử xuất gia. Tổ
Bà-tu-bàn-đầu thâu nhận hoàng tử làm đệ tử. Về sau, truyền pháp lại cho
Ma-noa-la nối tiếp làm Tổ sư thứ hai mươi hai. Nhân đó, ngài có truyền
cho bài kệ dưới đây:
Bào, huyễn đồng vô ngại,
Như hà bất liễu ngộ?
Đạt pháp tại kỳ trung,
Phi kim diệc phi cổ.
泡幻同無礙
如何不了悟
達法在其中
非今亦非古。
Dịch nghĩa
Bào với huyễn: vô ngại mà,
Tại sao không hiểu rõ ra lẽ này?
Một khi đạt pháp nơi đây,
Chẳng xưa lại cũng chẳng nay nữa là.
21.
TỔ MA-NOA-LA
摩拏羅祖
Tổ sư Tây Thiên đời thứ hai mươi hai vốn là hoàng tử của vua Thường Tự
Tại, nước Ma-đề. Năm ba mươi tuổi, ngài gặp Tổ Bà-tu-bàn-đầu, xuất gia
và được truyền pháp. Vì là người trong hoàng tộc xuất gia, nên về sau
khi đi hóa đạo, ngài dễ dàng độ cho rất nhiều vua chúa và quan chức các
nơi. Người theo về học đạo với ngài, xuất gia cũng như tại gia đều đông
vô kể.
Một hôm ngài du hành đến xứ Nguyệt-chi gặp một người tên Hạc-lặc-na. Tổ sư biết đây là bậc đại pháp khí, nên có ý muốn hóa độ.
Hạc-lặc-na thưa hỏi rằng: “Ngài dùng phương tiện gì mà đô cho tôi?” Tổ
sư đáp: “Ta đem Vô thượng Pháp Bảo mà phó chúc cho ngươi”. Liền đó, ngài
truyền cho bài kệ dưới đây:
Tâm tùy vạn cảnh chuyển,
Chuyển xứ thật năng u.
Tùy lưu nhận đắc tánh,
Vô hỷ diệc vô ưu.
心隨萬境轉
轉處實能幽
隨流認得性
無喜復無憂。
Dịch nghĩa
Tâm theo muôn cảnh mà dời,
Đến đâu thật cũng tăm hơi u huyền.
Chuyển lưu, nhưng tánh được nguyên,
Chẳng vui cũng chẳng ưu phiền mảy may.
22.
TỔ HẠC-LẶC-NA
鳩勒那祖
Ngài là người xứ Nguyệt-chi, thuộc dòng Bà-la-môn, cha tên là Thiên
Thắng, mẹ là Kim Quang. Ngài xuất gia hồi hai mươi hai tuổi. Đến năm ba
mươi tuổi, ngài mới gặp Tổ đời thứ hai mươi hai là Ma-noa-la, truyền phó
Chánh pháp nhãn tạng cho ngài. Ngài đi vào miền Trung Ấn Độ, gặp một
người tên là Sư-tử Bồ-đề. Vị này hỏi rằng: “Tôi muốn cầu đạo, phải dụng
tâm như thế nào?” Tổ đáp: “Không có chỗ dụng tâm.”
Lại hỏi:
“Đã không dụng tâm, thì ai làm Phật sự?”
Đáp rằng:
“Nếu nhà ngươi có tâm, tức chẳng có công đức. Nếu ngươi không tạo tác, tức là làm Phật sự vậy.”
Sư-tử Bồ-đề nghe rồi, liền phát khởi trí huệ sâu xa. Tổ sư liền truyền
phó Chánh pháp cho, làm Tổ sư đời thứ hai mươi bốn. Lải nói trước cho
biết là về sau sẽ gặp nạn vong thân. Tổ truyền kệ rằng:
Nhận đắc tâm tánh thời,
Bất thuyết bất tư nghị.
Liễu liễu vô khả đắc,
Đắc thời bất thuyết tri.
認得心性時
可說不思議
了了無可得
得時不說知。
Dịch nghĩa
Tâm và tánh nhận được rồi,
Việc không xét nổi, ắt thôi chẳng trình;
Vô khả đắc, hãy hiểu rành,
Đắc rồi, chẳng nói rằng mình chứng tri.
23.
TỔ SƯ-TỬ BỒ-ĐỀ
師子菩提祖
Tổ sư thứ hai mươi bốn là Sư-tử Bồ-đề, người xứ Ca-bì-xa, miền Trung Ấn Độ, thuộc dòng tộc Bà-la-môn.
