Chương XI
Yếu Tố Thứ Chín
Trước khi
đến Ðạo, Quả, sự tinh tấn không ngừng là một yếu tố bổ sung cho việc hành
thiền.
Hành giả phải tâm niệm rằng mình
cần có thái độ tích cực việc hành thiền. Chừng nào chưa đạt đến Ðạo Quả thì
hành giả chưa thể buông lơi hay từ bỏ sự tinh tấn. Giữ cho tâm mạnh mẽ và tinh
tấn không ngừng trong tu tập là một yếu tố để phát triển ngũ quyền. Xin hãy đọc
3 lần:
Yếu Pháp:
Chưa thành tựu đạo quả
Quyết chí không nản lòng.
Những người xuất gia phải hành
thiền càng liên tục càng tốt, và cố gắng duy trì sự tinh tấn cho đến khi đạt
được Ðạo, Quả, Niết bàn.
Còn các cư sĩ tại gia mặc dầu
phải rời trường thiền vì những lý do riêng, nhưng quí vị không nên từ bỏ việc
hành thiền khi trở về với cuộc sống bình thường. Quí vị nên cố gắng hành thiền
bất cứ khi nào hoàn cảnh cho phép. Quí vị nên tự nhắc nhở mình dành ra mỗi ngày
mười lăm phút, nửa tiếng hay một tiếng vào buổi khuya trước khi đi ngủ, hoặc
lúc sáng sớm, để hành thiền. Ðược vậy quí vị sẽ không đánh mất sự tinh tấn.
Bằng cách đó hành giả sẽ thấy
ngũ quyền được tăng trưởng và giáo pháp trở nên rõ ràng hơn tương xứng với sự
tinh tấn của hành giả. Tùy theo mức độ ba-la-mật của mình, hành giả có thể thấy
pháp một cách tường tận hơn.
Ngày xưa có nhiều người bận rộn
bao nhiêu công việc của đời sống thế gian mà vẫn giác ngộ được nghĩa lý cao
siêu của giáo pháp vì họ đã cố gắng dành thời gian cho việc thực hành thiền
quán.
a. Một tăng sinh
chứng Quả A-la-hán:
Ngày xưa, có một tăng sinh chỉ
mới ba tuổi hạ tên là Maliyadeva tìm đến một tu viện nổi tiếng tên là
Mandalarama để học về pháp học. Ở đó vị tăng sinh vẫn hành thiền bất cứ khi nào
có thời gian rãnh rỗi.
Một hôm, khi đang đi khất thực
trong thành Kalla, vị tăng sinh được một bà thí chủ dâng cháo. Vừa gặp vị này,
bà bỗng phát sinh một tình cảm thương yêu trìu mến, giống như tình cảm người mẹ
dành cho con. Bà thỉnh vị tăng sinh về nhà để bà được cúng dường tứ vật dụng và
hỏi han về tu viện nơi vị ấy tu học.
Biết vị ấy đang học ở tu viện
Mandalarama, bà thỉnh vị ấy mỗi ngày đều đến nhà bà để bà cúng dường trong suốt
thời gian học ở đấy.
Vị tăng sinh nhận lời và hàng
ngày đến nhà bà thọ bát. Mỗi lần như vậy Ngài đều cầu chúc cho bà thí chủ được
giàu có và thoát khỏi cảnh nghèo khổ. Ngài cầu chúc bằng một giọng rất hoan hỷ
rồi ra về. Suốt cả ba tháng hạ Ngài chỉ cầu chúc có hai điều đó thôi.
Tuy đang học pháp học nhưng mỗi
khi rảnh rỗi, tăng sinh Maliyadeva đều thực hành thiền quán. Nhờ tinh tấn như
vậy nên đến ngày cuối cùng của mùa an cư, Ngài trở thành một vị A-la-hán có tứ
vô ngại giải.
