Thiền học
Thiền Tịnh song tu
Thích Chân Quang
10/06/2556 23:37 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

4. 1. Nếu xét một cách tương đối, ta thấy pháp môn Tịnh độ có vẽ phổ cập bình dân; còn pháp môn Thiền thì có tính cách thượng lưu trí thức hơn. Xét bề ngoài, phép niệm Phật đối lập hẳn với thiền. Vì thiền không nương vào ai ngoài mình, còn niệm Phật thì nhất thiết nương vào đức Phật. Nhưng nếu phân tích về tâm ly của phép niệm Phật vẫn còn có cái tương đồng giữa việc duy trì một công án ở Thiền Tông và việc niệm danh hiệu Phật ở Tịnh độ tông. Do nền tảng tâm lý chung này mà cả hai có thể gần gũi nhau, Thiền với niệm Phật và niệm Phật với thiền.

…Thiền và niệm Phật dường như không đồng mà đồng. Vì đích của Thiền là thấu hiểu ý nghĩa của cuộc sống, đích của niệm Phật cũng vậy. Thiền chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật. Trong khi đó, niệm Phật nhắm đi tới cõi Tịnh độ vốn dĩ không chi khác hơn là tự tâm, và nhắm thấy rõ tự tánh vốn dĩ chính là đức A-Di-Đà.

Nếu thế làm sao phân biệt niệm Phật và thiền? Kinh nói: Như đi vào một thành lớn mà khắp bốn phía đều có cửa; từ những nẻo khác nhau, người ta tìm thấy lối vào riêng biệt của mình. Vì cửa không chỉ có một. Nhưng khi vào rồi, họ cũng ở trong thành như nhau. Thiền và niệm Phật mỗi bên có một căn khí riêng, nhưng khi đi đến đích thì đều gặp nhau.

Ở niệm Phật, các người có thể phân biệt đằng nào linh nghiệm, đằng nào không linh nghiệm. Tại sao? Nếu việc tụng niệm của tín giả chỉ ỡ trên môi miệng còn tâm thì chẳng nghĩ tưởng chút gì đến Phật thì tụng niệm ấy không linh nghiệm. Trái lại, nếu miệng và tâm cùng chung hướng về Phật trong lúc tụng đọc danh hiệu Ngài, khiến cho tâm với Phật không rời nhau một bước, thì niệm Phật như thế chắc chắn sẽ có kết quả. Giả dụ có một người tay cầm tràng hạt, miệng niệm danh hiệu Phật; nhưng nếu cứ vọng tưởng cuồng tâm, chạy xuôi chạy ngược, thì đó là một người chỉ tụng ở miệng chứ không tụng ở tâm, chỉ luống công vô ích, nhọc sức mà chẳng được lợi ích gì; tốt hơn là nghĩ tưởng đến Phật trong tâm dù môi không mấp máy. Vì như thế mới là đồ đệ chân chính của pháp môn niệm Phật.

Há không thấy kinh nói rằng mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ thương con. Nếu con cũng nhớ tưởng đến mẹ như thế thì tại sao mẹ con không có ngày hội ngộ!

- Kẻ học thiền hãy cứ một mực theo thiền, người niệm Phật hãy cứ khăng khăng niệm Phật. Nếu tâm bị phân chia giữa hai thứ sẽ chẳng thành tựu được gì cả. Người xưa đã nói ví dụ về tình trạng bị phân tâm như thế giống như một người cố bước vào hai con thuyền một lúc, nhưng chẳng bước vào đâu được.

Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ đã nói sự dung thông giữa thiền và tịnh. Ông được xem như một trong những người chủ trương tôn giáo hòa hợp vĩ đại trong lịch sử Trung Hoa, đã cố gắng dung hòa giữa Thiền và Tịnh độ.

Quán Kinh nói: "Mỗi một đức Phật Như Lai hiện thân trong pháp giới và thâm nhập trong tâm của tất cả hữu tình. Vậy mỗi khi các ngươi tưởng đến Phật, chính tâm của các ngươi được trang nghiêm bằng 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Tâm ấy được chuyển thành Phật tánh, tâm ấy chính là Phật. Biển chánh trí của chư phật nổi dậy trong tâm tưởng của các ngươi. Vì lẽ đó, các ngươi hãy nhất tâm tu tập quán tưởng Phật Như Lai, Ngài là bậc A La hán, Chánh đẳng giác".

- Cứ để cho sự chú tâm lên tới cao độ của nó thì sẽ có một trực giác về những chân lý huyền diệu như vậy. Vãng sanh tức vô sanh, niệm Phật tức không có gì để niệm. Tâm này chính là Như Lai, dù sắc thân còn lệ thuộc thế giới này mà tâm thì vui sướng trong cõi tịnh độ.

- Lại nữa củi sẽ cháy nếu châm lửa vào - lửa đốt cháy và lửa vốn có trong củi là một. Như thế chính do hòa hợp nội duyên và ngoại duyên mà hết thảy các pháp hiện hành. Dù tất cả chúng ta có sẵn Phật tánh, nhưng tự Phật tánh nó không đốt cháy những tham dục nếu như không châm ngọn lửa của trí tuệ siêu việt. Ngọn lửa trí tuệ đó vốn là danh hiệu Phật.

