Chương VII
Yếu Tố Thứ Năm
a. Nguyên nhân dẫn
tới Ðịnh
Các nhà chú giải thích rằng:
"Samàdhisassa
nimittaggahanene"
"Bằng cách nhớ lại những
nguyên nhân dẫn tới tâm an tịnh, dẫn tới Ðịnh, nhớ lại những ấn chứng trong
những lần đắc định trước đây, hành giả sẽ phát triển ngũ quyền và thành tựu tuệ
giác".
Sau mỗi lần ngồi thiền, hành
giảủphải nhớ rằng điều này. Hành giả sẽ nhận ra rằng trong một buổi nào đó,
hoặc một giai đoạn nào đó trước đây, việc hành thiền có kết quả hơn. Hành giả
cố nhớ xem nguyên nhân nào đã khiến cho những quán niệm tốt hơn trong những lần
đó.Có phải là do chỗ ngồi thích hợp, hay do thời tiết dễ chịu, hay do vật thực
phù hợp, hay do oai nghi thuận tiện, hay do có sự tinh tấn đúng mức của thân và
tâm.
Có thể là một hay nhiều yếu tố
đã tạo nên sự thành công trong lần hành thiền đó. Hành giả nên biết rằng nhờ
những yếu tố thuận lợi đómà việc hành thiền của mình được tốt đẹp, và mình có
được những ấn chứng của thiền quán. Ðây là một trong những yếu tố để phát triển
ngũ quyền.
Cũng có lúc hành giả hành thiền
không có kết quả. Hãy cố nhớùlại tại sao mình không thể quán niệm tốt trong
những lần đó. Có phải vì ăn quá nhiều không, vì ăn quá nhiều thì không thể chú
niệm tốt như lúc bình thường được. Hoặc nếu môi trường hành thiền không thích
hợp cũng có thể làm chosự chú niệm bị gián đoạn. Ðôi lúc khí hậu khắc nghiệt mà
hành giả không hành thiền tốt.
Nếu biết được lý do của những
thành công và thất bại trong việc hành thiền, hành giả có thể điều chỉnh có kết
quả tốt hơn.
Khi sự hành thiền bị trở ngại,
nếu là do chỗ ngồi không thích hợp, hành giả chỉ cần xắp xếp lại chỗ ngồi là
ổn. Nếu thấy rằng đólà do ăn quá nhiều thì lần sau hành giả nên ăn bớt lại thì
sự chú niệm sẽ tốt hơn. Nếu do tư thế không thích hợp thì nên đổi oai nghi,
hoặc nếu do thiếu tinh tấn thì nên gia tăng sự tinh tấn quá mức hay do tâm quá
trạo cử, hành giả nên thư giản bớt để cho sự chú niệm có thể trơ ủnên hoàn hảo.
Vì vậy quan sát và nhớ lại những
ấn chứng và điều kiện liên quan đến những lần hành thiền trước đây cũng là một
yếu tố phát triển ngũ quyền và tiến bộ trong tu tập. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Ðể phát triển thiền định
Những ấn chứng trước đây
Phải được khéo ghi nhớ
Nếu hành giả không quan sát và
ghi nhớ những ấn chứng thì khi sự quán niệm gặp trở ngại, hành giả sẽ không
biết được nguyên nhân và do vậy rất khó điều chỉnh. Khi đó sự quán niệm sẽ bị
gián đoạn và sự đắc pháp sẽ bị chậm lại.
Nhờ sự quan sát, hành giả sẽ
biết được nguyên nhân của những thành công và thất bại trong những lần hành
thiền, do đó có thể điều chỉnh một cách thích hợp, khiến cho sự quán niệm được
nâng cao. Ngũ quyền của hành giảủsẽ phát triển và sự tu tập tiến bộ nhiều hơn.
b. Mức độ Tuệ giác
mà hành giả đạt được
Khi hành thiền, do mức độ tuệ
giác đạt được, mà có khi hành giả ngồi thiền rất tốt, có khi lại không tốt.
Cũng giống như một con chim đang bay giữa bầu trời, đôi lúc nó bay sát mặt đất,
đôi lúc nó bay mãi tận trời cao. Tương tự, hành thiền có nhiều giai đoạn khác
nhau.
