Nghĩa không trong Thiền học
Mặc dù là vị tổ thứ 6 của Thiền Trung Hoa, nhưng tổ Huệ Năng (638 –
713) vẫn thường được xem như vị tổ sư nổi bật nhất khởi đầu cho một thời
kỳ hưng thịnh của thiền môn. Thực ra, nhiều người đã xem ngài như người
chính thức khai sinh ra Thiền tông Trung Hoa như một tông phái độc lập
với những nét đặc thù so với các tông phái khác tại Trung Hoa thời bấy
giờ.
Lục Tổ Huệ Năng bộc lộ cái nhìn của ngài về thiền qua bài kệ nổi tiếng được nhiều người biết đến như sau:
Bồ-đề vốn chẳng phải cây,
Gương sáng cũng chẳng phải đài.
Xưa nay vốn không một vật,
Chỗ nào bám được bụi nhơ?
Nguyên văn chữ Hán:
菩提本無樹
明鏡亦非臺
本來無一物
何處惹塵埃
Bồ-đề bản vô thụ,
Minh kính diệc phi đài.
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?
Bài kệ này được Lục Tổ nói ra sau khi đã đọc qua một bài kệ khác của đại
sư Thần Tú, cũng được viết ra để bày tỏ kiến giải về thiền. Bài kệ của
đại sư Thần Tú như sau:
Thân là cây Bồ-đề,
Tâm như đài gương sáng.
Thường siêng lau siêng rửa,
Chớ để bám bụi nhơ.
Nguyên văn chữ Hán:
身是菩提樹,
心如明鏡臺。
時時勤拂拭 ,
勿使惹塵埃。
Thân thị Bồ-đề thụ,
Tâm như minh kính đài.
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.
Cả hai vị đều là môn đệ của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (602–675), và qua hai bài
kệ này mà Ngũ Tổ đã quyết định chọn ngài Huệ Năng làm tổ thứ 6 của Thiền
tông.
Với sự ấn chứng này, bài kệ của Lục Tổ rõ ràng được nhiều người xem như
một sự mô tả đáng tin cậy về thiền. Và nội dung mô tả ấy có vẻ như không
nêu lên gì ngoài một sự phủ nhận toàn bộ các đối tượng được đề cập đến.
Từ cách hiểu như thế, rất dễ cho rằng bài kệ đã trình bày một nghĩa
không bao hàm tất cả.
Thật ra, nghĩa không còn được đề cập đến trong rất nhiều trường hợp
khác. Và trong một chừng mực nào đó, ít nhất là nhìn từ bên ngoài thì
quả thật là thiền nói nhiều đến nghĩa không như một ý nghĩa chủ đạo. Tuy
nhiên, chúng ta hãy nghe về nghĩa không trong một bài kệ của thiền sư
Định Hương (?-1051), một thiền sư Việt Nam vào đời nhà Lý:
Xưa nay vốn không xứ sở,
Xứ sở ấy là nguồn tông.
Nguồn tông thật như huyễn ảo,
Có ảo tức chẳng có không.
本來無處所
處所是真宗
真宗如是幻
幻有即空空
Bản lai vô xứ sở,
Xứ sở thị chân tông.
Chân tông như thị ảo,
Ảo hữu tức không không.
Tính tương đối của nghĩa không đã được bài kệ nêu lên khá rõ. Hay nói
khác đi, thiền sư đã cảnh báo người học về thiên hướng chấp chặt cái
không, bởi vì ngay khi nhìn nhận tính chất huyễn ảo không bền chặt của
muôn pháp thì cũng đồng thời cũng phải thấy được ngay cả nghĩa không
cũng chẳng phải là không. Trong bài thứ 26 của tập Vô Môn Quan có kệ
tụng rằng:
Rèm cuốn sáng lên suốt thái không,
Thái không vẫn chưa hợp nguồn tông.
Chỗ hợp chỗ không đều vất sạch,
Mênh mông đầy khắp gió chẳng thông.
