Từ đây
ta sẽ đi về đâu ?... nào biết!
Chừng nào đi ?... nào biết!
Ta chỉ
biết một điều và biết chắc như vậy,
là ngày nào đây nhất định ta phải ra đi.
1. Quan niệm về tái-sanh
Giáo lý về sự Tái-Sanh chẳng
phải là một lý thuyết, người Phật-tử xem nó như là một sự thật, không chối cãi
được. Nó là căn-bản của Phật-Giáo.
Hạnh nguyện của chư vị Bồ-Tát và
chủ trương tự do tiến hóa đến nơi tận thiện, tận mỹ đều căn cứ trên giáo lý
Tái-Sanh này.
Sách vở có ghi chép rằng Chúa
Jésus, nhiều bậc hiền triết như Pythagore, Platon, nhiều thi-sĩ như Shelly,
Tennyton, Wordsworth và một số người Âu-Châu, Á-Châu đều thừa nhận và tin tưởng
có sự Luân-Hồi, hoặc có linh-hồn đi đầu thai.
Giáo lý về sự Tái-Sanh của
Phật-Giáo khác hẳn với quan niệm Luân-Hồi và đầu thai của linh-hồn bởi
Phật-Giáo không nhìn nhận có một linh-hồn trường tồn bất diệt để chuyển sanh từ
kiếp này qua kiếp khác, dầu là linh-hồn do Thượng Ðế sanh ra, hay từ trong cái
Ðại-Hồn (Paramàtama) tách ra.
Chỉ có nghiệp quả mới cấu tạo
được sự Tái-Sanh. Do nghiệp quá khứ mới có sự Tái-Sanh hiện tại. Do nghiệp hiện
tại hiệp với nghiệp quá khứ mới có sự Tái-Sanh vị lai. Hiện tại là con đẻ của
quá khứ và trở thành thân sinh của vị lai.
Hiện hữu của hiện tại không cần
có bằng chứng vì nó rất rõ rệt.
Hiện hữu của quá khứ căn cứ trên
trí nhớ và tục truyền.
Hiện hữu của vị lai căn cứ trên
tiên đoán và suy luận.
Nếu có sự sống quá khứ, hiện tại
và vị lai, thì tức nhiên phải đương đầu với một nan đề: Ðâu là nguồn cội
của sự sống?
Có tôn giáo cho rằng sự sống
sanh ra bởi một bản nguyên, một năng lực thiêng liêng hay một đấng Toàn-Năng.
Có tôn giáo khác thì lại nói rằng trong vòng nhân sanh quả, quả sanh nhân,
không thể biết được nhân nào là nhân đầu tiên.
Theo giới hạn hiện thời của
khoa-học, con người sanh ra do tinh trùng và noãn bào của cha mẹ; nhưng khoa
học lại không giải rõ rệt được sự phát triển của tinh thần, là phần quan-trọng
hơn thể-xác. Các nhà khoa học vừa nói rằng sự sống sanh ra bởi sự sống mà cũng
vừa xác nhận rằng tinh thần và sự sống sanh ra từ chỗ không có sự sống.
Khoa-học chỉ biết nội cái giới-hạn cha mẹ sanh ra con, nghĩa là trước phải có
sự sống của cha mẹ rồi sau mới có sự sống của con. Khoa-học chưa tìm ra cái
khởi thủy của sự sống.
Vài tôn-giáo khác cho rằng bản
chất của con người là linh-hồn sanh ra bởi Ông Trời. Cha mẹ chỉ giúp phần cấu
tạo cái bọc thô sơ bên ngoài cho linh-hồn mà thôi.
Theo Phật-Giáo thì chúng ta sanh
ra từ cái khuôn đúc (kammayoni) của các hành động của chúng ta, cha mẹ
chỉ cho ta cái nền tảng vật chất mà thôi. Như thế ấy thì trước phải có chúng
sanh (cha mẹ), rồi sau mới có chúng sanh (con). Lúc thọ thai, nghiệp tạo ra cái
thức đầu tiên, thức tái sanh, để dưỡng sanh thai bào. Năng lực vô hình của
nghiệp đã tạo ra trong kiếp quá khứ sanh ra một hiện tượng tinh thần kết hợp
hiện tượng sinh khí trong một hiện tượng thể xác đã sẵn có, để có đủ ba yếu tố
Thức, Sinh-Khí và Thai.
Chính ba yếu tố này tạo thành con người.
Nói đến quan niệm về chúng sanh,
Ðức Phật có thuyết trong bộ Kinh MAJJHIMA NIKAYA, quyển AHATANHAKHAYA,
số 38, như vầy: ở nơi nào Tam-Nguyên được cấu tạo chung thì mầm sống được gieo
trồng nơi ấy. Trong sự giao hợp của cha mẹ, nếu không nhằm lúc thọ thai của
người mẹ, và không có chúng sanh đầu thai (Gandhabba), thì mầm sống
không thể gieo trồng được. Nếu nhằm lúc thọ thai của người mẹ mà không có chúng
sanh đầu thai thì mầm sống cũng không gieo trồng được. Nếu nhằm lúc thọ thai
của người mẹ và chúng sanh đi đầu thai cũng có mặt trong lúc giao hợp, nếu hội
đủ ba nhân: tinh-trùng, noãn bào và thức, thì mầm sống được gieo trồng.
Danh từ Gandhabba hay Gantabba
không phải tên của Mụ Bà hay Ðức Thầy chi chi đó có phận sự bảo hộ thai
bào, theo sự tin tưởng của nhiều người. Ðây chỉ nói về một chúng sanh đủ điều kiện,
sẵn sàng đến thọ sanh trong bụng của một chúng sanh. Danh từ Gandhabba chỉ
dùng trong trường hợp đặc biệt này thôi, chớ nên lầm tưởng là một linh hồn bất diệt.
Nếu có một chúng sanh sắp thọ
sanh nơi đây, thì phải có một chúng sanh sắp chết ở một nơi nào khác. Sự sanh
của một chúng sanh, tức là sự kết hợp (Khandaman Patubhavo) hai cái hiện
tượng về tinh thần và vật lý, tương hợp với sự diệt của một chúng sanh trong
quá khứ, giống như sự xuất hiện của mặt trời vậy. Mặt trời mọc một nơi nào, có
nghĩa là mặt trời lặn một chốn khác. Muốn cho dễ hiểu hơn, chúng ta tưởng tượng
đời sống như một lượn sóng. Sanh và diệt là hai giai đoạn của sự diễn tiến sống
chết, chết sống. Sự liên tục tiếp nối mãi của sống chết, chết sống và nguồn
sinh lực của mỗi cá nhân, được gọi là Luân-Hồi (samsàra).
2. Ðâu là nguồn gốc tường tận của sự sống?
Ðức Phật đã nói rằng: Luân-Hồi
ở bên ngoài ranh giới cuối cùng của sự hiểu biết.
Chúng ta không thể biết được cái
khởi thủy của chúng sanh, vì vô-minh và phiền-não của lòng ham muốn làm lôi kéo
luân chuyển triền miên.
