7. 1. Cõi Tịnh độ theo kinh Duy Ma Cật:
Khi bàn về cõi Tịnh độ, Duy Ma Cật nói: "Này Bảo Tích, Ông nên biết! Trực tâm là Tịnh độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh không dua nịnh sanh sang nước đó.
Thâm tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ công đức sanh sang nước đó.
Bồ đề tâm là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh có tâm Ðại thừa sanh sang nước đó.
Bố thí là Tịnh độ của Bồ Tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh hay thí xả tất cả tài sản sanh sang nước đó.
Trì giới là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh tu mười điều lành, hạnh nguyện đầy đủ sanh sang nước đó.
Nhẫn nhục là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đủ 32 tướng tốt trang nghiêm sanh sang nước đó.
Tinh tiến là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh siêng tu mọi công đức sanh sang nước đó.
Thiền định là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh biết thu nhiếp, tâm chẳng tán loạn sanh sang nước đó.
Trí tuệ là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được trí tuệ sanh sang nước đó.
Tứ vô lượng tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh thành tựu từ, bi, hỷ, xả sanh sang nước đó.
Tứ nhiếp pháp là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được giải thoát sanh sang nước đó.
Phương tiện là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh khéo dùng phương tiện, không bị trở ngại sanh sang nước đó.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ niệm xứ, chánh cần, thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi, 8 thánh đạo sanh sang nước đó.
Hồi hướng tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được cõi nước đầy đủ tất cả công đức.
Nói pháp trừ tám nạn là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, cõi nước không có 3 đường ác và tám nạn.
Tự mình giữ giới hạnh không chê chỗ kém khuyết của người khác là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, cõi nước không có sự hủy phạm giới cấm.
Mười điều lành là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh sống lâu, giàu có, phạm hạnh, lời nói chắc thật, giọng nói dịu dàng, quyến thuộc không chia rẽ, khéo hòa giải việc tranh chấp, kiện tụng, nói lời có ích, không giận, không ghét, thấy biết chân chánh; tất cả các chúng sanh ấy sanh sang nước đó.
Cho nên, này Bảo Tích, Bồ tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm được thanh tịnh; tùy chỗ tâm thanh tịnh mà cõi Phật được thanh tịnh.
7. 2. Bồ Đề Đạt Ma nói về Tây phương Tịnh độ:
Phật ở trong tâm như trầm hương ở trong cây, phiền não nếu hết thì Phật theo tâm hiện ra, vỏ mục nếu hết thì hương theo cây tỏa ra. Nên biết ngoài cây không có hương, ấy là hương ngoài của cây khác. Nếu ngoài tâm có Phật, ấy là Phật ngoài của ai khác.
Trong tâm có 3 độc, đó gọi là quốc độ dơ bẩn. Trong tâm không có 3 độc, đó gọi là quốc độ thanh tịnh. Kinh nói: "Nếu khiến chi quốc độ vẫn đục, dơ xấu cứ dẫy đầy lên, rồi chư Phật Thế Tôn sẽ từ trong đó xuất hiện, thì điều đó không thể nào có được. Cái vẩn đục dơ xấu ấy, tức là3 độc vô minh vậy. Chư Phật Thế Tôn ấy, tức là tâm thanh tịnh giác ngộ vậy". (Thiếu Thất Lục Môn, tr. 64).
Hỏi: Như lời kinh nói: "dốc lòng niệm Phật chắc được vãng sanh qua cõi Tịnh độ Tây phương", chỉ cần theo một cửa ấy tức được thành Phật, sao còn nói quán tâm để cầu giải thoát làm gì?
Ðáp: Phàm nói niệm Phật, cốt cần niệm chánh, rõ nghĩa là chánh, không rõ nghĩa là tà. Niệm chánh chắc được vãng sanh; còn niệm tà thì sao qua đó được?
Phật là giác, tức tỉnh thức vậy: Tỉnh thức để thấy rõ thân tâm mình, đừng khiến niệm dữ lừng lên. Nói niệm tức ghi nhớ vậy: Ghi nhớ giữ giới hạnh, chẳng quên tinh tấn. Có hiểu như vậy mới gọi là niệm. Cho nên niệm cốt ở tâm, chẳng ở lời nói. Phải biết:
Mượn nôm bắt cá, được cá phải quên nôm.
