5.1 .Thiền tịnh song tu là một pháp môn thực tiển, có thể dung hợïp sự tu hành của hành giả dù độn căn hay lợïi căn, đềøu có thể hành pháp một cách dể dàng. Chúng tôi lược trích sau đây những ý tưởng về thiền tịnh song tu thật chuẩn mực của Ni Trưởng Thích Nữ Như Thanh, rất phù hợp với mọi người tu, nhất là đối với những Phật tử Việt Nam, Phật tử Liên tông tịnh độ Non bồng trong giai đoạn mới. Đồøng thời theo luận chứng của Ni Trưởng, pháp tu cũng gần với pháp thiền niệm Phật của Liên tông Tịnh độ Non bồng.
Nói về Thiền: Mục đích thực tiễn của Thiền là giải thoát con người ra khỏi sự ràng buộc của danh sắc tướng. Tâm như tường vách là hình ảnh lý tưởng của Thiền gia, người đã thoát ra khỏi sự cám dỗ của thế gian, đã làm chủ được tâm, điều phục được ngũ căn. Với hạng người này, sự thành bại, nhục vinh, hơn thua, được mất, khen chê không gây được một ảnh hưởng gì nơi họ cả. Sống giữa thế gian mà đã siêu xuất thế gian, nên đối với họ Ta-bà cũng là Tịnh độ. Niết-bàn ngay ở nơi đây, trong lúc này, chứ không phải là cái gì xa xôi phải chờ xả bỏ thân tứ đại mới biết được. Đây là điểm then chốt của Thiền, là bản lĩnh của Thiền gia.
Đại Châu Thiền sư nói: Vọng niệm chẳng sanh là Thiền. Lặng ngồi thấy rõ bản tính là Định. Bản tánh chỉ cho tâm vô sanh của ông. Định là đối cảnh vô tâm, tám ngọn gió chẳng làm lay động. Nếu chứng đặng pháp Định như thế, tuy là mang thân phàm phu mà đã vào ngôi vị Phật.
- Làm sao cho vọng niệm chẳng sanh?
- Làm sao thấy được bản tánh?
Hai câu hỏi, một vấn đề. Như ánh sáng tới thì bóng tối phải lui, khi ta ngộ được bản tánh thì vọng niệm chẳng còn. Phàm phu chúng ta vì mê chấp, lấy giả làm chơn nên cả đời chạy theo trần cảnh. Mắt thấy sắc thì đắm với sắc, tai nghe tiếng thì lụy vì lời khen, mũi thì bám theo hương thơm, lưỡi tìm vị ngon ngọt, còn ý thức thì so đo phân biệt, tính toán trăm phương nghìn cách để phục vụ cho sự ham muốn của mình. Vì thế mà tạo nghiệp, vì thế mà quay cuồng trong bánh xe sanh tử luân hồi. Đức Phật ra đời, chỉ bày rõ ràng đâu là chân thật thường hằng, đâu là hư dối đổi thay để chúng sanh biết đường quay về trong sự an vui của Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Xưa nay ai cũng cho rằng cái hay suy nghĩ phân biệt là tâm của mình, nhưng Phật nói đó là vọng tâm, bởi vì cái vọng tưởng phân biệt này do bóng dáng của trần cảnh mà phát khởi; khi cảnh vật hiện tiền qua rồi thì tâm ấy cũng theo cảnh vật mà diệt đi, thành ra nó không thường còn, đó không phải là Chơn tâm bất sanh bất diệt. Chúng sanh vì sống với vọng tưởng phân biệt, bị trần cảnh lôi cuốn mà khởi tham, sân, si, sanh vô số phiền não, tự tạo ác nghiệp và đắm chìm trong bể sanh tử luân hồi.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã chỉ cho A Nan và sau đó là vua Ba Tư Nặc về Chơn tâm không sanh, không động tịnh, không co duỗi.
- Này Đại Vương, khi ông mấy tuổi mới được thấy sông Hằng?
Vua đáp:
- Khi lên 3 tuổi, con được mẹ bồng đến yết kiến thầy Trường Thọ, đi ngang qua sông này nên bấy giờ con đã thấy được sông Hằng.
Phật hỏi:
- Hôm nay ông thấy sông Hằng, vậy cái thấy đó có khác không?
Vua thưa:
- Khi con 3 tuổi thấy sông Hằng, đến lúc 13 tuổi và nay 62 tuổi thấy sông Hằng cũng không khác.
Phật dạy:
- Ngày nay ông lo buồn cho thân ông già yếu, đầu bạc mặt nhăn, không được như lúc còn trẻ. Vậy nay 62 tuổi ông xem thấy sông Hằng, cái thấy đó có già trẻ không?
Vua Ba Tư Nặc thưa:
- Bạch Thế Tôn, cái thấy không có già trẻ.
Phật dạy:
- Này Đại Vương, thân thể mặt mày ông tuy già mà cái thấy vẫn không già. Vậy cái nào có già thì cái ấy sẽ bị biến đổi tiêu diệt, còn cái nào không già thì cái đó không bị biến đổi sanh diệt. Nó đã không sanh diệt thì đâu có bị ông làm cho nó sanh tử luân hồi được.
Qua đoạn kinh trên, Đức Phật chỉ tánh thấy lúc nào cũng thế, không già trẻ, không sanh diệt đó là Tâm. Nói rộng ra thì chúng ta có tánh Biết được hiển lộ ra ngoài qua sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu căn này nếu không tiếp xúc sáu trần thì tâm ta biết là không có gì. Khi ta tiếp xúc thì thấy cảnh, nghe tiếng, biết mùi, biết vị, biết nóng lạnh, biết phân biệt, suy nghĩ. Cái biết này không thay đổi, không sanh diệt, không nhơ sạch, không thêm bớt, đồng một thể với Chư Phật, với chúng sanh muôn loài, ấy là sự biểu hiện của Chơn tâm.
Thiền tông gọi đó là chủ vì nó thường tại, không đến và đi theo cảnh (khách trần); cũng gọi là đệ nhất niệm vì cái biết này không chia chẻ phân biệt như sự thấy biết qua Ý thức (thức thứ sáu). Để sống với Đệ Nhất Niệm, Thiền sư khi nghe một tiếng động, một âm thanh thì xoay cái nghe trở về tự tánh thường có (tánh nghe) chứ không chạy theo tiếng động, theo âm thanh. Xoay cái nghe trở lại tự tâm là nhập lưu vong sở, đó là bước đầu bỏ vọng về chơn, cho đến khi chơn vọng đều không, năng sở đều tịch thì mới là thực ngộ, thực chứng.
Thiền sư Hương Hải (1628–1715, phái Trúc Lâm) đã dạy: Nếu biết quay ánh sáng soi lại nơi mình, bỏ ngoại cảnh mà xem ở tự tâm thì Phật nhãn sáng suốt, bóng nghiệp tự tan, Pháp thân hiện ra, những vết trần tự diệt. Đấy là cách tu đốn ngộ của nhà Thiền.
Nói về Tịnh độ: Tuy tin vào tha lực của Phật, nhưng nếu biết dùng Thiền lý là phản vọng hồi chơn, nương theo tiếng niệm Phật (là âm thanh giả hợp) xoay lại với tự tánh nghe (vốn sẵn có, vốn thường hằng) thì gọi là hiệp giác bội trần. Không còn chạy theo cái sanh diệt của trần cảnh, nên tâm được Định. Nhờ biết phản quán, đem tiếng niệm Phật giác ngộ về nơi tự tâm thì mê hóa thành giác, chứng nhập Pháp giới tánh bình đẳng, đó là Huệ. Tu Tịnh độ theo phương pháp này thì Định Huệ tròn đủ, tuy chưa vãng sanh mà đã thực chứng Cực Lạc, chưa bỏ phàm thân mà đã liễu sanh thoát tử, không khác gì sự chứng ngộ của Thiền sư, đây gọi là Thiền Tịnh song tu một cách viên mãn vậy.
Thiền Tịnh song tu không phải là một pháp môn mới mẻ. Trong Kinh Lăng Nghiêm, ngài Đại Thế Chí đã bạch Phật rằng:
- Chỗ bổn nhơn tu hành của con là do tâm niệm Phật mà ngộ vô sanh nhẫn, nguyện ở cõi này để nhiếp hóa mọi người niệm Phật vãng sanh Tịnh độ. Nay Phật hỏi Viên thông, con vốn không lựa chọn, chuyên thông nhiếp cả sáu căn khiến cho tịnh niệm nối luôn, được vào Tam-ma-địa, ấy là thứ nhất.
Ngài Đại Thế Chí trong khi tu pháp niệm Phật, đã nhiếp phục cả sáu căn. Cả sáu căn đều quy về nơi Nhất niệm niệm Phật, không để tán loạn rong ruổi theo ngoại duyên. Tịnh niệm thường nối luôn, không xen một niệm gì khác, nên chứng đặng niệm Phật Tam-muội. Đây là mẫu mực của Thiền Tịnh song tu vậy. Vì sao?
Nhiếp tâm niệm Phật là Tịnh, quy cả sáu căn về nhất niệm, không để chúng tán loạn rong ruổi theo trần cảnh, ấy là Thiền. Thiền Tịnh song tu thì mau chứng đặng Tam-muội, vì dùng tất cả năng lực vào một mục tiêu duy nhất, vì xoay trần cảnh vào Phật tâm. Tự lực đã sung mãn lại thêm Phật lực thường hộ trì nên sự thành công rất mau chóng và trọn đủ.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật (Hán dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập, Việt dịch của Hòa thượng Thích Thiền Tâm), Phẩm thứ 2 nói rằng:
Pháp môn niệm Phật chính là chuyển biến cái tâm thể của chúng sanh bằng cách không cho tâm thể ấy duyên với vọng niệm, với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), với huyễn cảnh, với trí lực, với kiến chấp, với mong cầu, với thức phân biệt, v.v… mà chỉ đem tâm thể ấy duyên mãi với danh hiệu A Di Đà Phật.
Không bao lâu người niệm Phật tự nhiên đi vào chỗ vắng lặng, sáng suốt, an lạc, cảm ứng với nguyện lực của Đức A Di Đà. Đây là do công năng của Thiền Tịnh song tu.
Trên đã tổng quát trình bày về Thiền Tịnh song tu. Sau đây chúng ta sẽ đi vào từng phần quan yếu, thế nào là Tín, thế nào là Nguyện và sau cùng là pháp Hành trì.
Tín giải: Kinh Hoa Nghiêm, quyển 6, nói: Tín là Đạo, nguyên là mẹ sanh các công đức, tăng trưởng các pháp thiện, diệt trừ tất cả các nghi hoặc, thị hiện và khai phát Đạo vô thượng.
Hơn thế nữa, đối với Tịnh độ môn, tin là điều kiện tiên quyết để đi vào. Người không có lòng tin vào bi nguyện độ sanh của Đức Phật A Di Đà không thể tu pháp môn Tịnh độ. Hoặc giả có tin mà cho rằng Cực Lạc cũng là cảnh mộng vì do nguyện lực của Phật A Di Đà lập ra; Cực Lạc chưa phải là chơn nên chẳng muốn sanh về. Hạng người này cũng chẳng thể Thiền Tịnh song tu.
Những kẻ chưa tin lời Phật nói, một là vì chưa tạo duyên lành với Phật pháp, hai là vì chưa có chánh kiến, không hiểu Phật pháp, không được gần gũi thượng nhơn thiện tri thức, ba là ít đọc kinh sách nên không biết chứng tích vãng sanh, bốn là không có duyên may được chứng kiến tận mắt những trường hợp vãng sanh trong đời hiện tại. Hạng người này phải tự biết sự khiếm khuyết của mình, phải tìm cách khai phát niềm tin.
Khởi Tín Luận, Tín Tâm Minh là hai bộ luận nói về pháp tín tâm. Trong 55 quả vị Hiền thánh để tiến tới quả Phật, thì Tín tâm là vị thứ nhất, vì là nền tảng, là căn bản đầu tiên ai cũng phải có. Còn những người lý giải cao siêu, chuyên nói về lý tánh vô sanh, tức tâm tức Phật thì lại bị trói buộc bằng tri kiến của mình. Họ cho rằng lánh khổ Ta-bà cầu vui Cực Lạc là đi từ giấc mộng này đến giấc mộng khác, chi bằng tự tại nơi vô trụ vô sanh. Xin thưa rằng trên thực tế, ngoài bậc đại Bồ-tát thị hiện độ sanh, không ai có thể tự tại ra vào chốn sanh tử, vì gió nghiệp lẫy lừng, nghiệp cảm mạnh mẽ, cuốn hút tất cả. Từ người kiến giải sâu, kẻ tri giải rộng cho đến bậc tuy đã ngộ Đạo, nhưng chưa đoạn trừ được vô minh, phiền não thì thảy đều là người mộng, cảnh mộng, vẫn còn trong sanh tử luân hồi.
Chi bằng chọn giấc mộng an lành ở Cực Lạc, nơi đó, nhờ Phật lực gia trì, mộng từ từ chuyển thành giác (hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh), trở thành bậc Bất Thoái Chuyển. Bấy giờ lý sự viên dung, mới tự tại ra vào lên xuống, hành đạo hóa đời, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên. Nên biết rằng từ bậc Đệ thất địa trở về trước đều còn vô minh, còn ở trong mộng mà tu, bậc Đẳng Giác Bồ-tát hãy còn vi tế vô minh. Chỉ có Phật mới hoàn toàn là bậc Đại Giác mà thôi. Vậy mộng tuy có một, nhưng người mộng thì chưa từng đồng nhau vậy.
Người tu Thiền Tịnh nên trang bị và củng cố cho mình niềm tin sâu sắc. Phải tin như thế nào?
Tín tự: Tin ở chính mình. Khế Kinh có câu: Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Từ Đức Phật Thích Ca cho đến Lục Tổ Huệ Năng và tất cả những bậc chứng ngộ đều xác định điều này. Trong đá có sẵn lửa thì khi dùng công phu để cọ xát, ắt lửa phải hiện ra. Phật tánh vốn sẵn có, nhưng vì vô minh che lấp ta chẳng nhận được, nay dùng công phu tu tập, y theo lời Phật dạy ắt Phật tánh sẽ hiển lộ.
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã từng nói rằng: Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành. Vậy phải vững tin nơi mình mà tu tập cho đến khi viên thành Phật quả. Không nên vì thấy mình là chúng sanh thấp hèn mê muội mà sanh mặc cảm tự ty, cũng không cầu tiểu quả. Phải phát tâm Bồ-đề rộng lớn, quyết cầu thành Phật, không cầu gì khác.
