Thiền là gì?
Thiền không bao giờ đặt ra vấn đề so sánh các đối tượng theo cách cái
này “là” hay “không phải là” cái kia. Vì thế, ngay cả việc đặt ra câu
hỏi thiền là gì đã là một điều không thể có trong nhà thiền. Nhưng đây
lại chính là nỗi ám ảnh không sao tránh khỏi của những người mới bước
chân đến cửa thiền. Rốt lại, thiền là gì mà chúng ta lại phải bỏ công
tìm hiểu hay thâm nhập?
Và nếu phải hé mở cánh cửa thiền để mời gọi những ai đang đứng phía bên
ngoài, thiền có thể sẽ tạm đưa ra một vài ý tưởng gợi mở để thỏa mãn cơn
khát tri thức của những người ngoại cuộc. Thiền là sự trực nhận cảm
giác nóng ấm của lửa hay giá lạnh của băng, bởi điều rất đơn giản là
chúng ta ai cũng run lên khi bị lạnh và sẽ thích thú nếu lúc ấy được lại
gần lửa ấm. Sự trực nhận là tất cả những gì thiền quan tâm đến, bởi vì
mọi lý thuyết đều không thể đạt đến bản chất của thực tại.
Nhưng sự trực nhận cảm giác được đề cập ở đây phải được hiểu theo ý
nghĩa sâu xa nhất, hoặc trong dạng thức thuần khiết nhất của nó. Ngay
khi ta sinh khởi một ý niệm đơn giản như “Tôi nhận biết cảm giác”, lập
tức sẽ không còn có sự hiện hữu của thiền nữa. Bởi vì vấn đề đã bị đóng
khung vào khái niệm, trong khi thiền lại luôn chống lại sự hình thành
các khái niệm. Và đó chính là lý do vì sao thiền rất khó nắm bắt đối với
những bộ óc đầy khái niệm.
Thiền hướng đến sự quán sát mọi sự vật theo đúng với bản chất tự nhiên
của chúng. Thiền tiếp cận với mọi sự vật trong mối tương quan trực tiếp
và chặt chẽ với đời sống thực tiễn hằng ngày, bằng cách trực nhận mà
không nhắm đến khái quát hay chia chẻ chúng. Vì thế, thiền giúp cho
chúng ta thâm nhập để rồi cuối cùng hòa nhập với đối tượng quán sát, và
thực sự xóa bỏ ranh giới phân biệt giữa chủ thể và đối tượng.
Điều thú vị là trong hầu hết các trường hợp, thiền tỏ ra có sức hấp dẫn
mạnh mẽ đối với những ai lần đầu tiên được nghe nói đến. Nhưng ngay khi
bắt tay vào việc “tìm hiểu”, “nắm bắt” lấy thiền, người ta liền nhận ra
là thiền không dễ hiểu chút nào! Kết quả tất nhiên thường là một sự chia
tay, hoặc đi đến những nhận thức lệch lạc như chúng ta đã đề cập. Nói
một cách văn vẻ hơn, thiền dường như rất hấp dẫn khi thoáng nhìn từ bên
ngoài với khoảng cách từ xa, nhưng càng đến gần lại càng trở nên mơ hồ,
khó nắm bắt!
Nhưng những điều ấy chỉ là dáng vẻ bên ngoài, nghĩa là đối với những ai
còn đứng ngoài cuộc. Nếu bạn có thể đến với thiền thực sự như người đi
tìm một con đường sống và trải qua những năm tháng kiên trì thực hiện
phương pháp tu tập đúng đắn, có thể rồi bạn sẽ hiểu ra được ít nhiều về
thiền.
Đại văn hào Victor Hugo có lần nói: “Phương thức vươn lên để hiểu được
Thượng đế là hãy cúi xuống để nhìn sâu vào nội tâm mình.” Phát biểu này
có phần nào đó tương đồng với ý tưởng cơ bản của thiền trong việc quay
về quán sát bản tâm. Nhưng thiền nhấn mạnh rằng hành giả phải làm điều
này bằng cách trực nhận và không dựa vào bất cứ yếu tố nào từ bên ngoài.
Do đó, thiền giả từ chối tất cả những gì đến từ bên ngoài, ngay cả từ
một bậc thầy đáng kính. Sự tự tin tuyệt đối được đặt vào nơi bản tâm. Vì
thế, bất kỳ điều gì đáng tin cậy đối với hành giả đều phải xuất phát từ
bản tâm. Điều này không chỉ là một cách nói biểu trưng, mà là được nói
ra với nghĩa chính xác nhất của từ ngữ. Ngay cả khả năng biện giải lý
luận của bản thân hành giả cũng không được xem là chỗ dựa. Ngược lại, nó
còn là rào cản trong sự trực nhận bản tâm. Công việc của tri thức là
đóng vai trò trung gian diễn dịch, mà thiền lại không chấp nhận sự trung
gian diễn dịch, trừ khi hành giả có nhu cầu giao tiếp với người khác.
Chính vì lý do này, tất cả kinh điển đối với với thiền chỉ có ý nghĩa
gợi mở, chỉ bày, không bao giờ được xem là mang ý nghĩa rốt ráo cuối
cùng.
Bản chất cốt lõi của đời sống như đang diễn ra chính là những gì thiền
nhắm đến, với một cung cách trực tiếp và sống động nhất. Thiền tự nhận
là mang tinh thần Phật giáo, nhưng kỳ thật có thể xem đây là tinh thần
của tất cả mọi tôn giáo và triết học. Khi thấu hiểu được thiền, chúng ta
đạt đến trạng thái an bình, thanh thản tuyệt đối của tâm thức và sống
theo với ý nghĩa đích thực của đời sống. Không có tôn giáo hay triết học
nào lại có thể mong cầu nhiều hơn thế!