Triều lưu của sự sống cuộn chảy
mãi mãi, do các dòng nước nhơ đục của vô-minh và ái-dục bồi dưỡng không ngừng
nghỉ. Khi nào hai nhân này bị cắt đứt, thì triều lưu của sự sống mới ngưng chảy,
sự tái sanh sẽ chấm dứt, y như trường hợp của Chư Phật và Chư A-La-Hán. Khởi
thủy của triều lưu sự sống không thể biết được vì nó phát sanh do một mãnh lực
đầy vô-minh và ái-dục.
Nơi đây Ðức Phật chỉ nói về
triều lưu sơ khởi của sự sống loài người thôi và không đề cập đến những huyền
học hay đạo-lý nào có thể làm cho con người hoang mang, luôn cả những lý thuyết
không có tánh cách xây dựng hay giải thoát, nhứt là những nghiên cứu biện luận
về nguồn gốc và sự tiến triển của vũ trụ. Ðức Phật cũng không bắt buộc môn đệ Ngài
phải tin tưởng một cách mù quáng về những gì liên quan đến nhân khởi thủy. Ngài
đặc biệt chú trọng vấn đề Khổ và Diệt Khổ thôi, ngoài mục đích xác thực duy
nhứt ấy, Ngài không muốn đá động đến vấn đề nào khác.
3. Do đâu chúng ta tin có sự tái-sanh?
Ðức Phật là bậc thông suốt về
vấn đề Tái-Sanh. Chính trong đêm chứng đạo quả Niết-Bàn, trọn canh đầu, Ngài
dùng tuệ-giác rọi xem trở lại các đời dĩ vãng của Ngài, từ một, hai, ba đến
trăm ngàn muôn kiếp quá khứ. Trong canh hai, Ðức Phật dùng thiên nhãn, xem thấy
chúng sanh chết ở kiếp này, tái sanh lại kiếp khác, kẻ hèn người sang, kẻ đẹp
người xấu, kẻ được hạnh phúc, người bị khốn khổ, tùy theo hành vi của họ (Majjhima
Nikàya, Maha Accaka Sutta, 36)
Các đoạn kinh giải về thuyết
Tái-Sanh cho chúng ta biết rằng Ðức Phật không dựa vào một nguồn gốc nào đã sẵn
có để giải thích vấn đề ấy. Ngài chỉ nói theo nhận thức siêu phàm của chính
Ngài mà chúng ta cũng có thể đạt được nếu biết trau giồi đúng mức.
Trong kinh DHAMMAPÀDA (Pháp
Cú), Ðức Phật có nói: " Trải qua vô lượng kiếp Luân Hồi (Anekajàti),
Như Lai đã phải đi lạc đường, trong khi muốn tìm cho ra người thợ cất nhà này;
khốn khổ thay, Như Lai đã phải sanh đi, sanh lại triền miên (Dukkha jàti
puna punam) ".
Trong kinh DHAMMACAKKA SUTTA có
ghi lời giảng đầu tiên của Ðức Phật về cái chân lý thứ hai như vầy:
"Yàyam Tanhà
Ponobhavikà", nghiã là sự ham muốn quá-độ (Ái-Dục) đem lại sự
Tái-Sanh; và câu kết-luận:
"Ayamantimà jàti Natthidam
Punhabavo" , nghiã là kiếp này là kiếp sống cuối cùng của
Như-Lai.
Trong kinh Majjhima Nikàya
có ghi rằng vì lòng Từ-Bi Bác-Ái đối với chúng sanh, Ðức Phật thường rọi
thiên-nhãn tìm người hữu duyên để tế-độ. Ngài thấy chúng sanh đương tạo nhiều
tội lỗi có ảnh hưởng đến kiếp vị-lai của họ. (Paraloka Vajja Bhaya
Dassàvino).
Trong nhiều thời pháp, Ðức Phật
thường nói rằng chúng sanh nào làm dữ, sau khi chết (Parammarana) sẽ tái
sanh trong cảnh khổ; chúng sanh nào làm lành sẽ tái sanh trong cảnh vui.
Trong kinh GHANTIKARA SUTTA
, Ðức Phật thuật lại cho Ðại-đức ANANDA biết rằng vào thời-kỳ Phật-Tổ KASSAPA
(Ca-Diếp), Ngài sanh làm một vị Bà-La-Môn, tên Jotipãla , thông suốt ba bộ kinh
Phệ-Ðà. Khi vào xuất-gia theo Phật-Tổ KASSAPA, Ngài siêng năng thọ trì
Tam-Học, thuộc nằm lòng trọn bộ Tam-Tạng, và được Phật-Tổ KASSAPA thọ ký.
Trong kinh ANÀTHAPINDIKAVADA
SUTTA có ghi truyện nhà trưởng giả Cấp-Cô-Ðộc, sau khi chết liền tái sanh
vào cảnh Trời, có về viếng thăm Ðức Phật trong đêm sau.
Trong kinh Anguttara Nikàya
, Ðức Phật có nói đến kiếp quá khứ của Ngài, khi Ngài sanh lên làm PACETANA.
Trong kinh PARANIBBÀNA SUTTA,
Ðại đức ANANDA có xin Ðức Phật cho biết kiếp vị-lai của vài người vừa chết
trong làng nọ. Ðức Phật đã cắt nghiã rõ rệt cho Ngài ÀNANDA biết những người
ấy đã đi tái-sanh nơi đâu.
Còn rất nhiều sự tích trong
Tam-tạng chỉ cho mọi người biết rằng Ðức Phật đã xác-nhận sự Tái-Sanh là một sự
thật không thể chối cãi được.
Thực hành đúng theo giáo-lý của
Ðức Phật, các đệ-tử Ngài có thể mở mang sự hiểu biết về quá-khứ và có thể biết
ít nhiều về tiền kiếp của họ. Riêng về Ðức Phật , Ngài thấu rõ vô số kiếp quá
khứ của Ngài.
Trước thời Ðức Phật ra đời, một
số người Ấn-độ Rishis được nổi tiếng nhờ họ có thần thông về thiên-nhãn,
thiên-nhĩ, thần giao cách cảm, viên giác, v.v....
Mặc dầu khoa học chưa tiến tới
mức ấy, nhưng trong Phật-Giáo, người ta có thể đạt được các pháp thần-thông
bằng cách chuyên tu về thiền-định, minh-sát. Năng-lực thiền định không xuyên
qua ngũ căn, có thể đem lại sự giao cảm bằng tư-tưởng và tri giác với các cảnh
giới khác.
Cũng có nhiều người khác thường,
nhất là các trẻ em, do luật phối hợp bất ngờ, sực nhớ lại kiếp quá khứ, hoặc
vài chi-tiết về đời trước của họ. Các trường hợp ít có này, đủ làm cho người học-giả
tin nơi kiếp quá-khứ. Người ta thuật lại rằng ông PYTHAGORE đã nhớ lại tường
tận một cái thuẫn trong một đền thờ Hy-Lạp, là vật mà ông đã dùng trong một tiền
kiếp lúc vây hãm thành TROIE.
Do thí-nghiệm của các nhà
tâm-linh-học, những hiện tượng ma quỉ, những giao cảm tư tưởng giữa hai cảnh âm
dương, những thiên tư khác thường đã đem lại ít nhiều sáng tỏ trong vấn đề
Tái-Sanh.