Mượn lời cầu ý, được ý phải quên lời.
Ðã xưng niệm Phật trên danh từ
Nên biết niệm Phật trong đạo lý.
Nếu tâm không thực thì miệng tụng tiếng suông, 3 độc chất chồng, nhân ngã chèn lấp, làm sao thấy Phật?
Ðem tâm vô minh hướng ngoài cầu Phật, chỉ nhọc sức nào có ích gì ?
Nên biết chư Thánh ngày xưa tu niệm Phật, phải đâu nói ngoài miệng, chính là tìm xét trong tâm. (sđd, tr.42)
7. 3 . Tịnh độ Thiền của Đức Huệ Năng:
Một ngày kia, Vi Thứ Sữ có thiết một tiệc chay lớn mà đãi Đại Sư. Khi mãn tiệc, Thứ Sữ thỉnh Sư lên tòa giảng, rồi cùng các viên quan, chức sắc, học trò, và dân chúng đồng trang nghiêm đến làm lễ Đại Sư một lần nữa mà hỏi rằng: “Đệ tử nghe Hòa Thượng nói pháp (lý nghĩa thâm diệu), thiệt không thể nghĩ suy và bàn nghị được. Nay có một chút nghi, xin Đại Từ Bi vì đệ tử mà giải rõ.”
Sư nói: “Có điều nào nghi thì hỏi, ta giải cho.”
Vi Thứ Sử bạch: “Đệ tử có nghe Đức Đạt Ma lúc ban sơ hóa độ Lương Võ Đế, vua hỏi rằng: “Trẫm trọn đời cất chùa, độ tăng, đãi chay làm phước, có công đức gì ?” Đức Đạt Ma nói: “Thiệt không có công đức.” Đệ tử chưa hiểu thấu lẽ ấy, xin Hòa Thượng giải cho.
Sư nói: “Thiệt không có công đức. Chớ nghi lời của Thánh nhơn đời trước. Võ Đế lòng tà, không biết chánh pháp. Cất chùa độ tăng, đãi chay làm phước, ấy gọi là cầu phước, không thể lấy phước mà kể là công đức được. Công Đức ở trong Pháp Thân, chớ chẳng phải ở chỗ tu phước.
Sư lại nói: “ Thấy tánh là công, giữ lòng bình đẳng là đức. Niệm niệm tâm không ngưng trệ, thường thấy Bổn Tánh, động tịnh tự nhiên, diệu dụng chơn thật. Ấy gọi là công đức. Bên trong, giữ lòng khiêm hạ là công, bên ngoài hành động theo lễ là đức. Tánh mình lập ra muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm trần là đức. Muốn tìm cái công đức Pháp Thân, thì phải y theo đây mà tu hành. Thế mới là thiệt có công đức. Người tu công đức, thì lòng chẳng nên khinh dễ người, mà phải thường cung kỉnh khắp cả nhơn vật. Nếu lòng thường khinh dễ người, thì bổn ngã của ta chẳng dứt, tức là mình không có công. Tánh mình giả dối, không chơn thật, tức là mình không có đức. Bởi bổn ngã của ta tự đại, nên thường khinh dễ cả thảy nhơn vật.
Chư Thiện tri thức, niệm niệm thấy tánh không rời là công, lòng giữ công bình chánh trực là đức. Tự giồi tánh mình là công, tự trau thân mình là đức.
Chư Thiện tri thức, công đức phải thấy trong tánh mình, chớ chẳng phải tìm ở chỗ cúng dường và bố thí (làm phước). Bởi vậy, phước đức với công đức là khác nhau. Vua Võ Đế không biết Chơn Lý, chớ chẳng phải tại Tổ Sư ta lầm.
Thứ Sử lại hỏi: “Đệ tử thường thấy các thầy tăng và người tục niệm Phật A Di Đà, nguyện vãng sanh về Tây Phương, xin Hòa thượng giải rõ cho biết các người ấy được vãng sanh về Tây Phương chăng? Xin Ngài phá chỗ nghi này.”