Tín tha: Chư Phật không bao giờ dối gạt chúng ta. Mười phương ba đời Chư Phật đều vì chúng sanh mà dạy vô lượng pháp môn để giúp chúng ta dứt trừ phiền não, thoát nẻo luân hồi.
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì chúng sanh thời mạt pháp giới thiệu cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà đã phát ra 48 lời nguyện độ sanh, dùng Phật lực cùng bi nguyện lực kiến lập ra cảnh giới toàn vui không khổ. Chúng sanh nào nguyện vãng sanh về nơi này, sẽ được an vui tu tập, tuần tự tiến đến quả vị Bất thoái chuyển, và sau rốt là viên thành Phật đạo. Bản nguyện của Đức Phật A Di Đà là chân thật, rốt ráo và tối thắng, lời Chư Phật không bao giờ hư dối. Phàm Tăng còn giữ giới không nói dối, Thánh Tăng tuyệt không dối gạt, huống hồ Chư Phật, những bậc Đại giác ngộ, Đại từ bi lẽ nào dùng vọng ngữ hay sao? Hãy đặt trọn niềm tin vào Chư Phật, cuộc đời chúng ta sẽ tươi sáng hơn.
Tín nhơn: Xưa nay, luật nhơn quả không bao giờ sai chạy. Hễ có nhơn tất phải có quả; muốn có quả tất phải gieo nhơn. Tin vào thế giới Cực Lạc là đạo tràng thù thắng, chúng ta quy ngưỡng vọng cầu, đây là nhơn địa đầu tiên. Lại thường gieo chủng tử Phật (nhơn) vào tâm điền thì tâm này dần dần thanh tịnh, tất nhiên sẽ khế hợp cùng cõi Tịnh độ. Mỗi mỗi niệm đều tương ưng cùng tự tánh A Di Đà, cùng tự thể Phật tánh, đây là tín nhơn Phật độ vậy.
Nếu chỉ có tín tự, tín tha mà không có tín nhơn thì chẳng khác nào người làm ruộng tuy đã có sẵn khả năng và ruộng tốt mà không chịu gieo hạt, không chịu cấy lúa. Không gieo nhơn thì chẳng bao giờ gặt hái kết quả.
Tín quả: Hễ nhơn lành đã gieo xuống, lại được chăm bón đều đặn kỹ lưỡng thì chắc chắn đạt được thành quả. Thành quả của người gieo nhơn Tịnh độ là được vãng sanh. Tùy theo sự phát tâm cùng công phu tu tập, thứ lớp vãng sanh chia làm 9 bậc (Cửu phẩm Liên hoa). Hành giả thực hành Thiền Tịnh song tu vốn gieo nhơn thanh tịnh rất sâu nhiệm, rất bền bỉ, rất vững vàng nên quả vị thường là Trung phẩm trở lên.
Tín sự: Tin theo sự tướng tu tập tức là hằng ngày chấp trì danh hiệu Phật hoặc lễ bái Tôn nhan rồi phát nguyện hồi hướng vãng sanh Tịnh độ. Mỗi niệm đều chí thành, mỗi nguyện đều tha thiết thì khi sự sự viên thành, quả nào không thành tựu, nguyện nào không đạt được?
Tin vào sự mà tu, thường là hàng sơ cơ, tuy đạt kết quả nhưng phẩm vị không cao, nếu kết hợp với tin vào lý thì hoàn mãn hơn.
Tín lý: Tin rằng tâm tịnh tức Phật độ tịnh. Tu Tịnh là chuyển những nghiệp ô nhiễm, xấu ác của thân, khẩu, ý thành thanh tịnh thiện công đức. Nếu tâm này không trong sáng lại bất thiện thì cõi Tịnh nào dung chứa được đây?
Tu Thiền là chuyển tâm vọng động điên đảo thành Định Huệ. Định Huệ là tướng dụng của tịch chiếu. Tịch chiếu là thể của Chơn tâm. Một khi tâm ta an định sáng suốt thì tất nhiên tương ưng cùng pháp giới tánh. Bấy giờ toàn tâm là Phật, toàn Phật tức tâm. Tâm, Phật không hai, đây là cứu cánh Vô thượng đạo vậy. Cho nên người tu Thiền Tịnh dụng công chuyển đổi tâm phàm phu thành Thánh trí thì tất nhiên phiền não hóa Bồ-đề. Bấy giờ biết rằng tuy nói là đi, nhưng là không đi đâu, nói là chứng, nhưng không có gì gọi là chứng.
Tâm phàm phu chúng ta hay dính mắc vào tri kiến, tri giải nên chư Tổ luôn dạy rằng sự tu hành phải gồm đủ lý, sự. Nếu chấp lý bỏ sự thì rơi vào chỗ không ngoa rồi không cần tu, không cần giữ Giới luật. Còn như chấp sự, mê lý thì thành quả rất cạn cợt vậy.
Như trên đã trình bày, vì Thiền Tịnh song tu gồm đủ sự lý, tánh tướng nên tránh được những thiên chấp, sai lệch, do đó kết quả vừa bảo đảm lại vừa cao.
Ngoài ra, kinh Niệm Phật Ba La Mật còn nói thêm: Tin rằng pháp niệm Phật vãng sanh là môn tu duy nhất cho hết thảy mọi người, vì rời môn tu này thì mọi người, mọi loài không thể giải thoát. Nếu phế bỏ môn tu này thì Chư Phật cũng không thể dùng một pháp nào khác để tế độ hết thảy hữu tình đúng như bản thệ, đúng như bản nguyện (Phẩm thứ 2).
Chúng ta nên phát khởi tín tâm tròn đủ như đã nêu trên mà tu Thiền Tịnh.
Nguyện: Sau khi tín tâm đã bền chắc, tròn đủ, hành giả phải nên phát nguyện. Vì sao cần phải phát nguyện?
Thứ nhất, vì nguyện lực làm tăng sức mạnh của ý chí, nó làm tiêu hao nghiệp lực phàm phu. Nhờ sức mạnh của nguyện, hành giả tiến thẳng đến mục đích mà không sợ sai lệch đường hướng. Nguyện là mục tiêu nhắm đến, như người bắn cung cần có tiêu điểm vậy.
Thứ hai, Đức Phật A Di Đà đã phát ra 48 đại nguyện để độ những chúng sanh nào hữu duyên. Nay chúng ta đã tin lời Phật không hư dối, lòng từ bi của Phật vô lượng vô biên thì nên phát nguyện mong được Phật tiếp dẫn về Tây phương, được Phật thọ ký để viên mãn đạo Bồ-đề.
Như người muốn cho, có kẻ muốn nhận thì mới nên việc, chứ dù Phật luôn ban phát, luôn muốn cứu độ mà chúng ta cứ hờ hững buông trôi thì chẳng bao giờ nên công.
Thứ ba, tha lực của Phật dù mạnh mẽ rộng lớn, nhưng nếu không có sự phối hợp với tự lực của chúng ta thì cũng vô ích. Ví như ghe đi biển bị chìm vì sóng to, may có thuyền lớn đến cứu, họ quăng phao, thả dây, nếu mỗi nạn nhân không tự nắm dây leo lên, không tự ôm phao lội vào thì chắc chắn phải bị đắm chìm trong sóng nước.
Phát nguyện là sự dũng mãnh của tự lực quyết tâm bỏ mê về ngộ, bỏ ác về thiện, bỏ phàm về Thánh. Sự quyết tâm tự cứu này ứng hợp cùng Phật lực đại từ, đại bi nên chắc chắn được như ý nguyện.
Căn cứ vào nghi thức niệm Phật của cổ đức, chúng tôi xin ghi lại 12 lời nguyện của người tu Tịnh độ phát Bồ-đề tâm, thiết nghĩ cũng rất phù hợp với hành giả áp dụng Thiền Tịnh song tu:
Nguyện 1: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con tội chướng trọn tiêu diệt.
Ghi chú: người hiểu đạo sợ nhân, không sợ quả. Nguyện cho tội chướng trọn tiêu diệt không có nghĩa là cầu cho tai qua nạn khỏi, cầu cho khỏi trả nghiệp đã tạo về trước. Đây chính là nguyện ngưng dứt, không tạo ác nghiệp, không để tham sân si điều khiển, cũng có nghĩa là nghiêm trì Giới luật.
Hiểu như vậy rồi thì khi đang tu mà nghiệp báo cũ chín mùi gây ra những rủi ro, bệnh tật, thất bại công danh, hàm oan v.v... thì không chán nản, không lui sụt việc tu.
Nguyện 2: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con căn lành ngày thêm lớn.
Ghi chú: Nghiêm trì Giới luật, không tạo điều ác, chỉ là tu về phương diện tiêu cực. Một cách tích cực hơn, hành giả phải làm mọi việc lành, hướng về lợi ích tha nhân.
Thí dụ: miệng không nói dối, không nói đâm thọc, không nói lưỡi hai chiều, không nói thêm nói bớt là đã tốt rồi, nhưng muốn tốt hơn nữa, lợi lạc hơn nữa thì nên luôn luôn dùng ái ngữ, chân thật, hòa giải, v.v... Giữ tâm không tham lam đã là quý, nhưng còn phải biết mở rộng lòng để giúp đỡ, bố thí, cúng dường, v.v... mới gọi là tạo căn lành (Để hiểu rõ hơn xin đọc Tu Thập Thiện – Phật Học Phổ Thông, Hòa thượng Thích Thiện Hoa).
Muốn căn lành thêm lớn thì phải gia công làm việc thiện. Có tiền của thì bố thí, phóng sanh, cúng dường. Không tiền bạc thì làm công quả cho những lợi ích cộng đồng, sẵn sàng chỉ dẫn, giúp ích tha nhân khi có người cần đến mình. Kinh A Di Đà đã nói rằng: không thể chỉ lấy chút ít thiện căn phước đức mà có thể vãng sanh Cực Lạc. Cho nên hành giả nên dốc lòng làm việc thiện, dù việc nhỏ cũng không bỏ qua, việc lớn cũng không ngần ngại. Chính cái tâm nhiệt huyết hướng về sự lợi ích của Đạo pháp, của tha nhân mới làm tăng trưởng căn lành mau chóng chứ không phải cúng nhiều thì phước nhiều, cúng ít thì phước ít.
Nguyện 3: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con thân tâm hằng thanh tịnh.
Ghi chú: Trong cõi đời ô trược này mà giữ thân tâm thanh tịnh là một điều rất khó vì môi trường chung quanh dù ít nhiều cũng ảnh hưởng đến cá nhân. Tuy nhiên, người tu Thiền Tịnh biết rằng muốn về cõi Tịnh phải giữ thân tâm cho thanh tịnh (đây là lý đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu nhà Phật gọi là chiêu cảm). Tu Bát Chánh Đạo, nghiêm trì Giới luật không sơ hở là phương pháp hay nhất để giữ thân, khẩu, ý thanh tịnh.
Nguyện 4: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con sớm thành tựu Nhất tâm.
Ghi chú: Nhất tâm là chìa khóa của sự vãng sanh giải thoát. Kinh A Di Đà đã xác nhận rõ ràng. Không luận là tu lâu hay mau, tu nhiều hay ít, cạn hay sâu, nhưng để chắc chắn được vãng sanh, hành giả phải đạt được nhất tâm bất loạn. Dù chỉ có mười niệm mà nhất tâm bất loạn cũng vãng sanh.
Trong phần trình bày về pháp hành ở mục sau, chúng tôi sẽ nói về thắng duyên phương tiện giúp sớm thành tựu Nhất tâm. Riêng nơi nguyện này chỉ cần chuẩn bị tư tưởng cho mình là: dù làm việc tầm thường như chẻ củi, gánh nước, nấu cơm đi nữa là những việc thường nhật nếu không để tâm chú ý thì thế nào cũng hư hỏng, nói chi đến đại sự liễu sanh thoát tử. Hãy tâm niệm rằng đời mình chỉ có một việc làm duy nhất là tu để giải thoát, tất cả những việc khác đều phụ thuộc.
Nguyện 5: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con Tam-muội đặng hiện tiền.
Ghi chú: Nguyện này liên quan mật thiết với nguyện trên. Một khi hành giả niệm Phật được nhất tâm rồi, tiếp tục gia trì công hạnh thêm nữa thì đắc Tam-muội (Samadhi). Thiền gọi là đắc Định. Nguyện được Tam-muội hiện tiền ngay trong lúc còn sống để làm mẫu mực và có khả năng giáo hóa cho người đương thời. Đắc Tam-muội hiện tiền tức nhiên sẽ vãng sanh Thượng phẩm.
Nguyện 6: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con mau viên mãn tịnh nhân.
Ghi chú: Dù đã đắc Tam-muội nhưng không lấy đó làm đủ. Hành giả tiếp tục gia công để được viên mãn tịnh nhân, nghĩa là quét sạch hết vô minh phiền não trong tâm thức để chuyển thức thành Trí. Bao giờ Tàng thức chỉ chứa toàn chủng tử thanh tịnh – lúc này Tàng thức chuyển thành Bạch Tịnh thức – thì nguyện này mới thành tựu. Trên thực tế, muốn đạt đến mức độ này phải trải qua nhiều kiếp tu hành. Hành giả phát nguyện mau viên mãn có nghĩa là nguyện tinh tấn liên tục trong nhiều đời nhiều kiếp.
Nguyện 7: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con Liên đài được nêu danh.
Ghi chú: Dù biết mình có đủ tư lương phước trí để vãng sanh, nhưng cũng phải nguyện khi xả bỏ phàm thân này, sẽ về ngự nơi tòa sen báu, Cửu phẩm liên hoa chi phụ mẫu, tức là không luân lạc chốn uế độ này nữa. Ví như người triệu phú có khả năng mua sắm trăm vạn thứ, nhưng người này chỉ mong muốn có tòa biệt thự nơi cảnh trí thiên nhiên tuyệt đẹp. Vừa có tiền của, vừa có ý muốn ham thích thì tất nhiên ông triệu phú kia sẽ được toại ý.
Nguyện 8: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con thấy Phật đến thọ ký.
Ghi chú: Đây là đại nguyện của hành giả đã phát tâm Bồ-đề, muốn thành tựu quả vị Phật. Đức Phật chỉ thọ ký cho những ai muốn cầu thành Phật. Đức Phật khi thọ ký sẽ cho biết bao giờ và ở đâu hành giả sẽ viên thành Phật đạo. Những vị tu Tịnh độ thành tựu quả vị cao, ngay lúc sanh thời, cũng thường thấy Phật A Di Đà, Bồ-tát Quán Âm, Đại Thế Chí.
Nguyện 9: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con vãng sanh Cực Lạc quốc.