Ở mức độ danh sắc phân tích trí,
khi hành giả có thể phân biệt giữa danh pháp và sắc pháp, sự chú niệm thường là
tốt. Với Duyên nhiếp thủ trí, khi hành giả thấy rõ nhân quả, sự chú niệm cũng
khá tốt. Ðến Tư duy trí, thì chỗ đang chú niệm khá tốt, bỗng nhiên hành giả
nhận thấy chiều hướng chợt xấu đi. Hành giả phải chịu đựng những cảm giác đau
nhức, buồn nôn, ngứa ngáy, lúc lắc, dao động, nặng nề, v.v....., đủ các loại
thổ.
Hành giả muốn bỏ việc hành
thiền. Khi nghe tiếng chuông báo hiệu giờ hành thiền, hành giả đi vào thiền
đường một cách rất miễn cưỡng.
Hành giả nào thực hành đúng đắn
theo phương pháp sẽ đạt đến Tư duy trí trong khoảng 10 ngày sau. Những thọ khổ
trong giai đoạn này quá nhiều và quá khó chịu nên hành giả đâm sợ việc hành
thiền. Do quá sợ ngồi thiền, hành giả chỉ thích đi kinh hành để thay thế.
Chính tôi trước đây cũng vậy.
Khi đạt đến Tư duy trí, mỗi lần ngồi thiền, tôi thấy khổ sở đến đổại chỉ muốn
hành thiền trong oai nghi đứng thôi, và thậm chí đã thưa với ngài thiền sư về
điều đó.
Một hôm tôi cùng với một vị sư
bạn đến gặp ngài thiền sư để trình pháp. Vừa mới đãnh lễ thầy xong, vị sư bạn
kia đã nói ngay điều mà tôi đang định nói:
"Bạch Ngài, khi ngồi con
thấy quá nhiều thọ khổ, chịu không nổi, xin Ngài cho con được hành thiền trong
oai nghi đứng thôi".
Ngài thiền sư trả lời:
"Sư chỉ hành thiền có 10
ngày, nên tôi không thể cho phép sư điều đó".
Ðến Tư duy trí, hành giả phải
nghe theo lời chỉ dẫn của thiền sư, và phải chú niệm hết sức cẩn trọng và thấu
suốt. Một khi sự chú niệm đúng mức hành giả sẽ đạt đến Sinh diệt trí. Ðến đây,
cảm thọ chuyển từ khổ sang lạc. Hành giả sẽ bắt gặp tất cả các trạng thái an
lạc:
- Thân và tâm đều nhẹ nhàng
(Kàyaslahutà, cittalahutà)
- Thân và tâm đều nhẹ nhàng
(Kàyamudutà, cittamudutà).
- Thân và tâm đều thuần thục
(Kàyapàgunnatà, cittapàgunnatà), có vẻ như đối tượng và tâm chú niệm đều làm
việc một cách tự động, hành giả chỉ ngồi và quan sát. Sự chú niệm hết sức dễ
dàng.
Trong các giai đoạn trước, tức
là ở Danh sắc phân tích trí, Duyên nhiếp thủ trí và tư duy trí, hành giả cần
phải thay đổi tư thế một hoặc hai lần trong giờ ngồi thiền, nhưng đến sinh diệt
trí, hành giả không cần thay đổi tư thế nữa. Hoặc trước đây hành giả chỉ có
ngồi một tiếng thì đến Sinh diệt trí hành giả có thể ngồi một lúc bốn hoặc năm
tiếng đồng hồ. Vì khi đạt đến Sinh diệt trí, thân và tâm đều thích ứng với công
việc, nên sự chú niệm của hành giả trở nên rất tốt.
Như vậy, tùy theo mức độ tuệ
giác mà có những giai đoạn chú niệm tốt hay không tốt. Các thiền sư hiểu rõ
trường hợp như vậy và có thể hướng dẫn để cho thiền sư có thể phát triển ngũ
quyền và tiến bộ trong tu tập.
c. Hoàn cảnh sống
mà hành giả đã huân tập trong đời này và những đời trước
Do hoàn cảnh sống mà hành giả đã
huân tập trong đời này và những đời trước.