Dưới cái nhìn của thiền, câu "Nam mô A di đà Phật" là một công án đề ra cho các môn đồ của Tịnh độ tông. Ðấy là lúc chìa khoá được đặt vào tay hành giả, toàn thể kho tàng ý thức dành cho y nay được toàn quyền tự do sử dụng.

- Tôn giáo trọn vẹn được xây dựng trên nền tảng kinh nghiệm, không có kinh nghiệm này, tất cả cơ cấu giáo lý của nó sẽ sụp đổ. Ðây là chỗ khác nhau giữa tôn giáo và triết học. Hết thảy các hệ thống triết học mai kia có thể sẽ băng hoại, nhưng đời sống tôn giáo mãi mãi được chứng nghiệm những huyền bí sâu xa của nó. Tịnh độ tông và Thiền tông không thể tách rời khỏi những huyền bí này. Tịnh độ tông đặt trọng tâm của mình trên việc niệm Phật và Thiền tông thì đặt trên thực hành công án. Nếu như xét về những kiến trúc của chúng thì cả hai hình như rất gần gũi nhau.

Thiền sư Bạch Ẩn nói: "Ðiều mà tôi trách cứ nhiều nhất là thái độ của các môn đệ thiền. Họ cần phải tự mình luyện tập nơi thiền thì lại biếng nhác, hoặc hèn kém, và trong khi bê trễ ở pháp môn này họ lại sợ hãi mà nghĩ tới một ngày tàn sắp đến của tuổi già, và lại bắt đầu với pháp môn niệm Phật là pháp môn giải thoát tốt đẹp nhất và thích hợp nhất dành cho chúng sanh trong thời mạt pháp này. Họ thật đáng thương. Họ như những con sâu, sinh ra từ cột gỗ, trở lại gặm nhắm gỗ và cuối cùng kéo nó đổ xuống. Vì vậy, họ đáng bị khiển trách nặng nề".



4. 2. Cõi tịnh độ theo kinh điển Nam Tông

Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà từ Hán tạng, vốn được phiên dịch từ kinh điển Sanskrit. Ở đó, cõi Tịnh độ hay Cực lạc được mô tả là cảnh giới tuyệt vời với tất cả những sự thù thắng, trang nghiêm. Con đường dẫn đến cõi này có thể chỉ gói gọn trong công phu trì niệm hồng danh Phật Di Đà. Ngoài sự thanh tịnh có được từ việc nhất tâm niệm Phật Di Đà, oai lực của Ngài cũng thừa sức tiếp dẫn vong linh người niệm Phật vãng sinh về thế giới Tịnh độ để họ tiếp tục tu hành trong điều kiện thuận lợi hơn xưa gấp triệu lần. Cõi ấy giữa người với người không hề biết tương tranh, vì ở đó không có chuyện chiếm hữu lợi danh như ở cõi Ta bà nhiều kiếp nạn này.

Nhưng đó là theo kinh điển Hán tạng, nguồn giáo lý chủ đạo của Phật giáo Bắc truyền. Trong bài viết này ta thử tìm hiểu vấn đề qua kinh điển Pàli, nguồn giáo lý căn bản của Phật giáo Nam truyền. Dĩ nhiên, trong Tam tạng Pàli cũng có khái niệm Tịnh độ (nếu ta muốn gọi thế) với những trình bày thật rõ ràng về cảnh giới này, những cư dân ở đó và con đường dẫn đến cảnh giới Tịnh độ, tức phép cầu vãng sanh theo kinh điển Nam truyền.

Trước hết, cõi Tịnh độ được biết đến trong kinh điển Pàli được dịch là Tịnh cư, theo lối chiết tự "chổ ở thanh tịnh". Vậy Tịnh cư cũng chính là Tịnh độ, Tịnh thổ. Thậm chí chữ Pàli này còn gần gũi với chữ Tịnh độ, Tịnh thổ cũng gọi là chốn An lạc.

Theo các chú sớ A Tỳ Đàm, có tất cả 5 cõi Tịnh độ, nằm trong 16 cõi Phạm thiên Hữu sắc, và là chỗ tái sanh của các bậc Thinh văn Bất lai hay còn gọi là A na hàm. Tuy cảnh giới này chỉ gồm toàn các vị Bất lai và La hán (chứng A la hán sau khi sanh về đây), nhưng trên căn bản vì vẫn là cõi Hữu sắc nên ở 5 cõi Tịnh độ này vẫn có những lâu đài, hoa viên rất trang nghiêm, dĩ nhiên không phải là nơi chốn hưởng thụ, mà đó chỉ là những dấu vết tối thiểu của một cõi Ngũ uẩn. Về tuổi thọ, chư Thánh Bất lai ở cõi thấp nhất trong 5 cõi Tịnh độ là cõi Vô phiền có thọ mạng 1.000 đại kiếp, kế đến là cõi Vô nhiệt có thọ mạng 2.000 đại kiếp, cõi thứ ba là Thiện hiện có thọ mạng 4.000 đại kiếp, cõi thứ tư là Thiện kiến có thọ mạng 8.000 đại kiếp và cõi Sắc cứu cánh có thọ mạng 16.000 đại kiếp.

Do có những lúc trải qua một thời gian dài không có chư Phật ra đời độ sinh nên dân số trên 5 cõi Tịnh độ chỉ có giảm mà không được bổ sung, do vậy cũng có những thời điểm 5 cõi này không tiếp tục tồn tại (HT Thích Giác Quang đã trích giảng năm 2010 tại các chùa Phước Hưng (Bình Dương), chùa Phước Hưng, chùa Pháp Thường (Nhôn Trạch) Tịnh xá Bửu Sơn (Định Quán) và tại Quan Âm Tu Viện).

