Thiền – Giản đơn hay phức tạp?
Đối với những ai lần đầu tiên tìm đến với thiền, những gì được nghe
thấy sẽ có vẻ như hoàn toàn khác lạ, thậm chí là kỳ bí so với những kiến
thức thông thường. Vì thế, khi bạn tìm đến với thiền giống như bao
nhiêu môn học khác, bạn thường vấp phải những trở lực không thể vượt qua
về phương diện ngữ nghĩa. Nói cách khác, bạn có thể sẽ hoàn toàn ngơ
ngác trước một cách diễn đạt nào đó trong nhà thiền, trong khi điều đó
lại mang đầy ý nghĩa với những ai đã trải qua một quá trình tu tập nhất
định trong thiền môn. Những người tìm đến thiền với mong muốn đi tìm một
khái niệm diễn đạt chính xác hoặc khái quát về môn học này – họ thường
nghĩ như thế – cuối cùng thường phải chấp nhận thất bại, hoặc nếu không
cũng sẽ đi đến chỗ đưa ra những cách hiểu gán ghép, gượng gạo và sai
lệch về thiền.
Những người như thế thường nhận thấy thiền cuối cùng chẳng qua cũng chỉ
là những khái niệm hoàn toàn vô lý và khôi hài, hoặc cho rằng thiền luôn
cố ý tạo ra sự khó hiểu để nhằm chống lại sự phê phán của người khác
đối với một tính chất sâu sắc giả tạo.
Nhưng đối với những người thực sự hiểu và thực hành thiền, những phát
biểu có vẻ như hoàn toàn nghịch lý, mâu thuẫn của thiền lại không phải
là sự giả tạo nhằm che đậy sự thật phía sau lớp sương mù kỳ bí, khó
hiểu, mà chỉ đơn giản là vì khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ thông thường
không đủ để diễn tả chân lý sâu thẳm nhất mà thiền trực nhận được. Chân
lý này không thể được trình bày bằng lý luận, mà cần phải được chứng
nghiệm ngay trong nội tâm của mỗi người để có thể hiểu được. Trong thực
tế, những cách diễn đạt của thiền không phải là phức tạp và khó hiểu, mà
luôn đơn giản và đi thẳng vào vấn đề đến mức khác với mọi quy ước thông
thường. Vì thế, sự khó hiểu là nằm về phía người nghe hiểu chứ không
phải về phía người diễn đạt.
Khi nghe một câu đại loại như “Vôi màu trắng”, ta hiểu đây là một phát
biểu đơn giản, dễ hiểu. Nhưng khi ai đó nói “Vôi không phải màu trắng”,
ta thường phản ứng ngay bằng cách xem đây là một phát biểu trái ngược và
không thể hiểu được. Trong thực tế, chính phát biểu thứ hai cũng vô
cùng đơn giản, và thật ra là đơn giản hơn cả phát biểu thứ nhất.
Khi đưa ra phát biểu thứ nhất, hai thực thể “vôi” và “màu trắng” đã ngay
lập tức bị đóng khung vào các khái niệm tương ứng của người nghe, và sự
chấp nhận những khái niệm quen thuộc này khiến cho câu nói hoàn toàn
đơn giản và dễ hiểu.
Trong phát biểu thứ hai, các khái niệm quen thuộc bị phá vỡ. “Vôi” chỉ
có thể là “vôi”, không thể là gì khác hơn ngoài chính nó. Khi đóng khung
hai khái niệm “vôi” và “màu trắng” rồi đồng nhất chúng với nhau trong
phát biểu thứ nhất, chúng ta đã loại bỏ tất cả những tính chất có thật
khác nữa của thực thể “vôi”, đồng thời giới hạn tính chất thực có của
“màu trắng”. Vì thế, “vôi không phải màu trắng” là một phát biểu chỉ
thẳng, đến gần với thực tại hơn so với phát biểu thứ nhất. Ở đây, các
khái niệm thông thường không được dùng đến, và vì thế mà phát biểu này
thực sự là đơn giản hơn cả phát biểu thứ nhất, cho dù nó vẫn chưa, và
thực sự là không thể, diễn đạt được trọn vẹn về đối tượng.
Hầu hết những cách diễn đạt của thiền đều xuất phát từ sự thực nghiệm
của mỗi cá nhân. Có thể nói, trong Thiền học thực ra không có gì khác
ngoài kinh nghiệm cá nhân. Vì thế, ngay cả một thiền sư chân chính cũng
chẳng có gì để trao cho bạn cả nếu như bản thân bạn chưa từng trải qua
những kinh nghiệm tâm linh thực sự.