Khi thầy của ngài là Tổ sư thứ hai mươi ba, Hạc-lặc-na, truyền pháp cho
ngài xong, có nói trước rằng: “Sau khi ta tịch năm mươi lăm, sẽ có nạn
lớn đến cho thân ngươi”.
Về sau, quả nhiên có hai kẻ ngoại đạo là Ma-mục-đa và Đô-lạc-già có học
tà thuật, muốn hại vua mà cướp ngôi. Họ giả làm tỳ-kheo, làm việc thích
khách vua. Việc không thành, vua bắt được liền nghi cho các tỳ-kheo âm
mưu tạo phản, giận dữ nói rằng: “Từ trước tới nay, chính vì ta kính tin
Tam bảo cho nên mới gặp phải tai họa này.”
Vua bèn ra lệnh hủy phá chùa chiền, giết tăng chúng. Vua đích thân mang gươm đến trước mặt Tổ Sư-tử Bồ-đề, hỏi rằng:
“Thầy đã chứng được pháp Uẩn không chăng?”
Tổ sư đáp: “Đã chứng.”
“Vậy có lìa khỏisanh tử chăng?”
“Đã lìa khỏi.”
“Đã lìa khỏi sanh tử, xin thí cho tôi cái đầu.”
“Thân này còn chẳng phải của ta, có tiếc chi cái đầu.”
Vua liền vung gươm chặt đầu Tổ sư. Đầu rơi xuống đất, chỉ thấy chất sữa
trắng phun ra. Ngay lúc ấy, cánh tay mặt của vua cũng tự rơi rụng xuống
đất. Vua sanh bệnh, bảy ngày sau thì băng hà.
Tổ sư đã sớm biết việc ấy, nên trước đó đã trao y bát và truyền pháp cho
ngài Bà-xá Tư-đa và dạy phải lánh ra khỏi nước để tránh nạn này. khi
truyền pháp, ngài có bài kệ rằng:
Chánh thuyết tri kiến thì,
Tri kiến câu thị tâm.
Đương tâm tức tri kiến,
Tri kiến tức vu kim.
正說知見時
知見俱是心
當心即知見
知見即于今。
Dịch nghĩa
Mọi tri kiến lúc thuyết ra,
Hiển nhiên tri kiến đều là tự tâm.
Tâm là tri kiến phát âm,
Những tri kiến tức đương lâm trình bày.
24.
TỔ BÀ-XÁ TƯ-ĐA
婆舍斯多祖
Tôn giả sanh trưởng tại nước Đàm Tân, thuộc dòng tộc Bà-la-môn, cha tên
Tịch Hạnh, mẹ là Thường An Lạc. Đắc Pháp nơi Tổ đời thứ hai mươi bốn là
Sư-tử Bồ-đề, ngài vâng lời thầy hành hóa về miền Trung Ấn Độ. Có một kẻ
ngoại đạo muốn hại ngài, bèn bỏ thuốc độc vào đồ ăn. Ngài biết, nhưng
vẫn ăn mà không chết. Kẻ kia thấy vậy bèn tỉnh ngộ, xin xuất gia. Tổ
nhận cho người ấy thọ giới cụ túc.
Về sau, khi vua Đắc Thắng lên ngôi có ý muốn làm hại Tổ. Thái tử
Bất-như-mật-đa can ngăn vua, liền bị bắt giam vào ngục. Vua triệu Tổ
đến, hỏi rằng:
“Thầy đắc đạo nào?”
Tổ đáp:
“Ta đắc đạo Phật.”
“Phật diệt độ đã một ngàn năm rồi, vậy thầy theo ai mà đắc?”
“Ta theo học với tôn giả Sư-tử Bồ-đề.”
“Ngài Sư tử đã bị hại chết, làm sao truyền Pháp cho thầy?”
“Tổ sư đã truyền pháp khi chưa bị hại, có truyền y làm chứng.”
Vua hỏi tiếp:
“Y ấy nay ở đâu?”
Tổ đáp:
“Trong bọc.”
Vua truyền đem y ra đốt. Củi cháy hết, y còn nguyên. Vua rất hối hận,
làm lễ tạ tôi. Vua truyền thả thái tử Bất-như-mật-đa ra khỏi ngục, lại
thuận cho xuất gia. Bất-như-mật-đa làm thị giả được sáu năm, Tổ truyền
Chánh pháp cho và dặn rằng: “Nay ta giao phó Chánh pháp nhãn tạng cho
ngươi. Vậy ngươi phải khéo hộ trì.” Và ngài có truyền bài kệ dưới đây:
Thánh nhân thuyết tri kiến,
Đương cảnh vô thị phi;
Ngã kim ngộ chân tánh,
Vô đạo diệc vô lý.