Do hoàn cảnh sống mà hành giả đã
huân tập trong đời này và những đời trước, mà sự chú niệm có thể tốt hay không
tốt. Căn cứ vào đó có 4 hạng người.
1. Hạng người khi hành thiền
phải trải qua nhiều khó khăn và đau đớn, mà quá trình đắc pháp cũng chậm
(Dukkhapatipadà - dandha - abhinnà)
2. Hạng người khi hành thiền
phải trãi qua nhiều khó khăn và đau đớn, nhưng đắc pháp nhanh (Dukkha -patipadà
- khippa - abhinnà)
3. Hạng người khi hành thiền,
quán niệm rất dễ dàng thoải mái và quá trình đắc pháp chậm (Sukha
-patipadà-khippa - abhinnà)
4. Hạng người khi hành thiền,
quán niệm rất dễ dàng thoải mái và đắc pháp cũng nhanh (Sukha - patipadà-khippa
- abhinnà)
1- Hạng người thứ nhất là người
trong kiếp hiện tại cũng như trong các quá khứ chưa hề hành thiền chỉ cũng như
thiền quán. Bây giờ khi thực hành thiền quán, người ấy phải trãi qua khó khăn
và đau đớn, và việc đắc pháp cũng hết sức chậm chạp.
2- Hạng người thứ hai là hạng
người kiếp này cũng như kiếp trước, có hành thiền quán mà không thiền chỉ. Bây
giờ khi hành thiền chỉ, thiền quán, người ấy phải trãi qua khó khăn và đau đớn,
tuy nhiên việc đắc pháp lại nhanh chóng.
3- Hạng người thứ hai là hạng
người kiếp này cũng như những kiếp trước có hành thiền chỉ mà không hành thiền
quán. Bây giờ khi hành thiền chỉ, thiền quán, người ấy hành rất dễ dàng thoải
mái nhưng quá trình đắc pháp thì chậm chạp.
4- Hạng người thứ tư hạng người
kiếp này cũng như những kiếp trước đã có hành cả thiền chỉ lẫn thiền quán. Bây
giờ khi hành thiền quán, việc đắc pháp của người ấy rất nhanh chóng.
Các hành giả có thể tự mình xem
xét mình thuộc hạng người nào. Quý vị có thể xác định được mình thuộc một trong
bốn hạng người nói trên.
Lẽ dĩ nhiên ai cũng muốn thuộc
hạng người thứ tư - quán niệm dễ dàng thoải mái và đắc pháp nhanh. Tuy nhiên
không phải mọi thứ đều như mình muốn, mà nó tùy thuộc vào những gì mình đã tạo
tác trong quá khứ.
d. Hai hạng người
đắc pháp chậm
1. Khó hành đắc chậm với hạng
người khi hành thiền phải trải qua nhiều khó khăn và đau đớn, và đắc pháp chậm, thì
phải tinh tấn chú niệm hơn nữa để vượt qua thọ khổ. Chỉ khi đó mới diệt được
sân tùy miên và thấy được pháp.
Sân tùy miên sẽ khởi lên nếu với
cảm giác đau như ngứa ngáy, tâm hành giả liền cảm thấy khó chịu, bực bội.
"Thật là đau đớn! Thật là khủng khiếp! Sự đau đớn này có chịu biến mất
không? Tôi sợ là nó sẽ không bao giờ biến mất cho!" Trạng thái khổ sở đó
gọi là sân tùy miên đi kèm với khổ thọ. Xin hãy đọc 3 lần.
Yếu Pháp:
Ði liền với khổ thọ
Chính là sân tùy miên
Là pháp cần đoạn diệt.
Chỉ khi diệt tận sân tùy miên
hành giả mới có thể thấy pháp và tiến bộ trong pháp. Phải làm như thế nào? Ðức
Phật dạy:
"Dukkhà vedanà sallato dathabbà".
"Khi khổ thọ phát sinh trong ngũ uẩn,
hành giả phải chú niệm cho đến khi thấy khổ thọ như một cái gai."