Cư dân tịnh độ theo kinh điễn Nam Tông

Trước tiên là trình bày đại lược về 4 tầng Thánh trí làm nên 4 bậc Thánh nhân và chính Đức Phật cũng được kể vào đó. Sơ quả hay Tu đà hoàn (Dự lưu), còn được gọi là Thất lai, người không thể tái sanh quá 7 lần, là vị đã chấm dứt hoàn toàn 3 thứ phiền não thân kiến ( nôm na là chấp kiến trong 5 uẩn), hoài nghi (nghi ngờ về Phật pháp nói chung) và giới cấm thủ (chấp trước các tín điều mù quáng). Ở một số vị, thánh trí Sơ quả chỉ là một giai đoạn thoáng qua trước khi hoàn tất các tầng thánh trí cao hơn. Như trường hợp Đức Phật hoặc các vị Thanh văn tốc chứng. Nhưng cũng có lúc giai đoạn này kéo dài trong nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều năm hoặc vài kiếp sống (dĩ nhiên không quá 7 kiếp). Sớ giải Trường Bộ ghi rằng Thiên vương Đế Thích hiện nay là một vị Thánh Sơ quả. Khi hết tuổi thọ, ngài sẽ sinh xuống nhân gian làm Chuyển luân vương và chứng đắc Nhị quả Tư đà hàm. Sau đó sanh lên Đao Lợi thiên chứng Tam quả A na hàm và lần lượt tái sanh ở đủ 5 cõi Tịnh độ, bắt đầu là cõi Vô phiền, cuối cùng ngài sẽ chứng quả La hán và nhập diệt ở cõi Sắc cứu cánh.

Tầng Thánh trí thứ hai là Nhị quả Tư đà hàm. Ngoài 3 phiền não đã chấm dứt ở tầng thánh trước, quả vị này còn làm giảm nhẹ dục ái và sân hận. Do chỉ còn có thể tái sanh cõi Dục giới một lần nữa thôi, nên quả vị này được gọi là Nhất lai .

Tầng Thánh thứ ba là Tam quả A na hàm, nghĩa là bậc Bất lai, người không còn trở lui các cõi dục giới nữa (có tất cả 11 cõi Dục giới). Theo A Tỳ Đàm tạng Pàli thì do đã chấm dứt dục ái (niềm tham luyến trong ngũ trần) và sân hận nên vị Thánh Tam quả trong trường hợp không thể chứng La hán rồi nhập diệt ngay đời này thì có hai con đường để đi:

Nếu đã chứng đắc Ngũ thiền thì sẽ tùy theo khả năng mạnh yếu của Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ mà sanh về một trong năm cõi Tịnh độ. Tín nổi trội thì sanh về cõi Vô phiền, Tấn hùng hậu thì về cõi Vô nhiệt, Niệm hùng hậu về cõi Thiện hiện, Định hùng hậu thì về cõi Thiện kiến, Tuệ thâm hậu thì sanh về cõi Sắc cứu cánh. Ở cõi Tịnh độ thứ năm này toàn bộ Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ đều được sung mãn; vì đây là nơi chốn sau cùng để một vị Bất lai chứng quả La hán và nhập diệt.

Trong trường hợp vị Thánh Bất lai chưa chứng qua một tầng thiền định nào, tức chỉ có trí tuệ Thiền quán mà không từng tu tập Thiền chỉ thì lúc mạng chung, vị này do khả năng ly dục vô sân tuyệt đối nên tối thiểu cũng thành tựu Sơ thiền trước khi mạng chung ở cõi Dục giới và như vậy cũng đủ để sanh về cõi Phạm thiên thấp nhất là Phạm thiên Sơ thiền.

Do túc duyên và trình độ tu chứng có khác nhau nên giữa các bậc Thánh Tam quả cũng có vài sai biệt. Theo Chú sớ Tăng Chi Bộ:

- Vị Bất lai chứng La hán khi chưa sống hết phân nửa thọ mạng ở cõi Tịnh độ nào đó trong 5 cõi.

- Chứng La hán sau khi sống hơn nửa thọ mạng ở cõi Tịnh độ nào đó.

- Do căn tánh không xuất sắc, có vị Bất lai phải lần lượt sanh đủ 5 cõi Tịnh độ mới chứng quả La hán rồi nhập diệt ở cõi Tịnh độ cao nhất.

- Vị Bất lai có thể chứng La hán mà không cần nhiều cố gắng.

- Vị Bất lai phải nhiều nỗ lực mới có thể chứng La hán.