Có lúc tình cờ, chúng ta gặp
những người xa lạ, mà chúng ta lại có cảm giác như quen biết họ từ lâu. Ðôi khi
trước những cảnh vật xa lạ, thình lình chúng ta có cảm tưởng đã quen thuộc với cảnh
vật ấy. Những sự khêu gợi bất ngờ này không ngoài chứng tích đã kinh nghiệm
trong thời gian quá khứ.
Sự thông suốt mọi lẽ của các bậc
Siêu Phàm, các bậc Toàn Giác như Ðức Phật chẳng phải là chuyện phi thường tình
cờ, cũng chẳng phải là kết quả của những kinh nghiệm trong một kiếp sống mà
thôi.
Ngoài các lý do kể trên, chúng
ta không thể giải thích cách nào về thiên tài xuất chúng của các ông Homère, Platon,
Shakespeare, của những thần đồng như Pascal, Mozart, Beethoven, v.v ...
Vài bác-sĩ cho rằng sự thông
minh của các thần đồng là kết quả của những hạch tuyến khác thường, nhứt là
hạch màng mũi, tùng quả tuyến và thận tuyến.
Nếu không tin sự giải thích theo
nghiệp quả mà chỉ căn cứ nơi sự phát triển khác thường của các thứ hạch nói
trên, thì không biết khoa học giải thích thế nào về trường hợp của ông
Christian Heinecken. Vài giờ sau khi ông ra đời, ông đã nói chuyện được; khi
ông được một tuổi, ông trả thuộc lòng vài đoạn Thánh-Giáo trong cuốn
Sấm-truyền; đến hai tuổi, ông trả lời tất cả những câu hỏi về địa-dư; đến ba
tuổi, ông nói tiếng Pháp, tiếng La-tinh; đến bốn tuổi, ông có thể theo học các
lớp triết-học.
Ông Stuart Mill vừa ba tuổi đã
đọc chữ Hy-lạp. Ông Macaulay, lúc sáu tuổi, viết sử-ký thế-giới. Ông William
James Sidis vừa mới lên hai đã đọc và viết chữ mẹ đẻ (Hoa Kỳ), đến tám tuổi đã
nói các thứ tiếng Pháp, Nga, Anh, Ðức và chút ít tiếng La-tinh và Hy-lạp.
Khoa học không thể giải thích
tại sao các hạch tuyến chỉ phát triển trong một vài người, mà không trổ sanh
cho tất cả. Vấn đề chánh này không thể giải quyết được. Cũng không thể đổ cho sự
di-truyền, bởi các thần đồng nói trên không phải người thừa hưởng nơi ông cha
và cũng không thể nối truyền lại cho con cháu được. Cũng không thể nói rằng
những kết quả tốt đẹp ấy do nơi công trình thu thập trong thời gian đôi ba chục
năm, trong đời sống hiện tại ngắn ngủi này. Mà đó là bao nhiêu cố gắng, tập sự
trong nhiều kiếp người, để tiến lần hồi đến sự tận-thiện, tận-mỹ trong những
kiếp sau.
Nếu ta tin tưởng nơi hiện tại và
vị lai, lẽ tất nhiên ta không thể không nhìn nhận có quá khứ. Và nếu có đủ lý
lẽ cho ta tin rằng ta đã có sống trong quá khứ, thì không lý do nào ta không
tin rằng ta sẽ còn phải sống trong vị-lai sau khi hiện tại này chấm dứt.
4. Nghiệp-báo và tái-sanh biện minh những chi?
1) Vấn đề khổ mà chính ta phải
chịu trách-nhiệm;
2) Sự chênh lệch gần như bất
công giữa nhân loại;
3) Tại sao có những vĩ nhân và
thần đồng;
4) Sự khác nhau về tinh-thần
tính nết của hai trẻ sanh đôi, mặc dầu giống nhau y hệt về thể xác và được nuôi
dưỡng y như nhau;
5) Sự khác nhau về tánh-tình, xu-hướng
của các trẻ trong một gia-đình;
6) Sự khác nhau về đạo-đức và
trí-huệ giữa cha mẹ và con cái;
7) Tật xấu tự nhiên của trẻ thơ,
như tham lam, sân hận và ganh ghét;
8) Mối thiện cảm hoặc ác cảm của
chúng sanh đối với nhau trong khi gặp gỡ lần đầu-tiên;
9) Ðiều lành và điều dữ đã sẵn
có trong mỗi người;
10) Sự thay đổi bất ngờ của một
người thiện trí thức ra một kẻ tầm thường, hoặc một kẻ sát nhân thành bực
thánh-nhân;
11) Cha mẹ đạo-đức sanh con hung
ác, cha mẹ hung ác sanh con hiền từ;
12) Tại sao có khi ta là kết quả
của hành vi quá khứ và sẽ là kết quả của hành vi hiện tại, hoặc có khi ta không
phải là kết quả hoàn toàn của hành vi quá khứ, mà cũng sẽ không phải là kết quả
nguyên vẹn của hành vi hiện tại;
13) Tại sao có những cái chết
bất đắc kỳ tử và sự thay đổi tài sản sự nghiệp một cách bất ngờ;
14) Những đặc tính xuất chúng,
tinh thần đạo đức trí tuệ viên mãn của các bậc toàn giác như Ðức Phật.
5. Triều-lưu diễn tiến của sự tái-sanh
Bài pháp PATICCA SAMUPPÀDA
đã giải thích đầy đủ cách diễn tiến của sự Tái-Sanh. Paticca nghĩa là do
nơi hay vì lẽ. Samuppàda nghĩa là phát sanh hay nguồn gốc. Paticca
Samuppàda là "sự phát sanh tùy thuộc" hay "nguồn gốc liên
quan" hay "nhân quả tương quan".
Pháp Paticca Samuppàda chỉ
giải thích về sanh-tử-khổ và không đề cập đến sự tiến triển vũ trụ từ thể chất
nguyên thủy, cùng những bí ẩn về nguồn gốc tuyệt đối của sự sống.
Vô-Minh (Avijjà) là không
hiểu biết thật tướng của sự vật, là mối dây đầu tiên, hay là nhân khởi thủy của
bánh xe luân-hồi. Nó che đậy tất cả sự hiểu biết chân chánh.
Do nơi Vô-Minh mới phát sanh
hành vi tạo-tác (Sankhàrà), gồm cả tư-tưởng, lời nói và việc làm, lành
dữ. Các hành-động phát khởi từ Vô-Minh hay nhuộm mầu sắc Vô-Minh, sớm muộn sẽ
đem lại kết quả để cột trói ta trong vòng luân-hồi. Những việc lành dầu không
do lòng tham sân si, cũng phải dứt tuyệt bợn nhơ, mới mong giải thoát luân-hồi.
Vì thế nên Ðức Phật ví Pháp-Bảo của Ngài như con thuyền bát-nhã chở đưa khách
lữ-hành qua khỏi sông mê biển khổ.
Hành động của Chư Phật và Chư
A-La-Hán không được coi như là Sankhàrà , vì nó không bị Vô-Minh chi
phối.