聖人說知見
當境無是非
我今悟真性
無道亦無理
Dịch nghĩa
Thánh đem tri kiến thuyết thì,
Cảnh này không thị không phi mới đành.
Nay ta ngộ tánh chân lành,
Đạo không mà lý cũng thành ra không.
25.
TỔ BẤT-NHƯ-MẬT-ĐA
不如密多祖
Tổ sư khi chưa xuất gia vốn là thái tử con vua Đắc Thắng ở miền Nam Ấn
Độ. Ngài rất dũng mãnh, xả bỏ ngôi vua, xuất gia cầu đạo. Trong quyển
“Phật tổ lịch đại thông tải” có ghi lại chuyện của ngài.
Khi được Tổ sư thứ hai mươi lăm là Bà-xá Tư-đa truyền pháp rồi, Tôn giả
Bất-như-mật-đa sang miền Đông Ấn Độ mà hoằng hóa Phật pháp.
Lúc ấy, sư trưởng ngoại đạo tên là Trảo Phạm chí rất lo sợ vua dời đổi
lòng tin, bỏ mình mà theo Tôn giả. Nên khi Tôn giả đến, sư trưởng liền
xuyên tạc với vua, bảo rằng ngài là ma đạo.
Vua liền hỏi Tôn giả rằng:
“Đại đức đến đây làm gì?”
“Để độ chúng sanh.”
Vua lại hỏi:
“Độ cho những chúng sanh nào? Và dùng pháp gì để độ?”
Tôn giả đáp:
“Tùy theo từng loại chúng sanh mà dùng pháp thích hợp để độ.”
Vua liền hỏi:
“Như những người có pháp thuật giỏi, đại đức có thể chống lại chăng?”
Tôn giả nói:
“Phật pháp là chân lý, không ngại việc hàng phục tà ma ngoại đạo.”
Bọn ngoại đạo đang hầu theo vua, nghe câu ấy thì giận lắm, liền dùng tà
thuật hóa ra một hòn núi lớn lơ lửng trên đầu Tôn giả. Tôn giả lấy tay
chỉ vào hòn núi ấy, núi bay sang trên đầu bọn ngoại đạo. Đồ chúng ngoại
đạo hốt hoảng quỳ lạy xin tha tội. Tôn giả động lòng thương, lại chỉ tay
lần nữa, núi giả liền tan biến mất.
Sau lần đó, ngoại đạo theo về quy y Phật pháp, đức vua cũng từ đó tôn sùng Phật pháp.
Kế đăng lục, quyển nhất, chép lại rằng: Khi đắc pháp rồi, Tổ
Bất-như-mật-đa đến miền Đông Ấn Độ. Vùng ấy có một vị vua tên là Kiên
Cố, có lòng muốn nghe pháp Phật. Tôn giả liền diễn thuyết pháp yếu cho
vua nghe. Tôn giả lại nói với vua rằng: “Trong nước này sẽ có vị thánh
nhân tiếp nối ta mà giáo hóa chúng sanh.”
Thuở ấy có một thanh niên Bà-la-môn, tuổi được hai mươi, đã mất cha mẹ
từ thuở còn bé thơ, chẳng ai biết tên họ là gì, con cái của ai cả. Qua
ngày sau, vua và Tôn giả ngồi chung xe mà đi. Bỗng thấy thanh niên ấy
xuất hiện, đảnh lễ phía trước. Tôn giả hỏi rằng: “Nhà ngươi đã nhớ lại
việc thuở xưa chăng?”
Thanh niên ấy đáp: “Tôi nhớ ra rồi, cách đây rất lâu xa, tôi với ngài cùng sống chung. Mãi đến nay mới hội ngộ.”
Tôn giả quay sang nói với vua rằng: “Người này chính là Bồ-tát Đại Thế Chí giáng sanh.”
Thanh niên ấy bèn khẩn cầu xin được xuất gia. Tôn giả thâu nhận và đặt tên cho là Bát-nhã-đa-la.
Về sau, Tổ Bất-như-mật-đa truyền Chánh pháp nhãn tạng cho Bát-nhã-đa-la và truyền cho bài kệ rằng:
Chân tánh tâm địa tạng,
Vô đầu diệc vô vĩ.
Ứng duyên nhi hóa vật,
Phương tiện hô vi trí.