Tầng Thánh trí thứ tư chính là quả vị La hán, người chấm dứt toàn bộ phiền não. Theo A Tỳ Đàm thì có 3 quả vị La hán: Chư Phật Chánh Đẳng Giác, cũng là những vị La hán nhưng do tự mình chứng đắc và là đạo sư hướng dẫn cho những người hữu duyên chứng đắc La hán. Những vị La hán đệ tử này được gọi là Thanh văn giác. Quả vị La hán thứ ba là Độc Giác Phật, những vị tự mình chứng ngộ La hán nhưng không thể hướng dẫn người khác chứng ngộ La hán. Kinh điển Hán tạng còn gọi Độc Giác Phật là Duyên Giác Phật vì cho rằng các Ngài nhờ liễu ngộ nguyên lý Duyên khởi mà giác ngộ (cách nghĩ này bắt nguồn từ những giai thoại về chư Phật Độc Giác trong Chú sớ Tiểu Bộ Kinh, một trong những bộ phận kinh điển làm nền tảng cho nhiều kinh luận hậu tác, đọc kỹ các bộ A Hàm sẽ thấy rõ điều này). Kỳ thực, nếu đọc kinh Đại Duyên trong Trường Bộ kinh, ta sẽ thấy lý Duyên khởi và lý Tứ đế (vẫn bị hiểu lầm là dành riêng cho Thanh văn) vốn dĩ chỉ là một. Trong Trung Bộ kinh, Đức Phật đã xác định ai thấy lý Duyên khởi chính là thấy Pháp và ngược lại. Đồng thời, không hề có chuyện một người giác ngộ lý Tứ đế mà lại mơ hồ về lý Duyên khởi hay ngược lại. Tất cả quả vị La hán vừa nêu trên đây luôn giống nhau về khía cạnh giác ngộ các pháp cần yếu (như Tứ đế, Duyên khởi…), chỉ khác ở hai điểm chính: Tự mình hiểu ra hay phải nhờ thầy hướng dẫn và điểm thứ hai là ngoài trí tuệ giác ngộ còn có khả năng hiểu biết sâu rộng những gì nằm ngoài lý tưởng giác ngộ hay không. Xét về khía cạnh này, chỉ có chư Phật Chánh Đẳng Giác là viên mãn. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng ta chỉ đặc biệt nhấn mạnh quả vị Bất lai, vì đề tài ở đây là các cõi Tịnh độ.

Vãng sanh Tịnh Độ theo kinh điển Nam Tông

Vãng sanh vẫn được dùng song song với chữ siêu sanh, nhưng theo tinh thần A Tỳ Đàm thì siêu sanh còn có thể được hiểu là vượt thoát tái sanh, một điều chỉ thực hiện được bởi một vị La hán. Như vậy trong trường hợp vị Bất lai sanh về các cõi Tịnh độ chỉ có thể gọi là vãng sanh. Và nếu phải trả lời câu hỏi về con đường vãng sanh Tịnh độ, thì như tất cả những gì vừa nêu trên, ta hoàn toàn có thể nói rằng vãng sanh Tịnh độ chỉ là một phần đường trên hành trình giải thoát của một vị Thanh văn, và như thế pháp môn Tịnh độ hay con đường vãng sanh trong trường hợp này cũng đồng nghĩa với hành trình Tam học, Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo, nói chung là hành trình 37 Bồ đề phần. Các pháp trong 37 Bồ đề phần đối với nhau chỉ là mối quan hệ tương tức; cái này chính là cái kia, trong cái kia có cái này.

Như vậy, lời đáp cho câu hỏi về con đường vãng sanh là toàn bộ những gì mà ta vẫn gọi là Phật pháp và theo cách hiểu này, pháp môn Tịnh độ cần thiết cho tất cả mọi người. Đồng thời, chiếu theo tinh thần căn bản của Phật giáo mà nói thì khi nhắc đến pháp môn Tịnh độ, cầu vãng sanh không hề có nghĩa là chờ đợi sự tiếp dẫn của bất cứ ai, mà phải là sự lên đường bằng chính đôi chân của mình. Đại Đức Uyên Minh (HT Thích Giác Quang đã trích giảng năm 2010 tại các chùa Phước Hưng (Bình Dương), chùa Phước Hưng, chùa Pháp Thường (Nhơn Trạch) Tịnh xá Bửu Sơn (Định Quán) và tại Quan Âm Tu Viện).



4.5 .Ý tưởng Tịnh Độ Thiền của Sư Anando

Sư Anando là nhà Sư Nam tông đệ tử của Đức Tăng Thống Giới Nghiêm suốt quá trình theo Thầy học đạo rất tinh tấn, năm 1966 Sư đi du học Tích Lan, Nhật Bản đến 5 năm sau trở về Việt Nam, đến cầu pháp với Đức tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước, dạy pháp tu niệm Phật A Di Đà với pháp "thiền niệm" làm cho ý trần vong bặt, pháp trần vọng niệm không sanh, phát khởi lòng từ bi thương xót muôn loài. Sư thường xuyên thực tập pháp nầy và có đến Singapore, Malaya, Nhật Bản thuyết pháp. Năm 1973, Sư được phép và thường xuyên đến Tịnh thất Bảo Tịnh của Sư Giác Quang tại Quan Âm Tu Viện để cùng đàm luận đạo mầu về lý duyên sanh và giáo lý Tịnh độ tông theo ý tưởng Tịnh độ Non Bồng.

Năm 1999 đến 2001, tức là với thời gian 03 năm phát nguyện sư Anando về Tổ Đình Linh Sơn, núi Dinh an tọa Am Bửu Châu dưới chân núi, được sự hộ trì của Ni Trưởng Huệ Giác, Trưởng Tông Phong Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, Sư tu hành rất tinh tấn. Với quyển Tịnh Độ Thiền do Sư biên soạn để làm kim chỉ nam trong quá trình kết thất của mình.

