Đức Phật bảo A Nan:
- Những người
vãng sanh về nước An Lạc, tất cả đều trụ vào hàng chánh định. Tại sao
vậy? – Vì cõi nước đó chẳng có hạng người tà định, hoặc người loạn tâm.
Mười phương Như-lai nhiều như Hằng sa, đều cùng khen ngợi oai thần công
đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật Vô Lượng Thọ.
Những chúng
sanh nào nghe danh hiệu ngài mà vui mừng tin tưởng, dầu cho một niệm dốc
lòng hồi hướng, nguyện sanh nước ấy, tức được
vãng sanh và ở vào bực không còn thoái chuyển, trừ những người nào tạo
tội ngũ nghịch hoặc bác chánh pháp.
- A Nan ! Các hàng trời người trong mười phương cõi,
những ai dốc lòng nguyện sanh nước ấy, đại loại tất cả nguyện gồm có ba
hạng: Thượng, trung và hạ.
HẠNG SANH BỰC THƯỢNG:
Những người
suất gia dứt hẳn ái dục, làm sạch Sa môn, phát tâm Bồ đề, một mực chuyên
niệm Phật Vô Lượng Thọ, kiêm tu các hạnh, nguyện sanh Lạc quốc, thì
những người này lúc sắp lâm chung, Phật Vô Lượng Thọ và các thánh chúng
hiện trước người ấy, ngay đó hành giả theo sau đức Phật sanh về nước ấy,
từ sen bảy báu tự nhiên hóa sanh, ở vào bực không thoái chuyển, trí tuệ
dõng mãnh, thần thông tự tại. Thế nên A Nan ! Ngay trong đời này, người
nào muốn thấy Phật Vô Lượng Thọ, hãy nên phát tâm vô thượng Bồ đề, tu
các công đức và nguyện sanh về cõi nước An Lạc.
Đức Phật dạy tiếp:
HẠNG
SANH BỰC TRUNG: Các chúng trời người trong các thế giới ở khắp mười
phương, nhuwxngai hết lòng nguyện sanh nước ấy, mặc dầu chẳng thể làm
hạnh Sa môn, tu công đức lớn, nhưng nên phát tâm vô thượng Bồ đề, một
mực chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, theo khả năng mình mà làm các việc
phước đức từ thiện, vâng giữ trai giới, xây tháp cất chùa, in kinh tạo
tượng, cúng dường Sa môn, treo phan thắp đèn, dâng
hoa đốt hương cúng dường Tam bảo, dùng những phước ấy hồi hướng phát
nguyện, nguyện sanh Lạc quốc. Đến lúc lâm chung, người ấy sẽ thấy hóa
thân của Phật, tướng tốt sáng ngời, không khác chơn thân Phật Vô Lượng
Thọ, và thấy thánh chúng hiện ra trước mắt, liền đó hành giả theo sau
hóa Phật vãng sanh Lạc quốc, ở bực bất thối, sau đó công đức, trí tuệ
người ấy sẽ như bực thượng.
Phật bảo A Nan:
- HẠNG SANH
BỰC HẠ: Các chúng trời người trong những thế giới ở khắp mười phương,
những ai thành khẩn muốn sanh nước ấy, giả như chẳng thể làm nổi các
việc công đức phước thiện, hãy nên phát tâm vô thượng Bồ đề, thường bữa
chuyên ý niệm danh Phật Vô Lượng Thọ cho đến mười niệm, mong được sanh
về cõi nước của ngài. Nếu được nghe những giáo phát sâu xa, nên mừng tin
mộ, chẳng sanh nghi ngờ, thì dầu một niệm, niệm danh Phật ấy, nhờ lòng
chí thành, muốn sanh Lạc quốc, đến lúc lâm chung, người đó mộng thấy đức
Phật cũng được vãng sanh, công đức trí tuệ người này kế đó như người
bực trung.
- Này A Nam !
Phật Vô Lượng Thọ oai thần vô cực, các đức Như-lai số nhiều vô biên
chẳng thể nghĩ bàn trong khắp mười phương, không đức Phật nào mà chẳng
ca tụng và nói đến ngài. Hằng sa Phật quốc ở về phương Đông thế giới An
Lạc, có những Bồ-tát đông nhiều vô lượng, đều qua đến chỗ Phật Vô Lượng
Thọ cung kính cúng dường, cùng các Bồ-tát, Thanh văn tại đó nghe nhận
kinh pháp, rồi đi lưu bố giáo pháp các nơi. Các nước phương Nam, phương
Tây, phương Bắc, bốn phương chính giữa, phương trên, phương dưới cũng
đều như vậy.
Bấy
giờ đức Thế-tôn liền nói bài tụng:
Các
nước Phật phương Đông,
Số
nhiều như Hằng sa,
Bồ-tát
các cõi đó
Qua
hầu Vô Lượng Giác.
Nam,
Tây, Bắc, Tứ duy,
Phương trên dưới cũng vậy,
Bồ-tát
các cõi đó,
Qua
hầu Vô Lượng Giác.
Tất
cả các Bồ-tát.
Mỗi
mỗi mang hoa trời,
Hương
quí, áo vô giá,
Cúng
dường Vô Lượng Giác.
Thiên
nhạc cũng trỗi lên,
Phát
ra tiếng hòa nhã,
Ca
ngợi đấng tối tôn,
Cúng
dường Vô Lượng Giác.
Thần
thông, tuệ rốt ráo,
Vào
sâu các pháp môn,
Đầy
đủ tạng công đức,
Trí
mầu chẳng ai hơn,
Huệ
nhựt sáng thế gian,
Tiêu
trừ mây sanh tử,
Cung
kính nhiễu ba vòng,
Cúi
lạy Vô Thượng Tôn.
Thấy
cõi ấy nghiêm tịnh,
Nhiệm
mầu khó nghĩ bàn,
Nhân
phát vô lượng tâm,
Mong
nước tôi cũng vậy.
Bấy
giờ Vô Lượng Tôn
Tươi
nhan miệng mỉm cười,
Phóng
ra vô số quang,
Soi
các nước mười phương.
Hồi
quanh xoay quanh Phật,
Ba
vòng vào đảnh đầu,
Tất
cả chúng trời, người,
Đều
vui mừng khấp khởi.
Bồ-tát
Quan Tế Âm,
Sửa
áo cúi đầu hỏi
Phật
do gì tười cười,
Kính
xin nghe Phật nói.
Tiếng
Phạm như sấm động,
Tám
âm vang hay tuyệt,
Sẽ
thọ ký Bồ-tát,
Nay
nói người lóng nghe.
Bồ-tát
mười phương đến,
Ta
đều biết nguyện họ,
Chí
cầu cõi nghiêm tịnh,
Thọ
ký quyết thành Phật.
Biết
rõ tất cả pháp,
Như
mộng huyễn, tiếng vang,
Đầy
đủ các điệu nguyện,
Ắt
thành cõi như thế.
Biết
pháp như điện chớp,
Rốt
ráo đạo Bồ-tát,
Đầy
đủ cội công đức,
Nhận
chắc sẽ thành Phật.
Thông
suốt các pháp tánh,
Tất
cả “Không” “Vô ngã”
Chuyên
cầu tịnh Phật độ
Quyết
thành cõi như thế.
Chư
Phật bảo Bồ-tát,
Hãy
hầu Phật An Dưỡng,
Nghe
pháp vui thực hành,
Mau
được chỗ thanh tịnh.
Đến
nước thanh tịnh ấy,
Mau
chứng được thần thông,
Được
đức Vô Lượng Tôn,
Thọ
ký thành chánh giác.
Bản
Thệ, Lực Phật ấy,
Nghe
tên mong vãng sanh,
Đều
được đến nước đó,
Trở
nên bất thoái chuyển.
Bồ-tát
dáy chí nguyện,
Nguyện
nước mình không khác,
Nghĩ
độ khắp tất cả,
Danh
rạng rỡ mười phương.
Phụng
sự muôn ức Phật,
Hóa
độ khắp các cõi,
Hoan
hỷ cung kính lui,
Trở
về An dưỡng quốc.
Nếu
người không tâm lành,
Chẳng
được nghe kinh này,
Người
thanh tịnh trì giới,
Mới
nghe được chánh pháp.
Đã
từng gặp Thế-tôn,
Mới
hay tin việc này,
Khiêm
kính nghe vâng làm,
Lòng
vui mừng khấp khởi.
Kiêu
mạn, tệ, lười nhát,
Khó
tin nỗi pháp này
Đời
trước gặp chư Phật,
Mới
ưa nghe giáo này.
Thanh
văn hoặc Bồ-tát,
Không
ai rõ tâm Phật,
Như
sanh ra đã mù,
Mà
muốn dẫn dắt người.
Biển
trí tuệ của Phật,
Sâu
rộng không bờ đáy,
Nhị
thừa chẳng thể dò,
Duy
Phật riêng sáng rõ.
Giả
sử tất cả người,
Đều
chứng đạo đầy đủ,
Huệ
sạch rõ “Bổn không”
Ức
kiếp suy trí Phật
Dốc
lực giảng hết mức,
Mãn
đời cũng chẳng biết,
Huệ
Phật không ngằn mé,
Sự
thanh tịnh cũng thế.
Mạng
người rất khó được,
Phật
ra đời khó gặp,
Người
tính, huệ khó có,
Được
nghe hãy tiến cầu.