Ghi chú: Nguyện này bổ túc cho nguyện thứ 7, xác nhận rõ ràng ước muốn vãng sanh. Vì nếu không vãng sanh về cõi An Dưỡng của Đức Phật A Di Đà thì khó bước lên hàng Bất thoái chuyển Bồ-tát, nói chi thành tựu quả Bồ- đề.
Nguyện10: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con biết trước giờ lâm chung.
Ghi chú: Biết trước giờ lâm chung là một trong những dấu hiệu được vãng sanh. Nguyện biết trước giờ lâm chung để làm tăng lòng tin của người đời đối với pháp môn Tịnh độ.
Nguyện 11: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con viên mãn Bồ-tát Đạo.
Ghi chú: Trên đường tiến đến quả vị Phật, hành giả phải tu Bồ-tát Đạo, hành Bồ-tát Hạnh. Nguyện này sẽ gắn liền với Đạo niệm của hành giả trong vô lượng kiếp.
Nguyện 12: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn. Nguyện cho con độ tất cả chúng sanh.
Ghi chú: Viên mãn Bồ-tát Đạo là sắp sửa bước vào quả vị Phật, nhưng vẫn tiếp tục nguyện độ tất cả chúng sanh. Ngụ ý rằng dù thành bậc Chánh giác đi nữa, vẫn tiếp tục độ chúng sanh, không trụ nơi Niết-bàn.
Tóm lại, qua mười hai nguyện trên, hành giả phát tâm tu hạnh Đại thừa nhằm tiến đến cứu cánh viên mãn. Đối với tự thân, nguyện tròn Giới, Định, Tuệ; đối với Phật đạo, nguyện gánh vác; đối với chúng sanh, nguyện cứu độ. Trải qua thời gian tu vô lượng kiếp, nơi vãng sanh luôn luôn là Cực Lạc quốc độ. Nguyện về Cực Lạc quốc để bảo đảm không bị thoái thất tâm ban đầu, cũng không sợ thoái chuyển trên đường Đạo.
Hành trì: Tín, Nguyện đã tròn đủ, hành giả nên chọn pháp Hành thích hợp với căn cơ, hoàn cảnh mình. Ngài Ấn Quang đại sư nói rằng: Tin sâu, Nguyện thiết, là căn bản vào Tịnh độ, nhưng phẩm vị cao hay thấp là tùy theo sự hành trì.
Thiền Tịnh song tu nương vào hơi thở ra vào để điều tâm, vì hơi thở là gạch nối giữa thân và tâm. Pháp quán sổ tức, Kinh An Bang Thủ Ý đều chỉ rõ tầm quan trọng của hơi thở. Hơn nữa vì hơi thở không gián đoạn nên một khi dùng hơi thở chuyên chở tiếng niệm Phật vào tâm thì sự hành trì dễ liên tục, mau đi đến chỗ nhất tâm. Trước khi vào chi tiết của sự hành trì, xin giải thích niệm là gì? A Di Đà Phật là gì? Niệm là nhớ đến một điều gì, rồi đem hết tâm trí vào đó. Cũng có nghĩa là buộc tâm vào một chỗ khiến cho tâm nhớ rõ không quên. Điều quan trọng của niệm là phải có sự chuyên cần và khẩn thiết vì nếu không chuyên cần thì niệm không liên tục, không khẩn thiết, thì tâm chẳng tập trung được. Niệm cốt để sanh Định, nếu thực hành không liên tục, không thành khẩn, thiết tha thì chẳng thể thành công.
Khi niệm "Nam mô A Di Đà Phật", chúng ta phải biết là mình đang nghĩ tưởng đến Phật với lòng kính ngưỡng vô biên. Phải biết rằng hồng danh A Di Đà có ý nghĩa rất thù thắng và có công năng bất khả tư nghì. Nhiều người không thấu rõ vấn đề, cho rằng danh hiệu Phật chỉ là phương tiện để cột tâm vào một chỗ như bao nhiêu phương tiện khác; như thế là đã ra ngoài pháp môn Tịnh độ rồi. Vì vậy, khi muốn tu Tịnh độ, phải hiểu rõ ý nghĩa 6 chữ "Nam mô A Di Đà Phật".
Nam mô: Quy kính, nương tựa. Xướng lên tiếng này để bày tỏ lòng cung kính và sự tin tưởng nơi Đức Phật và xin nương về Phật để được giải thoát.
A Di Đà Phật: là vị giáo chủ cõi Cực Lạc ở tây phương, nguyện tiếp độ chúng sanh nào phát nguyện sanh về nơi ấy.
Danh hiệu A Di Đà, tiếng Phạn là Amidha, Trung Hoa dịch là Vô Lượng. Theo Kinh Vô Lượng Thọ thì Vô Lượng ở đây hàm hai ý nghĩa: vô lượng thọ và vô lượng quang. Vô lượng thọ là thọ mạng vô lượng vô biên. Đây là đặc tánh thường trụ, không sinh diệt, không gián đoạn, đồng với thể tánh Chơn như. Vô lượng thọ còn biểu lộ đức tánh từ bi vô lượng của Đức Phật A Di Đà, vì muốn cứu độ chúng sanh nên đã không nhập Niết-bàn. Vô lượng quang là ánh sáng quang minh vô hạn, tượng trưng cho trí tuệ Phật viên mãn, không có gì mà không biết. Ánh sáng trí tuệ này tuôn chiếu tới đâu thì bóng tối vô minh phiền não phải lui. Vì thế, niệm A Di Đà Phật là đem ánh sáng Như Lai vào soi rọi tâm tư khiến cho suy ám tiêu tan, huệ nhật ngày càng tỏ rõ.
Pháp hành Thiền Tịnh: Tùy theo hoàn cảnh phương tiện, hành giả có thể dùng một hay nhiều các phương pháp sau đây, và có thể thay đổi qua lại để tránh sự nhàm chán hay máy móc (làm theo thói quen không có sự khẩn thiết bên trong). Phương pháp tu Thiền Tịnh có nhiều, đây chỉ là một số thông dụng có tính cách thực tiễn. Tuy cùng một phương pháp, nhưng tùy theo dụng công và trình độ căn cơ mà kết quả sai khác nhau.
Tọa thiền niệm Phật:
- Điều thân: dùng phương pháp chuyển mình (xem phần hướng dẫn phía sau).
- Điều tức: điều hòa hơi thở.
Sau khi làm các động tác chuyển mình, hành giả bắt đầu dẫn khởi tư tưởng ra vào theo hơi thở. Hơi thở lúc này cần dài và nhẹ.
- Thở vào: hít từ từ, dài hơi cho không khí đầy buồng phổi. Theo dõi hơi thở, biết mình đang thở vào, đang tiếp nhận những tinh hoa thuần khiết của vũ trụ vào cơ thể. Những tinh hoa ấy là từ, bi, hỷ, xả sẵn có trong vũ trụ và sẵn có trong tâm tánh của mỗi người. Tư tưởng này theo hơi thở tuôn tỏa khắp thân tâm hành giả.
- Thở ra: sau khi thanh khí vào rồi liền dẫn khởi tư tưởng đem trược khí và ác niệm của thân tâm từ từ theo hơi thở tuôn ra ngoài hư không. Lúc thở ra phải há miệng, hà hơi, đẩy thán khí ra ngoài như một sự dứt khoát từ bỏ ác niệm tham, sân, si.
- Điều tức: thở vào thở ra ba lần như vậy.
- Điều tâm: Bắt đầu niệm Phật (niệm thầm, nhưng phải rõ ràng) theo hơi thở. Chú ý vào hơi thở, lấy nhịp ra vào của hơi thở mà niệm Phật.
Thí dụ: Thở vào: Nam mô A; Thở ra: Di Đà Phật.
Lúc mới bắt đầu, tâm chưa chuyên nhất được, nên đếm số thuận nghịch: Niệm xong một hồng danh thì đếm 1; thở, niệm và đếm cho đến 10 và đếm ngược lại 9, 8, 7, 6, 5, 4, 3, 2, 1, 0.
Khi đếm thuận nghịch không lộn, không còn sai thì có thể không cần đếm nữa. Bây giờ thở bình thường, thư thả. Nhịp thở và tiếng niệm có thể đổi như sau;
Thở vào: Nam mô,
Thở ra: A,
Thở vào: Di Đà,
Thở ra: Phật.
Theo nhịp chậm này thì niệm lâu không mệt, nhưng để tránh sự hôn trầm, thỉnh thoảng nên đổi nhịp. Để tránh tạp niệm, thỉnh thoảng lại đếm số thuận nghịch. Đây chỉ là phương tiện lúc ban đầu. Về sau, khi đã thuần thục thì tự mình có thể không cần đếm số thuận nghịch.
Đến một giai đoạn sau, hành giả sẽ cảm thấy hơi thở và tiếng niệm Phật là một. Cứ chuyên chú tiếp tục như vậy, ý thức từ từ lắng dịu; mặc dù hành giả có thể nghe tiếng động bên ngoài, ngửi được mùi khói nhang, ngửi được hương hoa ở chung quanh, nhưng tâm không xao lãng việc niệm Phật. Tập trung được nhiều lần, liên tiếp trong các thời khóa sẽ đạt niệm lực.
Niệm lực là sức mạnh do công phu niệm Phật nhuần nhuyễn sanh ra. Niệm lực có tác dụng dẹp bỏ vọng niệm lúc đang công phu. Niệm lực tăng trưởng hùng hậu sẽ tạo thành dòng nước ngầm. Dòng mạch này được kết hợp bằng vô số tiếng niệm Phật, nó ẩn đi khi hành giả bận bịu công việc, nhưng nó sẽ tuôn chảy ra trong tâm hành giả ngay khi công việc vừa xong khiến ta tiếp tục niệm Phật một cách tự nhiên, không cần tác ý. Niệm lực được nuôi dưỡng cẩn thận hơn nữa thì một ngày kia, khi nhân duyên chín mùi, hành giả sẽ đắc Định.
Định có nhiều tầng bậc do công phu sâu cạn khác nhau. Ở cấp thấp, Định được xem như nhất tâm. Đây là Sự nhất tâm: đắc Sự nhất tâm là có thể vãng sanh.
Từ y Danh khởi niệm kế đến y Tướng khởi niệm, dần dần tiến đến chỗ y Phân biệt niệm Phật là hiểu rõ Phật tại tâm, do tâm sở hiện, gọi là Duy tâm niệm Phật. Y Tâm mà quán thể thì thấy tất cả đều là pháp tánh bình đẳng , tức là thấy Phật. Bấy giờ hành giả thâm ngộ tự tánh Di Đà, vạn pháp duy tâm và "Tâm, Phật, chúng sanh: tam vô sai biệt". Đây là Lý nhất tâm. Định Huệ ngang bằng thì đắc Tam-muội (Ni Trưởng Như Thanh - Thiền tịnh song tu).
5. 2. Chư Tổ ngày xưa là những bậc thiền gia tinh chuyên lão luyện, các Ngài là những Thiền sư đắc đạo. Các Ngài đều là những bậc truyền thừa thiền và vũ hành nhiều phương tiện độ sanh, như là dùng nhiều pháp môn khác nhau để hoằng hóa mà không bị tha hóa bởi tha nhân, như: trong Thiền có Tịnh độ, Luật, Mật; trong Tịnh độ có Thiền, Luật, Mật v.v... tất cả đều là giáo lý của Phật để làm phương tiện giáo hóa chúng sanh. Trong khi ngày nay, vào thế kỷ 18. bên Trung hoa, xem pháp Thiền thì quá cao siêu, áo nghĩa, nên đại đa số quần chúng lại thiên về niệm Phật, quen nghi thức tụng kinh niệm Phật. Vì thế, để có được gạch nối từ chư vị Tổ sư đến chúng ta, cần phải có sự kết hợp giữa cách tu của Tổ sư với cách tu của chúng ta.
Chúng ta không hiểu bắt đầu từ thời điểm nào lại có sự chuyển biến kỳ lạ này, Tổ sư tu Thiền còn chúng ta lại tu niệm Phật như thế. Do đó, chúng ta cũng nên nghiên cứu kỹ lưỡng lý do, hoàn cảnh nào mà chúng ta ngày nay tu Tịnh Độ, không giữ lối tu Thiền như chư Tổ ngày xưa nữa (tư liệu TT Chân Quang)
Hôm nay, chúng ta tìm hiểu: Thế nào là Thiền Tịnh song tu? Vì sao phải tu hành pháp Thiền Tịnh song tu? Chư Tổ đặt ra pháp Thiền Tịnh song tu có những ý gì và chúng ta sẽ thực hiện ý của Tổ như thế nào?
Nếu nhìn với mắt phàm phu, chúng ta sẽ cho rằng Tổ sư mồ côi mẹ sớm từ thuở lên năm, lên sáu. Đến năm 12 tuổi, vào chùa tu, năm 19 tuổi, thầy Bổn Sư viên tịch, năm 21 tuổi, cha lại mất. Cuộc đời Ngài trở nên đơn độc đi tham học cho đến ngày gặp Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung trao cho thoại đầu. Ngài khổ công tu học và đắc đạo. Nhìn chung, cuộc đời tu hành của Tổ sư gặp đầy chướng duyên và dù đương đầu nhiều đắng cay, nhiều khổ cực nhưng Tổ sư không hề nản lòng, giữ vững khí tiết thanh cao, bước tới cầu tầm tu cho tới ngày nên đạo.
Nếu chúng ta nhìn bằng con mắt của Đại thừa Phật giáo, sẽ cho rằng đất Phú Yên có duyên lành phát tích được các vị danh tăng nên khiến cho có một vị Bồ Tát giáng trần, thị hiện tu hành cần khổ đắc đạo và để lại sức mạnh tâm linh cuồn cuộn trong lòng dân tộc. Ngày nay, nhờ sức mạnh tâm linh đó, chúng ta nối tiếp dòng Pháp của Ngài, tiếp tục con đường tu hành, truyền bá và làm tròn nhiệm vụ Hộ Quốc An Dân.
Tổ sư sinh năm 1667, bấy giờ bên Trung Hoa, nhà Mãn Thanh chiếm đất nước Trung Hoa Nam Hải và lập triều đại mới là nhà Thanh.