Nguyên văn chữ Hán:
卷起明明徹太空
太空猶未合吾宗
爭似從空都放下
綿綿密密不通風
Quyến khởi minh minh triệt thái không,
Thái không do vị hợp ngô tông.
Tránh tự tùng không đô phóng hạ,
Miên miên mật mật bất thông phong.
Bức tranh sinh động ở đây cho thấy rõ ràng là thiền sư không hề nhắm đến
một cái không theo nghĩa phủ nhận hoàn toàn. Để đạt đến tầm vóc của một
cái không như thế, người ta phải nắm được trong tay mọi cái có của thế
giới này!
Chúng ta không thể phủ nhận một sự thật là nghĩa không trong thiền cực
kỳ khó nắm bắt. Trong cuộc gặp gỡ lần đầu tiên với tổ Bồ-đề Đạt-ma khi
ngài vừa đến Trung Hoa vào năm 520, vua Lương Võ Đế, một vị vua hết sức
sùng tín và đã làm rất nhiều điều để ủng hộ Phật pháp, đặt ra câu hỏi:
“Thế nào là nghĩa lý cao tột nhất của bậc thánh?” (如何是聖諦第一義 – Nhö haø
thò thaùnh ñeá ñeä nhaát nghóa?)
Toå sö ñaùp: “Trong choã roãng rang chaúng coù baäc thaùnh.” (廓然無聖 – Khuếch nhiên vô thánh.)
Vua lại hỏi: “Đối diện với trẫm là ai?” (對朕者誰 – Đối trẫm giả thùy?)
Tổ sư đáp: “Không biết.” (不識 – Bất thức.)
Mẩu đối thoại ngắn ngủi này đã kết thúc quá trình tham học về thiền của
một vị vua vốn đầy nhiệt tình với Phật pháp, đã sai quan viên Quảng Châu
ra tận cửa biển để nghênh tiếp Tổ sư về diện kiến. Bởi vì sau đó Tổ sư
biết nhà vua không thể tiếp nhận nổi ý nghĩa sâu xa của pháp thoại nên
đã ra đi đến ở chùa Thiếu Lâm, núi Tung Sơn thuộc đất Ngụy. Chúng ta có
thể lấy làm tiếc cho nhà vua đã bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một khi không
nhận được gì từ một bậc tổ sư chân truyền, nhưng chúng ta cũng có thể
hiểu được và không lấy làm lạ về sự việc. Bởi vì để nắm bắt được nghĩa
không trong mỗi một câu “Khuếch nhiên vô thánh” vừa dẫn trên, không thể
chỉ dựa vào lòng nhiệt thành mà được. Huống chi sau đó Tổ sư còn bồi
thêm một liều “thuốc không” cực mạnh với câu trả lời “không biết”. Nhà
vua vốn chỉ đến với Phật pháp qua những hiểu biết đơn thuần trong phạm
vi tạo phước, làm lành, chưa từng có những kinh nghiệm tâm linh về thiền
học, tất nhiên phải bỏ lỡ mũi tên mạnh mẽ mà Tổ sư bắn ra.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy việc nắm bắt được nghĩa không trong thiền học quả là không dễ dàng và đơn giản chút nào.
Nhưng mặt khác, nếu bạn nghĩ đến việc bỏ ra 5 năm hoặc 10 năm để nghiên
tầm kinh điển hầu có thể nắm bắt, lý giải được nghĩa không trong Thiền
học, điều đó có thể cũng không đưa đến kết quả nào. Vấn đề ở đây là một
sự trực nhận vượt trên mọi khái niệm, nên giới hạn của ngôn ngữ không
thể nào vươn tới. Mâu thuẫn nảy sinh của người đi tìm nghĩa không trong
Thiền học chính là ở chỗ cố dựng lên một khái niệm, một cách mô tả hoặc
lý giải nào đó để “nắm bắt” lấy nghĩa không. Nhưng điều này lại ngay lập
tức đóng khung vấn đề vào một giới hạn nhất định của khái niệm bất kỳ
nào đó vừa dựng lên. Và kết quả là không làm được gì khác hơn ngoài việc
tạo ra một khái niệm mới trong rừng khái niệm vốn đã dày đặc của tri
thức.
