B GIẢNG
KỆ VĂN
Trong Luận này có chia làm hai phần là Kệ Văn
và Luận Văn. Kệ
Văn là những bài kệ được
quy định chữ và vần điệu. Trọng tâm của Kệ văn là Luận
văn là dạy những cương lĩnh của năm môn tu để được vãng
sanh về Cực Lạc. Vì thế, Luận này còn gọi là Luận
Năm môn thực hành để được vãng
sanh Tịnh Ðộ.
- Kinh Pháp Chủ Giải Ba Môn
KỆ VĂN: ÐỨC THẾ
TÔN! CON MỘT LÒNG QUY MẠNG, VÔ NGẠI QUANG Như Lai, KHẮP CẢ
TRONG MƯỜI PHƯƠNG, NGUYỆN SANH VỀ NƯỚC AN DƯỠNG.
Con một lòng quy mạng là tỏ lòng cung kính với
vị pháp chủ. Kinh là những lời kiết tập do chính đệ tử
Phật nghe và ghi lại, còn luận là căn cứ vào kinh mà tạo
ra. Vì kinh do Phật nói ra nên nhà tạo luận trước phải Kỉnh
Phật. Nói Quy mạng là diễn tả sự cung kính cùng tột hết
lòng nương về Ðức Phật.
Con Quy mạng Vô Ngại Quang Như Lai khắp mười
phương thuộc về Lễ Bái Môn. Vô Ngại Quang Như Lai tức là
Phật A Di Ðà. Nói đến Phật A Di Ðà tức là tán thán công
đức Quang vô lượng và Thọ vô lượng là Tán Thán Môn.
Như Lai: như là Chơn như thật tánh, Bậc chứng
Chơn Như Thật Tánh thành Vô thượng giác. Lai là đến
độ thoát tất cả chúng sanh. Từ chơn như thật tánh mà đến
là không đến (lai) mà đến (lai) gọi là
Như Lai.
Nguyện sanh Nước An Lạc là lòng phát nguyện
mong cầu được vãng sanh về nước Cực Lạc. Ðó là Tác
Nguyện Môn. Lễ
bái thuộc về Thân Nghiệp, Tán Thán thuộc Khẩu Nghiệp, Nguyện
Sanh thuộc Ý Nghiệp. Nếu ba nghiệp được thanh tịnh, đồng
Phật sang Tây phương.
- Y Kinh Nói Về Quán Sát Môn
KỆ VĂN: CON Y THEO KINH GIÁO, TƯỚNG CÔNG ÐỨC
CHƠN THẬT, NÓI TỔNG TRÌ KỆ NGUYỆN, CÙNG PHẬT GIÁO TƯƠNG
ƯNG.
Nói về tướng công đức chơn thật không phải
do chỗ mình thấy mà y theo lời nói của
Phật để diễn đạt.
Kinh nói cho đủ là khế kinh là những
lời nói khế hợp với chơn lý và khế hợp với căn cơ tức
chỉ phần trường hàng trong 12 thời thuyết giáo.
Tướng công đức chơn thật là chỉ công đức chơn thật của
chư Phật. Ở đây Ngài Thiên Thân y
trong kinh nói công đức tướng của Phật A Di Ðà, công đức
này do trong kinh, Ðức Phật Thích Ca nói ra quả thật Phật A
Di Ðà có công đức chơn thật không hư dối, vì Phật
Thích Ca luôn luôn nói đúng, nói thật, không hề giả dối.
Như thế, ta biết chắc rằng cõi Tịnh
Ðộ trang nghiêm do tướng công đức và Quả vô lậu chuyển
thành. Vì lìa các tướng điên đảo nhiễm ô là công đức vô
lậu và lìa tất cả tướng tức tất cả tướng nên gọi
là chơn thật tướng, trong Kệ nói tướng công đức là tương
ưng với giáo pháp Phật không chút sai trái.
KỆ VĂN: XÉT TƯỚNG THẾ GIỚI KIA, VƯỢT XA HẲN
BA CÕI
Quán sát môn chính là quán về công đức y báo,
chánh báo trang nghiêm quốc độ Cực Lạc của Phật A Di Ðà.
Trong đó, trước
Quán sát tướng công đức y báo trang nghiêm của thế giới Cực
Lạc gồm có 17 thứ công đức.
- Thanh tịnh công đức thà
nh tựu:
là nói cõi Cực Lạc thế giới ở Phương Tây tướng thanh
tịnh của nó cứu cánh như hư không , rộng lớn vô biên,
thanh tịnh các xa tam giới không kể xiết.
KỆ VĂN: CỨU KÍNH NHƯ HƯ KHÔNG , RỘNG LỚN
KHÔNG NGẰN MÉ.
- Lượng Công đức thà
nh tựu: Là
nói vô lượng thành tựu của thế giới Cực Lạc như hư không
, rộng lớn không ngằn mé.