Nhà Mãn Thanh là dân tộc hùng mạnh ở phía đông nước Mông Cổ. Đặc biệt là các quốc gia Mông Cổ và Tây Tạng tu hành theo Lạt Ma giáo hay Mật Tông, vì vậy người dân ở phía bắc và đông bắc Trung Hoa đều theo Lạt Ma giáo. Trước đó một năm, vua nhà Mãn Thanh là Thuận Trị bỏ ngai vàng đi tu, để lại Thái Tử còn nhỏ dại, lên ngôi lấy hiệu Khang Hi. Triều đình bấy giờ do Ngao Bái nắm trọn quyền hành. Khang Hi tuy nhỏ nhưng là bậc tài trí phi thường. Khi lên ngôi, Khang Hi nhanh chóng giết bọn gian thần Ngao Bái, giành lại quyền hành trong triều đình. Triều đình nhà Thanh lại sùng mộ Mật Tông, nên các vị Mật Tông luôn lui tới quan hệ với các quan trong triều. Riêng ngài Ngọc Lâm do duyên lành với nhà vua Thuận Trị và Khang Hi nên được phong làm Quốc Sư.
Vào thời Đức Phật tại thế, các vị Tỳ Kheo buổi sớm tinh mơ thức dậy ngồi thiền cho đến khi hừng sáng các vị mới xả thiền, đi kinh hành rồi khi sương mai tan dần mới đi khất thực. Khoảng trên 11 giờ các vị đã thọ thực xong, lại quay về trong rừng, ngồi thiền, đàm đạo hay thuyết pháp. Chiều lại, các vị tiếp tục ngồi thiền cho đến nửa đêm. Thời gian ngủ nghỉ của các vị rất ít.
Việc thờ cốt tượng Phật
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, vắng Phật nhưng với lòng tôn quý Đức Phật, hình tượng và xá lợi của Đức Phật được tôn tạo thờ phượng khắp nơi. Việc thờ cốt tượng Phật Bồ tát, A La Hán trở thành truyền thống không thể thiếu trong chốn già lam lớn nhỏ cho đến hôm nay. Trong khi có thờ phượng, các Tỳ Kheo dậy sớm, xông hương bằng cách đốt bột gỗ thơm hay bột trầm hương, hoa dâng lên Phật, rồi mới ngồi thiền. Trời vừa sẩm tối, bóng ngả về chiều, các Tỳ Kheo Trưởng lão làm vị A xà lê ngồi kiết già trên bục cao, đọc lời dạy của Đức Phật mà các Ngài đã nghe, thuộc và tu theo, còn các đệ tử Sa Di ngồi chung quanh, chắp tay, đọc theo Thầy. Thời này chưa có chữ viết, chỉ có truyền miệng mà thôi. Nếu có vị nào đọc sai, vị A xà lê bắt đọc lại, việc này gọi là Trùng Tụng. Đó là hình thức buổi đầu của việc tụng kinh với mục đích là làm cho nhiều người nhớ kinh và truyền lại cho nhiều người khác nữa. Nhờ vậy mà Tam Tạng Kinh Điển mới còn được lưu truyền đến ngày nay.
Nguồn gốc các khóa lễ tụng kinh
Khi Phật Giáo đến Trung Hoa, người Trung Hoa cho khắc, in các bản kinh. Nhờ các bản kinh hiếm hoi quý giá này, người nào chưa thuộc có thể đọc kinh chung với các vị đã thuộc lòng rồi. Bấy giờ, sinh hoạt trong các chùa có chút ít thay đổi hơn xưa, chư Tăng chuyển dần thời dụng biểu: sáng ngồi thiền, chiều tối lại, cả Thầy Trò cùng quỳ trước bàn thờ Phật, tụng đọc kinh kính dâng lên Đức Phật.
Tuy Quốc Sư Ngọc Lâm tu hành chứng đạo theo lý thiền tông Trung Hoa, Ngài đã phải tìm cách dung hòa với các vị Mật tông khi chủ trương cải cách hẳn sự tu hành. Ngài kết hợp cả ba Thiền Tịnh Mật, soạn ra Hai Thời Công Phu làm Nghi Thức chính thức cho các chùa tụng niệm. Trong mỗi thời công phu, đều có tụng bài Kinh Bát Nhã mang chút ý thiền hòa chung với Mật Tông (Lăng Nghiêm, Đại Bi, Thập Chú…) cùng Tịnh Độ Tông (Di Đà, Phổ Môn, Pháp Hoa…) Và nghi thức này vẫn còn các dụng trong các ngôi chùa Việt Nam ngày nay, buổi sáng tụng kinh Lăng Nghiêm và buổi chiều và tối tụng kinh Di Đà.
Sự cải cách của Quốc Sư Ngọc Lâm gây ra nhiều sự phản đối nơi các vị thiền sư. Nhưng vì lệnh từ trong triều đình đưa ra, các quan bắt buộc phải theo dõi việc tu hành nơi địa phương và báo cáo sự phản đối này. Quốc Sư Ngọc Lâm bèn viết một văn biểu phản biện nghiêm khắc để đánh tan sự chống đối ở các chùa.
Từ đó, các chùa ở Trung Hoa phải tuân theo sự cải cách này một cách tuyệt đối, sáng chiều tụng hai thời khóa công phu thay vì ngồi thiền như xưa. Dần dần nếp sinh hoạt này quen với mọi người nên ai cũng nghĩ: “Hễ ai vào chùa tu, phải thuộc hai thời công phu mới là bậc thiền gia chân chánh”.
Nhưng có một số vị thiền sư Trung Hoa vẫn thấy bất mãn, đã rời Trung Quốc tìm đến các chùa ở Việt Nam, Chiêm Thành, Thủy Chân Lạp, Thái Lan… Các vị không dám lai vãng ngoài miền bắc Việt Nam vì địa hình quá gần đất nước Trung Hoa, các vị sợ triều đình Trung Quốc sang tìm kiếm gây khó dễ.
Bấy giờ ở Việt Nam ta vào thời chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong, các chùa vẫn giữ nếp xưa tu thiền, chưa bị ảnh hưởng hai thời công phu của Quốc Sư Ngọc Lâm bên Trung Hoa.
Lúc bấy giờ Tổ sư Liễu Quán vào chùa Hội Tôn tu năm 12 tuổi với Hòa Thượng Tế Viên, trong bối cảnh ấy, các chùa ở Việt Nam ta vẫn chưa tu theo hai thời công phu như Trung Quốc. Ngài được học Thiền và đem tâm quyết tu rốt ráo tìm đến giác ngộ, giải thoát nên cầu học nhiều nơi dù trải qua nhiều gian khổ, đắng cay từ Phú Yên đến Thuận Hóa sau khi Bổn Sư viên tịch.
5.2 . Ý tưởng các Chùa nhà Thiền có tu Tịnh:
Khi chúa Nguyễn Phúc Khoát mất, Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi (năm 1765) bị loạn thần Trương Phúc Loan khống chế. Đến năm 1776, chúa Trịnh chiếm bức kinh thành Phú Xuân của chúa Nguyễn. Đi cùng quân chúa Trịnh có danh thần Lê Quý Đôn, thời gian nầy cũng là lúc nhà Tây Sơn dấy nghiệp. Năm ấy, Chúa Nguyễn Phúc Thuần đụng độ với quân nhà Tây Sơn và tử trận, Nguyễn Phúc Ánh kế vị. Cho đến khi nhà Tây Sơn bị ly gián nội bộ, nhà chúa Nguyễn Vương Phúc Ánh thừa kế xưng vương năm 1802, niên hiệu là Gia Long. Bấy giờ, ở Trung Quốc là đời vua Gia Khánh các chùa đã tuân theo lệnh Quốc Sư Ngọc Lâm chỉ còn tụng hai thời công phu. Vua Gia Long tiếp nhận tư tưởng Phật giáo nhà Mãn Thanh, lệnh cho Tăng Ni thời bấy giờ dựa theo thời khóa của các chùa Trung Quốc áp dụng cho các chùa ở Việt Nam. Ý tưởng trong chùa nhà thiền có tụng kinh niệm Phật từ đấy.
Ngày xưa, nơi chùa nào có danh tăng, nơi đó đồ chúng tựu về học nên không có trường lớp, môn học phong phú như ngày nay. Vị thầy dạy theo bản lĩnh, khả năng riêng, dạy những gì mình giỏi, mình biết, mình tu, nên có phần hạn chế chứ không toàn diện, nhiều lĩnh vực như bây giờ. Chùa nào cũng xưng là Lâm Tế Chánh Tông. Lâm Tế là tên ngôi chùa, trú xứ của Ngài Nghĩa Huyền, ngài là một thiền sư đắc đạo và có nhiều đệ tử đắc đạo. Thời đó, thiền Lâm Tế nổi trội hơn thiền Tào Động, Vân Môn hay Quy Ngưỡng. Nhưng ngày nay, chúng ta không còn giữ việc tu Thiền mà biến thành tu Tịnh Độ niệm Phật. Tịnh Độ có hai nét chính:
1/. Niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc.
2/. Phát triển về nghi lễ, tụng cúng.
Qua nghi lễ, ứng phú cho thấy các nhà sư Việt Nam ta rất có tâm hồn nghệ sĩ vì các vị tụng kinh theo cách hát bộ có nhạc cụ như đờn cò, tang, trống, phách, v.v…
Các vị Đại sư khi chuyển sang tu pháp môn Tịnh Độ nhận thấy rằng pháp môn này dễ tu, ai tu cũng được, cứ giữ câu niệm Phật trong tâm lúc nào cũng Nam Mô A Di Đà Phật thì tâm bớt loạn vì có chỗ để ta bám vào thay vì tâm để trống, nghĩ nhiều chuyện vẩn vơ. Nhất là đa số mọi người yên tâm khi được nghe lời nguyện của Phật A Di Đà: Nếu niệm Phật nhất tâm sẽ được vãng sinh về Cực Lạc để tu tiếp sau khi nhắm mắt và họ tin rằng Cực Lạc là cõi thanh tịnh, trang nghiêm, không còn lo nay đói, mai đau, không bận tâm vì có người ác hại ta, không lo sóng thần, bão tố… giúp tinh thần chúng sanh an lạc.
Như thế, thoạt đầu, khi nghe và thấy thì ai cũng nghĩ pháp môn niệm Phật là pháp môn dễ tu hành, ai tu cũng được. Thật ra, đó lại là pháp môn tu dành cho kẻ thiện căn vì chỉ có bậc thiện căn mới đi đứng nằm ngồi đều nhất tâm niệm Phật. Người căn cơ thấp, kém phước, phải lo toan nhiều thứ, khó có thể nhất tâm niệm Phật. Ngoài ra, đối với người không có đủ niềm tin phát nguyện, và tinh chuyên thực hành để cầu vãng sinh thì không đủ lực để vãng sanh.
Vào thời xưa, tán tụng trong giới Phật giáo Việt Nam là phát huy một nền văn hóa cao cấp. Một gia đình hữu sự rất tín ngưỡng thỉnh quý Thầy đến tán tụng cho trịnh trọng. Không khí chùa tưng bừng nhờ có tiếng tán tụng hòa với các loại nhạc khí nên thời xưa ai cũng thích. Còn bây giờ, chúng ta cũng thích vui nhưng lại quen lối ca hát tân nhạc theo thời đại mới… thay cho nhạc cổ ngày trước nên đa số, nhất là giới trẻ, không còn thích ưa tán tụng, cốc cốc, cheng cheng nữa và dần dần chỉ còn một ít người chấp nhận.
Tóm lại, người theo Tịnh Độ Tông chỉ niệm Phật với ước nguyện vãng sanh Cực Lạc và vì niệm Phật dễ tu nên nhiều người theo. Đồng thời, bên Thiền tông, cũng có những thiền sư đắc đạo, nên nhiều người cũng hâm mộ và như thế cả hai dòng tu cứ đi song song nhau như thế rất lâu. Tuy nhiên, đi song song nghĩa là có chia rẽ: người tu Thiền cho là mình tu “trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật” còn người tu Tịnh độ thì quan niệm “niệm Phật nhất tâm ,vãng sanh Cực Lạc quốc”. Hai khuynh hướng này nghe chẳng hề giống nhau, làm cho ta lắm lúc phải phân vân tự hỏi “Đạo Phật là của ai?”. Câu hỏi đó cứ ngấm ngầm mà tạo nên mầm chia rẽ vô cùng trầm trọng. Các vị Tổ Sư đã ray rứt, không muốn đạo Phật chia cắt nên tìm cách dung hợp lại bắng cách khởi xướng, khuyến khích phương pháp Thiền Tịnh song tu. Hôm nay, nhắc đến Thiền Tịnh song tu là chúng ta nhắc lại bài pháp "Tứ Liệu Giảng" của Tổ sư Vĩnh Minh đã nói đến từ lâu xa về trước. Các vị xiển dương “Tu Tịnh Độ nếu có thêm Thiền, hoặc tu Thiền nếu có thêm Tịnh Độ thật chẳng khác chi "hổ mọc thêm sừng”.
Các Ngài giúp cho người tu Thiền, thấy niệm Phật là cần thiết với mình và người tu Tịnh Độ cũng thấy Thiền là không thể thiếu đối với mình; Thiền Tịnh đan xen nhau như sữa hòa với nước. Nếu chúng ta hiểu Thiền Tịnh khác nhau, có sự khác biệt và chia rẽ giữa Thiền Tịnh là ta đã hiểu sai ý Tổ sư. Thực sự giữa Thiền và Tịnh có mối liên quan rất rõ nét.
5.3. Vì sao Tổ sư xiển dương Thiền Tịnh song tu?
Trước hết, chư Tổ không muốn có ý tưởng người thượng căn tu Thiền và người hạ căn tu Tịnh Độ, cũng không muốn đem Thiền chê Tịnh, lấy Tịnh bày bác Thiền. Tổ sư Trí Húc Linh Phong là Tổ sư Thiền phát tâm tu Tịnh, ngài dạy: "không nên đem lý Thiền bày xích Tịnh, càng không nên đem Tịnh độ mà bác Thiền vì tất cả các pháp đều là ý tưởng của Phật. Thiền sư Nguyên Thiều du hóa sang Việt Nam xây dựng nền Phật pháp: chùa Di Đà Thập Tháp tại Bình Định để dạy cho đồ chúng niệm Phật. Pháp môn nầy chư Tăng Ni, Phật Tử Non Bồng học từ chư vị Giảng sư đệ tử của Đức Pháp Chủ Khánh Anh giảng dạy tại Phật Học Đường Tây Phương Bồng Đão, núi Bồng Lai.
Trong quá khứ, chư vị Tổ sư muốn kết nối và nâng cao căn cơ trình độ cho chúng sanh có trình độ tri thức ngang nhau. Ví dụ, người tu theo Thiền nhưng tu hoài không đạt được gì, chư Tổ khuyên người này tốt nhất tu niệm Phật, tụng kinh để nâng cao trình độ mình lên. Cũng vậy, chúng ta ngồi thiền quá nhiều vọng niệm, chúng ta phải khởi tâm niệm Phật, sám hối, rồi tiếp tục điều tâm lại. Còn người niệm Phật thuần thục, nhiếp tâm trong câu niệm Phật, tánh tình cởi mở, đạo đức đã tăng trưởng, chư Tổ khuyên người này buông câu niệm Phật bước sang tu Thiền để đạt đến vô niệm thay vì ôm giữ câu niệm Phật trở thành chướng ngại cho việc tu hành của mình.