Sự trực nhận đòi hỏi quá trình rèn luyện, tu tập để khơi mở bản năng
trực giác trong tự tâm mà không phải là sự thu lượm, tích lũy những tri
thức, kiến giải từ bên ngoài. Một lần nữa, cần nhắc lại ở đây rằng kinh
nghiệm tự thân chính là điều quan trọng nhất đối với người học thiền.
Chúng ta hãy quay trở lại với bài kệ của Lục Tổ được dẫn ra ở đầu mục
này. Nguyên do bài kệ được nói ra là trong bối cảnh đáp lại với bài kệ
của đại sư Thần Tú. Hay nói khác đi, nếu chúng ta rời khỏi bối cảnh này
để tìm hiểu nghĩa không trong bài kệ, chúng ta khó lòng tránh khỏi những
nhận thức sai lệch.
Bài kệ của đại sư Thần Tú được Ngũ Tổ khen là ít có, và khuyến khích các
đệ tử của mình thắp hương lễ bái, với nhận xét: “Y theo kệ này tu khỏi
đọa nẻo ác, y theo kệ này tu được lợi ích lớn.” (依此偈修免墮惡道. 依此偈修有大利益. – Y
thử kệ tu miễn đọa ác đạo. Y thử kệ tu hữu đại lợi ích.)
Tuy không được chọn để kế tục tổ vị, nhưng có thể nói đại sư Thần Tú đã
vượt trội hơn tất cả những môn đệ khác của Ngũ Tổ, chỉ trừ Lục Tổ Huệ
Năng. Chính là để chỉ rõ bài kệ của đại sư Thần Tú chưa nắm được yếu chỉ
rốt ráo của thiền mà Lục Tổ mới nói ra bài kệ “không” như trên. Có thể
nói, đại sư Thần Tú như con mãnh hổ sau bao nhiêu nỗ lực tinh cần và
mạnh mẽ đã lên đến đỉnh núi cao nhất và ngước nhìn bầu trời cao rộng,
nhưng Lục Tổ lại như con chim bằng ngay từ đỉnh núi ấy đã nhẹ nhàng vỗ
cánh bay lên để hòa nhập, mất hút vào khoảng không mênh mông không còn
giới hạn. Vì thế, một số người đời nay đọc kinh Pháp Bảo Đàn và cho rằng
bài kệ của đại sư Thần Tú là “chưa thấy tánh”, e rằng nhận xét ấy có
phần nào chưa được thỏa đáng. Mặt khác, bài kệ của Lục Tổ vốn được nói
ra để phá sạch những chỗ vướng mắc cuối cùng của đại sư Thần Tú, như
giọt nước cuối cùng để làm tràn ly nước... Nếu tách rời khỏi bài kệ của
đại sư Thần Tú để hiểu bài kệ của Lục Tổ, tất nhiên sẽ có chỗ lệch lạc.
Nói cách khác, một khi chưa tự mình nhận ra được chỗ vướng mắc của đại
sư Thần Tú mà muốn ôm lấy nghĩa không của Lục Tổ, điều đó sẽ rất dễ dẫn
đến hiểu sai về nghĩa không đích thực trong Thiền học.
Nói tóm lại, nghĩa không được đưa ra trong thiền như một phương tiện để
đối kháng với những cái có đang đè nặng trong tâm thức mỗi người. Nếu
thoát khỏi những ràng buộc, ngăn ngại của khái niệm và tri thức, thì
ngay cả cái không cũng không thể tồn tại để bám vào. Mục đích cuối cùng
của thiền, như đã nói, vẫn là trực nhận cuộc sống như nó đang diễn ra,
và điều đó là hoàn toàn có thật khắp quanh ta, làm sao có thể nói là
không?