Do nơi Hành mới phát sanh cái
Thức (Patisandi Vinnàna). Người ta gọi là thức Tái-Sanh vì nó nối liền
quá khứ với hiện tại. Chính nó đã phát sanh trong lúc thọ thai.
Danh Sắc hay Tinh-Thần và Vật-Chất
(Nàma-Rùpa) cũng đồng thời phát sanh một lượt với cái Thức.
Lục Căn (Salàyatana) phát
sanh do hiện tượng thuộc về tinh thần vật lý.
Do Lục Căn mà có sự Tiếp Xúc (Phassa).
Sự Tiếp Xúc đem lại cảm giác,
tức là Thọ (Vedanà).
Do sự cảm giác mới phát sanh sự
ham muốn ái Dục (Tanhà).
Ham muốn sinh ra sự bám víu, tức
là Thủ (Upàdàna).
Thủ gây ra Nghiệp Quả, tức là
Hữu (Bhava).
Nghiệp Quả gây ra kiếp vị lai ,
tức là SANH (Jàti)
Già và chết (Jàti-marana)
là kết quả không tránh được của sự Sanh.
Do một nhân có một quả phát
sanh. Nhân dứt thì quả cũng dứt. Muốn dễ hiểu nên diễn ngược lại pháp PATICCA
SAMUPPÀDA.
Sự già và chết chỉ có thể có
được trong một bộ máy có lục căn, gọi là thân thể. Thân thể ấy có do nơi sự
Sanh. Sự Sanh sản lại là cái quả của những hành vi quá khứ. Hành vi được sanh
ra bởi sự bám víu, đã phát sanh do sự Tham Muốn. Những Tham Muốn có do nơi cảm
giác. Cảm giác có do sự Tiếp Xúc giữa Giác quan và Sự vật. Giác quan này có
không ngoài tâm và thân thể. Thân Tâm lại phát sanh do nơi Thức. Thức phát sanh
do nơi không hiểu biết tánh chất thiệt thọ của sự vật.
Sự diễn tiến của Sống và Chết cứ
xảy ra mãi mãi không cùng tận. Manh mối đầu tiên của sự diễn tiến ấy không thể
biết được; cũng như ta không thể biết đến lúc nào sự tiến triển ấy hết bị Vô
Minh chi phối. Chừng nào sự mê lầm của ta đuợc thay thế bằng sự sáng suốt thấu
rõ Niết Bàn; chừng ấy sự diễn tiến của Tái Sanh mới chấm dứt.
6. Hình thức của sanh-tử
Dùng những danh từ riêng biệt
tinh tế giải thích sơ lược diễn tiến của sự Tái Sanh, Phật Giáo cho rằng cái
chết là do một trong bốn nguyên nhân sau đây:
1) Tận Nghiệp (Kammakhaya):
sự suy kiệt năng lực tái tạo của Nghiệp (hết Nghiệp). Theo Phật Giáo, cái tư
tưởng, tác ý hoặc ái dục, là một năng lực vô cùng mạnh mẽ trong lúc sinh thời;
đến lúc chết, năng lực lại còn mạnh hơn muôn phần. Chính tư tưởng cuối cùng ấy
định đoạt điều kiện cho kiếp sống vị lai. Ðến lúc lâm chung, tư tưởng biểu xuất
một tiềm lực đặc biệt. Khi tiềm lực của Tận Nghiệp này (của kiếp hiện tại) tắt
mất, thì những hoạt động của cơ thể và nguồn sinh khí liền chấm dứt trước phút
cuối cùng ấy. Ðiều này thường xảy đến cho những chúng sanh trong cảnh khổ (Apàya),
nhưng cũng có khi xảy đến cho những người thuộc cảnh giới khác.
2) Mãn Kỳ Hạn của Kiếp Sống (Àyukhaya),
kỳ hạn này khác nhau tùy cảnh giới, như trường hợp của người chết vì tuổi già, hết
tuổi thọ.
3) Năng lực tái tạo của Nghiệp
và kỳ hạn kiếp Sống đồng chấm dứt một lượt (Ubhayakhaya), vừa hết
nghiệp, vừa hết tuổi thọ.
4) Sự phát động đối ứng c?a một
nghiệp lực khác mạnh hơn, làm cắt đứt thình lình triều lưu của nghiệp Tái tạo,
trước kỳ hạn của kiếp Sóng. Chết bất đắc kỳ tử hay chết yểu đều do nhân này.
Chết do ba nhân đầu, thường gọi
chung là chết hợp thời (Kàlamarana). Chết do nhân thứ tư gọi là chết
không hợp thời (Akàlamarana).
Tử có bốn nhân, Sanh cũng có bốn
cách:
1) Sanh từ trong trứng (Andaja:
noãn sanh);
2) Sanh từ trong thai (Jalapuja:
thai sanh);
3) Sanh từ chỗ ẩm thấp
(Samsadeja: thấp sanh);
4) Sanh từ sự đột biến (Upapatika:
hóa sanh).
Những ấu trùng lấy nơi ẩm thấp
làm tổ để nảy nở, như nhiều loại vi sinh vật gọi là thấp sanh. Những chúng sanh
tự hóa sanh, thường mắt phàm tục không nhìn thấy được. Do điều kiện của nghiệp quá
khứ, chúng sanh ấy tự nhiên xuất hiện, không phải đi ngang qua giai đoạn phát
triển trong phôi thai. Hạng chúng sanh như Ngạ Quỉ (Preta), Trời (Deva)
và Phạm Thiên (Brahma) đều thuộc giới hóa sanh.
-ooOoo-
7. Sự tái-sanh xuất hiện cách nào?
Ví dụ như một người sắp chết.
Giai đoạn nguy biến này chẳng khác nào những sự giao động chập chờn của một
ngọn đèn sắp tắt. Trong tâm người hấp hối này đã hiện ra một nghiệp tướng (Kamma
nimitta) hoặc một biểu tượng thọ mạng (Gati nimitta). Những hiện
tượng nghiệp này phát sanh do hành động tốt xấu trong lúc sanh tiền, hoặc tức
khắc trước giờ cuối cùng.
Nghiệp tướng (Kamma nimitta)
là những biểu tượng xuất hiện trong tâm thức của người hấp hối, hoặc bằng sự
thấy, bằng tiếng, bằng vị, bằng tư tưởng, mà trước kia nó là chủ yếu mạnh nhứt,
trong một hành động lành hoặc dữ của người sắp chết; ví như thấy một con dao và
những thú chết trong trường hợp anh đồ tể; hoặc là thấy bịnh nhân, nếu là một
vị y sĩ dễ thương; hoặc là thấy vật sùng bái, nếu là một người mộ đạo,...
Biểu tượng thọ mạng (gati
nimitta) có nghiã là một dấu hiệu của cảnh giới sắp tái sanh vào. Những
cảnh tượng hạnh phúc hay khổ não thường hay biểu hiện trên sắc diện của người hấp
hối. Khi triệu chứng của kiếp vị lai phát sanh, nếu thấy xấu có thể sửa chữa
kịp thời, bằng ảnh hưởng cảm hóa tư tưởng của người sắp chết. Dấu hiệu báo trước
những điều sẽ đến cho thọ mạng thường là lửa, rừng núi, vú mẹ, thiên cung,
v.v...