Hòa thượng trụ trì tu viện
Mandalarama mời Ðại Ðức Maliyadeva đến và thỉnh ngài thuyết pháp cho hội chúng
vào ngày tự tứ. Ðại Ðức Maliyadeva đồng ý nhận thuyết pháp hôm đó.
Khi các vị Sa-di trong tu viện
nghe tin này, họ đến báo cho bà thí chủ đã cúng dường hàng ngày cho Ðại Ðức
biết là Ngài sẽ thuyết pháp và bảo bà nên đến dự.
Bà thí chủ cho rằng các vị Sa-di
nói đùa bởi vì Ðại Ðức Maliyadeva đâu có biết thuyết pháp. Trong suốt cả ba
tháng hạ mà Ngài chỉ biết chúc phúc cho bà bằng hai câu là được giàu sang và
thoát khỏi nghèo khó. Các vị Sa-di trả lời rằng họ cũng không chắc là Ðại Ðức
Maliyadeva có biết thuyết pháp hay không, nhưng tin đó là đúng vì chính Hòa
thượng trụ trì báo cho họ biết. Vì vậy họ bảo bà thí chủ cứ đến tu viện ngày
hôm đó.
Buổi chiều, bà đem hương hoa đến
cúng dường, và khi vào trong tu viện bà tìm một góc để ngồi cách xa với hội
chúng. Bà rất lo lắng cho Ðại Ðức Maliyadeva, sợ rằng Ngài không thể thuyết
pháp giữa một hội chúng đông đảo như vậy.
Ðến giờ thuyết pháp, Ðại Ðức cầm
một cái quạt trong tay và thuyết bài pháp chủ yếu dựa trên hai câu chúc phúc về
"giàu" và "nghèo" mà Ngài vẫn thường chúc cho bà thí chủ
trong suốt ba tháng qua. Dựa trên hai câu này Ngài đã triển khai sâu rộng các
chi pháp có trong Tam Tạng. Bài pháp này Ngài thuyết tận đến khi trời sáng. Khi
bài pháp kết thúc, bà thí chủ đoạn trừ mọi tà kiến và nghi ngờ. Cánh cửa dẫn
đến 4 đường ác đạo bị khép lại và bà đắc quả Nhập Lưu.
b. Tứ Diệu Ðế trong
"giàu" và "nghèo"
Trong bài pháp của Ðại Ðức Maliyadeva,
"cầu cho quý vị được giàu có" nghĩa là cầu cho quý vị chứng đắc Niết
Bàn, vì Niết bàn là tột đỉnh của sự giàu sang. Sự giàu sang ở đây chính là Diệt
Ðế. Còn nghĩa của chữ nghèo ở trong câu "cầu chúc cho quý vị được thoát
khỏi nghèo khổ" bao gồm tất cả sự đau khổ nói chung là Khổ Ðế.
Ðại Ðức Maliyadeva chỉ giải
thích chi tiết Khổ Ðế và Diệt Ðế trong bài pháp của mình, bởi vì khi có Khổ Ðế
tức là Tập Ðế diễn ra, và khi có Diệt Ðế tức là Ðạo Ðế đã được hoàn thành.
Toàn bộ những bài thuyết pháp
của Ðức Phật trong suốt 45 năm được kết tập trong Tam Tạng, bao gồm tám vạn bốn
ngàn pháp môn, đều không ra ngoài Tứ Diệu Ðế. Tất cả đều chứa đựng trong Tứ
Diệu Ðế.
Bài pháp của Ðại Ðức Maliyadeva
nói về sự giàu có của Niết-bàn, đó chính là sự giàu có hoàn toàn chơn thật và
đúng nghiã còn được gọi là Diệt Ðế, mà mọi người bây giờ cần phải chứng ngộ.