Nghe
pháp hãy ghi nhớ,
Gặp
rồi kính vui mừng,
Ấy
là thân hữu Phật,
Thế
nên hãy phát ý.
Giả
sử có lửa lớn,
Cháy
phừng cả thế giới
Vì
muốn nghe pháp này,
Mà
phải vượt qua đó.
Cũng
nên vui vượt qua,
Để
được nghe đại pháp,
Vì
sẽ thành Phật đạo,
Rộng
độ giòng sanh tử.
Đức Phật bảo A Nan:
- Các vị
Bồ-tát ở cõi An Lạc, rốt ráo tất cả đều trở nên bực Nhất sanh bổ xứ, trừ
những vị nào có bản nguyện riêng, lấy công đức hoằng thệ để tự trang
nghiêm, độ khắp chúng sanh, làm cho chúng sanh chứng quả giải thoát.
- A Nan ! Trong nước Phật ấy, các vị Thanh văn thân
sáng một tầm, ánh sáng nơi thân các vị Bồ-tát trăm ngàn do tuần. Có hai
Bồ-tát tôn đệ nhất. Oai thần, ánh sáng của hai vị này soi khắp toàn cõi
đại thiên thế giới.
A Nan
bạch Phật:
-
Kính bạch Thế-tôn ! Hai Bồ-tát ấy tôn hiệu là
gì ?
Đức Phật dạy rằng:
-
Một là Quán Thế Âm, hai là Đại Thế Chí.
Hai Bồ-tát nầy
ở cõi Ta bà tu Bồ-tát hạnh, mệnh chung chuyển hóa trở về nước ấy. Đức
Phật dạy tiếp:
- A Nan ! Những người vãng sanh về nước An Lạc, tất
cả đều đủ ba mươi hai tướng, trí tuệ trọn vẹn, vào sâu các pháp, thấu tỏ
chỉ thú thâm yếu vi diệu, thần thông vô ngại, các căn sáng lẹ, người
nào chậm chạp, người căn sáng lẹ chứng vô sanh nhẫn chẳng thể kể xiết.
- Lại nữa A
Nan ! Bồ-tát nước ấy từ lúc vãng sanh cho đến thành Phật, chẳng có khi
nào trở lại chịu thân trong các đường ác. Các Bồ-tát này thần thông tự
tại và đều biết rõ kiếp trước của mình, trừ khi sanh vào thế giới năm
trước ở các phương khác, thị hiện đồng với chung sanh nới đó, như thọ
sanh đến thế giới Ta Bà của ta chẳng hạn.
- A Nan ! Bồ-tát nước ấy nương oai thần Phật, trong
khoảng bữa ăn, có thể qua đến vô lượng thế giới, trong khắp mười phương,
cung kính cúng dường các đức Thế-tôn, tâm vừa nghĩ đến những món cúng
dường, tức thì hoa hương, kỹ nhạc, y phục, tàn lọng, phan phướn, vô
lượng cúng cụ tự nhiên hóa sanh, ứng niệm liền đến, các cúng vật đó quý
lạ khác thường, trên đời không có.
Bồ-tát dùng
các món ấy tung rãi cúng dường chư Phật, các vị Bồ-tát và chúng Thanh
văn, những cúng vật đó ở giữa hư không, tự nhiên kết thành tàn lọng tốt
đẹp, màu sắc rực rỡ, hương thơm ngạt ngào. Lọng ấy chu vi chừng bốn trăm
dặm, rồi cứ gấp bội, gấp bội mãi mãi, cho đến che trùm đại thiên thế
giới tùy theo thứ lớp trước sau mỗi món mà lần lượt lặn mất. Các Bồ-tát
ấy tâm đầy hân hoan, ở giữa hư không cùng nhau tấu nhạc, dùng tiếng
thanh nghe nhận kinh pháp, hoan hỉ vô cùng, cúng dường Phật xong cất
mình nhẹ bước, trở về bổn quốc vẫn trước bữa ăn.
Phật bảo A Nan:
- Phật Vô
Lượng Thọ khi ngài tuyên pháp, thì chúng Thanh văn, các vị Bồ-tát và
hàng thiên nhơn đều cùng nhóm tại giảng đường thất bảo, Phật vì đại
chúng tuyên rộng đại giáo, diễn nói pháp mẫu, tất cả đại chúng vui mừng
hớn hở, tất cả đại chúng đều chứng đạo quả.
Liền đó bốn
phương gió nhẹ thổi lên, thổi các cây báu, phát ra năm thứ âm thanh vi
diệu, vô lượng hoa quý tung bay theo gió, tự nhiên cúng dường chẳng dứt.
Tất cả chư thiên đem các hoa thơm, vạn thứ nhạc hay cúng dường đức Phật
và các Bồ-tát cùng chúng Thanh văn. Hoa hương rải khắp, hòa tấu âm
nhạc, kẻ trước người sau nhường bước mở đường, khi đó tất cả niềm nở vui
sướng, khó thể diễn tả.
- A Nan ! Các vị Bồ-tát sanh về nước ấy, chỗ giảng
thuyết giáo của các vị là: Thường tuyên chánh pháp, thuận với trí tuệ,
không trái không mất. Đối với vạn vật trong khắp cõi nước, các chúng
Bồ-tát không tâm đắm nhiễm, cũng không thấy có sở hữu của mình, tới lui
qua lại tình thức không bị vướng vít vào đâu, tùy ý tự do không màng sự
vật, không người không ta, không hơn không thua tranh chấp.
Đối với chúng
sanh, các Bồ-tát ấy sẵn lòng từ bi bao dung quảng đại và tâm nhuần
nhuyễn, không tâm giận hờn, lìa chướng, thanh tịnh, không tâm chán lười,
chỉ là một tâm bình đẳng, trổi vượt, sâu rộng, an định, một tâm mến
pháp, ưa pháp, vui mừng vì pháp.
Các Bồ-tát này
đã diệt phiền não, lìa tâm sa đọa thuộc các nẻo ác, về chỗ tu hành công
hạnh Bồ-tát đã được cứu cánh, trọn nên đầy đủ vô lượng công đức, được
thiền định sâu, thần thông quảng đại, trí tuệ sáng suốt, và hướng tâm về
pháp của quả Phật.
Nhục nhãn
trông suốt, đâu cũng phân biệt.
Thiên nhãn
thông đạt, không lường, không hạn.
Huệ nhãn thấy
rõ chân tánh sáng suốt qua đến bờ giác.
Pháp nhãn quán – sát một cách rốt ráo cảnh giói đạo giáo.
Phật nhẫn đầy
đủ, biết suốt pháp tánh, dùng trí vô ngại vì người diễn nói.
Bình đẳng xem
khắp tam giới rỗng rang, không vật sở hữu, chí cầu Phật đạo, đủ tài biện
luận, diệt trừ tai nạn và các phiền não cho các
chúng sanh, cùng Như –lai sanh, hiểu pháp như như.Khéo biết tập nhân
phiền não và cảnh tịch diệt, biết rõ phương tiện âm thanh ngôn ngữ,
chẳng ham thế ngữ, vui với chánh luận, tu các căn lành, sừng phụng Phật
đạo. Biết tất cả pháp đều là vắng lặng, hai chướng phiền não đều đã gột
sạch, nghe pháp thâm sâu chẳng sanh nghi sợ, thường siêng tu hành tâm bi
rộng lớn, sâu xa nhiệm mầu, che chở muôn loài đưa đến bờ giác, rốt ráo
nhứt thừa, quyết đoán lưới nghi, tuệ do tâm phát, bao trùm không sót
giáo pháp của Phật.
Trí như biển
lớn, định như Tu di, huệ quang sáng sạch vượt khỏi nhật nguyệt, các pháp
thanh bạch đầy đủ tràn trề, như rặng núi Tuyết soi các công đức một màu
trong sạch. Như cõi đại địa, nhơ sạch tốt xấu không làm thay đổi. Như
giòng nước trong gột rửa trần lao và những cấu nhiễm. Như đống lửa hồng
thiêu rụi tất cả những củi phiền não. Như trận gió lớn thổi qua thế giới
không bị chướng ngại. Như cõi hư không chẳng bị vướng vít các vật hữu
tình. Như đóa hoa sen ở giữa thế gian chẳng bị nhiễm ô. Như chiếc xe lớn
chuyên chở mọi loài ra khỏi sống chết. Như đám mây dày nỗi sấm pháp lớn
đánh thức người mê, như trận mưa to mưa nước ngon ngọt thấm nhuần muôn
vật. Như núi Kim cang, chúng ma, ngoại đạo không thể lung lay.
Như trời Phạm
vương là bực thượng thủ trong những người lành. Như cây Ni-câu che rợp
mát mẻ. Như hoa Ưu đàm hiếm có khó gặp. Như kim sĩ điểu oai giẹp ngoại
đạo. Như đàn chim bay không để dấu tích. Như chứa đàn trâu không con nào
hơn. Như chúa đàn voi khéo được luyện tập. Như sư tử chúa không sợ loài
nào, Tâm như hư không, đại từ bình đẳng, bẻ dẹp ganh tỵ chẳng còn hơn
thua. Chí ưa cầu pháp không thấy chán đủ, thường đem diễn nói chẳng nề
mõi nhọc.