Theo Phật Giáo cái chết là sự
đình chỉ của đời sống tinh thần vật lý của một cá nhân. Chết phát sanh bởi sự
diệt tắt của tuổi thọ (àyu), mạng căn (Jivitindriya), chất hỏa (Usma)
và tâm thức (Vinnàna).
Cái chết chẳng phải là sự tiêu
diệt hoàn toàn của một chúng sanh, bởi mặc dầu chập sống cuối cùng đã chấm dứt,
nhưng năng lực thúc đảy chập sống ấy vẫn còn nguyên vẹn. Cũng như ánh sáng đèn
điện là cái biểu hiện bề ngoài của điện lực vô hình . Bóng đèn có thể bể, ánh
sáng có thể tắt, nhưng luồng điện vẫn còn, và ánh sáng có thể xuất hiện lại
trong một bóng đèn khác.
Cũng như thế ấy, năng lực của
nghiệp không bị lay chuyển bởi sự tan rã của xác thân. Cái thức hiện tại khuất
đi, để nhường chỗ cho một thức tươi tắn mới mẻ sanh lên trong một đời sống khác.
Tuy nhiên, không có cái chi gọi là bất di bất dịch, như một thực thể đơn thuần,
trường tồn bất biến (hiểu như một linh hồn), chuyển tiếp từ kiếp hiện tại qua
kiếp vị lai. Vành tròn bánh xe chấm trên mặt đất từng điểm một như thế nào, thì
đúng vậy, chúng ta sống cũng từng chập một, như thế ấy. Chúng ta luôn luôn ở trong
hiện tại, và hiện tại ấy luôn luôn nó trợt về quá khứ, không trở lại nữa.
Mỗi chập tâm thức của triều lưu
sinh hóa thay đổi, tiêu tán, chuyển năng lực và mọi kinh nghiệm một cách không
phai lạc cho chập tâm thức kế tiếp. Vì đó mà mỗi chập tâm thức hiện tại, chẳng
những gồm cả năng lực tiềm tàng của các chập tâm quá khứ, lại còn thêm những gì
khác nữa. Ðến lúc chết, tâm thức diệt, cũng như nó diệt từng chập, để cho một
tâm thức mới khác sanh lên. Tâm thức đổi mới ấy thọ hưởng cả một gia tài kinh
nghiệm quá khứ. Những kỷ niệm ghi nhận sâu xa trong tâm thức thay đổi liên tiếp,
những tiềm lực chuyển sang từ chập sống này qua chập sống khác, không liên hệ
đến sự tan rã nhứt thời của phần vật chất, nên người ta có thể sực nhớ lại những
tiền kiếp hoặc các điều đã xảy ra trong quá khứ. Nếu sự ghi nhớ chỉ tùy thuộc
nơi tế bào của bộ óc, thì không có sự hồi ức về quá khứ được.
Tính chất liên tục của nguồn
sống, đến lúc lâm chung, bị gián đoạn trong thời gian, nhưng triều lưu của tâm
chẳng bao giờ bị ngưng trệ. Một tư tưởng này chuyển sang một tư tưởng khác, trong
giờ sống cũng như trong lúc chết, vẫn in nhau; có khác là tại người nhìn vào
xác chết mà tưởng tượng rằng khác đó thôi.
Sự tái sanh xuất hiện tức khắc,
bất kể chỗ nào, như một làn sóng điện được phát ra trong không gian, tức khắc
được thâu vào một máy vô tuyến điện.
Triều lưu của tâm cũng được tái
sanh tức khắc khỏi phải trải qua một giai đoạn trung gian nào khác (Antarabhava).
Phật Giáo chính tông không công
nhận rằng tâm thức của người quá vãng phải tạm trú một nơi nào, để chờ lựa chỗ
đi luân hồi.
Bác sĩ Evens Wentz, chiếu theo
tài liệu khảo cứu ở Tây Tạng, có viết rằng có một cảnh trạng trung gian cho
chúng sanh tạm trú từ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 tuần (49 ngày); lập trường tạm trú
này trái hẳn với giáo lý của Ðức Phật.
Có một điều đáng hỏi: Vậy chớ
tinh trùng và minh châu có sẵn sàng chờ đợi để tiếp rước cái tư tưởng đi tái
sanh ấy chăng?
Theo Phật Giáo, chúng sanh nhiều
vô lượng. Hơn nữa hột minh châu chẳng phải là con đường duy nhứt đem lại sự tái
sanh. Quả Ðịa Cầu, một điểm vi tế trong sa-bà thế giới, chẳng phải là chỗ sanh
sản duy nhứt, mà loài người cũng không phải là loài chúng sanh duy nhứt, thì
cũng có thể tin rằng không còn chỗ nào thích hợp để rước những làn sóng dao
động cuối cùng của nguồn tư tưởng. Một điểm nào chẳng hạn, luôn luôn chực rước
một viên đá từ không trung rớt xuống.
8. Cái gì đi tái sanh?
Nếu không phải là một linh hồn
hay cái gì tương tự di chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, thì cái gì
đi tái sanh?
Trước hết, học thuyết Phật Giáo
về luân hồi khác biệt với những giáo thuyết khác về Tái Sanh, hay chuyển di
linh hồn, bởi vì Phật Giáo không chấp nhận sự hiện hữu của một linh hồn bất
biến, bất diệt. Một linh hồn bất diệt nhất thiết phải không bao giờ thay đổi,
cho dù xảy ra như thế nào. Ðể biện minh cho một đời sống tột độ hạnh phúc trên
một thiên đàng trường cữu, hoặc một khổ hình vô tận, trong một địa ngục vỉnh
viễn, một linh hồn bất di bất dịch là cần thiết, nếu không như vậy thì cái gì làm
tội trên trần gian để phải chịu đền tội nơi âm ty?
Phật Giáo phủ nhận một bản thể
trường tồn như thế.
Với tất cả sự thật, người Phật
Tử không hình dung được sự hiện hữu của một linh hồn bất biến hay ngay cả một
chúng sanh bất biến, cho dù chúng sanh này xuất hiện dưới hình thức trời, người
hay thú vật. Những hình thái này chỉ là thể hiện của nghiệp lực. Quan niệm cá
thể chỉ có ích cho những nhu cầu qui ước, nhưng trên thực tế cùng tột, nó chỉ
là một hợp thể của tinh thần và vật chất.
Trong quyển "Tôn Giáo và
Khoa Học", ông Bertrand RUSSEL có viết: Người ta phải nói rằng sự phân
biệt cũ kỹ giữa linh hồn và thể xác đã tan ra mây khói rồi; vì vật chất đã mất cả
thể tích của nó, cũng như linh hồn đã mất cả tính linh của nó rồi. Tâm lý học
chỉ mới bắt đầu là một môn khoa học. Trong tình trạng hiện hữu của tâm lý học, sự
tin tưởng về tính cách trường cữu của linh hồn không thể đòi hỏi cho khoa học
tán trợ phần nào được.