Chỉ khi Diệt Ðế được xem là một
nhu cầu thiết thực ngay bây giờ thì mới có thể giải thoát khỏi mọi hình thức
của sự nghèo khổ gọi là Khổ Ðế. Nếu không có tâm nguyện đạt đến chứng Niết bàn
thì không thể nào có chuyện thoát khỏi khổ đau. Không có tâm nguyện đó thì
những khổ đau của thân và tâm cứ tiếp diễn và tiếp diễn mãi.
Ðể chứng đắc Niết bàn, hành giả
phải tinh tấn tu tập chánh đạo để tu tập chánh đạo thì phải thực hành thiền
quán. Vì vậy cần phải hành Tứ Niệm Xứ bất cứ khi nào thời gian cho phép.
Những người có hành Tứ Niệm Xứ
đều nhận rằng những đau khổ của thân và tâm (Khổ Ðế) đều do Tham Ái (Tập Ðế)
gây ra. Hành giả thấy rõ điều này ngay trong mỗi một niệm tỉnh giác.
Khi đã thường xuyên hành Tứ Niện
Xứ hàng giả đạt được Tuệ Ðịnh thấy rõ khổ Ðế sinh ra do Tập Ðế, và khi Tuệ định
trở nên mạnh mẽ hơn, những đau khổ sẽ giảm đi rất nhiều và biến mất trong một
thời gian.
Ðến khi Tuệ Ðịnh mạnh mẽ hơn bao
giờ hết, hành giả sẽ thoát khỏi tập Ðế (Tham Ái) và chứng đắc quả Nhập Lưu. Từ
đây cánh cửa dẫn đến 4 đường ác đạo đã bị đóng chặt, và hành giả chỉ sanh về
những cảnh giới tốt đẹp (sugati) mà thôi. Hành giả cũng có thể chứng đắc quả
Nhất Lai, Bất Lai, hay A La Hán.
Như vậy hai câu kệ mà Ðại Ðức
Maliyadeva thuyết trong thời pháp chính là nói về 2 chơn lý cao siêu được rút
ra từ Tam Tạng.
Giống như Ðại Ðức Maliyadeva đã
chứng đắc quả vị A La Hán trong khi đang học về pháp học, các hành giả đừng nên
quên việc thực hành thiền quán trong khi phải làm những bổn phận của đời
thường. Tùy theo ba- la-mật của mình, hành giả có thể thấu hiểu được những giáo
pháp thâm sâu vi diệu.
Ngược lại, nếu ngay khi rời
trường thiền hành giả bỏ ngay việc quán niệm thì ba-la-mật của hành giả quá non
nớt, khó lòng thấy được pháp cao thượng.
c. Thuyết giảng và
thực hành
Ðể thực chứng giáo pháp cao
thượng thuyết giảng và tinh tấn thực hành những điều được thuyết giảng là điều
kiện tiên quyết. Nếu thiếu một trong hai yếu tố này, hành giả không thể chứng
ngộ giáo pháp cao thượng dù cho hành giả đã có đầy đủ Ba-la-mật có thể sẳn sàng
tiếp thu những nghĩa lý sâu xa nhất. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Pháp cao thượng không sanh
Do thiếu giảng và hành
Nếu giảng, hành hiệp lực
Pháp mầu hiển lộ ngay
Thậm chí ngay trong thời Ðức
Phật, có nhiều người mặc dù có đủ ba-la-mật để tiếp thu lời dạy của Ngài, nhưng
vẫn không đạt được điều gì từ giáo pháp cao thượng chỉ vì thiếu sự thực hành.
Những người đã cố nhiên ngày càng cách xa với chánh pháp.
Ngày xưa, khi Ðức Phật ngự tại
vườn Lộc Uyển, ở thành Benares có một đám cưới
giữa con trai ông phú hộ Mahadana với một thiếu nữ giàu có. Tài sản mỗi bên ước
lượng tới 80 tỷ. Sau khi thành hôn, đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc ở thành Benares. Do quá giàu có, họ không cần phải làm lụng để
kiếm sống. Họ cũng không tinh tấn tu hành để chứng đắc đạo quả.