KỆ VĂN: CHÁNH ÐẠO
LÀ TỪ BI, SANH THIỆN CĂN XUẤT THẾ.
- Tánh công Ðức thành tựu: nói về nhơn tánh của thế giới
Cực Lạc là do công đức vô lậu thanh tịnh xuất thế gian
thành tựu không phải năng lực hữu lậu bất thiện nhiễm
ô mà thành.
KỆ VĂN: ÁNH SÁNG SẠCH ÐẦY
KHẮP, NHƯ NHẬT NGUYỆT CÙNG SOI.
- Hình tướng công đức thành tựu: Nói hình tướng của thế
giới Cực Lạc không có tướng tối tă
m,
luôn luôn có ánh sáng thanh tịnh như mặt trăng mặt trời cùng
soi sáng.
KỆ VĂN: CÁC THỨ TÁNH TRÂN BỬU, ÐẦY
ÐỦ DIỆU TRANG NGHIÊM.
- Các thứ sự công đức thành tựu: Nói đầy đủ bảy báu
như
vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ,
xích châu, mã não cho đến
trăm ngàn vô lượng trân bửu là
thành tựu công đức trang nghiêm vô lượng vi diệu thanh tịnh.
KỆ VĂN: ÁNH VÔ CẤU RỰC RỠ, SOI SẠCH HẾT
THẾ GIAN!
- Công đức diệu sắc thà
nh tựu:
Ánh sáng vô cấu rực rỡ là nói ánh sáng sắc tướng vô cấu
của thế giới Cực Lạc tây phương có thể chiếu khắp tất
cả thế gian.
KỆ VĂN: CỎ TÁNH BÁU CÔNG ÐỨC,
MỀM MẠC MỌC HAI BÊN, NGƯỜI CHẠM SANH VUI LỚN, HƠN CA THI LÂN
ÐÀ.
- Xúc công đức thà
nh tựu: Ca Thi
Lân Ðà là một thứ cỏ rất mềm mại, mịn màng ở Ấn Ðộ,
người khi chạm vào cỏ ấy sanh lòng vui vẻ êm dịu, khi va
chạm vào cỏ bửu tánh công đức ở thế giới Cực Lạc tây
phương sẽ sanh lòng vui vẻ êm dịu còn hơn nhiều khi và chạm
vào cỏ Ca Thi Lân Ðà.
KỆ VĂN: HOA BÁU NGÀN
MUÔN THỨ, ÐẦY ÐỦ Ở TRONG AO, GIÓ NHẸ THỔI CÁNH HOA, ÁNH
SÁNG CHIẾU CHÓI LỌI, CÁC CUNG ÐIỆN LẦU GÁC, THẤY MƯỜI
PHƯƠNG KHÔNG NGẠI, NHIỀU CÂY MÀU SẮC LẠ, HÀNG BÁU VÂY
GIÁP VÒNG. BÁU VÔ LƯỢNG KẾT NHAU, THÀNH LƯỚI BỦA HƯ KHÔNG
, CÁC THỨ RUNG THÀNH TIẾNG, VANG RA TIẾNG PHÁP MẦU.
- Nói
về công đức
trang nghiêm thành tựu: bốn câu đầu
công đức trang nghiêm thành tựu ở dưới
nước, bốn câu giữa nói công đức trang nghiêm thành tựu
ở trên đất, bốn
câu cuối nói công đức trang nghiêm
thành tựu ở trên không.
KỆ VĂN: MƯA HOA Y TRANG NGHIÊM,
VÔ LƯỢNG HƯƠNG XÔNG KHẮP.
- Nói công đức rưới hoa thành tựu: Nói ở trong không
trung rưới vô lượng hoa y để trang nghiêm đồng thời có
vô lượng hương xông khắp tất cả pháp giới.
KỆ VĂN: TRÍ PHẬT NHƯ MẶT NHẬT, TRỪ SI ÁM
THẾ GIAN.
- Nói công đức ánh sáng thà
nh tựu:
Ở đây nói trí huệ
quang minh của Phật thanh tịnh như mặt nhật, không phải chỉ
phá những hắc ám của nội tâm tất cả chúng sanh.
KỆ VĂN: TIẾNG PHẠM VANG SÂU XA, MƯỜI
PHƯƠNG NGHE LỜI MẦU.
- Nói Thinh công đức thành tựu: ở đây chỉ lời nói của
Phật rất vi diệu, khắp mười phương đều nghe, không tìm
được ngằn mé.
KỆ VĂN: PHẬT DI ÐÀ
CHÁNH GIÁC, CHÁNH PHÁP KHÉO GIỮ GÌN.
- Nói chủ công đức thà
nh tựu: Phật
A Di Ðà là bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng chánh
giác. Phật Di Ðà là giáo chủ của Cực Lạc thế giới là
vua của chánh Pháp.