Sư nói: “Sữ quân, hãy nghe cho kỹ, Huệ Năng nầy giải cho. Đức Thế Tôn lúc ở thành Xá Vệ, nói kinh về chỗ tiếp dẫn hóa độ vào cõi Tây Phương, rõ ràng cõi ấy cách đây chẳng xa. Nếu luận về hình tướng và số dặm thì có mười muôn tám ngàn, tức chỉ mười điều ác (1. Giết hại sanh mạng, 2- Trộm cắp, 3- Tà dâm, 4-Nói dối, 5- Nói xúi dục hai đàng, 6-Nói hung ác, 7-Nói thêu dệt, tục tỉu, 8- Tham lam, 9-Giận hờn, 10-Si mê), và tám điều tà trong thân (1-Tà kiến: Thấy hiểu tà vạy, 2-Tà tư duy: Nghĩ ngợi điều tà vạy, 3-Tà ngữ: Nói tà vạy, 4-Tà nghiệp: Tạo nghiệp tà vạy, 5-Tà mạng: nuôi dưỡng mạng sống của mình bằng các nghề tà vạy như làm thuốc độc, đánh mướn, làm võ khí, v.v, 6-Tà phương tiện: Làm phương tiện tà vạy, 7-Tà niệm: Suy gẫm tà vạy, 8-Tà Định: Thiền định tà vạy, không trúng chánh pháp). Thế mới là nói xa. Nói xa là vì người hạ căn, nói gần là vì người thượng trí. Người có hai hạng, pháp không có hai thứ. Tánh mê ngộ khác nhau, chỗ kiến giải có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu vãng sanh về cõi Tây Phương, người ngộ tự tịnh tâm mình. Sở dĩ Phật nói: Tâm mình tịnh, tức là cõi Phật tịnh.
Sử quân, người Đông phương mà tâm tịnh, thì không có tội. Còn tuy là người Tây Phương mà tâm không tịnh thì cũng có tội. Người Đông phương tạo tội cầu vãng sanh về cõi Tây Phương, còn người Tây Phương tạo tội cầu vãng sanh về xứ nào? Người phàm mê muội chẳng tỏ tánh mình, không biết cõi Tịnh Độ trong thân, nên mới nguyện Đông nguyện Tây. Còn người giác ngộ dầu ở chỗ nào, tâm địa cũng một mực thanh tịnh tự nhiên. Sở dĩ Phật nói: Tùy cái chỗ trụ mà tâm thường được an lạc.
Sử quân, nếu tâm địa của mình trọn lành, thì cõi Tây Phương cách đây chẳng xa. Bằng mình cưu mang cái tâm chẳng lành mà niệm Phật cầu vãng sanh, thì ắt khó đến cõi ấy.
Nay khuyên các Thiện tri thức, trước trừ mười điều ác, tức là đi tới mười muôn, sau dứt tám điều tà, ấy là qua khỏi tám ngàn. Niệm niệm thấy tánh, thường làm việc công bình chánh trực, thì đến cõi ấy mau như khẩy móng tay, liền thấy Phật Di Đà.
Sử quân, làm mười điều thiện, thì cần gì phải nguyện vãng sanh ! Còn nếu chẳng dứt lòng cưu mang mười điều ác, thì Phật nào tới rước mình! Nếu hiểu rõ pháp Vô Sanh Đốn Pháp, thì trong một sát na ắt thấy cõi Tây Phương. Bằng chẳng hiểu rõ pháp ấy, mà cứ niệm Phật cầu vãng sanh thì đường xa vòi vọi, thế nào đặng đi tới cõi ấy. Để Huệ Năng nầy dời cõi Tây Phương trong một sát na cho các vị thấy liền trước mắt, các vị muốn thấy chăng?”
Chúng nhơn đều đảnh lễ đáp rằng: “Nếu thấy cõi ấy, thì cần gì phải nguyện vãng sanh! Xin Hòa Thượng từ bi hiện cõi Tây Phương cho mọi người đặng thấy.”
Sư nói: “Đại chúng, người ở thế gian, sắc thân của mình là cái thành, con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, cái lưỡi là các cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi, tánh là vua. Vua ở tại cõi tâm. Tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm tồn tại, tánh đi thì thân tâm hoại hư. Muốn thấy Phật, phải ngó vào trong tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm. Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật.
Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỉ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh tức là Thích Ca, lòng bình trực tức là Di Đà.
Lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy (tham dục) là nước biển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối giả là quỷ thần, lòng trần lao là cá trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu si là súc sanh.
Chư Thiện tri thức, thường làm mười điều thiện, thì Thiên Đường liền đến. Dứt lòng nhơn ngã, thì núi Tu Di xập ngay, bỏ lòng tà vạy thì nước biển khô cạn, trừ lòng phiền não thì sóng lặng êm, quên lòng độc hại thì rồng dữ ắt tuyệt... Tu được như thế, thì các Giác Tánh Như Lai ở trong tâm địa mình phóng đại quang minh, soi sáu cửa ngoài trong sạch, có thể phá được các cõi trời Lục Dục (Lục Dục Thiên là: Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Da Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Lạc Biến Hóa Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên), lại trong soi tánh mình, làm cho ba độc (tham, sân, si) liền dứt, cả thảy các tội địa ngục đồng tiêu diệt một lần, trong ngoài sáng thấu, chẳng khác gì cõi Tây Phương. Nếu chẳng tu các hạnh ấy, thì thế nào đến cõi Tây Phương được.”
Đại chúng nghe nói, thấy tánh rõ ràng. Tất cả đều làm lễ, khen thiệt hay, và xướng lên rằng: “Nguyện khắp chúng sanh trong Pháp giới nghe rồi, liền được tỏ hiểu.”
Sư nói: “Thiện tri thức, muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở chùa. Ở nhà mà thường tu hành, thì cũng như người Đông phương có lòng lành. Ở chùa mà chẳng tu, thì cũng như người Tây Phương có lòng dữ. Nếu lòng trong sạch, thì tánh mình tức là Tây Phương vậy.”
Vi Thứ Sử lại hỏi: “Ở nhà tu hành như thế nào, xin Đại Sư chỉ dạy.”
Sư nói: “Ta nói cho đại chúng một bài kệ “Không tướng” (vô tướng). Nếu y theo đó mà tu, thì cũng như thường ở cùng ta một chỗ không khác. Bằng chẳng tu theo đó mà thế phát xuất gia, thì đối với Đạo nào có ích gì !”
Tụng rằng:
Lòng bình đẳng, chẳng đợi giữ giới
Làm việc ngay, chẳng đợi tu thiền
Ân song thân hiếu dưỡng cần chuyên
Nghĩa huynh đệ, dưới trên tương ái
Nhượng hòa mục, tôn ti đối đãi
Nhẫn muôn điều, ác nghiệp tất tan
Nếu bền tu, như cựa gỗ, lửa lên
Nơi bùn lấm, nở đầy sen đỏ
Đắng miệng đó thuốc trừ bệnh khổ
Nghịch tai là lời thật, chánh trung
Sửa lỗi lầm, trí huệ phát sung
Bưng dấu lỗi, ấy lòng bất thiện
Phải hàng ngày, chuyên làm việc thiện
Phật Đạo nào bạc thí đặng nên?
Tâm Bồ Đề, trong kiếm mới nên
Ngoài cầu kiếm, nhọc lao, sái Đạo
Nghe chánh pháp, cứ theo tu tập
Cảnh Tịnh liền ngay mắt thấy liền.
Tổ lại nói: “Chư Thiện tri thức! Cả thảy phải y theo bài kệ này mà tu hành và tự thấy tánh mình, thì chắc thành Phật Đạo. Pháp chẳng đợi chờ, các người hãy giải tán, ta về Tào Khê. Nếu có điều chi nghi ngờ, thì hãy đến đó mà hỏi.”
Bấy giờ, Vi Thứ Sử cùng các thiện nam tín nữ tại hội, tâm tánh đều đặng mở mang tỏ sáng. Cả thảy đồng cung kính và vâng theo lời dạy.
7.4. Tịnh độ trong Thiền của ngài Thân Loan:
Nói đến pháp môn Thiền và Tịnh viên dung, xin trích lượïc về ý chỉ Thiền trong Tịnh độ của ngài Thân Loan thánh nhân để chư liên hữu độc giả tiện việc nghiên cứu, nhất là Tăng Ni, Phật Tử Non Bồng.