Điều này nghe có vẻ khác thường nhưng lại là một sự thực vô cùng đơn
giản trong tự nhiên mà hầu hết chúng ta đều không lưu tâm đến. Những đứa
bé không có nhiều hiểu biết vì chúng chưa có nhiều kinh nghiệm cá nhân
trong cuộc sống. Nếu một đứa trẻ có thể hiểu được nhiều điều mà nó chưa
từng trải qua, đó mới là điều nghịch lý và hoàn toàn không phù hợp với
thực tiễn. Vì thế, để hiểu được sự việc một cách rõ ràng và hiệu quả
nhất, chỉ có một cách duy nhất là phải tự thân trải qua sự việc ấy, hay
nói cách khác là phải bằng vào chính kinh nghiệm cá nhân của mỗi người.
Khi đối mặt thực sự với những vấn đề của bản thân đời sống, kinh nghiệm
cá nhân càng trở nên tuyệt đối cần thiết. Không bằng vào kinh nghiệm cá
nhân thì không thể nào nắm bắt được một cách chính xác và hiệu quả những
ý nghĩa sâu xa trong đời sống.
Sự hình thành ban đầu của tất cả những khái niệm đều xuất phát từ những
kinh nghiệm đơn giản, không phức tạp. Thiền học nhấn mạnh vào sự hình
thành các khái niệm từ kinh nghiệm cá nhân, và chính là xoay quanh hiện
tượng đơn giản này mà thiền xây dựng tất cả những nền tảng biểu đạt bằng
ngôn ngữ cũng như khái niệm đặc trưng của mình. Tất cả những điều này
được sử dụng như một phương tiện hiệu quả để nhắm đến kinh nghiệm tâm
linh sâu thẳm nhất, và thiền giả không bao giờ được quên rằng chính bản
thân chúng cũng là những giới hạn cần phải vượt qua và xóa bỏ mới có thể
nắm bắt được thực tại cuối cùng.
Bản chất tự nhiên của tri thức con người không nhắm đến những vấn đề
siêu hình. Tính chất bí ẩn không bao giờ là đối tượng hướng đến của
Thiền học. Nhưng đối với những ai chưa nắm được bản chất cốt lõi thực sự
của đời sống, Thiền học luôn mang dáng vẻ đầy bí ẩn. Khi chúng ta có
thể vượt qua tất cả những khái niệm siêu hình, đến một lúc nào đó thì vẻ
ngoài kỳ bí của thiền sẽ đột nhiên biến mất và đồng thời trong kinh
nghiệm nội tâm của hành giả lóe lên tia sáng đầu tiên của sự trực nhận
thực tại.
Chính vì thế mà Thiền học luôn nhấn mạnh và đòi hỏi kinh nghiệm tâm linh
trong nội tâm của bản thân hành giả. Những gì được xem là quan trọng
nhất đối với người học thiền không bao giờ gắn liền với kinh điển hay sự
giảng giải của các bậc thầy. Kinh nghiệm tu tập của mỗi cá nhân không
được phép phụ thuộc vào những chỉ dẫn từ bên ngoài, cho dù là của các
bậc thầy đáng tin cậy. Và phương pháp thực tiễn, hiệu quả nhất thường
được người học thiền sử dụng để đạt đến những kinh nghiệm tâm linh chính
là phép ngồi thiền.
Nhưng những gì vừa nói hoàn toàn không có nghĩa là phủ nhận vai trò dẫn
dắt của các bậc thầy. Trong thực tế, qua lịch sử phát triển từ xưa đến
nay, Thiền học đã hình thành một hệ thống phương pháp tu tập nhằm dẫn
dắt những người theo học một cách hiệu quả nhất trên con đường đạt đến
những kinh nghiệm tâm linh. Chính điều này đã tạo ra sự khác biệt rõ
ràng giữa Thiền học với các hình thức tôn giáo kỳ bí khác. Trong khi một
số tôn giáo cũng có nhắc đến việc đạt được một hình thức kinh nghiệm
tâm linh nào đó, thì điều này thường là có tính cách rất cá biệt, bất
ngờ và không dựa vào nội lực của chính bản thân người tu tập mà dựa vào
sự cầu xin ở một quyền năng thiêng liêng, bí ẩn.
Nhưng Phật giáo nói chung và Thiền học nói riêng không thừa nhận một
đấng quyền năng siêu hình trong việc đạt đến sự giải thoát. Và vì thế mà
những phương pháp tu tập của Thiền học hoàn toàn mang tính chất thực
tiễn và có hệ thống. Ngay từ những ngày đầu tiên khi Thiền học được
truyền dạy tại Trung Hoa, khuynh hướng này đã bộc lộ rất rõ nét. Nhưng
với sự phát triển qua thời gian thì hệ thống phương pháp tu tập trong
nhà thiền ngày càng được định hình một cách toàn diện và hiệu quả hơn
trong việc giúp cho người tu tập có thể tiến triển theo đúng con đường
hướng đến sự giác ngộ. Chính trong việc hình thành những phương pháp tu
tập đặc trưng của mình, Thiền học đã thể hiện được tính cách hoàn toàn
thực tiễn. Trong khi phát triển những luận giải chặt chẽ về mặt lý
thuyết thì đồng thời thiền cũng nhấn mạnh đến sự tu tập có phương pháp
nhằm tạo ra được những phẩm chất tinh thần thanh cao tốt đẹp nhất nơi
người tu tập.