Chẳng hạn có người đang làm việc
trong một khu rừng bị gai đâm vào tay hay vào chân, người đó chỉ có thể tiếp
tục hay làm việc sau khi đã lấy cái gai ra. Nếu người đó thấy công việc quan
trọng hơn nên cứ tiếp tục làm mà không nhổ cái gai ra.
Cũng vậy, khi khổ thọ phát sinh
trong ngũ uẩn , hành giả phải chú niệm để vượt qua khổ thọ, tương tự như vậy
phải lấy cái gai ra trước tiên. Một khi hành giả đã vượt qua cảm thọ, cũng như
khi đã lấy được cái gai ra, hành giả đã hoàn thành phận sự đoạn diệt sân tùy
miên nương náu nơi khổ thọ. Nhờ vậy hành giả sẽ thấy pháp và tiến bộ trong
pháp. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Khi khổ thọ phát sinh
Phải chú niệm tức thì
Như việc nhổ gai đâm.
Tôi đã nói nhiều về phương pháp
vượt qua khổ thọ bằng sự chú niệm. Nhưng vì lợi ích của những hành giả mới, tôi
sẽ nhắc lại lần nữa. khi những cảm giác đau nhức, buồn nôn phát sinh, đầu tiên
và trên hết, hành giả phải biết được rằng mình sẽ chịu đựng. Phương châm
"Nhẫn nại dẫn đến Niết-bàn" rất lợi ích cho việc hành thiền. Hành giả
không nên chán nản nghĩ rằng mình phải đương đầu với khổ thọ này suốt cả buổi
ngồi thiền. Hàụnh giả nên tự nhắc nhở rằng "cảm thọ sẽ gây đau đớn theo
cách riêng của nó, tuy nhiên phận sự của ta là phải chú niệm".
Và hành giả để cho tâm buông xả.
Khi khổ thọ càng bức bách khó chịu, hành giả thường bị căng thẳng lẫn tâm và
thân một cách vô ý thức. Hành giả phải cẩn thận đừng để cho điều đó xảy ra.
Khi khổ thọ quá mãnh liệt, hành
giả nên buông xả tâm và thư giản thêm một ít. Sau đó hành giả đặt tâm ngay trên
cảm thọ. Hành giả nên quan sát thêm hiện giờ cơn đau nhức như thế nào, nó đang
ở trên da, trong gân, trong xương hay thậm chí trong tủy?
Hành giả quán niệm một cách thấu
suốt và chú tâm bất cứ cảm thọ nào phát sinh lên Sau bốn hoặc năm chú niệm liên
tục , hành giả thấy khổ ngày càng gia tăng. Nhưng khi đạt đến cao điểm thì nó
bắt đầu giảm cường độ. Tuy vậy hành giả không nên lời bớt sự quán niệm mà phải
duy trì sự tinh tấn như trước đây.
Thấy rõ sự tăng và giảm của cảm
thọ tức là thấy được thực tánh của cảm thọ.
Sau đó, khi định tâm vững vàng
hơn, hành giả thấy rõ rằng:
- Trong một niệm, cảm thọ gia tăng.
- Trong một niệm khác, cảm thọ giảm xuống.
- Trong một niệm khác nữa, cảm thọ chuyển sang nơi khác.
Như vậy là hành giả đã thấy rõ
hơn nữa thực tánh của cảm thọ. Hành giả nghiệm ra rằng cảm thọ không phải luôn
luôn là đau nhức mà nó thay đổi hoài.
Khi định tâm mạnh mẽ hơn nữa,
niệm một cảm giác đau, hành giả thấy rằng cảm giác đau sanh lên rồi diệt, sau
đó lại sanh lên rồi diệt.
Thấy được sinh diệt thì đau
không còn là vấn đề quan trọng, mà hành giả cố gắng hết sức để bắt kịp tất cả
sự sinh và sự diệt. Và chú niệm một cách thấu suốt là mối quan tâm chính yếu
của hành giả. Sự chú niệm bắt đầu lấn áp khổ thọ.
Tiếp tục chú niệm, nếu hành giả
đạt đến Diệt trí , khi niệm "đau... đau..." sự sinh khởi của cơn đau
không rõ ràng mà chỉ có sự diệt, mới nổi bật. Ngay khi vừa chú niệm cảm giác
đau thì nó liền diệt mất. Do tâm mãi lo bắt kịp sự diệt nên cảm giác đau không
còn quan trọng nữa mà nhận biết cảm giác là quan trọng hơn. Như vậy khổ thọ đã
bị áp đảo bởi tâm chú niệm.