Người chồng, con trai của ông
phú hộ mỗi ngày tới hầu Ðức vua ba lần. Trên đường đến hoàng cung anh ta nhiều
lần bị nhóm người ăn chơi nhậu nhẹt rủ uống rược chung vui với họ. Anh ta không
thể từ chối họ được nên chẳng bao lâu đã trở thành một con ma men bất khả trị.
Càng ngày anh ta càng đam mê rượu chè cùng với lũ bạn nhậu mỗi lúc mỗi đông
thêm để rồi cuối cùng phung phí hết tài sản cho việc ăn chơi và không còn một
xu dính túi.
Tiêu hết tài sản của mình, anh
ta lấy tài sản của vợ để tiếp tục chè chén say sưa với lũ bạn vô công rỗi nghề
như anh ta. Chẳng bao lâu tài sản của người vợ cũng tiêu tùng theo men rượu.
Hai vợ chồng quyết định bán hết nhà cửa, tài sản và đồ đạc, nhưng do người
chồng tiếp tục nghiện ngập nên cuối cùng cả hai trở thành kẻ ăn mày sống nhờ
vào lòng từ thiện của mọi người.
Một hôm, con trai người phú hộ
này đã trở thành kẻ ăn mày đang xin phần thức ăn thừa của một vị sa di ở trước
cổng của nhà nghỉ thì Ðức Phật trông thấy. Trước cảnh tượng đó, Ngài mỉm cười.
Ðại Ðức Ananda liền xin Ðức Phật giải thích lý do vì sao Ngài mỉm cười khi thấy
người ăn mày.
Ðức Phật thuật lại câu chuyện
của hai vợ chồng giàu có do thiếu chuyên cần tinh tấn nên đã mất hết tất cả tài
sản cả trong đời lẫn trong đạo. Ðức Phật kể rằng lúc đầu cả hai vợ chồng lẽ ra
vô cùng giàu có, chỉ cần họ chăm chỉ trong công việc làm ăn buôn bán thì họ sẽ
là người giàu nhất trong giai cấp quý tộc. Trong giai đoạn này, nếu họ tinh tấn
hành thiền, lẽ ra người chồng đã đắc quả A-la-hán, người vợ đắc quả Bất Lai.
Trong giai đoạn thứ hai của đời
họ, nếu chịu khó làm ăn, họ đã có thể giàu có vào hạng nhì trong giới quý tộc.
Và nếu lúc đó họ biết tu tập thì lẽ ra người chồng đã đắc qủa Bất Lai và người
vợ đắc quả Nhất Lai.
Ðến giai đoạn thứ ba, nếu họ
không quá lười biếng như vậy thì lẽ ra cũng xếp hạng ba trong số những người
giàu có. Và nếu biết hành thiền, lẽ ra người chồng đắc quả Bất Lai và người vợ
đắc quả Nhập Lưu.
Nhưng bây giờ, trong hoàn cảnh
khổ sở của họ, họ đã đánh mất cả hai dịp may là giàu có trong của cải thế gian
và giàu có trong tinh thần trên con đường dẫn đến Ðạo Quả.
Hai vợ chồng giàu có kia dầu
được sinh ra trong thời Ðức Phật, nhưng đã đánh mất cơ hội chứng đắc Ðạo Quả do
thiếu tinh thần nỗ lực. Ðó là bài học quý giá mà chúng ta cần ghi nhớ.
d. Không chú tâm
trọn vẹn thì không có lợi ích gì.
Ngày xưa, khi Ðức Phật ngự ở
Sampa, một người tên là Pettha và một người vô thần tên là Kandaraka tình cờ
đến thăm Ðức Phật. Ðức Phật thuyết cho họ một bài pháp nói về bốn hạng người bị
khổ hạnh. Trước khi Ðức Phật kết thúc bài pháp, Pettha xin phép Ngài cho họ
được cáo từ vì cả hai người đều bận rất nhiều công việc. Như vậy Pettha ra về
trong lúc Ðức Phật vẫn còn đang thuyết pháp.