Tác giả uyên bác của quyển
"The Riddle of the Universe" (Sự bí ẩn của vủ trụ) có viết:
"Biện chứng của thần linh học cho rằng ngôi tạo hoá đã thổi vào cho con
người một linh hồn bất diệt" là chuyện thần thoại.
Vũ trụ học cho rằng: "Tinh
thần giới của thế gian bắt buộc linh hồn con người phải trường tồn" là một
giáo điều vô căn cứ.
Ðạo đức học cho rằng: "Tật
xấu và lòng tham nào chưa được toại nguyện trong đời sống dương thế phải được
bù đắp do một luật công bình của bờ bên kia cảnh giới trường tồn"; điều ấy
chỉ là sự mong ước cuồng nhiệt thôi.
Nhân chủng học cho rằng:
"Sự tin tưởng nơi tính chất bất diệt, cũng như nơi Tạo Hóa, là một chân lý
cố hưũ của nhân loại" là một sự sai lầm hiển nhiên.
Bản thể học lý luận: "Cho
rằng linh hồn là một thực thể vô hình và không phân chia ra được, không bao giờ
bị dính mắc trong sự hư hoại của cái chết"; điều này căn cứ trên một quan
niệm sai lạc về tâm linh, tức là một ảo mộng của Duy thần luận thôi.
Tất cả những biện chứng trên
đây, cũng như tất cả những giả thuyết tương tự, về bản Ngã đều bị loại bỏ do sự
chỉ trích của khoa học từ mười năm vừa qua.
Ông HUME, bằng phương pháp nội
quán tâm linh, thấy rằng ở đây không có cái gì khác hơn là những trạng thái tâm
thoáng qua, và đi đến kết luận: "Cái Ngã trường cữu lâu nay không có thật".
Trong quyển "Sưu tầm linh hồn", ông viết: "Có những triết gia
quan niệm rằng ở mọi lúc chúng ta ý thức được cái mà ta gọi là "Ngã",
ta cảm nhận sự hiện hữu và liên tục của nó, và chúng ta biết chắc tính cách vừa
liên tục vừa độc nhất của nó". "Riêng tôi, khi tôi thâm nhập mật
thiết vào cái gọi là "Bản Ngã" của tôi, tôi đều vấp phải vào một tri
giác (perception) này hoặc một tri giác khác, như nóng hay lạnh, sáng hay tối,
thương hay ghét, đau khổ hoặc sung sướng. Tôi chưa bao giờ bắt gặp được cái
'Tôi' và chưa quan sát thấy cái gì khác hơn là những tri giác; tôi thấy nhất thiết
không cần có cái gì khác để tạo cái 'Bản Ngã' này thành một vô thể
(non-identité) hoàn toàn.
BERGON viết: "Mọi tâm thức
đều hiện hữu trong một thời gian và một trạng thái tâm không phải tồn tại lâu
dài. Nó biến đổi không ngừng; trạng thái này dứt thì nó chấm dứt, nó chính là
sự biến đ?i không sai".
Nghiên cứu về vấn đề linh hồn,
Giáo sư William JAMES có viết: "Lý thuyết về linh hồn hoàn toàn vô ích,
nhất là qua những dự kiện hiện nay đã được kiểm chứng bởi những thí nghiệm về tâm
thức. Không ai có thể dẫn tới sự thừa nhận linh hồn bằng những lý lẻ khoa học
chân xác. Cái 'Tôi' này là một vật kết hợp qua chiêm nghiệm của những sự vật đã
được biết một cách khách quan. Cái 'chủ thể' chiêm nghiệm này không thể là
chính nó, cũng không thể là vật kết hợp trên, cũng không thể được coi như là
một thực thể siêu hình không biến đổi như Linh Hồn hay một nguyên lý Bản Ngã
thuần khiết hiện hữu vượt thời gian. Nó là một tư tưởng, khác biệt ở mỗi chập
với cái tư tưởng ở trước đó, nhưng vẫn thuộc về cái tư tưởng này, đồng thời có
mặt với tất cả những gì mà tư tưởng này gọi là cái 'Tôi'.
Ðể kết luận cho cái chương quan
trọng này về linh hồn, ông viết: "Trong quyển sách này, giải đáp tạm thời
mà chúng tôi đã tìm ra, được diễn tả như sau: tư tưởng chính là kẻ tư
duy".
Ðức Phật đã thuyết minh những
điều ấy, 2500 năm về trước, trong lúc Ngài châu du trong lưu vực Sông Hằng.
Phật giáo giảng dạy một loại tâm
lý học không có linh hồn, cho rằng con người được cấu tạo do hai thanh phần:
tinh thần và vật chất (Nàma và Rùpa). Hai thành phần này ở trong trạng
thái một triều lưu thay đổi không ngừng nghỉ:
* Thành phần vật chất (Sắc - Rùpa)
là sự thể hiện của năng lực và các dạng năng lượng không ngừng biến đổi và
tác động lẩn nhau. Sắc được qui định (chi phối) bởi 4 yếu tố:
1) Nghiệp (Kamma), tức là
năng lực của những hành động trong quá khứ;
2) Tâm (Citta), tức là
những phẩm chất và tác động của tinh thần;
3) Nhiệt năng (Utu), tức
là sự biến đổi vật lý của yếu tố nhiệt lượng;
4) Chất dinh dưỡng (Ahara),
là yếu tố dinh dưỡng của thức ăn.
* Thành phần tinh thần (Danh - Nàma)
là phần quan trọng nhất của bộ máy con người, gồm có:
1) Thọ hay cảm giác (vedanà);
2) Tưởng hay tri giác (sannà);
3) Hành (Sankhàrà) là sự
phối hợp của 50 tâm trạng, tạo thành những sinh hoạt tâm có tác ý;
4) Những trạng thái tinh thần
này diễn ra trong ý thức trường, được gọi là thức (vinnàửa). Bốn loại
hiện tượng tinh thần ấy, phối hợp với hiện tượng vật chất ở trên, tạo ra năm
uẩn (Pancakkhandha).
Con người chính là vật cấu hợp
phức tạp ấy.
Mỗi đơn vị tâm xuất hiện dưới 3
dạng thái: sinh (uppàda), trụ (thiti), và diệt (bhaởga).
Khi một đơn vị tâm diệt, một đơn vị khác sanh lên. Ðơn vị tâm sau chắc chắn
không giống với đơn vị tâm trước - vì cấu tạo của nó đã khác - nhưng cũng không
hẳn hoàn toàn khác biệt, bởi vì nó thể hiện sự liên tục của dòng nghiệp lực.
Không nên lầm lẫn nghĩ rằng tâm
thức bị cắt ra từng mảnh ráp nối lại với nhau như một xe lửa hay một dây xích.
Trái lại, nó trôi chảy một cách liên tục như một giòng sông vừa tiếp nhận những
nhánh suối phụ thuộc của các giác quan, làm tăng trưởng liên tục giòng nước,
đồng thời phân phối ra thế giới bên ngoài những "chất liệu tư tưởng" mà
nó đã tích tụ được. Nó có sự sanh làm khởi điểm và chết làm cuối điểm. Sự chớp
nhoáng của luồng tâm thức rất khó mà đo lường xác đáng được, cho dù chỉ phóng
lượng. Các nhà chú giải dám tuyên bố là một chập tâm ngắn hơn một phần tỉ của
sấm chớp.