Sự kết hợp Thiền Nam tông, Niệm Phật Tịnh Độ tông, có cả Mật tông được Sư nghiêm trì hành đạo rất tinh chuyên cho đến khi viên tịch cũng tại chốn non xanh cẩm tú nầy.

Nay sau khi biên soạn quyển Thiền Tịnh song tu sắp xong, chợt nhớ ra trong Thư Viện Non Bồng có quyền Tịnh Độ Thiền của Sư, tôi vội lấy ra giảo nghiệm thấy có lực niệm và hiệu quả cao, lời văn và ý tưởng của Sư thuộc văn phong của Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng thiện hạ Phước; chúng tôi nhận thấy đây là gia bảo, nên cho Thị giả đưa vào quyển sách Thiền Tịnh song tu để làm đề tài thực tập cho những người mới phát tâm tu hành.



Khóa lễ Tịnh Độ Thiền:

Tịnh pháp giới:

Om răm – (Om ram) (7 biến)

Nguyện Hương

Nam mô bổn sư Thích Ca Mu Ni Như Lai (3 lần)

Khói hương lan tỏa khắp

Thấu suốt cả ba cỏi

Năm uẩn đều thanh tịnh

Ba độc tự lặng yên

Om Đha-Rờ-Má Sú-Đha Gá Tê Sờ-Va Ha (3 biến)

(Om Dharma Suddhă Gate Svahă)

Nguyện đem lòng thành kính

Gửi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thề trọn đời giữ Đạo

Theo Tự Tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sanh

Cầu Phật từ bi hộ

Tâm Bồ Đề kiên cố

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ Giác

Nam mô hương cúng dường Bồ Tát ma ha tát (3 biến)

Trong tam giới không có gì tôn quý hơn ba ngôi báu: Phật Pháp Tăng. Nay con xin Quy Y và nương về Tam Bảo.

Nguyện xin Tam Bảo thường Gia Bị

Nguyện xin Bổn Tôn thường Nhiếp Thọ

Nguyện xin chư vị Hộ Pháp thường Ủng Hộ

Nam Mô Gú Rú Phí-giắc

Nam Mô Bú-đha-gía

Nam Mô Đha-rờ-ma-gía

Nam Mô Săng-gha-gía (3 lần)

(Namo Guru Phyah

Namo Buddhaya

Namo Dharmaya

Namo Sanghaya)

Kính lạy đấng Đạo Sư

Con nguyện xin:

Tự Quy Y Phật Bảo

Tự Quy Y Pháp Bảo

Tự Quy Y Tăng bảo (3 lần)

Sau khi Quy Y Phật Bảo, xin Nguyện cho con Dứt Trừ Nghiệp Chướng từ bao đời nay. Nương thừa Từ Bi Lực của chư Phật mười phương Nguyện cho con được Tội Diệt Phước Sinh, Chấm Dứt Sanh Tử Luân Hồi. (1 lạy)

Sau khi Quy Y Pháp Bảo, xin Nguyện cho con thường gặp Chánh Pháp, luôn Tu Tập được Chánh Pháp và Giải Thoát Trong Đời Hiện Tại. (1 lạy)

Sau khi Quy Y Tăng Bảo, xin Nguyện cho con thường gặp các Bậc Đạo Sư Chân Chánh. (1 lạy)



Thọ Trì Ngũ Giới:

Con Nguyện xin Thọ và Suốt Đời Giữ Ngũ Giới:

1. Không sát sanh

2. Không trộm cắp

3. Không tà dâm

4. Không nói dối

5. Không uống rượu



Phát Nguyện Bồ-đề Tâm:

Đệ tử Pháp Danh ......... xin Nguyện từ thân này đến khi thành tựu Chánh Đẳng Giác nơi Bồ-đề Đạo Tràng Vô Thượng xin:

Tự Quy Y Ba Thân Vô Thượng của chư Như Lai

Tự Quy Y Pháp Tạng Phương Quảng Đại Thừa

Tự Quy Y tất cả Bồ Tát Tăng Không Thoái Chuyển



Ngũ Hoằng Thệ Nguyện:

Chúng Sanh vô biên thề nguyện độ

Phật Pháp vô lượng thề nguyện học

Phiền Não vô tận thề nguyện đoạn

Chánh Giác vô thượng thệ nguyện thành

Như Lai vô biên thề nguyện sự. (3 lần)

Cúi xin Mười Phương chư Phật, chư Đại Bồ Tát Chứng Biết và Hộ Trì cho con.



An Địa Thiên Chân Ngôn:

Ná Mắc Sá Măn Tá Bú-đha Năn Om Prờ-thí Ví Yê Sơ-va Ha (3 biến)

(Namah Samanta Buddhănam Om Prthiviye Svahă)



Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn:

Om Sa-rờ-vá Phá vá Sú-đha,Sa-rờ-vá Đha-rờ-má, Sa-rờ-vá Phá vá Sú-đhô Hăm (3 biến)

(Om Sarva Bhava Suddhă Sarva Dharma Sarva Bhava Suddho Hăm)



Ngũ Bộ Chú:

Om Răm, Om Trờ-hí-yim, Om Ma Ni Pách Mê Hùm,

Om Chá Lê Chô Lê Chum Đê Sơ-va Ha. Phờ-rum. (7 biến)

(Om Răm, Om Trhyim, Om Mani Padme Hum,

Om Chale Chole Chumde Svaha, Bhrum.)