Giá như Pettha chịu ngồi nghe
cho đến khi Ðức Phật thuyết song bài pháp, ông đã có thể chứng đắc quả vị Nhập
Lưu. Nhưng trái lại ông đã bỏ lở một cơ hội vô cúng quý báu.
e. Hai lý do khiến
cho không thể tiếp thu giáo pháp.
Có hai lý do khiến cho hành giả
không thể tiếp thu giáo pháp, dầu cho vị ấy có được ba-la-mật từ những kiếp
trước. Hai lý do đó là:
1. Thiếu sót trong việc tiếp thu
pháp học và thiếu sót trong việc thực hành những điều học được.
2. Thân cận với bạn xấu.
Vì lý do này mà Pettha đã bỏ lỡ
cơ hội trở thànhbậc thánh Nhập Lưu. Cũng vậy, thái tử A-xà-thế, đáng lẽ có thể
chứng đắc quả Nhập Lưu vào cái ngày Ðức Phật thuyết bài kinh Sa Môn Quả. Nhưng
đã đánh mất cơ hội này bởi vì thái tử đã cùng Devadatta âm mưu giết chết vua
Bimbisara là cha đẻ của mình. Vì vậy, các hành giả muốn chứng ngộ giáo pháp cao
thượng ngay trong kiếp này phải ghi nhớ những yếu tố nói trên.
f. Sự thuyết giảng
không rốt ráo không thể dẫn đến giải thoát
Một thuở nọ Ðức Thế Tôn ngự tại
Tịnh xá Velurana ở thành Ràjagaha. Có một người tên là Danasani bị ốm nặng. Ông
vốn rất tôn kính Ðại Ðức Sàriputta nên khi gần chết ông rất nhớ Ngài. Vì vậy
ông nhờ người đem thư tới cho Ðức Phật và Ðại Ðức Sàriputta.
Trong thư gửi cho Ðức Phật ông
viết rằng vì đang bệnh nặng nên ông không thể đến đảnh lễ Ngài được nữa, và ông
xin gửi tấm lòng thành kính cuả ông đến dưới chân Ðức Phật.
Thư gửi cho Ðại Ðức Sàriputta
cũng viết tương tự, nhưng ông còn cầu xin Ngài vì tâm từ hãy đến nhà để thăm
ông.
Ðại Ðức Sàriputta đến thăm ông
và ngồi bên giường bệnh hỏi han về bệnh tật của ông. Ông thuật rằng bệnh ông
ngày càng nặng thêm và ông cảm thấy là không thể chịu đựng thêm được nữa.
Nhận thấy rằng người bệnh không
thể nào qua khỏi và sắp từ giã cõi đời, Ðại Ðức Sàriputta thuyết cho ông bài
pháp sau:
- Này thí chủ! Cõi súc sanh cao
hơn cõi địa ngục vì ở đó ít có đau khổ hơn. Cõi ngạ quỷ cao hơn cõi súc sanh vì
ở cõi đó ít đau khổ hơn. Nếu so với ngạ quỷ thì cõi người tốt đẹp hơn vì ít đau
khổ hơn. Cõi Tứ Ðại Thiên Vương cao hơn cõi người. cõi Ðao Lợi cao hơn cõi Tứ
Ðại Thiên Vương. Cõi Dạ Ma cao hơn cõi Ðao Lợi. Cõi Ðâu Suất cao hơn cõi Dạ Ma.
Cõi Hóa Lạc Thiên cao hơn cõi Ðâu Suất. Cõi Tha HóaTự Tại Thiên cao hơn cõi Hóa
Lạc Thiên. Cuộc sống của các chúng sanh có cao thấp như vậy là do đã tạo những
phước báu khác nhau.