Đánh lớn trống
Pháp, dựng cao phướn pháp, nêu tỏ huệ nhựt, phá trừ si ám, tu pháp lục
hòa, du hóa thí pháp, dõng cảm tinh tấn, tâm không yếu mềm, làm đèn thế
gian, làm ruộng phước tốt, làm người dẫn đường, tấm lòng bình đẳng,
không ghét không yêu, vui với chánh đạo không chút mừng lo, nhổ các gai
dục cho người được yên, công đức cao tột, ai cũng tôn quý, diệt ba
chướng cấu, dạo các thần thông; Nhân lực, duyên lực, ý lực, nguyện lực
và phương tiện lực, thường lực, thiện lực, định lực, tuệ lực và đa văn
lực. Thí giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ lực. Chánh
niệm, chỉ, quán, năng lực lục thông, năng lực tam minh, năng lực như
pháp điều phục chúng sanh. Các Bồ-tát ấy đầy đủ năng lực như thế, từ sắc
thân, tướng tốt, công đức, biện tài, cho đến đầy đủ những sự trang
nghiêm… Không ai sánh bằng.
Các Bồ-tát ấy
cung kính cúng dường vô lượng đức Phật, thường được chư Phật không ngớt
khen ngợi. Rốt ráo đầy đủ các ba la mật của Bồ-tát đạo, tu các tam muội
Không, Vô Tướng, Vô Nguyện và các tam muội bất sanh, bất diệt, xa lìa
địa vị Thanh văn, Duyên giác.
- A Nan ! Các Bồ-tát ấy thành tựu vô lượng công đức
như vậy, ta chỉ nói lược phần nào mà thôi. Nếu nói rộng ra, dầu ngàn
muôn kiếp cũng không cùng tận.
Đức Phật bảo
ngài Bồ-tát Di Lặc và chúng trời người:
- Công đức trí
tuệ của Thanh văn, Bồ-tát ở cõi An Lạc của Phật Vô Lượng Thọ chẳng thể
nói hết.
Lại cõi nước
ấy nhiệm mầu an vui, thanh tịnh như thế. Sao không gắng sức làm lành,
nghĩ đến mối đạo tự nhiên, ở vào nơi không lên xuống, thông suốt chẳng
có ngằn mé. Mỗi người nên siêng tinh tấn, ra sức tự cầu cho mình, quyết
được siêu thoát đến nơi, vãng sanh về nước An Lạc, chặn ngang qua năm
đường ác, ác đạo tự nhiên đóng bít, đường lên vô cùng vô cực, dễ đến mà
không người đi. Nước ấy nào có đối nghịch. Tự nhiên do nghiệp dẫn đường.
Sao không bỏ bớt việc đời, siêng tu cầu lấy đạo đức, để
được sông lâu vô cùng, tuổi thọ sự vui vô cực.
Người đời quen
theo thói tục nông nỗi, chỉ cùng tranh chấp những việc không đâu. Sống
giữa cảnh ác, sự khổ kịch liệt, con người lại siêng đem thân lo liệu để
tự chu cấp. Không luận kẻ trên người dưới, kẻ nghèo người giàu, từ nhỏ
đến lớn, từ gái đến trai, cùng nhau chỉ biết lo nghĩ mãi miết lâu ngày,
bị tâm sai sử không lúc nào yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, trâu
ngựa gia súc, của tiền tôi tớ, y phục, uống ăn, vật này món nọ… Lại cũng
cùng nhau khổ tâm lo lắng, tư lự chất chồng, nghĩ ngợi bông lông, sầu
ưu sợ sệt.
Chợt đâu vô
thườn xảy đến, nào là con hư phá sản, hoặc là chủ nợ phanh phui, lửa
cháy, nước trôi, giặc giã cướp đoạt, sự nghiệp tiêu ma, của cải tan nát,
gặp lúc như thế lòng dạ xốn xang, phần thì lo buồn, phần thì căm tức
không lúc nào nguôi, tâm tình giữ chặt, buông bỏ không xong.
Hoặc ăn ngồi
không phá nát gia nghiệp, thân hoại mạng chung bỏ lại tất cả ra đi một
mình. Từ người quyền quý đến kẻ phú hào, ai ai cũng có những hoạn nạn
ấy, lo sợ muôn bề, cần khổ biết bao. Bởi vậy kết thành các chứng lạnh
nóng, tự mình đau đớn sống trong cảnh ấy.
Người nghèo
hèn kém sự khổ càng hơn, khốn đốn cả đời, túng thiếu quanh năm, không
ruộng ước ruộng, không nhà ước nhà, trâu ngựa gia súc, tôi tới, tiền
của, áo cơm mọi vật, lo nghĩ ước mong, muốn sao cho có. Lo được thứ này,
thấy thiếu thứ khác, có đó thiếu đó, muốn bằng như người nhưng nào dễ
được, vừa có sơ sài lại tiêu tan hết, thế rồi khổ sở lo âu, nghĩ cách
tìm cầu, mong cầu không được, tư tưởng bâng quơ, thân tâm mệt nhọc, đứng
ngồi chẳng yên, lo nghĩ không thôi, đắng cay là thế. Vì vậy kết thành
các chứng lạnh nóng, phải sống với cảnh bệnh hoạn đớn đau, kết thúc cuộc
đời khi còn son trẻ.
Lúc còn khỏe
mạnh chẳng khứng làm lành, tiến tu đạo đức, thác rồi một mình đến chốn
xa xăm, hoặc lên hoặc xuống, lành dữ đôi đường nào ai hay biết.
Người giữa thế
gian, nếu quan hệ nhau trong tình thân thiết, giữa cha với con, giữa
anh với em, giữa vợ với chồng, hoặc giữa bà con nội ngoại với nhau, phải
nên kính mến đừng ganh ghét nhau. Kẻ có người không cùng nhau cảm
thông, cùng nhau san sẻ. Chớ vì của cải mà sanh tham tiếc. Lời nói, sắc
mặt thường nên vui hòa, tránh việc bất hòa chống trái lẫn nhau.
Khi tâm hơn
thua, có chỗ tức giận, thì mầm oán thù ngay đó phát sanh. Đời này nuôi
mối hận hờn ngấm ngầm, ganh ghét lẫn nhau, đời sau càng thêm sâu sắc
quyết liệt, đến đỗi trở thành mối đại oán thù.
Tại sao như vậy?
-
Bời vì sự đời day dưa không dứt. Những điều
tai vạ vẫn tái diễn luôn, tuy chẳng tức thời phá gấp lẫn nhau, nhưng do
ngậm độc chứa hờn thắt chặt tinh thần, tự nhiên khắc ghi vào nơi tiềm
thức, chẳng thể bỏ lìa, khi sanh đời khác, đối đầu gặp nhau, đôi bên trở
lại báo cừu phục hận.
Sống giữa thế
gian, còn vướng trong vòng yêu thương ham muốn, con người sống chết một
mình qua lại một thân, cảnh khổ cảnh vui tự mình đi đến, tự mình đương
đầu, không người thay thế. Nghiệp lành, nghiệp dữ biến hóa vô cùng, thì
tai ương, phước lộc theo đó thay đổi. Những nghiệp dữ trữ từ bao kiếp
trước, lúc nào cũng chờ đưa người một mình đến chốn xa xăm, không ai
thấy biết.
Nghiệp lành
nghiệp dữ tự nhiên đuổi theo, dẫn dắt thần thức đến chỗ thác sanh, mịt
mịt mù mù, một bề tăm tối, ly biệt lâu dài, mỗi người một ngã mong gì
gặp lại, khó biết chừng nào !
Ngày nay cùng
nhau gặp gỡ, sao không bỏ bớt các việc, giữa lúc sức khỏe dồi dào, mỗi
người gắng tu thiện nghiệp, tinh tấn độ mình độ người, để được sống lâu
vô cực, không tìm đến đạo còn đợi chờ gì, còn thú
vui gì ?
Người đời nghi
nan nhiều nỗi, chẳng tin làm lành được lành, chẳng tin tu hành được
đạo, chẳng tin người chết lại sanh, chẳng tin bố thí được phước, điều
lành điều dữ thảy đều chẳng tin, cho rằng không có lẽ ấy.
Những người
như vậy chỉ ngồi một nơi, tự theo tà kiến, còn bắt chước nhau, kẻ trước
người sau, cha truyền con nối. Từ đời tổ phụ vốn chẳng làm lành, chẳng
biết đạo đức. Tinh thần tối tăm, ý chí bít lấp, chẳng thể nhận ra nguồn
gốc sống chết, chẳng biết phân biệt nẽo dữ đường lành, cũng chẳng có
người chỉ nói cho nghe họa phước, lành dữ, đua nhau tạo ác không sợ điều
gì. Bởi con đường sống chết cứ mãi xoay vần tiếp nối, nào cha khóc con,
nào con khóc cha, anh em, vợ chồng khóc kể lẫn nhau, đảo điên một bề từ
trên xuống dưới. Vô thường là gốc, tất cả đều bị lùi về quá khứ, chẳng
thể bảo tồn (sự thể là vậy), nhưng dù dạy nói, mở lối dắt dẫn cũng ít
người tin, do đó sống chết trôi chảy mênh mang, không hề dừng nghĩ.
Những người
như thế mù mờ chống chế, chẳng tin kinh giáo, chẳng biết nghĩ xa, chỉ
muốn khoái ý. Si mê theo ái dục, chẳng hiểu thấu đạo đức, chìm lĩm trong
giận hờn, ham hố theo tài sắc, ngồi dững chẳng được gì, chịu khổ nơi
đường ác, sống chết mãi không thôi, nghĩ thật đáng thương xót !