Đôi khi thiền được biểu lộ trong mối quan hệ với những sự kiện rất gần
gũi trong đời sống thực tiễn hằng ngày, và điều đó làm cho chúng ta dễ
quên đi tính chất sâu xa của nó. Nhưng chính những giá trị đích thực của
thiền lại nằm ở đây, bởi vì một thiền giả thực sự có kinh nghiệm tâm
linh thường luôn nhận ra được những ý nghĩa sâu xa không thể diễn đạt
bằng lời ngay cả trong một hành động đơn giản như đưa lên một ngón tay
hay chào hỏi một người bạn tình cờ gặp gỡ. Theo cách nhìn của nhà thiền,
điều thực tiễn nhất chính là điều mang ý nghĩa sâu xa, thâm thúy nhất.
Và toàn bộ hệ thống phương pháp tu tập của Thiền học đều là xuất phát từ
kinh nghiệm nền tảng này.
Còn có một lý do khác nữa khiến cho nhiều người nhận thấy rằng Thiền học
là bí ẩn, khó hiểu. Ngay từ trong bản chất của mình, thiền luôn luôn
bất chấp, và thậm chí là thách thức những bộ óc phân tích lý luận. Cũng
giống như rất nhiều hệ thống tư tưởng khác của phương Đông, thiền nhấn
mạnh vào bản năng trực giác của con người, và điều đó không phải bao giờ
cũng có thể nhận hiểu được qua phân tích lý luận. Chính vì thế mà những
tư tưởng thiền không bao giờ có thể trình bày theo cách liệt kê để bất
cứ ai cũng có thể đọc hiểu.
Thiền luôn hiển bày trong đời sống quanh ta, vì thế không thể phủ nhận
sự hiện hữu ấy. Nhưng ngay khi ta muốn nắm bắt lấy, muốn đặt nó vào tầm
phân tích, khảo sát của chúng ta để có thể hiểu được một cách chặt chẽ
hơn, hệ thống hơn, chúng ta ngay lập tức không còn khả năng nhận biết
được thiền. Vì thế, thiền luôn trở nên bí ẩn, khó hiểu với những ai muốn
theo đuổi, nắm bắt nó nhằm mục đích phân tích, khảo sát. Trong một
chừng mực nào đó, có thể nói rằng hiểu được tính chất bí ẩn này cũng có
nghĩa là hiểu được thiền.
Nhưng tính chất bí ẩn của thiền – nếu có thể gọi như thế – hoàn toàn
không có nghĩa là vô lý hay ức đoán hoặc xuất phát từ trí tưởng tượng.
Sự bí ẩn của thiền hoàn toàn có thể được soi rọi dưới ánh sáng của trí
tuệ. Tính chất gọi là bí ẩn ấy lại được thể hiện qua những tư tưởng bình
thản, êm ả, yên tĩnh, không chia tách và luôn hướng về một chân lý
thường tồn. Tuy nhiên, sự êm ả và yên tĩnh ở đây không hề đồng nhất với
tính cách lười nhác hoặc không năng động; không phải sự yên lặng chết
chóc của cánh đồng hoang không cây cỏ hay của tử thi đang chờ thối rửa
theo thời gian. Tính chất yên tĩnh ở đây là của một hố sâu vượt thời
gian mà trong đó tất cả cội nguồn của những mâu thuẫn hay điều kiện đều
tan biến. Nhà thiền gọi đây là sự “im lặng sấm sét”, và từ đó nảy sinh
sự sống vô cùng sinh động và linh hoạt.
Như đã nói, Thiền học đã phát triển qua thời gian với sự đóng góp đáng
kể của nhiều thế hệ thiền sư. Điều này đã mang lại cho thiền những nét
đặc trưng khác hẳn với tất cả những tông phái Phật giáo khác. Một trong
những khác biệt này chính là cách tiếp cận với sự việc hết sức đơn giản,
trực tiếp và thực tiễn, cũng như luôn gắn bó chặt chẽ với đời sống
thường ngày. Rất nhiều cách hiểu sai lệch về thiền đã xuất phát từ việc
không nắm bắt được những đặc điểm khác biệt này.