Phổ Cúng Dường Chân Ngôn:

Om Gá Gá Ná Sâm Phá Vá Vắc-jra Hộc. (3 biến)

(Om Gagana Sambhava Vajra Hoh.)



Sám Hối Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn:

Nay con xin Sám Hối tội xưa

Bởi Vô Minh con đã tích chứa

Biết bao tội lỗi Thân, Ý, Nghiệp

Tham Dục, Sân, Si che Bản Tâm

Ở nơi Phật Pháp Thánh Hiền Tăng

Cha Mẹ, Đạo Sư với Bạn Lành

Cũng như vô lượng ức chúng sanh

Luân chuyển chìm trong dòng sanh tử

Lầm lỡ tạo nên bao tội nặng

Nay con ở trước Mười Phương Phật

Xin Sám Hối, Nguyện Không Tái Phạm

Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)



Chí Tâm Đảnh Lễ:

Nam Mô Quá Khứ Tỳ Bà Thi Như Lai (1 lạy)

Nam Mô Thi Khí Như Lai (1 lạy)

Nam Mô Tỳ Xá Phu Như Lai (1 lạy)

Nam Mô Câu Lưu Tôn Như Lai (1 lạy)

Nam Mô Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai (1 lạy)

Nam Mô Ca Diếp Như lai (1 lạy)

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mu Ni Như Lai (1 lạy)

Ri Phá Ri Phá Tê, Ku Há Ku Há Tê Tra Ní Tê Ní Gá Lá Rí Tê Ví Ma Rí Tê Sờ-va Ha. (Ribha Ribhate Kuha Kuhate Tranite Nigalarite Vimarite Svaha.)

Đảnh Lễ:

Nam mô chí tâm đảnh lễ: Tận hư không biến pháp giới Phật, Pháp, Tăng Thường Trụ Tam Bảo (3 lạy)

Nam mô chí tâm đảnh lễ: Tây Phương Cực Lạc Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai (3 lạy)

Nam mô Quán Thế Âm Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Di Lạc Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Hư Không tạng Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Phổ Hiền Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Kim Cang Thủ Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Trừ Cái Chướng Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Địa Tạng Vương Đại Bồ Tát (1 lạy)

Nam mô Đại Thế Chí Đại Bồ Tát (1 lạy)



Thập Cam Lồ A Di Đà Đại Chân Ngôn

Cũng gọi là

Vô Lượng Thọ Như Lai Chân Ngôn:

Nam Mô Rách-na Trá Ya Ya, Ná Mắc A Rí Ya Mi Tá Pha Yá Tá Tha Gá Ta Ya Rờ Há Tê, Sâm Yắc Sâm Bú Đha Yá, Tá Ýa Tha:

Om Âm-rờ Tê, Âm-rờ Tốp Phá Vê, Âm-rờ Ta Sâm Phá Vê, Âm-rờ Ta Gá Phê, Âm-rờ Ta Sí Tê, Âm-rờ Ta Tê Jê, Âm-rờ Ta Ví Rim Tê, Âm-rờ Ta Ví Rim Tá Gá Mí Nê, Âm-rờ Ta Gá Gá Ná Hí Tí Ka Rê, Âm-rờ Ta Đum Đú Tê Sờ-varê, Sa-rờ Vá Thá Sách Thá Nê, Sa-rờ Vá Ka-rờ Má Krăm Sắc Sá Yăm Ká Rê Sờ-va Ha.



(Namo Ratna Trayaya Namah Aryamitaphaya Tathagatayarhate Samyah Sambuddhaya Tadyatha:

Om Amrte Amrtobbhave Amrta Sambhave Amrta Garbhe Amrta Site Amrta Teje Amrta Vihrimte Amrta Vihrimta Gamine Amrta Gagana Hitikare Amrta Dumdute Svare Sarvatha Sathane Sarva Karma Kram Saksayăm Kare Svaha.) (21 biến)



Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Đắc Vãng Sanh Tịnh Độ Chân Ngôn



Nam Mô A Mi Tá Phí Ya Tá Tha Gá Ta Yá Tá Yá Tá Yá Tha:

Âm-rờ Tốp Phá Vê, Âm-rờ Ta Sâm Phá Vê, Âm-rờ Ta Ví Kranh Tê, Âm-rờ Ta Ví Kranh Tá Gâm Ní Gá Gá Na Kí Tắc Kờ-lê Sờ-va Ha. (24 biến)

(Namo Amitabhya Tathagataya Tadyatha:

Amrtobbhave Amrta Sambhave Amrta Vikrante Amrta Vikranta Gamni Gagana Kitakle Svaha.)



Cữu Tự A Di Đà Tâm Chân Ngôn:



Om Âm-rờ Ta Tê Jê Yá Răm Hùm Hờ-rịch (108 biến)

(Om Amrta Teje Yarăm Hum Hrih)



Phát Nguyện Vãng Sanh:

Nay con Pháp danh ………… Phát Bồ Đề Tâm, một lòng quy mệnh Đức A Di Đà Như Lai, tha thiết nguyện cầu được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc Quốc. Nhớ lúc xưa Giáo Chủ Tịnh Độ Tây Phương A Di Đà có lập thệ rằng:

“Nếu chúng sanh nào muốn về nước ta, chỉ cần chí thành xướng niệm danh hiệu ta liên tục mười niệm, nếu chẳng được vãng sanh, ta thề không thành Phật”.