Đến như những
người xuất gia học đạo, gặp khi nhà cửa hư hao, hoặc khi cha con, anh em
vợ chồng ở vào cảnh huống kẻ còn người mất, lúc ấy trở lại thường nhớ
không nguôi, luyến lưu ân ái, lo nghĩ buột ràng, tim gan đau xót, đắp
đổi nhớ nhung, quanh năm suốt tháng, giải tỏa không xong. Dầu nghe đạo
lý, mà tâm không chút sáng tỏ mở mang, nghĩ ngợi ân nghĩa không ngoài
tình dục. Sở dĩ như vậy, là vì si mê che lấp, mờ tối chẳng thông, chẳng
siêng thẩm xét suy tìm phương châm chỉnh đốn thâm tâm, tấn tu đạo hạnh
để dứt thế sự, loay hoay ráo riết mà hết một đời, đến lúc cuối cùng
chẳng thể chứng đạo, khi đó có thể kêu nài được chẳng ? Tóm lại những
thứ rối rắm thô hèn như thế, đều do tham luyến ái
dục làm gốc. Phần nhiều những người bỏ tục xuất gia vẫn bị mê hoặc, cho
nên ít người ngộ đạo chứng quả. Giòng đời vội
vã, không thể ỷ lại trông chờ.
Tôn ty nam nữ,
kẻ trên người dưới, kẻ nghèo người giàu, kẻ sang người hèn, dầu siêng
chịu khổ, cần kíp làm việc, ai cũng ôm lòng giết hại cây độc, hơi độc
mịt mù. Vọng thức nổi dậy hành động ngang tàng, trái nghịch trời đất,
chẳng thuận lòng người. Bản tánh tự nhiên vốn không phải ác, vì theo
người trước tạo các tội dữ, tuổi thọ chưa dứt mà mang đã tuyệt, chết đọa
đường ác, nhiều kiếp khổ sầu, xoay vần chịu khổ đến ngàn muôn kiếp
không hẹn kỳ ra, thật đáng thương xót, nói không thể cùng !
Đức Phật lại
bảo Bồ-tát Di Lặc và khắp đại chúng :
- Việc đời như
vậy, cho nên con người khó bề đắc đạo, hãy nghĩ chín chắn, tìm phương
giải thoát. Tránh các điều dữ, chọn các hạnh lành, siêng đó tiến tu. Ái
ân dục tình hoặc cảnh vinh hoa không thể thường còn, tất cả rồi sẽ có
lúc biệt ly, không gì vui thích. Gặp khi Phật còn ở đời, hãy siêng tinh
tấn. Ai đó chí nguyện sanh nước An Lạc, người ấy có thể chứng huệ sáng
suốt công đức thù thắng. Chớ nên buông theo sở dục trong lòng mà trái
kinh giới để lùi sau người. Thoảng như có nghi chẳng hiểu nghĩa kinh, cứ
việc thưa hỏi, ta sẽ nói rõ.
Bồ-tát Di Lặc quỳ chẳng bạch Phật:
-
Kính bạch Thế-tôn ! Oai thần của Phật rất đổi
cao dày, lời đức Thế-tôn vô cùng chí thiết. Nghe Phật nói kinh và để tâm
nghĩ, thực trạng con người rõ ràng như vậy.
Ngày nay đức
Phật từ bi thương xót, chỉ rõ đại đạo, làm cho chúng con tai mắt mở
sáng, được sự độ thoát lâu dài. Nghe lời Phật dạy, người người vui mừng.
Từ hàng trời người đến loài nhỏ nhít, đều nhờ ân đức của đáng Từ bi mà
được cởi mở những mối lo khổ. Lời Phật răn dạy rất sâu rất lành, trí
Phật thấy rõ tất cả sự vật mười phương ba đời, việc nào cũng thông đến
nơi đến chốn.
Ngày nay chúng
con được nhờ giải thoát, là do đời trước trong lúc cầu đạo, Thế-tôn
chịu khổ hạ mình dẫn dắt, chúng con mới được như ngày hôm nay. Ân Đức
Thế-tôn che chở khắp nơi, phước lộc cao vời, quang minh soi suốt, thông
đạt rỗng rang. Phật vì con người mà mở Niết-bàn, dạy dỗ truyền trao, ân
Phật giáo hóa cảm động mười phương vô cùng, vô cực.
Phật là Pháp
vương vượt trên các thánh, là bực đạo sư cho cả trời người, tùy nguyện
chúng sanh, Phật đều làm cho chúng đạo giải thoát. Ngày nay chúng con
gặp đức Như-lai, lại nghe nói đến Phật Vô Lượng Thọ, ai ai cũng đều khấp
khởi vui mừng, tâm được mở sáng.
Đức Phật bảo ngài Bồ-tát Di Lặc:
-
Lời ông rất đúng ! Nếu người hiền lành hay tôn
kính Phật, đó thật là một việc thiện rất lớn, trong chốn thiên hạ thật
lâu mới có đức Phật ra đời.
Nay ta ở đời
chứng quả chánh giác, diễn nói kinh pháp, tuyên rộng đạo giáo, dứt các
lưới nghi, lấp nguồn tội ác, dạo khắp ba cõi không bị trở ngại, khai mở
trí tuệ, nêu tỏ yếu chỉ, mở mang năm đường, độ người chưa độ, giải quyết
đúng đắn con đường sanh tử Niết-bàn cho khắp chúng sanh.
Di Lặc nên
biết, từ vô số kiếp đến nay, ông đã hành đạo Bồ-tát cứu độ chúng sanh,
những người theo ông tu hành chứng quả và vào Niết-bàn, số đó rất đông
không thể tính kể. Ông và tất cả bốn chúng, trời người trong khắp mười
phương, từ lâu trở lại, đã từng trôi lăn trong khắp năm đường, đủ những
lo sợ, siêng có, khổ có, không thể nói hết, mãi đến ngày nay mà sự sống
chết cũng chưa dứt hẳn. Các người cùng nhau gặp Phật, nghe nhận kinh
pháp, lại nghe nói đến Phật Vô Lượng Thọ, hay biết là bao ! Ta trợ niềm
vui của khắp các người.
Ngày nay các
người cũng tự nhàm chán những nỗi thống khổ sanh, già, bệnh, chết, nẻo
ác bợn nhớ, không gì ưa thích. Hãy tự quyết đoán, chấn chỉnh thân tâm,
gây thêm thiện hạnh, trong sạch tu hành, rửa bỏ cấu uế, lời nói việc làm
trung thực thành tín, bên trong bên ngoài khế hợp lẫn nhau, trước tự độ
mình và cứu mọi loại. Các người chuyên ròng chí
nguyện tìm cầu, chứa để rễ lành, tuy khổ một đời, cũng chẳng bao lâu,
sau sanh cõi nước Phật Vô Lượng Thọ, hưởng vui vô hạn, hòa mình lâu dài
trong cảnh đạo đức, nhổ hẳn cội gốc của sự sống chết, không còn lo khổ
bởi tham, giận, si tùy ý tự do, muốn sống một kiếp, trăm kiếp, ngàn
kiếp, muôn ức số kiếp đều được tất cả, không còn bị pháp hữu vi chi
phối, gần với đạo quả của đức Niết-bàn.
Các vị mỗi
người phải nên tinh tấn, mong được như nguyện, chẳng được nghi ngờ, giữa đường bỏ dở, tự gây tội lỗi, mà phải sanh về biên địa
cõi ấy. Dầu cũng vẫn ở cung điện bảy báu trong năm trăm năm, nhưng chịu
tai ách vì không thấy Phật.
Bồ-tát Di Lặc bạch lên đức Phật:
-
Xin vâng những lời ân trọng của Phật, nguyện
chuyên tu học, y giáo vâng làm, chẳng dám sanh nghi.
Đức Phật phán tiếp:
-
Ngay trong đời này, các người có thể đoan tâm
chánh ý, chẳng tạo ác pháp, ấy là một điều đạo đức chí cực mười phương
thế giới không đâu sanh bằng.
Tại sao vậy ?
-
Những quốc độ của các đức Phật khác, các hàng
trời người làm lành tự nhiên, chẳng tạo đại ác, nên dễ khai hóa, còn thế
giới này đầy dẫy năm ác, năm nỗi đớn đau, năm sự thiêu đốt. Cõi này sự
khổ vô cùng khốc liệt, không cõi nào hơn.
Như lai thành
Phật và ở nơi đây giáo hóa quần sanh, làm cho chúng sanh bỏ lìa năm ác,
năm nỗi đớn đau, năm sự thiêu đốt. Làm cho chúng sanh gìn giữ năm lành,
được sanh phước đức, qua khỏi giòng đời và vào Niết-bàn trường thọ vĩnh
viễn.
Thế nào gọi là
năm mối đại ác, năm nỗi đớn đau, năm sự thiêu đốt ? Và sao gọi là tiêu
hóa năm ác, gìn giữ năm lành, được sanh phước đức, qua khỏi giòng đời và
vào Niết-bàn trường thọ vĩnh viễn ?