Để Phật Giáo đừng chia rẽ vì tu Thiền hay tu Tịnh. Người nào ứng dụng Thiền Tịnh song tu vì hiểu bản ý của Tổ là người cho ta đảnh lễ, cung kính.
Nhờ Thiền Tịnh song tu mà Phật Giáo đoàn kết có thể phát triển mạnh mẽ bên cạnh các tôn giáo bạn vì họ đang truyền đạo một cách phát triển. Họ gõ cửa từng nhà để truyền đạo. Chúng ta phải nguyện với Phật với Tổ, chung quanh ta còn người nào chưa biết Phật Pháp, ta phải hổ thẹn, sám hối và cố gắng làm sao giúp cho họ tiếp cận Phật Pháp. Quanh chùa, còn ai chưa biết đạo, ta phải đến thăm hỏi, gieo duyên cho họ biết tìm về chùa quy y, học đạo. Đây là việc hàng đầu và đòi hỏi ta có quyết tâm cao. Không thể còn cảnh ta ngồi chờ người tìm đến ta cầu đạo; trái lại, ta phải chủ động tìm đến gia đình nào chưa biết đạo để khuyên và giúp họ vào đạo. Nghĩa là ta chủ động tìm đến từng nhà gieo duyên cho người cầu học đạo không đợi người tìm đến mình mà "chặt tay cầu đạo" như ngài Huệ Khả ngày xưa.
Vào thời Đức Phật không có quan niệm “niệm Phật vãng sanh”, các vị tu thiền và cố gắng chứng một thánh quả nào đó trong hiện đời (Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán). Khoảng 20 năm giáo hóa Đức Phật tập lần cho đệ tử đời sống tâm linh xa ngài, nên giới thiệu cho các vị niệm tưởng một Đức Phật khác tức là A Di Đà, nên các vị đành nương theo câu niệm Phật nhiếp tâm thay vì thiền niệm tứ niệm xứ. Ngày nay nhiều trào lưu văn minh xuất hiện, nhằm để phong phú hóa đạo vị nhà chùa, các bậc tôn túc Trưởng lão xưa cũng như nay tạo ra nhiều sinh hoạt nghi thức, ứng phú như đàn chẩn tế, cần an, cầu siêu, hai thời công phu…
5.4. Niệm Phật Tịnh hóa nhân gian
Chùa là trung tâm của sự tĩnh lặng, chùa cũng là nơi sưởi ấm tinh thần cho người thân xa quê. Thi thoảng trong ngày mọi người đều được nghe tiếng chuông ngân vang, vang vọng đâu đây, tiếng mõ nhịp nhàng hòa theo tiếng tụng kinh trầm bổng. Tiếng chuông chùa thực sự đi vào lòng dân tộc ta trở thành nếp sống văn hóa của dân tộc, nhất là làm cho Phật giáo gần gủi xã hội từ thành thị đến làng quê. Từng buổi chiều tà khi mặt trời dần khuất bóng, từng buổi khuya mờ sương vầng thái dương chưa ló rạng, những tiếng đại hồng chung nhẹ thả vào bầu trời êm ả, trôi xa giữa không gian thanh vắng đã làm cho bao khách trần dừng chân phiêu lãng, tỉnh giấc mộng đời say đắm tự bấy lâu nay.
Con người vốn sống vội vàng, rộn ràng, lẹ làng, ngỡ ngàng theo đuổi bã vinh hoa phú quý. Chỉ nghe từng tiếng chuông chùa thong thả, êm đềm giữa trời khuya, bất giác, ta chạnh lòng nghĩ lại “Những điều ta đắm đuối lâu nay có mãi còn chăng, tấm thân này khi nào trở về cát bụi? Cái ta mang theo chỉ là tâm linh và công đức. Ta đã làm được gì để xứng đáng gọi là công đức cho đời...”
Nhờ vào nghi thức, chùa cũng đã gây ảnh hưởng tốt vào lòng người, giúp con người tăng trưởng tâm linh. Đó chính là công phu, công lao của các vị tu theo pháp môn Tịnh Độ đem lại cho cuộc đời, làm cho Đạo Phật trở nên gần gũi hơn với xã hội đời người.
Các vị tôn túc về sau nhận thấy “Một người tin vào pháp môn niệm Phật vãng sanh, người này sẽ ráng niệm Phật”. Nếu người này là bậc thượng căn, sống đạo đức, thánh thiện, hiền lành, trong chùa thương yêu huynh đệ, hỗ trợ, thương yêu người ở những ngôi chùa khác, và thương yêu tất cả chúng sanh, khi người này công phu niệm Phật, sẽ nhiếp tâm được rất dễ dàng.
5.5. Niệm Phật trở thành công án thiền
Các vị tôn túc gặp người niệm Phật sẽ hỏi “Ông niệm Phật chuyên cần, nhưng ông có biết ai là người niệm Phật hay không?”
Họ trả lời “Cái miệng của con”
Các vị hỏi tiếp “Ông chết rồi thì cái miệng ấy có còn niệm Phật được nữa chăng?”
Họ trả lời “Vậy là tâm con niệm”
Các vị lại hỏi “Tâm ông ở đâu, chỉ cho ta biết”
Họ loay hoay tìm nhưng không biết tìm đâu.
Các vị tôn túc khuyên họ về cố mà tìm qua câu niệm Phật.
Khi người này về tìm thấy Tâm rồi, thì tâm bùng vỡ và trở thành thiền sư.
Nghĩa là với người niệm Phật thuần thành, các vị thiền sư tôn túc dùng thủ thuật khai thị làm cho người niệm Phật này lập tức trở thành thiền sư. Nói cách khác, ranh giới giữa Tịnh Độ và Thiền Tông không có. Và các vị tôn túc luôn tìm cách nâng trình độ người niệm Phật bằng con đường thiền.
Có khi cũng có những vị tuy tu niệm Phật nhưng có duyên ít nhiều với pháp môn thiền nên đem lòng yêu thích tu Thiền, tìm gặp thiền sư xin cầu pháp.
Vị thầy sẽ hỏi “Từ trước nay, ông tu gì?”
Người này thưa rằng “Trước kia con tu niệm Phật, bây giờ con thích tu Thiền. Con sẵn sàng bỏ hết Tịnh Độ để theo tu Thiền”.
Vị thầy sáng suốt sẽ không chấp nhận cho người này bỏ công phu niệm Phật bấy lâu nay vì chính công phu niệm phật làm cho người này tăng trưởng đạo lực, tăng trưởng phước duyên. Vị thầy nhận thấy tốt nhất là kết hợp Thiền và Tịnh Độ chứ không thể dùng thoại đầu khai thị, nên không cho người này bỏ câu niệm phật mà phải kết hợp câu niệm Phật với việc theo dõi hơi thở. Vị thầy bèn dạy họ:
Thở vào - Nam mô A Di Đà Phật
Thở ra - Nam mô A Di Đà Phật
Hoặc là
Thở vào - Thở ra - Nam mô A Di Đà Phật
Thở ra - Thở vào - Nam mô A Di Đà Phật
Người còn phải kết hợp câu niệm Phật với việc theo dõi hơi thở là người căn cơ còn thấp. Chúng ta thường nghe nói căn cơ cao thấp. Căn cơ chính là công đức, mà câu niệm Phật là một trong những yếu tố giúp tăng trưởng công đức nên tất nhiên giúp ta tăng trưởng căn cơ.
Trường hợp vị niệm Phật thuần thục, căn cơ cao khi được hỏi “Niệm Phật là ai?” – “Ai là người niệm Phật?” sẽ bùng vỡ tâm linh và buông bỏ câu niệm Phật, đạt được chứng ngộ. Còn người muốn tu thiền mà căn cơ chưa đủ, bắt buộc giữ lấy niệm Phật kết hợp hơi thở đó chính là Thiền Tịnh song tu.
...
Khi thở vào, ta niệm Nam Mô A Di Đà Phật – khi thở ra, ta niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Nhờ ta niệm Phật nên chư Phật gia hộ, còn người chỉ theo dõi hơi thở mà thiếu câu niệm Phật, tâm dễ bị vọng tưởng lăng xăng chi phối hơn.
Khi thuần thục, ta buông câu niệm Phật ra, chỉ còn thấy thân này là vô thường.
Hơi thở vào, biết thân nầy là vô thường
Hơi thở ra, biết thân nầy là vô thường
Bây giờ chỉ còn là "cái biết" chứ không còn là "câu niệm" nữa, không còn là ý niệm mà chỉ còn "trí tuệ" đi theo hơi thở. Và dần dần sức tĩnh giác tăng lên giúp ta chỉ nhớ hơi thở và thân vô thường, không còn chạy theo vọng tưởng nữa. Ta tiếp tục vượt qua 5 triền cái, nhập Sơ Thiền… để bước vào một thế giới mới là thế giới của tâm. Ta sẽ thấy Đạo là ngay ở đây, Cực Lạc là chính chốn này.
Còn người căn cơ thấp chỉ lo tu Thiền mà không chịu niệm Phật, chư Tổ cũng buộc kết hợp Tịnh Độ bằng cách phải siêng lễ Phật cho nhiều thay cho niệm Phật. Lễ Phật còn cực hơn niệm Phật vì phải lễ hàng trăm lễ, phải thấy lỗi lầm của mình trong đời sống, phải thường xuyên sám hối tội lỗi, luôn khởi lòng tôn kính Phật thiết tha và tuyệt đối, phải phát đại nguyện độ sanh…
Người lễ Phật nhiều, đạo đức tăng trưởng, làm được nhiều công đức, trong đời sống thương yêu mọi loài, thương yêu huynh đệ gần gũi bên mình, thương yêu cả vạn loài ở xa nên công đức tăng trưởng. Khi công đức tăng trưởng, sức tĩnh giác của tâm tăng lên. Lúc đó, không cần niệm Phật, chỉ cần theo dõi hơi thở thôi cũng tắt dần vọng tưởng để đi sâu vào thiền định.
Đó là kết hợp Thiền Tịnh song tu; người niệm Phật kết hợp câu niệm Phật với hơi thở là kết hợp Tịnh Độ với Thiền. Còn người tu Thiền thêm lễ Phật, niệm Phật là có kết hợp Thiền với Tịnh Độ.
...Trong kinh Duy Ma Cật, khi được hỏi vì sao cõi này đầy gai gốc, gò nỗng thì Đức Phật ấn ngón chân xuống, lập túc cõi Ta Bà biến thành vàng ròng và Đức Phật dạy rằng “Tại các ông không thấy, chứ thế giới này là cõi Tịnh Độ”.
Người chưa có con mắt của đạo, vì không biết, sẽ nói Phật Thích Ca đi vào cõi Ta Bà uế trược, gai gốc, cao thấp không bằng để hóa độ chúng sanh một cách khó độ. Cũng vậy, chúng ta cũng chưa có con mắt đạo nên chúng ta còn thấy người này ghét tôi, chửi tôi, nợ đang đòi, nghèo đói đang chờ tôi… Người có nhãn quan đạo đức, ta sẽ thấy người chửi ta chính là ân nhân chứ không phải kẻ xấu, vì người này giúp ta tu hạnh nhẫn nhục và khiêm hạ. Thường thì chúng ta chỉ ưa nghe câu khen ngợi mà quên tu; người tu phải xem người chửi ta là Bồ Tát Thiện tri thức. Khi thấy được người chửi ta là Bồ Tát, là Thiện Tri Thức thì cõi này chính là cõi Cực Lạc, cõi Tịnh Độ chứ không còn là cõi Ta Bà tràn đầy kẻ ác và cái xấu. Như vậy, tùy theo con mắt ta nhìn thế nào mà thế giới hiện ra thế ấy, hoặc là cõi Tịnh Độ hay là cõi Ta Bà.
Ý thứ hai của Tổ là ngăn chặn sự phân hóa của Phật Giáo. Vào thời đó, những vị xiển dương Tịnh Độ đề cao quá mức, chẳng hạn cho rằng “Chỉ một câu niệm Phật, không cần niệm gì khác, sẽ được siêu sanh ba cõi”; hoặc một vị tu thiền lại quan niệm cực đoan “Lỡ niệm Phật một câu phải súc miệng 3 ngày”.
Hai bên Thiền Tông và Tịnh Độ bày bác nhau với đầy định kiến. Những vị Pháp Sư thì trách các vị tu Thiền quan niệm chỉ biết Chân Tâm , Phật Tánh không cần biết gì thêm, không chịu học Tam Tạng Kinh điển thì biết lấy gì mà tu. Còn vị tu Thiền trách các Pháp Sư chỉ được chỗ đa văn. Các vị Tổ Sư nhận thấy khuynh hướng cực đoan này đem đến nguy cơ phân hóa đạo Phật nghiêm trọng nên buộc lòng phải xiển dương Thiền Tịnh song tu nhằm ngăn chặn sự phân hóa và tạo nền tảng cho Đạo Phật quy về một mối “đoàn kết chặt chẽ để cùng phát triển”.
Người Phật tử có ý tưởng chan hòa, đến các chùa chỉ nghe tiếng các chùa khen nhau, thấy các chùa thương yêu, giúp đỡ nhau thì đạo tâm của họ tăng gấp bội lần, họ càng quý kính, thương yêu chư Tăng Ni nhiều hơn nữa. Họ thấy quả thực Đạo Phật xuất hiện giữa thế gian đem ánh sáng đạo đức soi rọi lòng người khiến cho người trước đây sống lung lay, thiếu đạo đức, không có niềm tin mà bây giờ được thắp sáng niềm tin, có chỗ để nương tựa. Họ cảm kích trong lòng vì nhận ra người đệ tử xuất gia trong Đạo Phật là những con người từ bi, đạo đức, sống hòa hợp, đoàn kết.
Vì thế, chúng ta phải hiểu chư Tổ xiển dương Thiền Tịnh song tu để ngăn chặn sự phân hóa của Đạo Phật. Bổn phận chúng ta là làm cho Đạo Phật đoàn kết, thương yêu để thực hiện bản hoài của chư Tổ.