Tiếp theo ngài so sánh cõi Phạm
Thiên cao hơn cõi Tha Hóa Tự Ðại Thiên rồi Ngài thuyết về 4 phạm trú:
1. Từ (Mettà)
2. Bi (Karuna)
3. Hỷ (Mudità)
4. Xả (Upekkhà)
Sau khi giải xong bài pháp này,
Ðại Ðức Sàriputta trở về Tịnh Xá Veluvana nơi Ðức Phật đang ngự. Ðại Ðức ra về
được một lát thì ông Danasani qua đời.
Ðang ngồi ở Tịnh Xá, bằng trí
tuệ toàn giác Ðức Phật biết rằng Ðại Ðức Sàriputta chỉ thuyết một bài pháp nói
về cõi Phạm Thiên mà không thuyết bài pháp liên quan đến Thiền Tứ Niệm Xứ để
dẫn đến chứng đắc Ðạo Quả. Như vậy Ðại Ðức đã thuyết một bài pháp chưa rốt ráo
cho người sắp chết.
Ðức Phật bảo với chư tăng đang
có mặt ở Tịnh Xá rằng Ðại Ðức Sàriputta đã thuyết một bài pháp chưa rốt ráo cho
người sắp chết và vì vậy mà ông Danasani đã chết mà chưa nghe được giáo pháp
cao thượng. Ðức Phật bảo chư tăng điều này trong khi Ðại Ðức Sàriputta vẫn còn
chưa về đến Tịnh Xá.
Một lát sau Ðại Ðức Sàriputta về
đến Tịnh Xá, đảnh lể Ðức Phật và thưa rằng ông Danasani gởi lời thành kính đảnh
lể dưới chân Ðức Phật.
Khi đó Ðức Phật hỏi Ðại Ðức
Sàriputta tại sao chỉ thuyết cho ông ấy nghe một bài pháp không rốt ráo trong
khi ông có khả năng tiếp thu giáo pháp cao thượng. Ðức Phật lại bảo cho Ðại Ðức
biết rằng bởi vì Ðại Ðức chỉ thuyết bài pháp về cõi Phạm Thiên nên bây giờ ông Danasani
đã sanh lên cõi Phạm Thiên rồi. Nghe vậy Ðại Ðức Sàriputta phải bay lên cõi
Phạm Thiên để tiếp tục thuyết pháp cho ông.
So với cõi người thì trở thành
một vị Phạm Thiên trong cõi Phạm Thiên đã là điều quá tốt đẹp. Nhưng trong
trường hợp ông Danasani, tuy là một phàm nhân nhưng ông có đầy đủ điều kiện để
trở thành một bậc thánh Nhập Lưu hay A-la-hán, nên tuy là sanh lên cõi Phạm
Thiên nhưng thật sự vẫn thấp hơn những gì ông có để đạt được.
Chư Thiên ở cõi Phạm Thiên có
sắc tướng đẹp đẽ và chói sáng. Nhưng sau khi hết tuổi thọ ở cõi Phạm Thiên, họ
phải sanh vào cõi người. Khi ở cõi người, có nhiều điều kiện cho người ta làm
ác mà kết quả là phải sa vào 4 đường ác đạo, làm súc sanh, ngạ quỷ, Atula. Vì
những lý do này, nên tái sanh vào cõi Phạm Thiên sau khi từ giã cõi người thì
vẫn còn thấp kém. Dù sao thì cõi Phạm Thiên vẫn chưa phải là giải thoát, vẫn
còn phải tái sanh và rơi vào cõi ác đạo. Ðiều này là một sự thật hiển nhiên
trong giáo pháp của Ðức Phật. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Trong thế giới Phạm Thiên
Có hào quang chiếu sáng
Ở trong cái chuồng heo
Chỉ có tiếng heo kêu.