- MỐI ÁC THỨ NHẤT”: Loài trời, loài người cho đến các
giống côn trùng bé nhỏ, không một loài nào chẳng tạo ác nghiệp. Lớn lấn
cướp nhỏ, mạnh đè bẹp yếu, cùng nhau sanh giặc, tàn hại giết chóc, ăn
nuốt lẫn nhau, không đạo không đức, chẳng biết tu thiện, về sau chịu các
tai ương hình phạt, thần minh ghi chép không sót mảy may, chẳng hề ân
xá kẻ phạm tội ác, do đó mà có đủ các hạng người: Nghèo nàn, hèn hạ, ăn
xin, ăn mày, cô đơn côi cút, mù, điếc, câm, ngọng, ngu si, tệ ác, cho
đến những người khập khểnh què quặc. Còn người giàu sang, tài cao học
sáng, là do đời trước nhơn từ, trung hiếu, chứa đức làm lành, nên được
như vậy.
Thế gian
thường có lối ngừa tội ác; pháp luật triều đình, lao tù ngục thất. Người không kiêng sợ, làm ác gây tội, tất nhiên phải bị tai
vạ, hình phạt, muốn ra khỏi ngục cũng khó nỗi ra, những việc như thế
đầy dẫy trước mắt. Đến lúc lâm chung vào chốn u
minh, kẻ tạo tội ác, sự khổ càng sâu, càng thêm khốc liệt, thân bị đổi
khác, chịu những cực hình vô cùng đau đớn. Bởi vậy tự nhiên có cảnh tam
đồ, vô lượng khổ não, thay hình đổi dạng một cách dễ dàng, tuổi thọ dài
ngắn theo đó thay đổi, thần hồn, nghiệp thức tự tìm tự dẫn, một mình
thẳng tới cùng sanh theo nhau, sanh rồi cùng nhau báo cừu phục hận không
hề dừng ngớt, vì báo chưa hết, nên chẳng lìa nhau, mãi miết xoay vần
không kỳ ra khỏi, đau xót nói không thể cùng.
Trong vòng
trời đất tự có nhu vậy. Tuy không xảy ra táo bạo tức thời, nhưng đường
lành dữ đều có chỗ về.
Trên đây gọi
là một mối đại ác, một nỗi đớn đau và sự thiếu đốt thứ nhất, lao khổ là
thế.
Giả như lửa
lớn đốt cháy thân người, nhưng nếu có ai ở trong cảnh ấy, nhứt tâm giữ
ý, vững mình chánh hạnh, riêng làm việc lành, chẳng theo điều ác, tự độ
thoát mình, hoặc cứu độ người, phược đức người đó sẽ được sanh thiên,
hoặc chứng Niết-bàn. Đó là điều lành vĩ đại thứ nhất.
- MỐI ÁC THỨ HAI: Người trên thế gian, giữa đạo cha con,
anh em, vợ chồng, phần nhiều chẳng có ân tình, nhân nghĩa, trái với lễ
nghi. Hầu hết chỉ quen xa hoa dâm dật, kiêu mạn dọc ngang, mặc tình
phóng túng lừa dối lẫn nhau, tâm miệng trái ngược. Lời nói, ý nghĩ đều
sai tình thực. Hoặc siễm nịnh bất trung, hoặc a dua hồ mị, ganh ghét
người hiền, chê bai điều thiện, hãm hại người lành một cách oan uổng.
Làm vua làm chúa thì chẳng công minh, xử dụng tôi gian để họ làm quấy,
hạng tôi bất chánh cơ mưu xão ngụy, lợi dụng thế lực, chà đạp người tài.
Làm vua không chánh bị dân khi dễ, bỏ rơi người
hiền chẳng xứng nhân tâm. Tôi khi dễ vua, con lừa dối cha, anh em, vợ
chồng, bạn bè quen biết khi dối lẫn nhau, người người ôm lòng ham muốn
dục lạc, giận dỗi, si mê, muốn mình nồng hậu, muốn có thật nhiều, kẻ
trên người dưới tâm ai cũng vậy, đến đổi tan nhà mất mạng cũng chẳng ngó
trước nhìn sau, lụy đến bà con, bỗng dưng mà bị diệt cả họ hàng.
Có khi vợ
chồng, bạn bè quen biết, xóm giềng lân lý, kẻ chợ người quê, theo nhau
làm việc trở lại hại nhau, do đó trở thành căm tức oán hờn.
Kẻ giàu bỏn
sẻn, tham tiếc của cải, chẳng cấp giúp ai. Giữ chặt túi tham, thân tâm
lao khổ, đến mãn cuộc đời không nơi nương cậy. Trong chốn u minh đi lại
một mình chẳng có ai theo. Lành dữ, hoạ phước do nghiệp sanh đến, hoặc ở
chổ vui, hoặc nơi khổ độc khi đó hối hận đâu còn kịp nữa.
Người đời phần
nhiều tâm mê trí kém, gặp gỡ người lành đâm ra chê ghét, chẳng hề ái mộ
mong theo kịp người, chỉ muốn tạo ác, làm điều trái phép, ôm lòng trộm
cướp, mong đợi của người, đến lúc tiêu tan lại đi tìm kiếm, tà tâm bất
chánh biết nghĩ xa, việc đến mới hối. Thế gian hiện có pháp luật lao tù,
tuỳ chổ tội phạm mà bị giam nhốt, hoặc bị trừng phạt. Nhơn vì đời trước
không tin đạo đức, chẳng trồng cội nguồn, cho nên ngày nay trở lại tạo
ác. Các vị thiên thần ghi chép sổ sách thảy đều biết rõ, chết rồi thần
thức đi xuống nẻo ác, bởi vậy tự nhiên có cảnh tam đồ, vô lượng khổ não,
cứ mãi xoay vần kiếp này kiếp khác, không có kì ra, khó nỗi giải thoát,
đau xót nói không thể cùng.
Đây gọi là mối
đại ác, đớn đau và sự thiêu đốt thứ hai, lao khổ là thế.
Giả như lửa
đốt cháy thân người, nhưng nếu có ai ở trong cảnh ấy, nhất tâm giữ ý,
vững mình chánh hạnh, riêng làm việc lành, chẳng theo điều ác, tự độ
thoát mình hoặc cứu độ người, phước đức người đó sẽ được sanh thiên hoặc
chứng Niết bàn. Đó là điều lành vĩ đại thứ hai.
Đức Phật dạy tiếp:
- MỐI ÁC THỨ BA: Người trên thế
gian cùng nhau sống gởi, trong vòng trời rất mênh mang vô tận, mạng sống
con người thật là ngắn ngủi. Trên từ những người hiền tài thông minh,
những người lớn tuổi, quý phái khá hạ, hoặc là những kẻ bại liệt ngu
ngơ, giữa nữa là người tạo những nghiệp dữ, hầu hết ôm ấp những điều
xằng bậy, nhớ tưởng dâm dật, phiền não ngập lòng, giao hợp ân ái, đứng
ngồi chẳng yên. Ý tham tiếc giữ, chỉ muốn vớ được, liếc ngó sắc đẹp theo
thói tà ngoại, chán ghét vợ nhà đi lại tư thông, hao tốn gia tài, làm
điều trái phép.
Hoặc giao kết
tụ tập, đem binh đánh nhau, công hãm cướp bóc, giết chóc cưỡng đoạt một
cách vô đạo, ác tâm hướng ngoại chẳng tự tu bỉ, trộm cướp được rồi cung
cấp vợ con, buông lòng khoái ý để tự sướng thân. Hoặc chẳng nể nang tôn
ty quyền thuộc, gieo mối lo khổ đôi bên nội ngoại, lại chẳng sợ lệnh cấm
phép vua, tội ác như vậy gai mắt người quỷ, nhựt nguyệt chiếu soi, thần
minh ghi chép, vì vậy mà có cảnh giới tam đồ, vô lượng khổ não, xoay
vần trong đó nhiều kiếp nhiều đời không có kì ra, khó nỗi giải thoát,
đau xót nói không thể cùng.
Đây gọi là mối
đại ác, đớn đau và sự thiêu đốt thứ ba, lao khổ là thế.
Giả như lửa
lớn đốt cháy thân người, nhưng nếu có ai ở trong cảnh ấy, nhứt tâm giữ
ý, vững mình chánh hạnh, riêng làm việc lành, chẳng theo điều ác, tự độ
thoát mình hoặc cứu độ người, phước đức người đó sẽ được sanh thiên,
hoặc chứng Niết bàn. Đó là điều lành vĩ đại thứ ba.
- MỐI ÁC THỨ TƯ: Người trên thế
gian chẳng nhớ mấy việc ăn ở hiền lành, lại dạy bảo nhau cùng gây ác
nghiệp. Nói lời hai lưỡi, nói năng nguy hiểm, nói sai sự thật, nói lời
thêu dệt, dèm pha tranh đấu, ganh ghét người lành, phá hoại hiền sĩ để
rồi đắc ý. Chẳng hiếu với cha mẹ, khinh lờn bực thầy dạy, thất tín với
bạn bè, không mấy khi thành thật. Cho mình là sang, nghĩ mình là lớn,
nói mình có đạo, hành động ngang tàng, cậy thế cậy oai xâm lấn kẻ khác,
chẳng hay xét nghĩ, làm ác không thẹn, ỷ mình mạnh khoẻ, muốn người cung
kính, chẳng sợ đất trời, chẳng sợ thần minh, chẳng khứng làm lành, tự
do ngạo nghễ. Tưởng mình sống lâu, không lo không sợ, thường cứ ôm lòng
ngã mạng kiêu căng…những ác nghiệp ấy trời thần ghi biết.