Tóm lại, chúng ta có sự kế tiếp
của nhiều trạng thái tâm thoáng qua, khác với sự chồng chất những trạng thái
tâm này, như nhiều người vẫn tưởng. Một trạng thái tâm, khi đã qua đi, sẽ không
trở lại và sẽ không bao giờ hoàn toàn giống với trạng thái tâm trước. những
trạng thái tâm này thay đổi liên tục và không bao giờ giống nhau ở hai thời
điểm kế tiếp. Nhưng đối với chúng ta đang sống trong một thế giới mà sự nhận
thức bị che án bởi màn vô minh, chúng ta tưởng rằng sự liên tục bề ngoài như là
cái gì trường cữu trong cái tâm thức luôn luôn chuyển dịch này, và chúng ta suy
diễn thành một linh hồn bất diệt, một Bản Ngã vừa chủ động và vừa thu nhận tất
cả những hành động.
"Cái mà chúng ta gọi là
'Bản Ngã', giống như một vật sáng hình thành bởi nhiều đốm sáng liên tục tiếp
nối một cách thật nhanh, đến nỗi mắt con người không có khả năng phân biệt
thành từng đốm riêng biệt" (Dahlke). Chúng ta nhìn biển cả như một
khối nước khổng lồ, nhưng khối nước ấy được cấu tạo bởi vô lượng giọt nước. Bãi
biển được hợp thành bởi muôn vàn hạt cát, nhưng nó xuất hiện như một bãi mênh
mông đồng nhất. Các đợt sóng dâng lên và vỗ tan vào bờ. Nhưng không có một đợt
đơn lẻ nào sanh ra ở đầu ngọn và chết đi ở trên bờ. Trong phim ảnh hoạt họa,
chúng ta thấy những màn họat động, nhưng nó là kết quả của nhiều hình ảnh bất
động xếp lại với nhau.
Cũng như thế ấy, không có một
linh hồn trường cữu nằm bên trong sự vật qui ước được gọi là "Bản
Ngã", mà thực tế chỉ là sự kết hợp của Ngủ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức).
Chúng ta không thể nói mùi hương của một cái hoa nằm trong cánh hoa, hoặc trong
nhụy hoa, hay trong màu hoa, nó nằm trong toàn thể cái hoa. Tương tự như thế,
một cá thể được qui định bởi sự phối hợp của năm thành phần nói trên. Tuy
nhiên, nếu chúng ta hiểu rõ rằng chữ "Bản Ngã" chỉ định cái diễn tiến
hiện tượng tâm vật lý không ngừng sanh diệt ấy, thì không có cái gì trở ngại
khi xử dụng danh từ này. Chính Ðức Phật đôi khi cũng dùng chữ "Ngã"
để chỉ định hợp thể các "Ngũ Uẩn".
Phật Giáo không hoàn toàn chối
bỏ sự hiện hữu của một "Cá Thể", trong ý nghĩa thuần lý. Phật giáo
muốn chứng minh cá thể này không có trong thực tế. Danh từ triết học Phật Giáo dùng
để chỉ định một cá thể là (santati), có nghĩa đen là: giòng, luồng, hoặc
sự liên tục. Nó bao hàm vừa những yếu tố tinh thần, những yếu tố vật chất, vừa nghiệp
lực của mỗi cá thể liên kết các yếu tố lại với nhau. Cái giòng liên tục này,
hoặc sự liên tục của các hiện tượng tâm sinh lý này, bị chi phối bởi cái Nghiệp,
không chỉ giới hạn duy nhất trong kiếp sống này; nó bắt nguồn từ một quá khứ vô
thủy (sans commencement) và tiếp tục trong một tương lai vô chung (nếu
chưa được giải thoát); cái "giòng liên tục" này của Phật Giáo, các tôn
giáo khác gọi là "bản ngã trường cữu" hay "linh hồn bất diệt".
Chính cái giáo lý Vô Ngã, Vô
Linh Hồn (Anattà) là đặc thù chính yếu của Phật Giáo.
Làm sao sự tái sanh có thể xảy
ra được nếu không có sự hiện hữu của linh hồn?
Ðối với Phật Giáo, sanh là sự thể
hiện, sự xuất hiện của năm thành phần (Ngũ Uẩn) tạo thành một "cá
thể". Cũng giống như sự xuất hiện của trạng thái vật lý được chi phối bởi
trạng thái vật lý trước đó, tạo điều kiện cho nó; thì sự xuất hiện của tiến
trình tâm - vật lý của một cá thể - được điều kiện hóa bởi những nhân duyên xảy
ra trước sự sanh. Tiến trình "hình thành" hiện tại là kết quả của một
ước muốn "hình thành" trong kiếp quá khứ và ước muốn "hình
thành" hiện tại sẽ tạo điều kiện cho một đời sống trong kiếp vị lai.
Cũng như tiến trình sống có thể
xảy ra, không cần có một cái gì trường cữu chuyển di từ một chập tư tưởng này
sang một chập tư tưởng khác, thì một loạt liên tiếp những tiến trình sống có
thể xảy ra, không cần có một linh hồn chuyển sanh từ kiếp này sang kiếp khác.
Thí dụ: chúng ta có một lô hòn
bi đặt liền nhau, nếu chúng ta tống một lực thật mạnh vào hòn bi đầu tiên bất
động; nó cũng sẽ ở bất động, nhưng cái lực mà nó đã nhận được sẽ được truyền
cho những hòn bi khác và hòn bi cuối cùng sẽ chuyển động. Không phải hòn bi đầu
tiên chuyển di vào những hòn bi khác, nhưng cái sức đẩy đã xuyên thấu và tác động
trên hòn bi cuối cùng.
Cũng như thế ấy, một chúng sanh,
khi chết, chuyển giao nghiệp lực của nó cho một chúng sanh khác, và chúng sanh
mới này bị chi phối bởi nghiệp của kẻ đi trước.
9. Có người nào tạo tác trong đời này, và một người
khác phải gặt quả trong kiếp sống sau chăng?
Nói rằng "người nào gieo
thì người đó gặt" là một điều cực đoan. Nói rằng "người này gieo mà
người khác gặt" là một cực đoan khác.
Vượt khỏi hai cực đoan ấy, Ðức
Phật dạy giáo lý Trung Ðạo, từ nhân đi tới quả; không phải một người, mà cũng
không phải người khác (Nacasonaca Anno), giống như lời Ðại Ðức BUDDHAGOSA
trong quyển "Thanh Tịnh Ðạo". Sự sanh sản của loài bướm có thể làm
thí dụ rõ rệt: nó sanh ra khởi đầu từ trong một cái trứng, rồi trở thành con
sâu, sau lại thành con nhộng và cuối cùng, ngẫu nhiên, thành con bướm. Sự tiến
triển của một chúng sanh, trong đời sống, cũng mường tượng như thế ấy. Con bướm
không phải là con nhộng, mà nó cũng không phải hoàn toàn là con sâu. Kiếp sanh
của người hay của bướm là một sự diễn tiến hay sự liên tục của một đời sống.