Học giả Blome nói về pháp môn Tịnh độ trong Thiền như sau: ...Tất cả chúng ta đều thấy rõ sự phổ biến về thực tập thiền quán trong xã hội đương thời bất chấp sự hội nhập tôn giáo. Mặc dù thiền quán có một vị trí nổi bật trong việc thực tập của Phật Giáo từ lúc khởi đầu của nó, nhưng Thân Loan đã phủ nhận sự thực tập của tự lực (tự cố gắng) và đối lập đến niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà như con đường để giác ngộ.
Như một kết quả, Tịnh Độ Chân Tông đánh mất cơ hội để chia sẻ tuệ giác tâm linh của nó với nhiều người tìm cầu trong xã hội đương thời, những người tìm sự tin tưởng tâm linh qua thiền quán. Chúng ta cần phải thấu hiểu nền tảng quan điểm của Thân Loan Thánh Nhân liên quan đến sự thực tập thiền quán.
Khi chúng ta quan tâm đến thế giới tâm linh mà Thân Loan (1173-1263) đã sống vào đầu thời kỳ Trung Cổ của xã hội Nhật Bản, chúng ta có thể thấu hiểu tốt hơn tại sao sự thực tập này được đặt qua một bên. Chính Thân Loan đã thực tập thiền quán như một phần của hệ thống tu viện Thiên Thai Tông trong hai mươi năm từ lúc chín tuổi đến hai mươi chín tuổi. Thiền tập của Thiên Thai Tông có nhiều tầng bậc mà trong ấy căn bản là sự thực tập một nghìn ngày chịu đựng tâm linh, thử nghiệm sức mạnh thân thể và tinh thần của môn nhân. Trong thời gian này Thân Loan đã tuyệt vọng với việc biết bao giờ thân chứng giác ngộ và giải thoát tâm linh khỏi dòng suối sinh tử luân hồi qua những sự thực tập khó khăn và vất vả của tu viện, kể cả thiền quán. Vấn đề là niềm đam mê mạnh mẽ và tính tự mãn của ông mà thường là kết quả từ việc quyết tâm thực tập tôn giáo. Việc thực tập như vậy đưa đến sự so sánh với những người khác và tự biện hộ.
Tuy thế, chúng ta phải chú ý rằng Thân Loan thật đạt đến những kinh nghiệm hư ảo qua thiền quán mà vì thế đã đưa ông đến Pháp Nhiên Thượng Nhân. Ông cuối cùng tìm được sự giải thoát khỏi sự vở mộng tâm linh qua sự hướng dẫn của Pháp Nhiên (1143-1212), bậc đạo sư Tịnh Độ Tông nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Thân Loan đã trở thành người đồ đệ nhiệt thành và cuối cùng đã phát triển sự diễn giải đặc thù của chính ông về giáo huấn nhấn mạnh trên niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà cùng việc trì niệm danh hiệu Phật trong việc nhớ ơn như hoàn toàn đầy đủ ý nghĩa để đạt đến giác ngộ. Tuy nhiên, thiền tập không là nguồn gốc hay phương tiện giải thoát tâm linh của ông.
Vào lúc ấy thiền tập là một bộ phận của toàn bộ cương lĩnh nguyên tắc tôn giáo hướng đến sự tập trung và tịnh hóa tâm thức để trãi nghiệm chân lý bất nhị của Đạo Phật trong chiều sâu của con người. Đấy là sự thực tập góp phần đến việc đạt được sự giác ngộ và do thế là nền tảng thực hành của Đạo Phật. Đấy là một nổ lực tôn giáo và tâm linh như nhiệm vụ của tiến trình thiêng liêng.