Một số người cho rằng thiền mang tính chất kỳ bí nên chẳng thể xem là
khác biệt so với các tôn giáo. Tuy nhiên, nếu thiền có tính chất kỳ bí,
thì đó cũng là sự kỳ bí rất đặc trưng của thiền trong mắt nhìn của những
người không hiểu thiền. Sự kỳ bí đó được thể hiện trong những hiện
tượng quanh ta như mặt trời mọc lên mỗi buổi sáng, hoa nở trong vườn,
tiếng chim hót đâu đây... Nếu những ý nghĩa ấy được xem là kỳ bí thì
thiền quả thật rất kỳ bí!
Khi ngài Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền: “Đạo là gì?” Ngài Nam Tuyền trả
lời: “Tâm bình thường là đạo.” Còn có cách diễn đạt nào có thể trực tiếp
và đơn giản hơn chăng? Điều này quả thật chẳng liên quan gì đến việc
phân chia các tôn giáo hay triết học. Trong ý nghĩa này, thiền có thể
được vận dụng bởi tất cả mọi tôn giáo, cũng như các loài cá khác nhau
đều có thể bơi lội thỏa thích trong cùng một dòng nước, cùng sống hòa
hợp trong một đại dương.
Thiền là đại dương của muôn loài cá, là không khí mà ta thở hít mỗi
ngày, là ngọn núi, là sấm sét, là hoa nở mùa xuân, là cái nóng mùa hè,
là cái lạnh mùa đông; và còn hơn thế nữa, thiền chính là con người. Bất
chấp tất cả những hình thức thay đổi, những quy ước hay những gì được
thêm thắt vào trong suốt quá trình phát triển của thiền, phần tinh túy
cốt lõi của thiền vẫn luôn sinh động. Chúng ta vẫn có thể trực nhận được
thực tại cuối cùng mà không bị lệch lạc bởi bất cứ định kiến nào.
Tính chất độc đáo của thiền chính là nằm ở sự rèn luyện tâm thức để có
thể trực nhận ý nghĩa sâu xa của đời sống ngay trong những gì vô cùng
đơn giản. Với sự phát triển của thiền, những điều bí ẩn nhất cũng không
còn là bí ẩn nữa. Thiền biểu hiện ngay trong cuộc sống rất bình thường
và vô vị, nhưng nó dạy cho ta mở rộng nhận thức để có thể thấy được điều
tuyệt vời ngay trong những cuộc sống tầm thường. Những điều kỳ bí nhất
được nhận ra ngay trong cuộc sống diễn ra hằng ngày, hằng giờ. Hãy nghe
kệ tụng sau đây trong bài thứ 19 của tập Vô Môn Quan:
Xuân có trăm hoa, thu có trăng,
Hạ về gió mát tuyết đông giăng.
Ví lòng thanh thản không lo nghĩ,
Ấy buổi êm đềm chốn thế gian.
Nguyên văn chữ Hán:
春有百»¨秋?Ð月?¡
夏?Ð涼?風?¬有雪©
若無閑?挂?心ỵ
便?Ç人好?r節
Xuân hữu bách hoa, thu hữu nguyệt,
Hạ hữu lương phong, đông hữu tuyết.
Nhược vô nhàn sự quải tâm đầu,
Tiện thị nhân gian hảo thời tiết.
Quả thật, chúng ta không thấy có chút gì kỳ bí trong bài kệ tụng trên,
càng không thấy có gì cách biệt giữa cái nhìn của thiền với bất kỳ dòng
tư tưởng nào khác. Sở dĩ như vậy, là vì thiền ở đây không phải gì khác
hơn một sự trực nhận từ cuộc sống.
Khi nhận ra được ý nghĩa đích thực của đời sống, thiền giúp chúng ta mở
rộng tâm hồn để ôm trọn cả thời gian và không gian vô tận vào trong mỗi
một nhịp sống trôi qua, giúp chúng ta sống trong thế giới trần tục này
như thể đang sống trong một thiên đàng tuyệt hảo. Và tất cả những thành
quả tinh thần kỳ diệu này không phải dựa vào bất cứ học thuyết, triết lý
nào để có được, mà đơn giản chỉ là một sự xác quyết trực nhận chân lý
sâu xa nằm ngay trong bản tâm mỗi người.
Dù được biểu hiện bằng cách nào, thiền vẫn luôn mang tính chất rất thực
tiễn, bình thường nhưng đồng thời cũng là sống động nhất. Trong thực tế,
không có tính sáng tạo và độc đáo thì không thể là thiền, bởi vì thiền
không chấp nhận các khái niệm đã được dựng sẵn mà chỉ trực nhận tính
chất sống động ngay trong đời sống. Khi bị đóng khung trong các khái
niệm, hành động đưa một ngón tay lên chỉ có thể mang ý nghĩa là một cử
chỉ hết sức nhỏ nhặt trong đời sống của bất cứ ai. Nhưng một khi được
soi rọi dưới ánh sáng của thiền, cử chỉ nhỏ nhặt này bừng tỏa một ý
nghĩa thiêng liêng và đầy sức sống sáng tạo. Chính vì thiền có thể giúp
chúng ta thoát ra khỏi được sự ràng buộc của những khái niệm và tập quán
tự lâu đời nên chúng ta mới thực sự cần đến sự hiện hữu của thiền.