Nhờ vả đời
trước có tạo chút phước, do điều lành nhỏ nâng đỡ tiếp giúp mới được như
vậy. Đời nay làm ác phước đức diệt hết, các vị thiện thần chán lìa lánh
xa, một thân đơn độc đứng giữa khoảng không, chẳng nơi nương tựa, tới
lúc sắp chết, nghiệp ác kéo đến, tự nhiên thúc giục giành nhau đoạt lấy.
Lại nữa, tội
tên sổ sách ghi tại thần minh, tội ương lôi kéo, tự nhiên phải đến chổ
bị hành hạ, không thể do đâu trốn tránh thoát ra, cứ tiến tới trước,
thẳng vào vạt sôi, thân tâm tan nát, tinh thần đau khổ, lúc đó hối hận
đâu còn kịp nữa. Luật trời hiển nhiên chẳng hề sai trật. Vì vậy mà có
cảnh giới Tam đồ, khổ não vô lượng, xoay vần trong đó nhiều kiếp nhiều
đời không có kì ra, khó nỗi giải thoát, đau xót nói không thể cùng.
Đây gọi là mối
đại ác, đớn đau và sự thiêu đốt thứ tư, lao khổ là thế.
Giả như lửa
lớn đốt cháy thân người, nhưng nếu có ai ở trong cảnh ấy, nhất tâm giữ
ý, vững mình chánh hạnh, riêng làm việc lành, chẳng theo điều ác, tự độ
thoát mình hoặc cứu độ người, phước đức người đó sẽ được sanh Thiên hoặc
chứng Niết bàn. Đó là điều lành vĩ đại thứ tư.
Đức Phật dạy tiếp:
-
MỐI ÁC THỨ NĂM: Người
trên thế gian biếng lười dật dựa, chẳng khứng làm lành, sửa mình tu
đức, bỏ bê cửa nhà, vợ con đói rách, khốn khổ quanh năm, cha mẹ răn dạy
trở lại giận dữ, trợn mắt trả treo, nói năng bất hoà, chống trái phản
nghịch, chẳng khác oan gia, chẳng bằng tuyệt tự. Lấy, cho vô phép, mọi
người chán ngán, phụ ơn bội nghĩa, không lòng báo bổ đáp đền. Nghèo nàn
túng thiếu phục hồi chẳng được, đua chen giành giựt, phóng túng chơi
bời. Tiền gian xoay sở, tiêu pha lãng phí, say đắm rượu thịt, ăn uống vô
chừng, buông tuồng phóng đãng, bướng bỉnh ngang ngạnh, chẳng biết phải
quấy, chẳng kẻ tình người, cưỡng bức dục tình, ức hiếp kẻ yếu, thấy
người làm lành, ganh ghét phá hoại, không lễ không nghĩa, chẳng ngó
ngàng ai, tưởng mình hiểu biết can dạy chẳng nghe. Sáu giòng bà con, kẻ
có người không chẳng cần để ý. Chẳng nghĩ công ơn cha mẹ, chẳng còn tình
bạn nghĩa thầy. Tâm thường nghĩ ác, miệng thường nói ác, thân thường
làm ác, chưa từng có một điều lành. Chẳng tin thánh hiền, chẳng tin Phật
pháp, chẳng tin tu hành có thể chứng đạo, chẳng tin chết rồi thần thức
tái sanh, chẳng tin làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ. Muốn giết thánh
hiền quấy rối Tăng chúng, muốn hại cha mẹ, anh em quyến thuộc, đến đổi
bà con ghê tởm oán ghét, mong chết cho khuất!
Trên đời vốn
có những người như vậy.
Những người
như thế, ngu si tăm tối, vậy mà tự phụ sáng suốt hơn người, chẳng biết
kiếp sống vốn từ đâu lại, chết sẽ về đâu! Không nhơn, không thuận,
nghịch cả đất trời, trong cảnh như vậy mà vẫn kiêu hãnh hy vọng sống
lâu.
Ví như có
người đem lòng từ bi, dạy bảo chỉ vẽ đường lành nẻo dữ, nói sự sống
chết, những kẻ như thế vẫn chẳng hề tin. Khổ tâm nói nhiều với người thế
đó vẫn là vô ích. Tâm họ đóng bít, ý chẳng khai thông. Vô thường sắp
đến, bấy giờ mới thấy hối hận sợ hãi. Trước chẳng dự bị tu tập điều
lành, cuối cùng mới hối, sự hối muộn màng, làm sao cho kịp. Trong vòng
trời đất, năm đường rõ ràng (Trời,Người,Quỷ đói, Địa ngục, Bàng sanh)
bao la mịt mù, loài si mê tăm tối quay lộn xuống lên, như kẻ mù loà đi
trong đêm thẳm. Lành dữ báo ứng, hoạ phước thay nhau, tự mình gánh chịu,
không người thay thế.
Người lành làm
lành, từ vui đến vui, từ sáng vào sáng. Kẻ dữ làm dữ, từ khổ đến khổ,
từ tối vào tối. Những việc như thế có ai biết chăng ?
- Chi Phật, Bồ
- tát thấy rõ, biết rõ, dầu có mở nói cũng ít người tin, sống chết
không ngừng, thì con đường ác không khi nào dứt. Người đời phần nhiều
như thế, khó nói cho đủ. Bởi vậy tự nhiên có cảnh tam đồ, khổ não vô
lượng, xoay vần trong đó nhiều kiếp nhiều đời, không có kỳ ra, khó nỗi
giải thoát, đau xót nói không thể cùng.
Đây gọi là mối
đại ác, đớn đau và sự thiêu đốt thứ năm, lao khổ là thế.
Giả như lửa
lớn đốt cháy thân người, nhưng nếu có ai ở trong cảnh ấy, nhứt tâm giữ
ý, vững mình chánh hạnh, riêng làm việc lành, chẳng theo điều ác, tự độ
thoát mình và cứu độ người, phước đức người đó sẽ được sanh thiên, hoặc
chứng Niết – bàn, đó là điều lành vĩ đại thứ năm.
Đức Phật bảo
Ngài Bồ - tát Di Lặc:
- Như –lai nói
rõ để các vị thấy, năm mối đại ác, năm mối đớn đau, năm sự thiêu đốt,
nhọc nhằn khổ sở của đời là vậy, chúng tự lần lượt nương nhau phát sanh.
Chỉ vì chúng sanh quen làm nghiệp ác, không tu gốc lành, tất nhiên tự
vào các đường dữ.
Người tạo
nghiệp ác, ngay trong hiện tại chịu lấy quả báo: Trước hết là bị những
điều tai ương, bệnh hoạn hiểm nghèo, cầu sống không được, cầu chết không
xong, tội ác chiêu cảm để mọi người thấy, chết rồi cùng với nghiệp báo
oan gia vào ba đường dữ, khổ độc vô lượng, tự nấu đốt nhau, và cùng kết
oán mãi đến về sau.
Từ việc nhỏ
sanh, bèn thành hoạ lớn, tất cả chỉ vì tham đắm tiền tài, tranh giành
nhan sắc, chẳng hay ban bố, cứu giúp cho người. Do sự si mê tham dục
thúc đẩy, theo tâm nghĩ tướng, nên bị trói buộc trong vòng phiền não,
giải toả không ra, mãi đoạt lợi danh không biết thức tỉnh. Lúc giàu vinh
hiển, lấy làm hài lòng, chẳng hay nhẫn nhục, chẳng siêng tu thiện. Oai
quyền thế lực chẳng được bao lâu rồi tiêu ma hết. Đến lúc bấy giờ, thân
ngồi một chổ, khổ sở nhọc nhằn, tới lúc bệnh chết sự khổ càng hơn, Luật
trời tha bắt tự nhiên mở ra, mối mang lưới rập xứng trên cưng dưới. Phật
phong kinh sợ phải bị bủa vây, từ cổ chí kim hẳn nhiên là vậy. Đau xót
biết bao! Thương tâm biết bao!
Đức Phật dạy
tiếp:
- Thế gian như
vậy, thật đáng thương xót! Phật dùng thần lực diệt ác, khuyến thiện,
làm cho chúng sanh bỏ lìa nghĩ quấy vâng giữ giới, chăm lo hành đạo. Y
lời Như- lai chỉ dạy, sau sẽ qua khỏi dòng đời và chứng Niết bàn. Chư thiên, nhân dân đời này, đời sau, được nghe
những lời trong kinh Phật nói, hãy nên suy nghĩ và gắng siêng năng, theo
lời kinh dạy, chỉnh đốn thân tâm, người trên làm lành, đốc xuất kẻ
dưới, răn nhắc lẫn nhau. Mỗi người phải tự giữ vững tâm ý, tôn trọng bực
thánh, quý kính người hiền, từ bi nhơn ái, cứu nhân độ thế. Đối với
những điều Như – lai răn nhắc, chớ có xem thường phụ bỏ, hãy cầu thoát
khỏi giòng mê, nhổ gốc tội ác của sự sống chết, để ra khỏi cảnh khổ đau
vô lượng, và mối lo sợ doạ ba đường ác. Đời này các người cần nên gieo
trồng rộng rãi cội đức, ban bố ân huệ, giữ gìn cấm giới, nhẫn nhục, tinh
tấnm thiền định sáng suốt, giáo hoá lẫn nhau. Tự mình tu đức và gây
thiện nghiệp, giữ tâm giữ ý đúng đắn chơn thật. Dầu một ngày đêm ở tại
nơi này trai giới thanh tịnh, công đức còn hơn ở cõi An Lạc làm lành đến
một trăm năm. Tại sao vậy? Vì cõi Phật kia vô vi tự nhiên, tất cả đều
cùng chứa nhóm thiện nghiệp. Một điều ác nhỏ dường như tơ tóc cũng không
hề có. Chơn thật tu hành trong mười ngày đêm ở tại cõi này, công đức
trội hơn ở Phật quốc khác tu thiện ngàn năm! Lý do là tại vì cõi nước
Phật khác, đa số làm lành, hiếm người tạo ác, phước đức chiêu cảm một
cách tự nhiên, không có nguyên do để gây ác nghiệp. Chỉ có nơi này đầy
rẫy điều ác, chẳng được tự nhiên, toàn những gian khổ tìm cầu ham muốn
và lừa dối nhau, khiến nỗi con người thân tâm lao nhọc, uống đắng ăn
độc, rồi cứ như thế mà chăm làm ác, chưa từng nghỉ ngơi!