Ðịnh tâm phát triển hơn, hành
giả thấy rằng khi chú niệm cơn đau, không chỉ cơn đau diệt mà tâm chú niệm cơn
đau đó cũng diệt.
Với những hành giả thông tuệ,
khi chú niệm cơn đau, họ thấy 3 loại diệt:
- cơn đau diệt.
- tâm nhận biết cảm giác đau diệt.
- tâm quán niệm cảm giác đau diệt.
Do thấy được sự diệt, hành giả
nghiệm ra rằng:
- cơn đau là vô thường.
- tâm nhận biết là vô thường.
- tâm chú niệm cũng là vô thường.
Vô thường tiếng Pàli gọi là
Anicca.
Do sự chú niệm đã áp đảo khổ thọ
nên hành giả đã hoàn thành phận sự đoạn diệt sân tùy miên nương náu trong khổ
thọ. Nhờ vậy hành giả sớm đắc pháp và tiến bộ trong pháp.Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
"Tất cả các khổ thọ
Phát sinh lúc quán niệm
Ðều cần phải vượt qua"
Nếu hành giả đã vượt qua được
khổ thọ phát sinh trong lúc quán niệm, thì những cảm thọ cũ đã có trước lúc
hành thiền cũng sẽ được khắc phục, và những bệnh tật trước đây của hành giả sẽ
được chữa lành.
Hướng dẫn cách quán niệm khổ thọ
như vậy rõ ràng.
2. Hạng người khi hành thiền
quán niệm rất dễ dàng thoải mái nhưng đắc pháp chậm.
Lý do là vì hành giả dính mắc
với thọ lạc khiến cho quá trình đắc pháp bị chậm đi. Do đó hành giả phải đoạn
diệt tham tùy miên nương náu trong thọ lạc. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Tham trú trong thọ lạc
Cầụn phải trì tận gốc
"Khi quán niệm dễ dàng
Tham ái thường sinh khởi
Biết cách dừng lại ngay
Là hành có tiến bộ"
Khi sự chú niệm tốt đẹp, thọ lạc
sẽ phát sinh. Nếu hành giả vô tình đề cho tham ái (dính mắc) sinh khởi do bởi
thọ lạc đó, thì việc đắc pháp sẽ dừng lại mà không tiến triển thêm. Vì vậy hành
giả phải đoạn trừ tham tùy miên mới có thể đắc pháp.
Làm thế nào để vượt qua thọ lạc?
Ðức Phật dạy rằng:
"Sukhà bhikkhave vedanà dukkhàto
dathabbà".
"Khi thọ lạc phát sinh, hành giả
phải chú niệm cho đến khi thấy nó như là thọ khổ".
Chú niệm như thế nào? Hành giả
chỉ chú niệm thọ lạc nổi bật nhất. Nếu thọ lạc của thân nổi bật, hành giả niệm
"an lạc..., an lạc..., an lạc...". Nếu thọ lạc của tâm nổi bật, hạnh
giả niệm "an lạc..., an lạc...".
Tiếp tục chú niệm cho đến khi
đạt Diệt trí, khi niệm "an lạc... an lạc..." trạng thái an lạc sau
khi sinh lên liền diệt mất. Tốc độ sanh diệt quá nhanh đến nỗi hành giả cảm
thấy bức bách. Hành giả nhận ra rằng đó là Khổ. Do thấy khổ mà hành giả đã hoàn
thành phận sự đoạn diệt tùy miên nương náu trong thọ lạc. Xin hãy đọc 3 lần:
Yếu Pháp:
Tham trú trong thọ lạc
Cần phải được đoạn diệt
Khi an lạc phát sinh
Thấy nó như đau khổ
Là chú niệm đúng cách
Khi thọ lạc được xem như thọ khổ,
phận sự đoạn diệt tùy miên dính mắc với thọ lạc đã hoàn thành hành giả sẽ thấy
pháp và tiến bộ trong pháp.