Nếu trong chùa, huynh đệ chưa biết thương nhau, ta phải hiểu rằng ta còn thiếu sót. Ta phải làm sao chùa là tổ ấm, là thiên đường vì huynh đệ rất thương yêu nhau, vì huynh đệ có thể hi sinh mạng sống vì nhau. Người Phật tử bước vào dù chưa nghe nói lời nào, chưa thấy ai bày tỏ gì, vẫn cảm nhận ra không khí đầm ấm trong chùa do tâm linh lan tỏa từ tâm huynh đệ trong chùa tràn ngập tình thương yêu dành cho nhau, thầy thương đệ tử hơn con, đệ tử quý thầy hơn cha, huynh đệ thương nhau hơn anh chị em ruột thịt. Từ đó, người ta ưa thích tìm đến chùa vì muốn học được tình thương ấy để về sống với cuộc đời. Cũng vậy, giữa các chùa với nhau, dù khác tông phái, khác dòng phái, ta vẫn nhớ ta cùng chung Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni, chung tình Linh sơn cốt nhục, nên ta có bổn phận phải thương yêu nhau như ruột thịt. Người Phật tử viếng chùa này sang chùa khác thấy các chùa biết thương nhau, giúp đỡ nhau tuy ở khác chùa và rất xứng đáng cho họ đặt trọn vẹn niềm tin. Dưới mắt họ, những vị xuất gia như ánh mặt trời chân lý soi rọi chốn nhân gian điên đảo mịt mờ, như bóng cây đại thọ che mát cho kẻ lữ hành giữa trưa hè nóng bức, như dòng suối mát chảy qua sa mạc khô khan đang ngập tràn khói lửa hận thù; do đó, họ rất yên tâm đến chùa tu học. Nếu chúng ta thực hiện tốt điều này là ta đã thực hiện đúng với bản hoài của chư Tổ xiển dương Thiền Tịnh song tu.
Muốn tạo nên sự hòa hợp, đoàn kết trong đạo Phật, ta phải ghi nhớ những điều sau. Thứ nhất là ta đừng cố chấp pháp môn vì tất cả pháp môn phải lấy Bát Chánh Đạo làm gốc tu hành, lấy tam vô lâu học Giới Định Tuệ làm cốt lõi, lấy mục tiêu giải thoát giác ngộ làm cứu cánh. Dù Đạo Phật có đến tám vạn bốn nghìn pháp môn đi chăng nữa cũng phải cùng xuất phát từ cái gốc Bát Chánh Đạo, cũng chỉ quay về con đường giải thoát-giác ngộ. Chúng ta có chung gốc xuất phát và chung điểm tìm về, vì vậy chúng ta không thể vịn vào bất cứ lý do nào để chia rẽ pháp môn, để cách phân tông phái.
Chỉ cần chúng ta cùng tôn thờ chung Đức Phật, cùng nhắm về mục tiêu giải thoát giác ngộ, chúng ta đã là anh em chung một nhà, chung dòng dõi Thích Ca, cùng là con dân nước Việt, cùng chung dòng máu của Lạc Hồng nên chúng ta vừa thương yêu nhau vừa thương yêu cả đất nước này.
Trong việc phát triển đức tin, các tôn giáo bạn khôn khéo, biết tổ chức chặt chẽ, và luôn luôn nghĩ cách làm sao kéo thêm tín đồ, trái lại, chúng ta rất thờ ơ. Giả sử chúng ta sẽ hỏi bất kỳ một vị xuất gia nào đó năm nay đã quy y được bao nhiêu Phật tử thì vị này không nhớ con số và khi hỏi vị này có đặt tiêu chí hằng năm phải quy y bao nhiêu Phật tử trong địa phương thì vị này cũng trả lời rằng không. Đạo Phật truyền đạo chỉ vì muốn con người ăn hiền ở lành với nhau, chỉ vì muốn mọi người yêu nước thương dân nhưng ta lại thiếu tổ chức, thiếu quyết tâm.
Nhưng cũng có những kẻ xấu, muốn làm cho đạo Phật nước ta suy yếu đi bằng cách gây chia rẽ trong nội bộ đạo Phật. Họ tạo cho thầy này ghét thầy kia, chùa này công kích chùa kia, tông phái này đả kích tông phái kia và để có thể gây sự khích bác lẫn nhau giữa các chùa, giữa quý thầy, quý cô, ắt phải có người xúi giục. Ví dụ họ đến chùa A thì thầm kể với Sư cô Trụ trì chùa A rằng khi họ có dịp đến thăm chùa B, Sư cô Trụ trì chùa B dặn họ đừng đến chùa A nữa vì Sư cô chùa A tệ hại, xấu xa lắm, và họ đóng kịch thêm rằng vì họ thương Sư cô Trụ trì chùa A nên vẫn tới gặp để nói cho Sư cô biết. Nghe qua, Sư cô chùa A sẽ nổi giận mà buông những lời không đẹp đẽ về chùa B. Thế là hai chùa đều rơi vào bẫy của họ đâm ra nghịch nhau, thù nhau. Họ thường đóng vai Phật tử len lỏi vào các chùa, tìm cách kích động các chùa nghi kỵ, thù ghét nhau, tìm cách kích động quý thầy cô trong chùa không còn thương nhau nữa để các chùa, để quý thầy cô không thể cùng hợp tác với nhau được nữa. Do đó, Phật sự lớn lao không sao thực hiện được, và tất nhiên đạo Phật trở nên suy yếu dần đi cho họ dễ bề thao túng.
Ta thấy lực lượng tăng sĩ có đạo hạnh và tài năng quả là hiếm, trong khi ta rất cần ác vị Tăng tài đức tỏa khắp nơi đêm Phật Pháp đến cho chúng sanh. Người nào đạo đức tốt, xuất gia tu hành chân chính là những viên ngọc quý giữa cuộc đời, công đức rất lớn vì đã cúng dường trọn thân tâm mình cho Phật Pháp. Nếu quý Phật tử cảm thấy mình có thể xuất gia tu hành chân chính được thì đừng chần chờ ngần ngại, để cùng phụ giúp các bậc Cao Tăng tiền bối đêm Phật Pháp đến với cuộc đời. Hoặc giả thấy con cháu mình có thể xuất gia tốt, xin hoan hỷ động viên, khuyến khích con cháu mình xuất gia để cùng quý thầy quý cô chung sức làm rạng danh Phật Pháp mai sau.
Trong việc tu hành, không bao giờ ta được tự mãn, không bao giờ cho rằng đã đủ rồi, chùa vậy là tốt, đệ tử vậy là được. Ta tự mãn có nghĩa là ta bắt đầu lui sụt. Lúc nào ta cũng thấy mình vẫn còn thiếu xót và tìm cách hoàn thiện chỗ thiếu sót đó. Được như vậy thì đạo phong ta mới tăng tiến và khi về với Phật, ta sẽ ra đi trong sự thương tiếc của mọi người. Còn như ta tự mãn thì mọi người chỉ dành cho ta sự lạnh lùng và lòng oán ghét. Tự mãn nghĩa là lui, và lui nghĩa là hư hỏng. Do đó, ta phải thấy thiếu sót và luôn luôn cố gắng hoàn thiện, nỗ lực tu sửa để có một cuộc đời tu hành xứng đáng.
Dù tại gia hay xuất gia, ta phải có những hiểu biết về tôn giáo bạn mới là người đủ bản lĩnh. Khi gặp người của tôn giáo bạn, ta đến tiếp xúc vui vẻ và đủ sức giải thích cho họ nghe, hiểu về Đạo Phật dù ta biết họ không hề thích Đạo Phật. Việc trao đổi kiến giải giữa huynh đệ chỉ là việc bình thường. Người nào học vài câu Thiền ngữ, học vài chương giáo lý rồi về chùa tìm huynh đệ đối chất, hơn thưa, lại càng dở hơn nữa. Là người xuất gia, quý thầy quý cô nên gặp gỡ trao đổi, giới thiệu Đạo Phật với các vị lãnh đạo tôn giáo bạn để họ hiểu thêm về Đạo Phật và tìm thấy những cái hay của Đạo Phật, nhất là lòng yêu nước, gắn bó quê hương dân tộc, không hề vọng ngoại.
Hôm nay, nhân ngày tưởng niệm lịch sử của Tổ, nói về Thiền Tịnh song tu như cách nhớ ơn Tổ. Vì nhờ có Tổ mà Phật Giáo bùng lên một thời gian rất mạnh. Nhờ vậy, đến thời Pháp thuộc khống chế, ta mới đủ sức đi qua khỏi rồi đứng dậy một cách vững vàng. Nếu không có Tổ, Phật Giáo không đủ sức vươn lên sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta. Nếu chúng ta ca ngợi các vị tôn túc đứng lên chấn hưng Phật Giáo vào thập niên 30 – 40, chúng ta phải biết ơn Tổ với đại hùng, đại lực, đại từ bi đã vực Đạo Phật dậy từ mấy trăm năm trước đó. Lúc mà ở tại Phú Yên, có một vị đại sĩ xuất trần, dựng nên một dòng Thiền, thổi một sức mạnh tâm linh vào Đạo Phật, cho Đạo Phật qua được thời gian Pháp thuộc và duy trì mãi cho đến hôm nay.
Đạo Phật được chấn hưng có nhiều ngôi chùa khắp làng quê hay phố thị để cho con cháu ta còn nghe tiếng chuông chùa mênh mang theo câu kinh tiếng kệ êm đềm, con cháu ta còn biết thương yêu nhau. Muôn vạn lần ta không biết nói lời nào tri ân đối với Tổ. Không gì bày tỏ lòng biết ơn Tổ hơn là chúng ta nguyện tu hành tinh tấn theo lời Tổ dạy đễ giữ gìn Phật Pháp, giữ gìn đất nước này và thế giới này mãi thanh bình.
5.6. Tịnh độ trong Thiền:
Quá trình nghiên cứu về Thiền Tịnh song tu, xem trên Website Diễn đàn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng có luận về ý tưởng Tịnh độ Thiền của ngài Thân Loan thánh nhân. Chúng tôi đưa vào đây về ý tưởng Tịnh độ trong Thiền của ngài để chư liên hữu độc giả tiện việc nghiên cứu, nhất là Tăng Ni, Phật Tử Tịnh độ Non Bồng.
Tất cả chúng ta đều thấy rõ sự phổ biến về thực tập thiền quán trong xã hội đương thời bất chấp sự hội nhập tôn giáo. Mặc dù thiền quán có một vị trí nổi bật trong việc thực tập của Phật Giáo từ lúc khởi đầu của nó, nhưng Thân Loan đã phủ nhận sự thực tập của tự lực (tự cố gắng) và đối lập đến niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà như con đường để giác ngộ.
Như một kết quả, Tịnh Độ Chân Tông đánh mất cơ hội để chia sẻ tuệ giác tâm linh của nó với nhiều người tìm cầu trong xã hội đương thời, những người tìm sự tin tưởng tâm linh qua thiền quán. Chúng ta cần phải thấu hiểu nền tảng quan điểm của Thân Loan Thánh Nhân liên quan đến sự thực tập thiền quán.
Khi chúng ta quan tâm đến thế giới tâm linh mà Thân Loan (1173-1263) đã sống vào đầu thời kỳ Trung Cổ của xã hội Nhật Bản, chúng ta có thể thấu hiểu tốt hơn tại sao sự thực tập này được đặt qua một bên. Chính Thân Loan đã thực tập thiền quán như một phần của hệ thống tu viện Thiên Thai Tông trong hai mươi năm từ lúc chín tuổi đến hai mươi chín tuổi. Thiền tập của Thiên Thai Tông có nhiều tầng bậc mà trong ấy căn bản là sự thực tập một nghìn ngày chịu đựng tâm linh, thử nghiệm sức mạnh thân thể và tinh thần của môn nhân. Trong thời gian này Thân Loan đã tuyệt vọng với việc biết bao giờ thân chứng giác ngộ và giải thoát tâm linh khỏi dòng suối sinh tử luân hồi qua những sự thực tập khó khăn và vất vả của tu viện, kể cả thiền quán. Vấn đề là niềm đam mê mạnh mẽ và tính tự mãn của ông mà thường là kết quả từ việc quyết tâm thực tập tôn giáo. Việc thực tập như vậy đưa đến sự so sánh với những người khác và tự biện hộ.
Tuy thế, chúng ta phải chú ý rằng Thân Loan thật đạt đến những kinh nghiệm hư ảo qua thiền quán mà vì thế đã đưa ông đến Pháp Nhiên Thượng Nhân. Ông cuối cùng tìm được sự giải thoát khỏi sự vở mộng tâm linh qua sự hướng dẫn của Pháp Nhiên (1143-1212), bậc đạo sư Tịnh Độ Tông nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Thân Loan đã trở thành người đồ đệ nhiệt thành và cuối cùng đã phát triển sự diễn giải đặc thù của chính ông về giáo huấn nhấn mạnh trên niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà cùng việc trì niệm danh hiệu Phật trong việc nhớ ơn như hoàn toàn đầy đủ ý nghĩa để đạt đến giác ngộ. Tuy nhiên, thiền tập không là nguồn gốc hay phương tiện giải thoát tâm linh của ông.
Vào lúc ấy thiền tập là một bộ phận của toàn bộ cương lĩnh nguyên tắc tôn giáo hướng đến sự tập trung và tịnh hóa tâm thức để trãi nghiệm chân lý bất nhị của Đạo Phật trong chiều sâu của con người. Đấy là sự thực tập góp phần đến việc đạt được sự giác ngộ và do thế là nền tảng thực hành của Đạo Phật. Đấy là một nổ lực tôn giáo và tâm linh như nhiệm vụ của tiến trình thiêng liêng.
Đối với quan điểm của cá nhân Thân Loan và giáo huấn Tịnh Độ Tông, mục tiêu của thiền quán một cách căn bản là không thể áp dụng cho người thường bởi vì nó đòi hỏi tự ngã vượt thắng chính nó bởi năng lực hay nổ lực của chính nó. Thiền quán cũng như những sự thực tập khác của chùa viện đối với Thân Loan là tự mâu thuẫn như là phương tiện để tịnh hóa chính mình bởi tự mình. Do thế, ông đã rời tu viện và học hỏi cùng thực tập với Pháp Nhiên, người đã dạy rằng Đức Phật Di Đà đã nguyện ôm ấp và giải thoát tất cả chúng sinh khỏi bẩy rập của họ trong mê muội và chấp ngã. Để làm điều này Pháp Nhiên đã dạy trì danh hiệu Phật, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, như một phương pháp dễ dàng cho mọi người trong thời kỳ mạt pháp để được vãng sinh về Cực Lạc nơi, rồi thì, họ có thể đạt đến giác ngộ.