Đối với quan điểm của cá nhân Thân Loan và giáo huấn Tịnh Độ Tông, mục tiêu của thiền quán một cách căn bản là không thể áp dụng cho người thường bởi vì nó đòi hỏi tự ngã vượt thắng chính nó bởi năng lực hay nổ lực của chính nó. Thiền quán cũng như những sự thực tập khác của chùa viện đối với Thân Loan là tự mâu thuẩn như là phương tiện để tịnh hóa chính mình bởi tự mình. Do thế, ông đã rời tu viện và học hỏi cùng thực tập với Pháp Nhiên, người đã dạy rằng Đức Phật Di Đà đã nguyện ôm ấp và giải thoát tất cả chúng sinh khỏi bẩy rập của họ trong mê muội và chấp ngã. Để làm điều này Pháp Nhiên đã dạy trì danh hiệu Phật, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, như một phương pháp dễ dàng cho mọi người trong thời kỳ mạt pháp để được vãng sinh về Cực Lạc nơi họ có thể đạt đến giác ngộ.
Đức Phật A Di Đà đã tạo ra cõi Tịnh Độ, nơi những điều kiện thích hợp cho việc đạt đến giác ngộ. Điều kiện tiên quyết để được vãng sanh là tin tưởng trong Đại Nguyện của Phật Di Đà và trì niệm danh hiệu Ngài. Qua năng lực của danh hiệu, mà đấy là hiện thân đức độ của Phật A Di Đà, người tín thành có thể sanh về thế giới Cực Lạc. Như một kết quả, những thực hành truyền thống của chùa viện kể cả thiền quán đã không cần thiết cho những người bình thường có niềm hy vọng đạt thể chứng giác ngộ và được thoát khỏi tất cả mọi xiềng xích của nghiệp chướng. Cuộc vận động này đã trở nên rất phổ biến và đã tồn tại ở Nhật Bản.
Chúng ta trở lại thời điểm ngày nay và tình cảnh tôn giáo hiện thời, hoàn cảnh đã thay đổi một cách căn bản. Trong tác động áp lực hiện tại về thiền quán ở phương Tây lôi cuốn từ một sự phong phú về những truyền thống. Có những hình thức thiền quán của yoga, thiền minh sát, căn bản của Phật Giáo Theravada, Thiền Tông hay Zen từ Trung Hoa, Đại Hàn và Nhật Bản. Cũng có những pháp thiền quán của Phật giáo Tây Tạng và những môn phong thực hành pháp môn tu theo ý tưởng siêu việt của Lục Tổ Huệ Năng "buông xả, mỉm cười trong yên lặng", mỗi truyền thống có phong cách riêng của nó. Những hình thức này của thiền tập như sự thực tập tôn giáo bao hàm giáo lý và mục tiêu tương ứng với truyền thống của nó. Sự thực tập trong những truyền thống này được tin tưởng có thể làm cho con người tỉnh thức về thực tại căn bản. Kết quả của sự thực tập chuyển hóa đời sống cá nhân, tâm linh, cũng như trong những giá trị ưu tiên và quan hệ con người. Một quan điểm mới về cảm nhận của con người về Siêu Nhiên sẽ sinh khởi bằng việc vượt thắng nhị nguyên làm phiền não tâm thức chúng ta và thấu hiểu qua ý chí tâm linh về thực tại sâu sắc hơn.
Trong hiện trạng tạm thời hiện nay, thiền tập cũng đã được dành một vị trí riêng biệt khỏi niềm tin tôn giáo và đã đi vào cuộc sống thường ngày ở phương Tây như một phương tiện để làm tâm thức hòa bình, như một sự giải thoát tâm lý của cá nhân hay sự phát triển cá tính. Sự tiếp cận tâm thức hiện tại đã di chuyển từ việc cứu độ đến cải thiện đời sống, từ tôn giáo đến tâm lý trị liệu. Người ta thực tập thiền quán cho sức khỏe và hạnh phúc. Mới vừa rồi người ta đã cho hay rằng quân đội sẽ dùng thiền tập để làm cho chiến sĩ trầm tĩnh và làm mạnh tâm thức của quân đội vì căng thẳng của chiến trận. Những sử dụng như thế được hướng đến mục đích làm cho chiến binh có thể chiến đấu mạnh mẽ hơn và… lạnh lùng hơn. Ý tưởng thiền tập là một sự thực tập cho việc thể chứng của con người liên hệ đến thực tại tối hậu không phát triển trong hình thức thế tục, đấy là, Thánh Hiền, cội nguồn sự sống của chúng ta, không được đòi hỏi và có thể được thực tập bởi mọi người trong bất cứ truyền thống nào.