10. Nếu không có linh hồn,
như vậy có một trách nhiệm nào về tinh-thần đạo-đức chăng?
Có, bởi đây là sự liên tiếp
trong một cơ cấu diễn tiến, có thể xem như một cá thể đồng nhất.
Ví dụ như một đứa trẻ trở nên
người trưởng thành. Người này không phải tuyệt đối là đứa trẻ mà ta muốn nói,
trong khi tế bào của anh đã hoàn toàn thay đổi, mà cũng không thể nói là người
khác, bởi chỉ có một triều lưu sinh tồn duy nhất. Song le, cá nhân là gì nếu
không phải chính người ấy, thì tất nhiên nó phải chịu trách nhiệm đối vớí hành vi
của nó trong thời kỳ ấu xuân. Dầu nguồn sinh lực có tắt nơi đây và sanh lại nơi
kia, nó cũng vẫn liên tiếp tồn tại trong đời; cái nguyên tố chủ yếu chính là
cái nối liên tục ấy.
Ví như người nọ trước kia tên A;
bây giờ tái sanh lại tên B. Tên A chết thì xác thân của nó - là biểu hiện bề
ngoài của nghiệp lực - đã mất rồi. Tên B sanh với xác thân mới khác. Dầu có những
sự thay đổi về thể xác bên ngoài, nguồn tâm thức đi thọ sanh (Citta Santati)
vô hình, vẫn liên tiếp chảy hoài, không gián đoạn bởi cái chết, và đem theo với
nó tất cả những ấn tượng của Ngũ Quan đã cung cấp cho nó. Thế ấy, muốn nói cho
đúng lý, nên xét coi tên B có phải chịu hoặc không chịu trách nhiệm về hành vi
của tên A chăng? Có người biện hộ rằng không ai nhớ được dĩ vãng của mình vì do
có cái chết xen vào.
Hỏi vậy sự liên tục (đồng nhất),
hoặc là trí nhớ, có cần thiết để bắt buộc phải chịu trách nhiệm về tinh thần
không?
Nếu người kia gây ra một trọng
tội, và thình lình người ấy mất trí nhớ không còn nhớ tội ác của nó, hỏi vậy nó
có phải gánh chịu trách nhiệm của nó không? Cái quên có ân xá được tội lỗi của
nó không?
Có kẻ nói: "Hành phạt nó
làm chi, bởi nó không nhận biết rằng nó đang đền tội !". Thế thì đâu là
công bình trong trường hợp này?
Lẽ dĩ nhiên không có công bình,
nếu chúng ta bị khép dưới quyền thống trị của một vị trời độc tài thưởng phạt.
Trái lại, Ðức Phật chẳng hề nói đến sự đền tội.
Theo Phật Giáo, thế gian không
phải thiết định như vậy. Người Phật Tử tin nơi luật công bình hợp lý của cái
nghiệp, ngấm dẫn tự nhiên từ nhân ra quả, không có chi gọi là thưởng hay phạt.
Ðại Ðức Silacara có thuyết rằng:
"Nếu có người kia mộng du (hành động trong giấc ngủ) ra khỏi giường, đi
dựa vào lang cang rồi té xuống đuờng, có thể gãy tay, gãy chân hoặc bị thương nặng
hơn nữa. Tai nạn này xảy ra chẳng phải vì một sự đền tội của người đi trong
giấc ngủ, mà chỉ là kết quả của người đi trong giấc ngủ thôi. Lý do không nhớ đã
có đi trên lang cang, không sửa đổi được kết quả của sự té xuống đất.
Bởi thế, người Phật Tử cần phải
chuẩn bị để tránh, đừng đi ra ngoài hành lang hoặc nơi nào nguy hiểm khác, dầu
ngủ hay thức. Có vậy mới khỏi gây thương tích cho mình và cho kẻ khác.
Lý do của người không nhớ đến dĩ
vãng của mình không phải là một trở ngại cho sự hiểu biết sáng suốt của chúng
ta về sự tiến triển của nghiệp lực.
Nhờ nhận thức được rằng không
thể trốn tránh kết quả của cái Nghiệp trong triều lưu sanh tử luân hồi, nên
người Phật Tử biết trau giồi ít nhiều tâm tánh của họ.
11. Có thể nào một người kia sẽ tái-sanh lại làm
thú vật không?
Mọi người có thể không thừa nhận
câu trả lời của Phật Giáo. Nhưng chẳng ai bị ép buộc phải mù quáng tin theo.
Phật Giáo quả quyết có sự thoái
hóa của nghiệp.
Hình thức vật chất làm trung
gian cho nguồn sinh lực liên tiếp tiến triển, chỉ là những biểu hiện tạm thời
của Nghiệp lực mà ai ai cũng thấy được. Xác thân hiện tại chẳng phải trực tiếp
do nơi thể xác vật chất quá khứ mà sanh ra, nhưng chắc chắn nó liên quan đến
một nguồn sinh lực của cái Nghiệp.
Cũng như năng lực điện khí có
thể phát hiện liên tiếp dưới hình thức ánh sáng, sức nóng hoặc vận chuyển; hình
thức này không cần phải phát sanh do hình thức kia. Năng lực của Nghiệp, cũng
như thế ấy, có thể biểu hiện dưới hình thức của một vị Trời, một con người, một
thú vật v.v; hình thức này không có liên quan với hình thức khác về mặt vật
chất. Nghiệp của mọi người tạo ra hình thể vật chất, tùy theo hành vi khôn
khéo, cùng không khôn khéo, đó thôi. Rồi từ đó, nó tùy thuộc hoàn toàn nơi sự
tiến hoá theo trình độ hiểu biết của mỗi người về thực tế của sự vật.
Thay vì nói người kia trở thành
con thú, hay trái lại thú kia trở thành người, đúng hơn là nói rằng nghiệp lực
thể hiện dưới hình thức một con người hay dưới hình thức một con thú.
Thủơ nọ, có hai thầy đạo sĩ tên Punna
và Seniya, một thầy thì tu khổ hạnh theo lối lọaì bò, thầy kia tu khổ
hạnh như chó, đến hỏi Ðức Phật về kiếp vị lai của họ, Ðức Phật trả lời:
"Trong đời này, một gã kia thực hành trọn vẹn không thối chuyển những thói
quen, những tâm trạng, những tư cách của chó. Gã ấy đã sống theo thói thường
của chó, sau khi chết nó sẽ tái sanh lại trong loài chó".
Ðức Phật cũng giải thích như
trên, rằng kẻ nào khổ hạnh theo bò, cũng sẽ tái sanh trong loài bò.
Câu chuyện tình cờ này giải rõ
ràng cách nào một con người có thể sanh lại làm thú, y theo luật thân thuộc.
Theo Phật Giáo, Nghiệp tiến hoá
lên, cùng Nghiệp thoái hóa xuống, đều có thể có cả.
Ðây là nội dung của giáo lý về
cái Nghiệp và sự Tái Sanh.
-Hết-