Đức Phật A Di Đà đã tạo ra cõi Tịnh Độ, nơi những điều kiện thích hợp cho việc đạt đến giác ngộ. Điều kiện tiên quyết để được vãng sinh là tin tưởng trong Đại Nguyện của Phật Di Đà và trì niệm danh hiệu Ngài. Qua năng lực của danh hiệu, mà đấy là hiện thân đức độ của Phật A Di Đà, người tín thành có thể sinh về thế giới Cực Lạc. Như một kết quả, những thực hành truyền thống của chùa viện kể cả thiền quán đã không cần thiết cho những người bình thường có niềm hy vọng đạt thể chứng giác ngộ và được thoát khỏi tất cả mọi xiềng xích của nghiệp chướng. Cuộc vận động này đã trở nên rất phổ biến và đã tồn tại ở Nhật Bản.
Chúng ta trở lại thời điểm ngày nay và tình cảnh tôn giáo hiện thời, hoàn cảnh đã thay đổi một cách căn bản. Trong tác động áp lực hiện tại về thiền quán ở phương Tây lôi cuốn từ một sự phong phú về những truyền thống. Có những hình thức thiền quán của Ấn Độ hay yoga, thiền minh sát, căn bản của Phật Giáo Theravada, Thiền Tông hay Zen từ Trung Hoa, Đại Hàn, và Nhật Bản. Cũng có thiền quán của Phật Giáo Tây Tạng và những sự thực hành hiện thời về Tỉnh Thức do Thiền Sư Nhất Hạnh chủ trương. Mỗi truyền thống có phong cách riêng của nó. Những hình thức này của thiền tập như sự thực tập tôn giáo bao hàm giáo lý và mục tiêu tương ứng với truyền thống của nó. Sự thực tập trong những truyền thống này được tin tưởng có thể làm cho con người tỉnh thức về thực tại căn bản. Kết quả của sự thực tập chuyển hóa đời sống cá nhân, tâm linh, cũng như trong những giá trị ưu tiên và quan hệ con người. Một quan điểm mới về cảm nhận của con người về Siêu Nhiên sẽ sinh khởi bằng việc vượt thắng nhị nguyên làm phiền não tâm thức chúng ta và thấu hiểu qua ý chí tâm linh về thực tại sâu sắc hơn.
Trong hiện trạng tạm thời hiện nay, thiền tập cũng đã được dành một vị trí riêng biệt khỏi niềm tin tôn giáo và đã đi vào cuộc sống thường ngày ở phương Tây như một phương tiện để làm tâm thức hòa bình, như một sự giải thoát tâm lý của cá nhân hay sự phát triển cá tính. Sự tiếp cận tâm thức hiện tại đã di chuyển từ việc cứu độ đến cải thiện đời sống. Từ tôn giáo đến tâm lý trị liệu. Người ta thực tập thiền quán cho sức khỏe và hạnh phúc. Mới vừa rồi người ta đã cho hay rằng quân đội sẽ dùng thiền tập để làm cho chiến sĩ trầm tĩnh và làm mạnh tâm thức của quân đội vì căng thẳng của chiến trận. Những sử dụng như thế được hướng đến mục đích làm cho chiến binh có thể chiến đấu mạnh mẽ hơn và …lạnh lùng hơn. Ý tưởng thiền tập là một sự thực tập cho việc thể chứng của con người liên hệ đến thực tại tối hậu không phát triển trong hình thức thế tục, đấy là, Thánh Hiền, cội nguồn sự sống của chúng ta, không được đòi hỏi và có thể được thực tập bởi mọi người trong bất cứ truyền thống nào.
Bởi vì có một sự phức tạp trong những sự tiếp cận của thiền tập, Tịnh độ Chân Tông Phật Giáo được đòi hỏi hình thức nào đề áp dụng? Chúng tôi có thể nói rằng ‘Niệm Phật’ là hình thức thiền tập qua việc tập trung tâm thức chúng ta về Đức Phật Di Đà và ý nghĩa những đại nguyện của Ngài vì cuộc sống của chúng ta. ‘Niệm’ có nghĩa là suy tư trên đề mục hay gợi lại. ‘Phật’ là Đức Phật. Đây là sự quán chiếu hay phản chiếu về Đức Phật và đời sống của chúng ta. [Có nghĩa rằng Niệm Phật Quán Chiếu là thiền quán và Niệm Phật Trì Danh là thiền định; như vậy Niệm Phật bao hàm đủ “chỉ - quán” đồng tu. Và theo Đại Sư Trí-Tịnh, niệm Phật đến trình độ Vô Niệm thì tương đương với Kiến Tính của Thiền Tông, thân chứng “Ta Bà bất ly đương xứ, Tịnh Độ chỉ tại mục tiển”, nhưng nếu chưa được Vô Niệm thì cũng không mất phần “Đới Nghiệp Vãng Sinh”, thế nên Niệm Phật hay Tịnh Độ Tông là pháp môn tuy giản dị nhưng thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn – Thiền Trúc Lâm hiện nay cũng chủ trương Vô Niệm nhưng theo phương pháp và mục tiêu của Thiền Tông - người dịch.
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta. Danh hiệu A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang – Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Công Đức; đấy không chỉ là nhãn hiệu mà là những mục tiêu đến điều gì đấy vượt ngoài nhận thức hay suy lường thông thường của chúng ta. Qua sự quán chiếu về thực tại sâu hơn hổ trợ an toàn cho nền tảng sự sống của chúng ta và cảm nhận của chúng ta về tính chất hòa hiệp, thống nhất, thế nên chúng ta có thể sống với sự quả quyết hơn, mạnh mẽ hơn và tĩnh lặng hơn, mặc cho những náo động xáo trộn của thế giới chung quanh chúng ta. Niệm Phật hay thiền quán không chỉ là để đạt đến giác ngộ mà là để thâm nhập sâu xa hơn trong sự tỉnh thức và thấu hiểu những thệ nguyện của Đức Phật Di Đà. Nó cũng có thể biểu lộ lòng biết ơn đến Đức Phật vì sự sống mà chúng ta đã được ban cho. Cũng phải được ghi nhận rằng một cách truyền thống Tịnh Độ Chân Tông đã có một sự thực tập ‘Chính tọa” hay một sự ngồi yên tĩnh mà nó được khuyến khích trong giáo lý của Tịnh Độ Chân Tông.
Sự thực tập phổ quát của thiền quán trong thời đại hiện nay của chúng ta, trong phạm vi thế tục không nói gì đến thực tại tâm linh như được hiểu bởi Thân Loan Thánh Nhân. Đấy là trung tính tâm linh như một sự thực tập để tự trau dồi, tự phát triển ý chí, năng lực, hơn là một sự thân chứng tối hậu về thực tại hay Phật tính hay giải thoát giác ngộ. Như một kết quả, sự thực tập thiền quán có thể được thực tập bởi những tín đồ Tịnh Độ Chân Tông như một phương tiện để tịch tĩnh và làm trong sáng tâm thức trong sự hổn loạn của thế giới nội tại và chung quanh chúng ta. Sự thực tập có thể được sử dụng để chuẩn bị tâm thức cho việc chú tâm, lắng nghe, và đặt vấn đề, về Phật Pháp hay quán chiếu về Đức Phật Di Đà. Chúng ta có thể thấu hiểu hơn về ‘bây giờ’ và cảm kích về sự sống mà chúng ta đã được ban cho. Đấy là ‘hiện hữu’.
Thân Loan tuyên bố rằng Niệm Phật không phải là một sự thực tập cũng không phải là một hành vi thánh thiện. Nó không phải là một sự thực tập mà nhờ đấy chúng ta được giác ngộ, cũng không phải là một hành vi thánh thiện hay làm việc tốt đẹp như một phương tiện cho công đức và ngợi khen. Thân Loan phủ nhận trong nguyên tắc, nhấn mạnh rằng bất cứ sự thực tập nào mà chúng ta có thể thực hiện không là một phương tiện để đạt được khuynh hướng giác ngộ. Đúng hơn, khi chúng ta được truyền cảm hứng, gia bị, soi sáng và ôm ấp bởi lòng từ bi và tuệ trí của Đức Phật Di Đà, những sự thực tập như vậy có thể giúp chúng ta thấy sự vô thức rối loạn của chúng ta như một vũng lầy trong sự tĩnh lặng của đại dương.
Theo ý tưởng của ngài Thân Loan thánh nhân, thì niệm Phật cũng chính là Thiền, là một pháp môn tu tắt, người niệm Phật được đưa đến trạng thái tĩnh lặng, sự tĩnh lặng là chánh niệm trong vị trí thiền.
5. 7 . Thiền tịnh dung thông:
Ở thời kì mạt pháp, thường có nhiều đệ tử Phật, nhân vì tu tập các pháp môn khác nhau mà sinh ra phê bình cao thấp, tranh luận lẫn nhau; điển hình rõ nhất là các hành giả tu Tịnh Độ và tu Thiền.
Một số người tu thiền cho rằng, đại đa số những người niệm Phật là tâm cầu hướng ngoại, như cầu Phật, cầu Bồ-tát, chỉ biết niệm Phật mà không biết nhiếp phục ở trong tự thân, không biết khai mở Phật tánh vốn có đầy đủ của mình. Một số người niệm Phật thì cho rằng, người tu thiền là tự cao, cuồng vọng, không biết pháp môn niệm Phật có thể trùm khắp ba căn , thu gồm cả lợi căn và độn căn. Những người có thành kiến như vậy là bởi vì họ chưa từng vào sâu trong hai pháp môn Thiền và Tịnh Độ, cho nên mới có sự hiểu lầm; từ đó mà đưa đến nội bộ gây chiến lẫn nhau, hoặc phê bình lời qua tiếng lại, hoặc viết sách báo bút chiến, vừa để cho người ngoài đàm tiếu, vừa khiến cho những người mới học Phật sinh thối tâm, quay sang đạo khác. Đó là làm đứt mất huệ mạng của người, tội rất lớn vậy. Đại sư Hoằng Nhất nói rất đúng: “Không thua người xưa, gọi là người có chí; không nhường người nay, gọi là người không có độ lượng.” Kẻ hậu học này quan niệm rằng, khi chưa hiểu rõ pháp môn tu tập của người khác thì không nên theo ý chủ quan của mình mà phê bình người ta. Chúng ta phải hiểu rõ, hiểu sâu, và thực tế tu trì trong một thời gian, chứng nhập chút ít vào cảnh giới rồi, mới có thể với thành tâm thiện ý đem trình bày kiến giải của mình cho người nghe.
Trong thời cận đại có nhiều bậc cao tăng đại đức từng cổ vũ cho thuyết “Thiền Tịnh song tu”, nói rằng, Thiền và Tịnh Độ có thể dung thông nhau. Rồi có một số người vừa nghe thế liền sinh tâm nghi hoặc, bảo rằng, niệm Phật phải chấp trì thánh hiệu, miệng đọc tâm niệm; người tu quán thì có hình tượng của Phật. Nhưng thiền môn thì lấy cái không cửa làm cửa, tẩy trừ tất cả hình tướng, chủ trương dứt tuyệt ngôn ngữ, diệt hết tâm hành. Như thế thì làm sao mà dung thông nhau? Làm sao có thể song tu?
Thật ra, mối nghi hoặc trên chỉ có trong tâm những người sơ cơ mới bước vào cửa Phật. Nếu hành giả đã có năng lực thâm nhập một môn, thì sẽ phát giác ra rằng, tất cả môn đều thông nhau, rốt cuộc thì tất cả đều không sai khác. Chúng ta có thể nói như thế này: “Tất cả các pháp môn tu hành đều chảy về thiền định; tất cả kết quả tu hành đều chảy về tịnh độ.” Phật pháp tuy có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, nhưng mỗi một pháp môn nào, đến chỗ tối hậu cũng qui về định; nhân nơi định mà y vào bốn thánh đế, tám chánh đạo, mười hai nhân duyên, đệ nhất nghĩa đế v.v... để phát huy, tự thấy Phật tánh, đoạn trừ phiền não.
Người niệm Phật ở thế giới này, tu pháp môn niệm Phật mà ngộ nhập Phật tánh là như thế; đới nghiệp vãng sinh [27] về thế giới Cực-lạc, sau khi hoa sen nở được thấy Phật nghe pháp mà chứng nhập vô sinh nhẫn [28] (xin xem chú thích số 2 của tác giả ở cuối sách), cũng lại như thế. Cho nên tất cả pháp môn tu hành đều phải qui về thiền định.
Do đó, nói theo nghĩa rộng, tám vạn bốn ngàn pháp môn, bao hàm cả các loại pháp môn tịnh độ, đều thuộc trong phạm vi thiền định, mà việc tu trì tám vạn bốn ngàn pháp môn, chỉ cần có tu có chứng, thì ít nhiều cũng chứng được “duy tâm tịnh độ”. Nếu đạt đến địa vị Vô-học thì an trú niết bàn, là tịnh độ chân thật. Đến địa vị đó rồi thì tùy ý được sinh về ba loại tịnh độ của chư Phật là Phàm-thánh đồng-cư độ, Phương-tiện hữu-dư độ, và Thật-báo trang- nghiêm độ. Nếu chứng nhập quả vị Phật thì tự an trú nơi Thường-tịch-quang độ, là duy tâm tịnh độ, là loại tịnh độ chân chính, cứu cánh, không giống như ba loại tịnh độ trước, là những tịnh độ do chư Phật hóa hiện để hóa độ. Cho nên, thiền định là phương pháp, mà tịnh độ là kết quả. Đã hiểu rõ như thế rồi thì chẳng cần phải tranh chấp lẫn nhau giữa Thiền và Tịnh Độ.
Đệ tử Phật tu học thiền định ở thế giới này, đó là con đường khó đi, mà cũng là con đường chóng thành. Vãng sinh thế giới Cực-lạc là con đường dễ đi, nếu người có đầy đủ công phu niệm Phật vô tướng này, muốn vãng sinh về tịnh độ Cực-lạc, chỉ trong một đời này có thể toại nguyện; nếu đứng trên phương diện chứng đắc cảnh giới giải thoát rốt ráo mà nói, người vãng sinh tịnh độ Cực-lạc phải cần thời gian trội hơn mười, trăm, ngàn, vạn lần đối với người tu hành ở thế giới này. Nhưng vấn đề đó không thuộc phạm vi của cuốn sách này, nên không đề cập tới.
Những điển hình về Thiền tịnh song tu: Thiền của đại thừa đạt được cảnh giới giải thoát rốt ráo là do khởi tâm ở chỗ vô trụ. Vì khởi tâm ở chỗ vô trụ cho nên sáu niệm đều đầy đủ. – Sáu niệm là: niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên. Trong sáu niệm này thì Niệm Phật là đứng đầu; và niệm Phật thì thông với Tịnh Độ, mà năm niệm kia cũng thông với Tịnh Độ. Thiền của đại thừa đạt được cảnh giới giải thoát rốt ráo, tức là thấy rõ Phật tánh một cách trọn vẹn, mới chứng nhập được tri kiến Phật; nhân đó mà chứng được cảnh giới “duy tâm tịnh độ”. Vì vậy cho nên Thiền và Tịnh Độ có thể thông nhau.