Bởi vì có một sự phức tạp trong những sự tiếp cận của thiền tập, Tịnh độ Chân Tông Phật Giáo được đòi hỏi hình thức nào để áp dụng? Chúng tôi có thể nói rằng ‘Niệm Phật’ là hình thức thiền tập qua việc tập trung tâm thức chúng ta về Đức Phật Di Đà và ý nghĩa những đại nguyện của Ngài vì cuộc sống của chúng ta. ‘Niệm’ có nghĩa là suy tư trên đề mục hay gợi lại. ‘Phật’ là Đức Phật. Đây là sự quán chiếu hay phản chiếu về Đức Phật và đời sống của chúng ta. Có nghĩa rằng Niệm Phật Quán Chiếu là thiền quán và Niệm Phật Trì Danh là thiền định; như vậy Niệm Phật bao hàm đủ “chỉ - quán” đồng tu. Và theo Đại Sư Trí-Tịnh, niệm Phật đến trình độ Vô Niệm thì tương đương với Kiến Tính của Thiền Tông, thân chứng “Ta Bà bất ly đương xứ, Tịnh Độ chỉ tại mục tiển”, nhưng nếu chưa được Vô Niệm thì cũng không mất phần “Đới Nghiệp Vãng Sinh”, thế nên Niệm Phật hay Tịnh Độ là pháp môn tuy giản dị nhưng thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn. Thiền Trúc Lâm hiện nay cũng chủ trương Vô Niệm nhưng theo phương pháp và mục tiêu của Thiền Tông.
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta. Danh hiệu A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức; đấy không chỉ là nhãn hiệu mà là những mục tiêu cứu cánh vượt ngoài nhận thức hay suy lường thông thường của chúng ta. Qua sự quán chiếu về thực tại sâu hơn hổ trợ an toàn cho nền tảng sự sống của chúng ta và cảm nhận của chúng ta về tính chất hòa hiệp, thống nhất, thế nên chúng ta có thể sống với sự quả quyết hơn, mạnh mẽ hơn và tĩnh lặng hơn, mặc cho những náo động xáo trộn của thế giới chung quanh chúng ta. Niệm Phật hay thiền quán không chỉ là để đạt đến giác ngộ mà là để thâm nhập sâu xa hơn trong sự tỉnh thức và thấu hiểu những thệ nguyện của Đức Phật Di Đà. Nó cũng có thể biểu lộ lòng biết ơn đến Đức Phật vì sự sống mà chúng ta đã được ban cho. Cũng phải được ghi nhận rằng một cách truyền thống Tịnh Độ Chân Tông đã có một sự thực tập ‘Chính tọa” hay một sự ngồi yên tĩnh mà nó được khuyến khích trong giáo lý của Tịnh Độ Chân Tông.
Sự thực tập phổ quát của thiền quán trong thời đại của chúng ta, trong phạm vi thế tục không nói gì đến thực tại tâm linh như được hiểu bởi Thân Loan Thánh Nhân. Đấy là trung tính tâm linh như một sự thực tập để tự trau dồi, tự phát triển ý chí, năng lực , hơn là một sự thân chứng tối hậu về thực tại hay Phật tính hay giải thoát giác ngộ . Như một kết quả, sự thực tập thiền quán có thể được thực tập bởi những tín đồ Tịnh Độ Chân Tông như một phương tiện để tịch tĩnh và làm trong sáng tâm thức trong sự hổn loạn của thế giới nội tại và chung quanh chúng ta. Sự thực tập có thể được sử dụng để chuẩn bị tâm thức cho việc chú tâm, lắng nghe, và đặt vấn đề, về Phật Pháp hay quán chiếu về Đức Phật Di Đà. Chúng ta có thể thấu hiểu hơn về ‘bây giờ’ và cảm kích về sự sống mà chúng ta đã được ban cho. Đấy là ‘hiện hữu’.