Ông Danasani trước khi chết chưa
được nghe giáo pháp cao thượng mặc dầu ông có đủ khả năng để thâu nhận, bởi vì
Ðại Ðức Sàriputta chỉ thuyết về phạm trú mà không nói đến Tứ Niệm Xứ, Tứ Diệu
Ðế và những pháp dẫn đến chứng đắc Ðạo Quả.
Theo quan điểm của loài người,
chư thiên trong cõi Phạm Thiên cao thượng hơn những chúng sanh bình thường ở
cõi người. Nhưng khi một vị Phạm Thiên hết tuổi thọ, họ có thể bị sanh vào
những cảnh giới thấp kém như địa ngục, súc sanh, Ngạ Quỷ, Atula. Ðiều này được
nói đến trong chú giải kinh pháp cú qua câu chuyện một con heo nhỏ.
Thuở nọ, Ðức Phật cùng với Ðại
Ðức Ănanda và chư tăng đang đi khất thực từ Tịnh Xá Veluvana đến thành
Ràjagaha. Trên đường, Ðức Phật bỗng mỉm cười khi thấy một con heo nhỏ. Khi Ðại
Ðức Ănanda hỏi duyên cớ làm sao Ðức Phật mỉm cười, Ðức Phật kể lại chuyện của
con heo nhỏ.
Vào thời kỳ Ðức Phật Cadhusandha,
con heo nhỏ này là một con gà mái nhỏ sống gần một tu viện. Nó thường hay nghe
kinh kệ ở chùa nên sau khi chết được tái sanh là một cô công chúa tên là
Ubbari.
Công chúa này, một hôm khi đi vệ
sinh, quán tưởng về những con giòi dưới hố phân và đắc pháp. Sau khi qua đời,
cô tái sanh là một Phạm Thiên ở trong cõi Phạm Thiên. Khi hết tuổi thọ ở cõi
Phạm Thiên, cô sanh làm con gái của một nhà giàu trong cõi người. Trong kiếp đó
cô tạo rất nhiều ác nghiệp nên khi chết cô sanh làm con heo nhỏ ở trong thành
Ràjagaha.
Từ câu chuyện này có thể kết
luận rằng từ một cảnh giới tốt đẹp là cõi Phạm Thiên, cô tái sanh vào cảnh giới
thấp kém của loài súc sanh , làm một con heo nhỏ.
Vì vậy nếu sự giảng dạy và sự
thực hành mà không rốt ráo và thiếu sót, hành giả có thể tái sanh trong cảnh
giới cao hơn nhưng rồi sa đọa vào những cảnh giới thấp kém khác.
Vì những lý do này, nên chư tăng,
đặc biệt là các pháp sư nên hướng dẫn cho mọi người một cách thấu đáo và rốt
ráo.
Những ai đã dốc toàn tâm toàn ý
vào việc giảng dạy và thực hành, cần phải hiểu rằng sự thấu đáo và rốt ráo là
điều kiện tiên quyết cho việc chứng đắc giáo pháp cao thượng.
Ðã giải thích xong yếu tố thứ 9
để phát triển ngũ quyền.
Quý vị đã đọc quyển "Chín
yếu tố phát triển thiền quán" này thì nên tinh tấn để đạt được và phát
triển những năng lực sau:
- Tinh tưởng vào những điều chân
thật và đúng đắn (Tín lực ).
- Khả năng tinh tấn trong những việc chính đáng (Tấn lực).
- Khả năng chú ý và ghi nhớ những điều tốt đẹp và hữu ích (Niệm lực).
- Khả năng duy trì tâm định tĩnh trên những điều phước thiện (Ðịnh lực).
- Khả năng đi sâu vào những trí tuệ sâu sắc và vi tế hơn (Tuệ lực).
Mong cho tất cả những năng lực
này mỗi ngày mỗi gia tăng và sau cùng tất cả quý vị đều có thể đạt đến Ðạo, Quả
và Niết-bàn, là mục đích tối thượng trong giáo pháp của Ðức Phật.