Trong lịch sử Phật giáo có rất nhiều vị thiền sư từng cổ xúy pháp môn niệm Phật. Thực sự ra, người tham thiền cũng nên lạy Phật và niệm Phật, lấy đó làm phương tiện nhập môn; và cũng không thiếu gì các tự viện của tông Tịnh Độ từng đề xướng sinh hoạt tham cứu niệm Phật. Như thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ đề xướng tông chỉ “tông - giáo - thiền - tịnh”. Lại như ngài Trường Lô Tông Trách đã do thiền mà ngộ nhập, liền chủ trương Thiền Tịnh song tu, được người đời xưng là Từ Giác đại sư. Về Thiền tông, ngài trước tác bộ Thiền Uyển Thanh Qui, gồm 10 quyển; về Tịnh Độ tông ngài cũng có nhiều tác phẩm, như Tịnh Độ Giản Yếu Lục, trong đó ngài chủ trương “Niệm Phật tham thiền, mỗi pháp đều cầu tông chỉ. Khe, núi tuy khác; mây, trăng là đồng. Có thể nói, cây xanh khắp nơi đều có thể buộc ngựa, mọi người khắp chốn đều có thể thấy rõ thành Trường-an.”
Nổi tiếng hơn hết là thiền sư Vân Thê Châu Hoằng [32] ở cuối đời Minh, từng được những người tu niệm Phật tôn xưng là Liên Trì đại sư. Trong bài “minh” ở tháp của đại sư Liên Trì có ghi: “Một bầu nước, một cây gậy, ngài vân du các nơi, tham học chư vị tri thức. Lên núi Ngũ-đài ở phía Bắc, được đức Văn Thù cảm ứng phóng hào quang. Đến núi Phục-ngưu theo chúng trị ma. Vào kinh sư yết kiến thiền sư Tiếu Lãnh Đức Bảo .
Thiền sư Tiếu Lãnh nói: ‘Quái! Ngươi từ ngoài ba ngàn dặm đến cầu ta khai thị. Ta có gì khai thị?’ Ngài bèn từ tạ và đi về hướng Đông, giữa đường nghe tiếng trống phát ra từ một căn nhà sàn của người tiều phu, hốt nhiên đại ngộ! Ngài liền nói bài tụng rằng:
Hai mươi năm trước việc còn nghi
Ngàn dặm gặp nhau thật lạ kì
Ném kích đốt hương toàn giấc mộng
Phật ma không luận thị cùng phi
Cả ý niệm về giáo pháp và giác ngộ đều triệt tiêu, qui về tâm vô sở đắc. Ban đầu ngài khởi bước vân du, từ nơi công phu tham cứu niệm Phật là có được năng lực; đến đây bèn khai pháp môn Tịnh Độ, nhiếp hóa cả ba loại căn tánh. Ngài trước tác bộ Di Đà Sớ Sao, gồm đến mười vạn lời, để cực lực cổ xúy cho chủ trương của mình, là dung hội sự lí, chỉ qui về tâm. Ngài lại nhớ ngày trước có xem tác phẩm Cao Phong Ngữ Lục, thấy rằng, từ khi tham cứu việc này cho đến nay, cái tinh nhuệ nhất, không gì trội hơn sự đào luyện thuần thục của thiền sư Cao Phong; đó là hướng vào nội tâm mà cầu đạo. Ý của ngài lúc đó là gom nhập Khuông-sơn và Vĩnh-minh [38] làm một, lại sao lục những lời nói khẩn yếu trong lúc gặp cơ duyên của chư vị cổ đức, biên thành sách Thiền Quan Sách Tấn, đồng thời cho khắc lên đá, nêu những khẩu quyết cho người tham cứu, nêu rõ chủ trương Thiền Tịnh song tu, không ra ngoài một tâm.”
Từ những ghi chép trên, có thể thấy đại sư Liên Trì, từ lúc ban đầu do tham cứu niệm Phật mà có được năng lực, rồi lại do tham thiền mà chứng nhập lí tánh; nhân đó mà đề xướng chủ trương “Thiền Tịnh song tu”, soạn sách Di Đà Sớ Sao gồm mười vạn lời, làm cho các hành giả Tịnh Độ chan chứa niềm vui đạo vị; một tác phẩm trọng yếu khác của ngài là Thiền Quan Sách Tấn, thì “Trong đời sống, đi thì mang đãy, ở thì đặt án, một lần xem thì tâm chí được khích lệ, thần thái tươi tỉnh, ở cái thế bắt buộc phải tiến tới trước.” Suốt một đời, ngài y theo sách Thiền Quan Sách Tấn ấy để tự thúc đẩy mình tiến tới cảnh giới giải thoát rốt ráo. Tác phẩm trứ danh ấy cũng còn được chư vị thiền giả đời sau rất mực tôn sùng.
Ngài Vân Thê Châu Hoằng đã đem kiến giải của một vị thiền sư mà đề xướng pháp môn “Thiền Tịnh song tu”, không những cổ xúy phương pháp trì danh niệm Phật – gọi là “sự trì”, mà cũng còn đề xướng phương pháp tham cứu niệm Phật – gọi là “lí trì”; như dạy người tham cứu câu “Niệm Phật là ai?”, đó tức là Thiền Tịnh song tu. Những vị được hành giả tu Tịnh Độ tôn làm tổ sư trọng yếu của tông Tịnh Độ, như thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ thuở trước, cũng như vậy, tức là do kinh nghiệm tu chứng của một thiền sư mà thấy biết sâu xa cái đạo lí “tất cả các pháp môn tu hành đều chảy về Thiền Định, tất cả các kết quả của công phu tu hành đều chảy về Tịnh Độ”; cho nên biết rằng, Thiền Tịnh có thể thông nhau.
Thiền Tịnh song tu: Nói chung người niệm Phật, phần đông những người chấp trì danh hiệu Phật đều là niệm Phật trong tán loạn. Tuy gọi là niệm Phật, nhưng có lẽ cái thời gian nổi vọng tưởng chiếm phần nhiều. Người có chút ít tinh tấn, khi phát giác thấy có vọng tưởng, liền vội vàng trở về với danh hiệu Phật. Người thật sự có tinh tấn, khi niệm Phật, không những trong tâm mặc niệm danh hiệu Phật, mà đồng thời cũng nghĩ nhớ tới Phật. Cuối cùng là khi niệm Phật, danh hiệu Phật không còn khởi hiện mà trong tâm vẫn niệm Phật, đó là lúc tiến vào cảnh giới “vô tướng”; đó cũng là điều mà người ta thường nói là “Niệm Phật, niệm cho đến khi không còn Phật có thể niệm”. Đi đứng ngồi nằm, luôn luôn ở trong cảnh giới vô tướng niệm Phật; đó là bước đầu nhập môn vào pháp môn niệm Phật viên thông của Bồ-tát Đại Thế Chí. Lúc bấy giờ tâm chuyên nhất không tán loạn, tịnh niệm nối tiếp nhau, không có hình tướng Phật, không có danh hiệu Phật. Vẫn niệm Phật không bỏ, hưởng được niềm vui đạo pháp, cùng cực khinh an. Người niệm Phật đạt đến trình độ này là đã cùng thông với pháp môn thiền định, thì tự nhiên có thể khán thoại đầu, tham công án; đó chẳng phải là Thiền Tịnh dung thông ư?
Nếu người niệm Phật, từ chỗ lạy Phật và xưng niệm danh hiệu Phật mà tiến vào cảnh giới vô tướng niệm Phật, muốn tu Lăng-nghiêm đại định, cần phải có sẵn những kiến thức về tu định, đồng thời phải đọc kĩ kinh Lăng Nghiêm; trong mọi hoạt động của đời sống hằng ngày đều niệm Phật vô tướng, và mỗi ngày cũng nên chọn một thời giờ cố định để tĩnh tọa niệm Phật vô tướng. Đợi đến khi hai chướng sự và lí đều tiêu trừ thì tự nhiên dần dần vào sâu Lăng Nghiêm đại định, chứng đắc các loại niệm Phật tam muội .
Có những người niệm Phật hoặc trì chú khác, trong mọi sinh hoạt hằng ngày, trong tâm chấp trì danh hiệu Phật hoặc một thần chú cố định, niệm niệm không quên lãng, đồng thời cũng chọn một thời gian cố định trong ngày để tĩnh tọa, từ một đến hai giờ đồng hồ, trong lúc ngồi thì chắp tay hoặc bắt ấn, chuyên tụng danh hiệu Phật hoặc câu chú; lúc đầu thì miệng tụng tai nghe, tâm ý theo sát danh hiệu Phật hoặc câu chú, không gấp gáp, không chậm rãi, chuyên chú xưng niệm; tâm tán loạn dần dần tập trung, an định, thư thái, tự tại, không bị cái gì níu kéo, cũng không vướng mắc vào cái gì. Người có trí tuệ, lúc bấy giờ trong miệng vẫn an tường tụng niệm không ngừng, mà trong tâm thì không còn nhớ tới tiếng niệm Phật hay tụng chú, dần dần tiến vào trong định (lúc vào không biết vào, đến lúc ra mới biết là mình vừa vào định), mất hẳn cái ý niệm về thời gian và không gian. Lúc bấy giờ tuy trong miệng vẫn niệm Phật tụng chú, mà sự thật thì tâm đã vào định. Cũng có người niệm Phật trì danh, vào lúc chỉ tịnh, tâm niệm và tâm nghe tập trung làm một, danh hiệu Phật không khởi, an trụ nơi một niệm tương tục là nhớ Phật, cuối cùng thì mất hết dấu vết mà vào định. Cảnh giới này cũng là định lực đầy đủ, mà chỉ có những người đã chuẩn bị đầy đủ tri kiến về tu định mới có thể thực tập được. Đạt đến trình độ này thì Tịnh Độ đã thông với Thiền Định.
Những điều vừa trình bày trên, vẫn chỉ là “sự nhất tâm” và thứ lớp của định; “lí nhất tâm” thì tương ưng với chân lí, cũng tức là chính mình thấy rõ Phật tánh (tự tánh) mình vốn có đầy đủ. Điều mà người ta gọi là “Di Đà tức là tự tánh, Tây-phương không rời gang tấc”, cái cảnh giới “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh-độ” tự nhiên hiện bày trước mắt; đó chính là cái cảnh giới chứng ngộ của Thiền. Nếu không thực tập pháp môn “Thiền Tịnh song tu” thì không thể nào đạt đến được. Hành giả, bất luận là tham thoại đầu, công án, hay cơ phong, hoặc do ở sự tham cứu niệm Phật mà chứng nhập chân lí, thì bản chất của tất cả các loại công phu ấy vẫn là thiền. Tuy cách thức phát khởi thiền của các loại công phu ấy không giống nhau, nhưng cái cảnh giới chứng nhập sau khi đã lên địa vị Kiến-đạo, hoàn toàn không khác; mà cái quá trình tham cứu để chứng nhập chân lí cũng không sai khác. Bởi vậy mà chủ trương Thiền và Tịnh Độ bổ sung cho nhau, trợ giúp cho nhau, không cần phải phân biệt cái kia với cái này.
Sau đây xin chép lại một đoạn nguyên văn trong quyển 3 của bộ Di Đà Sớ Sao của thiền sư Vân Thê Châu Hoằng, hành giả có thể do đây mà có một cái nhìn toàn diện:
“Thể cứu nghĩa là nghe danh hiệu Phật, không những chỉ có nhớ nghĩ, mà còn phải quán sát ngược lại chính mình, xem xét kĩ càng, thấy rõ nguồn cội. Xem xét đến chỗ cùng cực thì tự nhiên khế hợp với bản tâm mình. Nếu bảo danh hiệu Phật là có, thì cái tâm ‘năng niệm’, bản thể vốn không, cho nên Phật mà mình niệm, hoàn toàn không thể nắm bắt được. Nếu bảo là không, thì cái tâm ‘năng niệm” sáng suốt, không mơ hồ, cho nên Phật mà mình niệm, hiển lộ rõ ràng. Nếu bảo là cũng có cũng không, thì cả có niệm và không niệm đều chấm dứt. Nếu bảo là chẳng phải có chẳng phải không, thì cả có niệm và không niệm đều tồn tại. Chẳng phải có thì thường vắng lặng; chẳng phải không thì thường chiếu soi; không phải cũng có cũng không, không phải chẳng phải có chẳng phải không, thì không vắng lặng không chiếu soi, mà vừa chiếu soi vừa vắng lặng. Dứt đường ngôn thuyết, tuyệt đường tư duy; không làm sao khởi được tên, hiện được tướng, cho nên chỉ có ‘nhất tâm’. Do thấy được chân lí mà gọi là ‘lí nhất tâm’ vậy. Tuệ có năng lực soi vọng; kèm thêm định thì soi vọng vốn không, vọng tự điều phục. Lại nữa, chiếu soi có thể phá trừ vọng, không phải chỉ điều phục mà thôi.”
Lại một đoạn khác: “Hai chữ tham và nghi, không cần phải phân giải. ‘Nghi’ là tên khác của tham, đều là cái ý xem xét kĩ càng. Nhưng, khán câu ‘Niệm Phật là ai?’, thì lấy sự chứng ngộ làm chuẩn tắc mới thôi. Lại nữa, cổ nhân nói rằng: Khán thoại đầu, không nên đoán mò, bóp méo, cũng không được ném vào trong cái vỏ vô sự. Chỉ ‘nhìn như vậy’. Đó là lời nói cốt yếu vậy.”
Những lời dạy của đại sư Liên Trì về tham cứu niệm Phật và thể cứu niệm Phật vừa được ghi lại ở trên, từ lúc khởi đầu tham cứu câu “Niệm Phật là ai?”, cho đến khi cảnh giới giác ngộ hiện ra trước mắt, thì ở cái khoảng giữa Thiền và Tịnh Độ hiển bày, là vô cùng mật thiết. Bất luận là từ niệm Phật mà ngộ nhập, hoặc do tham thiền mà ngộ nhập, bản chất của chúng đều là Thiền. Bất luận là ở nơi thế giới này niệm Phật mà ngộ nhập, hoặc sau khi vãng sinh về thế giới Cực-lạc được nghe Phật và Bồ-tát thuyết pháp mà ngộ nhập, thì bản chất của chúng vẫn không gì khác hơn là Thiền. Và cái cảnh giới giác ngộ của hai con đường đó cũng chỉ là một, không hai, không khác.