Thân Loan tuyên bố rằng Niệm Phật không phải là một sự thực tập cũng không phải là một hành vi thánh thiện. Nó không phải là một sự thực tập mà nhờ đấy chúng ta được giác ngộ, cũng không phải là một hành vi thánh thiện hay làm việc tốt đẹp như một phương tiện cho công đức và ngợi khen. Thân Loan phủ nhận trong nguyên tắc, nhấn mạnh rằng bất cứ sự thực tập nào mà chúng ta có thể thực hiện không là một phương tiện để đạt được khuynh hướng giác ngộ. Đúng hơn, khi chúng ta được truyền cảm hứng, gia bị, soi sáng và ôm ấp bởi lòng từ bi và tuệ trí của Đức Phật Di Đà, những sự thực tập như vậy có thể giúp chúng ta thấy sự vô thức rối loạn của chúng ta như một vũng lầy trong sự tĩnh lặng của đại dương của Quang minh và Sinh lực. Thế nên, bất cứ điều gì có thể giúp chúng ta trong tiến trình ý thức tâm linh của chúng ta cũng được vững vàng, tĩnh lặng, đấy chính là niệm về công hạnh Phật A Di Đà, quán chiếu về Đức Phật A Di Đà, xây dựng một thế giới an lạc giữa thế gian.
7. 5 . Trần Thái Tông nói về Tịnh độ:
Thiền và niệm Phật dường như không đồng mà đồng. Vì đích của Thiền là thấu hiểu ý nghĩa của cuộc sống, đích của niệm Phật cũng vậy. Thiền chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật. Trong khi đó, niệm Phật nhắm đi tới cõi Tịnh độ vốn dĩ không chi khác hơn là tự tâm, và nhắm thấy rõ tự tánh vốn dĩ chính là đức A-di-đà.
"Tịnh độ là lòng trong sạch, đâu còn ngờ hỏi đến Tây phương;
Di đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc"
Ðây là hai câu phú trong bài Cư Trần Lạc Ðạo phú của Sư tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông, vị sáng tổ của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền mang đậm đà bản sắc Việt nam. Có thể nói, hai câu phú trên đã đúc kết được phần nào cách lý giải mà các Thiền giả dành cho pháp môn Tịnh độ. Và đây cũng chính là nội dung của bài viết này muốn đề cập đến.
Khi bàn về pháp môn Tịnh độ mà việc cụ thể là niệm Phật, ông viết:
"Niệm Phật có thể dập tắt được 3 nghiệp ác.
Vì rằng trong lúc niệm Phật, thân ngồi ngay thẳng, không làm việc tà, như vậy là dập tắt được nghiệp thân. Miệng tụng chân ngôn, không nói lời xằng bậy, thế là dập tắt được nghiệp miệng. Ý chăm chú tinh tấn, không nảy sinh tà niệm, thế là dập tắt được nghiệp ý. Nhưng kẻ tu hành có 3 bậc:
1. Bậc thượng trí thì tâm tức Phật, không phải nhờ thêm sự tu hành. Vọng niệm là bụi trần không vướng một mảy. Nhưng vọng niệm trần lao vốn thanh tịnh, cho nên nói như như không động tức là thân Phật. Thân Phật tức là thân ta, Ðó là Phật sống.
2. Bậc trung trí ắt nhờ vào niệm Phật. Chú ý tinh cần, luôn luôn niệm mà không quên thì tâm mình ắt tự nhiên thuần thiện. Ý nghĩ thiện đã hiện ra thì ý nghĩ ác đã tiêu diệt thì trở về với chính đạo, đến lúc mệnh chung sẽ được niềm vui Niết bàn.
3. Kẻ hạ trí miệng chuyên cần niệm lời Phật, lòng mong thấy hình tướng Phật, thân nguyền sinh về nước Phật, ngày đêm tu hành chăm chỉ, không thoái chuyển, như vậy đến khi mạng chung sẽ theo ý nghĩ thiện mà sinh về nước Phật.
Ba hạng người ấy giác ngộ sâu cạn tuy có khác nhau, nhưng cái nhận được là một. Nhưng bậc thượng trí nói thì dễ làm thì khó. Đời nay ít kẻ theo được.
Như muốn niệm Phật hãy lấy cách của kẻ hạ trí làm đầu. Vì như xây tòa lâu đài 3 tầng mà không làm tầng dưới trước là điều chưa từng có vậy". (Thơ Văn Lý Trần, tập II, Viện Văn học, H.1988, tr.84)