Như-lai thương
xót tất cả các người, khổ tâm răn dụ, dạy bảo làm lành, từ chổ thích
nghi mà mở dẫn dắt, trao truyền kinh pháp, đâu chẳng làm cho các người
ứng dụng để được vừa lòng và làm cho tất cả đều chứng đạo.
Như –lai du
hoá bất cứ nơi nào, đất nước nơi đó, từ chốn kinh thành đến nơi thôn dã,
đâu đâu cũng được giáo hoá mở mang, mọi người thuận hoà, trời trong,
trăng tỏ, mưa gió đúng thời, ôn dịch chẳng khởi, nước thạnh dân an,
chiến tranh chấm dứt, người người chuộn đức, chăm tu lễ nghĩa, khiêm
tốn, kính nhường.
Như –lai
thương xót các chúng trời người, còn hơn cha mẹ thương yêu con cái, Như
–lai ra đời cảm hoá chế ngự năm mối đại ác, trừ năm đớn đau, dứt năm
thiêu đốt, lấy các điều lành công phá điều dữ, nhổ tận gốc sự khổ sống
chết, để cho nhân loại được năm thứ đức, bước lên cảnh giới An lạc vô
vi.
Sau khi Như
–lai đã vào Niết-bàn, kinh pháp lần diệt, nhân dân phần nhiều siễm nịnh
gian dối, trở lại gây tạo nghiệp ác như cũ, năm sự thiêu đốt, năm nỗi
đớn đau diễn ra như trước, càng trở về sau càng thêm kịch liệt, chẳng
thể nói hết, Như-lai nay vì tất cả các người, nói tóm tắt vậy. Các vị
mỗi người hãy khéo tư duy và rồi xoay vần truyền bảo cho nhau, y theo
kinh giáp tu hành, chớ để trái phạm.
Khi đó, Bồ -
tát Di Lặc chấp tay bạch Phật:
- Kính lạy
Thế-tôn ! Những lời Phật dạy rất chơn rất thiện, người đời quả nhiên như
vậy, lòng Từ của đức Như –lai bao bọc, thương
xót muôn loài, muốn cho tất cả đều được độ thoát. Con xin nhận lời Phật
trân trọng dạy, không dám sai thất.
Đến đây đức
Phật dạy bảo A Nan:
- Này A Nan
ơi! Con hãy đứng lên sửa lại y phục, chấp tay cung kính, đảnh lễ Phật Vô
Lượng Thọ, mười phương quốc độ các đức Như-lai luôn luôn đề cao và đồng
ca tụng về đấng chánh giác vô trước vô ngại ấy.
Khi đó A Nan đứng dậy sửa áo xoay về phía Tây, cung kính
chấp tay, năm vóc sát đất, đảnh lễ Phật Vô Lượng Thọ, và bạch đức Bổn
sư.
- Kính bạch
Thế -tôn! Con mong được thấy thế giới An Lạc, Phật Vô Lượng Thọ và chư
Bồ- tát, Thanh văn cõi ấy.
A Nan dứt lời,
liền đó Phật Vô Lượng Tho phóng quang minh lớn, soi khắp thế giới của
các đức Phật. Những núi Kim cang, những núi Thiết vi, núi chúa Tu di,
các núi lớn nhỏ và cả vạn vật đều đồng một màu, giống như kiếp thuỷ tràn
ngập thế giới, muôn vật trong đó chìm lặn không hiện, chỉ thấy nước lớn
mênh mông bát ngát.
Quang minh vĩ
đạ của đức Phật ấy cũng ví như vậy. Tất cả ánh sáng nơi thân Bồ-tát và chư Thanh văn đều bị che lấp, chỉ thấy một màu
quang minh của Phật rực rỡ sáng chói. Ngay đó A Nan được thấy rõ ràng
chơn thân Phật Vô Lượng Thọ, oai đức cao vời như núi Tu di, cao vượt lên
trên tất cả thế giới. Thân Phật tướng tốt, ánh sáng soi đến không sót
nơi nào. Bốn chúng đệ tử cùng trong một lúc cũng đồng thấy rõ và số
thánh chúng cõi nước An Lạc cũng thấy cõi này.
Bấy giờ đức
Phật hỏi ngài Di Lặc và hỏi A Nan:
- Thế giới
Phật ấy, kể từ mặt đất trở lên hư không, cho đến cõi trời Tịnh cư Sắc
giới, trong đó tất cả bao nhiêu sự vật thảy đều trang nghiêm một cách tự
nhiên, các ông thấy chăng ?
A-Nan tôi đáp:
- Vâng
! Con có thấy.
- Các
ông cũng nghe tiếng diễn nói pháp vĩ đại của Vô Lượng Thọ Như-lai, vang
các thế giới giáo hoá chúng sanh?
- Kính
bạch Thế -tôn! Chúng con có nghe.
Các ông có
thấy nhân dân nước ấy nương cung điện bằng bảy báu rộng lớn hàng ngàn do
tuần, không bị chướng ngại, đến các thế giới ở khắp mười phương cúng
dường chư Phật?
- Kính
bạch Thế-tôn ! Chúng con thấy rõ.
- Nhân
dân nước đó có người thai sanh, các ông thấy chứ?
- Vâng
! Con có thấy.
- Người
thai sanh đó được ở cung điện hoặc trăm do tuần, năm trăm do tuần,
trong đó mỗi người đều được tự nhiên hưởng thụ vui sướng, như các vị
trời thiên cung Đao-lợi.
- Khi
ấy Bồ-tát Di-Lặc bạch Phật:
Kính bạch
Thế-tôn ! Do nhân duyên gì cõi nước An-Lạc, có người thai sanh, có người
hoá sanh?
Đức Phật dạy
rằng:
- Nếu như
người nào đem lòng nghi ngờ, tu các công đức, nguyện sanh nước ấy. Vì họ
chẳng rõ trí Phật là trí chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể suy tính, trí
đại thừa rộng lớn, trí không gì so sánh, là trí tối thượng, là trí tối
thắng…Với các năng lực trí Phật như vậy lại sanh nghi ngờ, không lòng
tin tưởng, nhưng tin tội phứơc, vẫn tu căn lành, nguyện sanh nước ấy,
thì những người này sanh nơi thai cung, trong năm trăm năm thường không
thấy Phật, không nghe kinh pháp, không gặp thánh chúng Bồ-tát Thanh văn,
thế nên đối với nước ấy gọi là thai sanh.
- Nếu chúng
sanh nào sáng suốt tin tưởng trí Phật là trí chẳng thể nghĩ bàn, cho đến
là trí tối thắng…Tu các công đức và dùng tín tâm hồi hướng phát nguyện
sanh về nước ấy, thì chúng sanh này từ hoa sen bảy báu tự nhiên hoá
sanh, kiết già ngồi vững ngay trong chốc lát là thân tướng sáng, trí tuệ
công đức đều được thành tựu như các Bồ-tát.
- Lại nữa
Di-Lặc ! Các đại Bồ-tát ở những phương khác, phát tâm muốn thấy Phật Vô
Lượng Thọ và chư Bồ-tát, các chúng Thanh văn ở cõi An-Lạc, để được thân
cận cung kính cúng dường, thì những vị ấy sau khi mạng chung, được sanh
cõi nước Phật Vô Lượng Thọ, nơi hoá bảy báu tự nhiên hoá sanh.
- Di-Lặc nên
biết, những vị Bồ-tát đã hóa sanh đó, là do trí tuệ vượt hơn nhiều
người, còn hạng thai sanh đều không trí tuệ, trong năm trăm năm thường
không thấy Phật, không nghe kinh pháp, không gặp thánh chúng Bồ-tát
Thanh văn, chẳng nhờ vào đâu cúng dường chư Phật, không biết thể thức
của đạo Bồ-tát, chẳng được tu tập các thứ công đức. Nên biết hạng này
đời trước tu hành nhưng chẳng sáng suôt, nghi ngờ trí Phật, đến đỗi như
vậy.