Tin chắc vào lời đại thệ của Đức A Di Đà Như Lai, nương nhờ Phật lực từ bi, con xin được tội diệt, phước sanh, dứt trừ mọi chướng ngại, nguyện trước khi lâm chung con biết trước ngày giờ, được Phật và chư vị Thánh Chúng tiếp dẫn vãng sanh, mau ngộ Phật thừa, độ khắp muôn loài.

Nam Mô A Di Đà Phật (108 biến)

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (21 biến)

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (21 biến)

Nam Mô Phổ Hiền Bồ Tát (21biến)

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (21 biến)

Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (21 biến)



Chân ngôn làm tăng công đức trì niệm:

Om sâm phá ra, Sâm phá ra, ví má ná ksa ra, ma ha vắc jra hùm, om sờ ma ra ví má nás ka ra ma ha vắc jra hùm. (7 biến)

(Om sambhara sambhara vimanaskara maha vajra hum. Om smara smara vimanaskara ma ha vajra hum)



Hồi hướng:

Nguyện đem công đức này

Tiêu trừ nghiệp xưa nay

Tăng trưởng các phước huệ

Viên thành căn thắng thiện

Bao nhiêu kiếp đao binh

Cùng với nạn đói khát

Đều diệt sạch không còn

Quyến thuộc nay an lạc

Oan gia về Tịnh Độ

Mưa gió thường hòa thuận

Nhân dân hằng khang ninh

Pháp giới các hàm thức

Đồng chứng đạo vô thượng



Bổ khuyết chân ngôn:



Om hú rú hú rú yá rê múc khê sờ-va ha (7 biến) (Om dhuru dhuru yare mukkhe svaha)

Lễ văn

Trì tụng công đức thù thắng hạnh

Vô biến thắng phước đều hồi hướng

Nguyện khắp chúng sanh đang chìm đắm

Mau lìa khổ não chứng Bồ Đề.

Nam Mô Thập Phương Pháp Giới Thường Trụ Tam Bảo (3 lần, 9 lạy)

(Đánh 9 tiếng chuông, lễ lạy rồi nghĩ).



Thời khóa công phu:

Dành cho 2 hạng Hành Giả:

1. Hành Giả Chuyên Tu Tịnh Độ Thiền

2. Hành Giả Nhập Thất

Hành Giả Chuyên Tu Tịnh Độ Thiền thì nên trường chay hay ít nhất 10 ngày chay và mỗi ngày 2 thời khóa sáng tối.

Mỗi thời khóa:

Trì niệm Chân Ngôn Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng 24 – 108 biến

Vô Lượng Thọ Như Lai Chân Ngôn 21 biến

A Di Đà Tâm Chân Ngôn 108 biến

Lục tự Nam Mô A Di Đà Phật :

Niệm lục tự A Di Đà

Không cần dùng chuỗi, chỉ cần lắng nghe rõ từng chữ lúc đang niệm mới là điều quan trọng. Vì thế có thể ngồi niệm từ 30 phút đến 1 giờ, 2 giờ… tùy sức!

Niệm ra tiếng lớn, nhỏ, hay niệm thầm đều được.

Nên nhớ không được niệm nhanh!

Tư thế ngồi có thể là bán già hay kiết già.

Ngoài thời khóa công phu mỗi ngày hãy thường niệm liên tục lục tự Di Đà trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi và tâm phải chú nghe từng chữ đang niệm, để tự tâm trong sáng dần không còn bị vọng niệm quấy nhiễu nữa.

Nếu Hành Giả nhập thất (7, 21, 49, 100 ngày, 1 năm…):

Bắt buộc ăn chay trong suốt thời gian nhập thất.

Cần chia 4 hay 6 thời mỗi ngày tùy theo sức khỏe và dành nhiều thì giờ ngồi thiền niệm lục tự A Di Đà.



Công dụng bất khả tư nghì của chân ngôn

Tại pháp hội núi Linh Thứu, Đức Quán Thế Âm Đại Bồ Tát bước ra trước Phật bạch rằng:

Nay con nương Phật uy của đức A Di Đà Như Lai mà ban cho chúng sanh quyết chí niệm Phật thời mạt pháp một chân ngôn gọi là Vô Lượng Thọ Như Lai Chân Ngôn. Đây là tạng Pháp bí mật, ẩn chứa vô biên Phật lực tự tại của Đức A Di Đà Như Lai:

Nếu hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni hoặc Thiện Nam, Tín Nữ lỡ phạm giới căn bản tụng xong 7 biến liền trở lại giới phẩm thanh tịnh.

Tụng 21 biến tiêu diệt các tội tứ trọng, ngũ nghịch đại tội, thập ác và tất cả các chướng ngại trên bước đường tu hành đều trừ sạch. Hiện đời an lạc, thuận lợi được sự nhiếp thọ của vô lượng Như Lai.

Tụng một muôn biến tâm Bồ Đề hiển hiện nơi tâm không quên mất, thấy đức Phật phóng quang trên đảnh đầu. Người niệm Phật lần lần thể nhập tịnh tâm tròn sáng mát mẽ, tiêu tan tất cả phiền não.

Khi lâm chung, hành giả niệm Phật liền thấy Phật A Di Đà cùng vô lượng muôn ức Bồ Tát vây quanh, an ủi, tiếp dẫn: người niệm Phật tức khắc được vãng sanh về thượng phẩm ở Cực Lạc Quốc.

Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật rằng:

Thưa Thế Tôn, con nay vì thương tưởng chúng sanh nơi thời mạt pháp, khi ấy kiếp giảm nên thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật chân ngôn gọi là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Vãng Sanh Tịnh Độ Đà Ra Ni để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng, trừ sạch phiền não, được mau chóng vãng sanh về Cực Lạc Thế Giới.

Người niệm Phật phải ăn chay và giữ ít nhất ngũ giới, thân khẩu ý đều phải thanh khiết.

Ngày đêm 6 thời, mỗi thời tụng 24 biến.

Như vậy sẽ diệt được các tội: tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác và hủy báng chánh pháp, diệt trừ được hết sự nhiễu hại của các loại ma quỷ thần v.v…

Thường được đức Di Đà phóng quang trên đảnh đầu.

Hiện đời an ổn, phước lạc.

Hơi thở cuối cùng được tùy nguyện vãng sanh Cực Lạc Quốc.



Công năng của A Di Đà Tâm Chân Ngôn

Thường xuyên tụng niệm được tăng trưởng phước đức, tăng ích trí huệ, biện tài vô ngại, thọ mạng và sức lực lâu dài. Tiêu trừ chướng nghiệp, tiêu diệt vạn bệnh… từ bi ái ngữ tăng trưởng, mọi sự đều tốt đẹp.

Vĩnh viễn thoát khỏi nhà lửa tam giới.

Người trì niệm sẽ được vãng sanh vào hàng thượng phẩm thượng sanh.

Đây là tâm chú bí mật của đức A Di Đà Như Lai.



Điều kiện khẩn yếu:

Người hành trì pháp môn Tịnh Độ Thiền phải giữ chắc 3 điều kiện cơ bản vô cùng cần thiết là Tín – Nguyện – Hạnh:

TÍN :

Đức Phật dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng tức kiến Như Lai”.

Nghĩa là : “Tất cả đối tượng cũng như cảnh giới bị lục căn nhận biết đều là huyễn hóa không thật có. Nếu thấy rõ tất cả tướng đều là hư huyễn tức chứng được bản thể chân như tự tánh vậy!”

Nên đối với hết thảy chúng sanh chưa giải thoát sinh tử, tức chưa chứng tánh thì mọi cảnh giới huyễn hóa luân hồi đang trả quả đều chấp là thực có cả!

Lúc chưa chứng thánh, vì nghiệp lực, chúng ta vẫn thấy cảnh Nam Diêm Phù Đề ở cõi Ta Bà này là nghiệp luân hồi trầm luân!

Bởi thế, hiện kiếp này cần phải tin chắc Tây Phương Tịnh Độ cũng có thật nơi tự tánh của mỗi một chúng sanh vốn trùm khắp pháp giới. Nên chỉ cần chí thành niệm danh hiệu đức A Di Đà cầu vãng sanh về Cực Lạc Quốc thì chắc chắn có cảm ứng. Mặc dù uế độ như cõi Ta Bà này hay Tịnh Độ như cõi Tây Phương Cực Lạc Thế Giới của đức A Di Đà Như Lai cũng đều huyễn hóa vọng hiện nơi chân tánh mỗi chúng sanh, nhưng nương cảnh Tịnh Độ huyễn hóa kia, tu tiến dễ chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bất Thoái Chuyển Bồ Tát và Thành Tựu Phật Quả hơn nhiều, mà không sợ bị đọa lạc vào các đường ác đạo! Đó là nhờ Phật lực của Đức A Di Đà Như Lai gia bị vậy!

NGUYỆN :

Trong mỗi thời khóa công phu trì niệm rất cần nguyện cầu được vãng sanh về Tây Phương Tịnh Độ của đức A Di Đà Như Lai.

HẠNH :

Cần hiếu thảo với cha mẹ, đáp ơn thầy tổ và thực hành Thập Thiện Hạnh là 10 hạnh lành gồm có :

03 nghiệp Thân:

Không sát sanh – nên phóng sanh

Không trộm cắp – nên bố thí

Không tà dâm – nên tránh xa sắc dục

4 nghiệp khẩu:

Không vọng ngữ – nên nói lời chân thật

Không ỷ ngữ – nên nói lời khiêm cung

Không đâm thọc – nên nói hòa giải

Không ác khẩu – nên nói dịu dàng

03 nghiệp ý:

Không tham – nên làm lợi sanh

Không sân – nên từ bi tha thứ

Không si – nên sáng suốt phân biệt tà chánh, đúng sai, phải quấy



Sư Đại Đức Anando đã viên tịch vào ngày.......tháng.......năm 2002, thọ 58 tuổi, 10 năm tu theo hệ thống Nam tông, 30 năm tu theo hệ thống đại thừa, phát tâm niệm Phật. Sư để lại một gia tài thật quý báu cho người sau của Sư là quyển Tịnh Độ Thiền vô giá nầy, Sư có nhắn gởi là giao cho Sư Giác Quang để lưu lại trong đời về công đức tu của Sư. Nay soạn giả làm được việc mà Sư Anando ước nguyện, Với công đức vô biên xin hồi hướng khắp pháp giới chúng sanh, đồng sanh Tây phương Cực lạc thế giới, đồng thành Phật đạo.