眞性心地藏
無頭亦無尾
應緣而化物
方便呼為智
Dịch nghĩa
Tánh chân ẩn ở đất tâm,
Không đầu lại cũng không tầm ra đuôi.
Ứng duyên, giáo hóa vật người,
Biết hành phương tiện là ngôi trí hiền.
26.
TỔ BÁT-NHÃ-ĐA-LA
般若多羅祖
Tổ sư đời thứ hai mươi bảy, Bát-nhã-đa-la, là người miền Đông Ấn độ.
Sau khi đắc Pháp do Tổ Bất-như-mật-đa phó truyền, ngài du hóa đến miền
Nam Ấn Độ, có một vị vua tên Hương Chí sùng thượng Phật pháp, cúng dường
cho ngài một hạt châu vô giá. Vua có ba hoàng tử, Tôn giả muốn thử trí
ba hoàng tử ấy, bèn hỏi rằng: “Hạt châu này tròn trịa, sáng sủa, có chi
sánh bằng nó chăng?” Hoàng tử thứ nhất và hoàng tử thứ nhì đáp rằng:
“Trong hàng thất bảo, châu này quí hơn hết, chẳng có chi hơn được.”
Hoàng tử thứ ba là Bồ-đề Đạt-ma đáp rằng: “Châu này chỉ là bảo vật thế
gian, chưa đáng là cao trổi hơn hết. Trong các bảo vật, chỉ có Pháp bảo
là cao trổi hơn hết mà thôi.”
Tổ lại hỏi nữa: “Trong mọi vật, vật nào là lớn hơn hết?”
Bồ-đề Đạt-ma đáp:
“Pháp Tánh là lớn hơn hết.”
Tôn giả biết hoàng tử ấy là bậc pháp khí, nhưng cơ duyên chưa đến, nên
ngài lặng thinh không nói gì. Đến khi vua Hương Chí băng hà, hoàng tử
Bồ-đề Đạt-ma liền cầu xin xuất gia, được Tổ nhận cho thọ giới cụ túc.
Sau, ngài đem Chánh pháp Nhãn tạng của Như Lai mà phó chúc cho Bồ-đề Đạt-ma. Lại có bài kệ truyền pháp rằng:
Tâm địa sanh chư chủng,
Nhân sự phục sanh lý.
Quả mãn Bồ-đề viên,
Hoa khai thế giới khởi.
心地生諸種
因事復生理
果滿菩提圓
華開世界起
Dịch nghĩa
Đất Tâm sanh các giống trồng,
Nương theo sự, lý lại cùng phát sanh.
Quả vẹn đủ, Bồ-đề thành,
Hoa khai, thế giới giương mình khởi lên.
27.
TỔ BỒ-ĐỀ ĐẠT-MA
菩提達磨祖
Tổ Bồ-đề Đạt-ma sanh vào thế kỷ thứ năm Dương lịch, là hoàng tử thứ ba
của vua Hương Chí nước Ca-xi, một vị vua ở miền Nam Ấn Độ. Ngài là con
út nên được vua thương lắm. Nhưng Ngài không màng cuộc phong lưu phú
quí, mà lại vui lòng đem thân nương cửa Bồ-đề.
Trước khi tịch, thầy của ngài là Tổ sư thứ hai mươi bảy, Bát-nhã Đa-la
có dạy rằng: “Ngươi là Tổ sư cuối cùng ở cõi này. Ngươi nên ra nước
ngoài mà truyền bá Phật pháp. Nên đến Trung Hoa, và không nên ở miền Nam
mà hãy tìm đến miền Bắc, về sau đạo pháp sẽ được hưng thạnh.”
Sau khi Tổ Bát-nhã-đa-la tịch, ngài Đạt-ma nối tiếp làm Tổ sư đời thứ
hai mươi tám ở Tây Thiên. Ngài giáo hóa ở Ấn Độ trong sáu mươi năm. Có
lần, người cháu của ngài là một ông hoàng có thế lực, bạc đãi Tăng chúng
và hành khổ nhiều nhà sư. Ngài liền sai đệ tử là Balati đến ra mắt ông
hoàng ấy và đem sự không vui lòng của mình mà phân tỏ ra. Ông hoàng ấy
cảm động nghe lời, không còn phá hại Tăng chúng nữa.
Về sau, ngài nhớ lời thầy dặn, liền sang Trung Hoa mà truyền pháp. Từ đó, Ấn Độ không có vị Tổ sư nào nối tiếp nữa.
Tổ Bồ-đề Đạt-ma là vị Tổ sư cuối cùng của Tây Thiên vậy.