Đức Phật dạy
tiếp:
- Lấy ví dụ
như vua Thánh chuyển luân, có ngục thất bảo, ngục này cũng đủ các vật
trang nghiêm, sắp đặt giường nệm, treo các màn trướng…Khi các thái tử
mắc tội với vua, bèn bị đưa giam giữ trong ấy, dùng khoá bằng vàng khoá
chặt lao ngục, vẫn cung cấp đủ món ăn, thức uống, áo quần, mền gối, hoa
đẹp, nhạc hay như Chuyển luân vương không thiếu món nào.
- Bồ-tát
Di-Lặc, ý ông nghĩ sao về cảnh trạng ấy? Các thái tử này có nên vui
thích ở đó chăng?
Ngài Di-Lặc
thưa:
- Kính bạch
Thế-tôn ! Chẳng nên ưa thích, chỉ nên tìm mọi phương pháp cầu cạnh thế
lực vua cha, để được ra khỏi.
Đức Phật bảo
ngài Bồ-tát Di-Lặc :
- Những người
thai sinh ở cõi nước kia lại cũng như vậy. Do nghi trí Phật, cho nên
sanh vào cung điện bảy báu, không bị hình phạt, cho đến không một ý niệm
tạo ác. Chỉ có điều là: Trong năm trăm năm không gặp Tam bảo, không
được cúng dương và tu căn lành, do đó mà cho là khổ, mặc dầu hưởng lạc
có dư, nhưng chẳng ưa thích ở vào nơi ấy. Nếu những người kia tự biết
lỗi xưa tự sanh thống trách, mong lìa nơi đó, khi ấy người này được như
sở nguyện, bèn qua đến chổ Phật Vô Lượng Thọ cúng dường cung kính, rồi
cũng được đến vô lượng vô số chổ chư Phật khác tu các công đức.
- Di Lặc nên
biết, nếu Bồ-tát nào đâm ra nghi ngờ sẽ mất lợi ích. Vì thế hãy nên sáng
suốt tin tưởng trí tuệ vô thượng của các đức Phật .
Ngài Di-Lặc
thưa:
- Kính bạch
Thế-tôn ! Nơi thế giới này có chừng bao nhiêu Bồ-tát bất thoái sanh về
cõi ấy?
Đức Phật đáp
rằng:
- Thế giới này
có sáu mươi bảy ức Bồ-tát bất thoái sanh về nước ấy, mỗi Bồ-tát đã từng
cúng dường vô số đức Phật, kế đây đều phải đồng như Di-Lặc, còn những
Bồ-tát tu những hạnh nhỏ và những người tu chút chít ít công đức, số đó
đông đảo không thể tính kể. Tất cả số ấy đều sẽ vãng sanh.
Đức Phật dạy
tiếp:
- Không những
cõi nước của ta có các Bồ-tát lớn nhỏ sanh về nước ấy, mà những cõi Phật
ở các phương khác, số người vãng sanh cũng nhiều như vậy.
- Cõi Phật thứ
nhất: Phật hiệu Viễn Chiếu, có một trăm tám mươi ức Bồ-tát đều sẽ vãng
sanh.
- Cõi Phật thứ
hai: Phật hiệu Bảo Tạng, có chín mươi ức Bồ-tát bất thoái đều sẽ vãng
sanh.
- Cõi Phật thứ
ba: Phật Vô Lượng Âm, có hai trăm hai mươi ức Bồ-tát đều sẽ vãng sanh.
- Cõi Phật thứ
tư: Phật Cam Lồ Vị, có hai trăm năm mươi ức Bồ-tát đều sẽ vãng sanh.
- Cõi Phật thứ
năm: Phật hiệu Long Thắng, có mười bốn ức Bồ-tát bất thoái đều sẽ vãng
sanh.
- Cõi Phật thứ
sáu: Phật hiệu Thắng Lực, có mười bốn ngàn ức Bồ-tát bất thoái đều sẽ
vãng sanh.
- Cõi Phật thứ
bảy: Phật hiệu Sư Tử có năm trăm ức Bồ-tát bất thoái đều sẽ vãng sanh.
- Cõi Phật thứ
tám: Phật Ly Cấu Quang, có tám mươi ức Bồ-tát bất thoái đều sẽ vãng
sanh.
- Cõi Phật thứ
chín: Phật hiệu Đức Thủ, có chín mươi ức Bồ-tát bất thoái đều sẽ vãng
sanh.
- Cõi Phật thứ
mười: Phật hiệu Đức Sơn, có sáu mươi ức Bồ-tát bất thoái đều sẽ vãng
sanh.
- Coi thứ mười
một: Phật hiệu Nhơn Vương, có mười ức vị Bồ-tát bất thoái đều sẽ vãng
sanh.
- Cõi thứ mười
hai: Phật Vô Lượng Hoa, có đến vô số chẳng thể tính kể các chúng Bồ-tát
trụ bất thối chuyển, trí tuệ dõng mãnh, đã từng cúng dường vô lượng đức
Phật, trong vòng bảy ngày có thể thâu nhiếp những pháp kiên cố của các
đại sĩ đã tu hành từ trăm ngàn ức kiếp. Những Bồ-tát ấy đều sẽ vãng
sanh.
- Cõi thứ mười
ba: Phật hiệu Vô Uỷ, có bảy trăm chín mươi ức đại Bồ-tát, còn các
Bồ-tát tu những đức hạnh nhỏ và chúng Tỳ kheo…Những không thể kể, tất cả
số ấy đều sẽ vãng sanh.
Đức Phật lại
bảo:
-
Không những số đại Bồ-tát bất thoái và những chúng sanh mười bốn cõi
Phật được nói trên đây đều sẽ vãng sanh, mà vô lượng Phật quốc trong
những thế giới ở khắp mười phương, số người vãng sanh lại cũng như vậy,
rất nhiều vô kể.
Nếu ta chỉ nói
danh hiệu chư Phật trong những cõi nước ở khắp mười phương, và nói con
số Bồ-tát tỳ kheo sanh về nước ấy, thì dù nói suốt cả ngày lẫn đêm hay
suốt cả kiếp cũng không thể hết. Nay vì các ông chỉ nói lược thôi.
Đức Phật bảo
ngài Bồ-tát Di-Lặc :
- Người nào
được nghe danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ mà mừng khấp khởi, dầu là vui mừng
cho đến một niệm ngắn ngủi đi nữa, nên biết người ấy đã được lợi lớn,
đó là đầy đủ công đức cao tột. Thế nên Di-Lặc ! Dẫu có lửa lớn cháy lan
khắp cả đại thiên thế giới, cũng nên vượt qua để nghe kinh này và mừng
tin ưa, thọ trì đọc tụng, như lời kinh dạy, theo đó tu hành.
Tại vì sao
thế?
- Rất nhiều
Bồ-tát muốn nghe kinh này, nhưng chẳng thể được.
Nếu chúng sanh
nào nghe đến kinh này, người đó sẽ không thoái chuyển đối
với Phật đạo vô thượng. Vì vậy hãy nên chuyên tâm tin nhận, trì tụng,
giảng nói thực hành.
Nay vì chúng
sanh, ta nói kinh này, để cho chúng sanh được thấy Phật Vô Lượng Thọ và
toàn sự vật nơi cõi An Lạc.
Điều đáng nên
làm, hãy khá thực hiện cho được mục đích, không nên lấy làm nghi ngờ sau
khi Như –lai diệt độ.
Về đời sau
này, khi mà kinh đạo bị tiêu diệt hết, ta vì lòng Từ thương xót chúng
sanh, riêng lưu kinh này trong một trăm năm, những chúng sanh nào được
gặp kinh đây, cầu nguyện những gì sẽ được vừa ý, và đều có thể được sự
độ thoát.
Đức Phật dạy
tiếp:
- Như-lai ra
đời khó gặp khó thấy, kinh đạo chư Phật khó được khó nghe, thắng pháp
Bồ-tát, các Ba la mật được nghe cũng khó, gặp thiện tri thức nghe pháp
tu hành lại cũng là khó. Nếu nghe kinh này mà sanh tin mừng và siêng thọ
trì, lại là điều khó trong những cái khó, chẳng có điều nào khó hơn.
Thế nen, pháp
môn của Phật, làm như thế nào, nói như thế nào, dạy như thế nào, hãy nên
tin nhận, như pháp tu hành.
Khi đức
Thế-tôn nói kinh pháp này, thì có vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng
chánh giác, mười hai ngàn na do tha chúng sanh chứng pháp nhãn thanh
tịnh, hai mươi hai ức các vị thiên chứng trên các cõi trời chứng quả A
na hàm, tám trăm ngàn tỳ kheo sạch hết mê lầm, tâm ý sáng tỏ, bốn triệu
Bồ-tát chứng quả bất thoái, các ngài dùng những công đức hoằng thệ để tự
trang nghiêm, trong đời vị lai sẽ thành chánh giác.
Bấy giờ toàn
cõi đại thiên thế giới chấn động sáu cách, ánh sáng vĩ đại soi các cõi
nước ở khắp mười phương, trăm ngàn âm nhạc tự nhiên trỗi lên, vô lượng
hoa quý rơi xuống tứ tán.
Đức Phật nói
kinh này rồi, Bồ-tát Di-Lặc và chư Bồ-tát từ mười phương đến, A Nan và các đại Thanh văn tăng, tất cả đại chúng
hoan hỷ phụng hành.
KINH
PHẬT THUYẾT
VÔ
LƯỢNG THỌ PHẬT
QUYỂN
HẠ
HẾT