KỆ VĂN: CHÚNG TỊNH HOA NHƯ LAI, HOA CHÁNH GIÁC
HÓA SANH.
- Nói quyến thuộc công đức thành tựu: Có chủ tức có bạn,
đây nói các Ð
ại Bồ Tát và chúng
sanh vãng sanh trong chín phẩm là bạn của Phật A Di Ðà, đều
do hoa chánh giác của Phật A Di Ðà mà biến hóa ra.
KỆ VĂN: ƯA THÍCH PHÁP VỊ PHẬT, THỰC PHẨM
THIỀN CHÁNH ÐỊNH.
- Nói thọ dụng công đức thà
nh tựu:
Bình thường nói pháp hỉ sung mãn tức là nói đến sự ưa
thích mùi vị Phật Pháp. Lấy việc vui Thiền làm thức ăn, tức
chỉ trong lúc ngồi thiền lấy tam muội làm
thức ăn là chỉ người ưa thích Phật pháp được nhiều thú
vị, lấy pháp vị để nuôi dưỡng huệ mạng mình.
Thiền tiếng Phạn là Thiền Na. Trung Hoa dịch là Tịnh Lự
nghĩ là dẹp sạch hết suy nghĩ. Tam muội là tiếng Phạn,
Trung Hoa là Ðẳng Trì nghĩa là bình đẳng an giữ tâm mình
làm cho xa lìa hôn trầm, trạo cử, vọng tưởng, thông thường
gọi là Chánh Ðịnh.
KỆ VĂN: LÌA PHIỀN
NÃO THÂN TÂM, NHẬN VUI LUÔN KHÔNG DỨT.
- Nói không có các nạn công đức thà
nh
tựu: Nói chỗ thọ của thân tâm không có tất cả khổ nạn,
nên trong kinh A Di Ðà nói: "Chỉ nhận các điều
vui không có các điều khổ nên gọi
là Cực Lạc".
KỆ VĂN: CÕI ÐẠI THỪA
THIỆN CĂN, ÐỀU KHÔNG CÓ CHÊ BAI, NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU,
GIỐNG NHỊ THỪA CHẲNG SANH.
- Công đức đại nghĩa môn thành tựu: Trong đây nói người
nữ, căn thiếu v
à nhị thừa không
được vãng sanh. Ý nói chúng sanh đã sanh về thế giới Cực
Lạc tây phương không có tướng người nữ, căn thiếu và nhị
thừa. Người không hiểu nghĩa này giải sai nói các người nữ
không được vãng sanh tây phương, như thế các người nữ niệm
Phật nhọc sức mà không có lợi ích gì? Nên biết phàm người
sanh đến thế giới
Cực Lạc tây phương đều có đủ 32 tướng của bậc Ðại
Bồ Tát nên không có tướng người nữ, căn thiếu và nhị
thừa không đủ
phước báu; chứ không phải nói người nữ, căn thiếu và
nhị thừa ở cõi này hoặc ở phương khác không được vãng
sanh về Cực Lạc! Ðã sanh về Cực Lạc tuy có phàm phu, nhị
thừa, căn thiếu
khác nhau, nhưng tất cả đều tiến vào
Ðại thừa rốt ráo thành Phật. Vì thế, Thế giới Cực Lạc
đều do vô lậu
thiện căn Ðại thừa mà thành tựu,
vì đây là cảnh giới thiện căn của Ðại Thừa, nên không
thể có thể tánh người nữ, căn thiếu và nhị thừa, mà
danh xưng người nữ, căn thiếu, nhị thừa cũng không có, chỉ
có danh xưng của Bồ Tát Bất Thối mà thôi.
Không phải chỉ có Phật A Di Ðà có Tịnh Ðộ
mà chư Phật Bồ Tát
ở mười phương đều có tịnh độ. Như thế, tịnh độ là
điểm cưú cánh của chư Phật. Vì cớ
nào mà các Ngài an lập tịnh độ? Ðức Phật Thích Ca đã căn
cứ vào căn cơ nào để nói pháp môn Tịnh Ðộ? Ðây là vấn
đề người tu tịnh
độ cần biết.
Ở đời có người nhơn
ác bị ác báo hiện tiền nên kinh hoàng sợ sệt và cầu sanh
tịnh độ; có người nhơn bị bức bách vì sinh hoạt, cơ hàn
khốn khổ mà cầu sanh tịnh độ; có người nhơn bức não bởi
các khổ già bịnh mà cầu sanh tịnh độ;
tất cả đều do tâm lý lánh khổ tìm
vui làm động cơ cầu
sanh tịnh độ. Nhưng xét cho kỹ chư Phật an lập tịnh độ,
đức Thế Tôn nói tịnh độ pháp môn, tuy có ý phụ là
làm cho chúng sanh chán khổ thích vui, nhưng không phải là bản
ý chính sáng lập và nói ra pháp môn tịnh độ. Bản ý chính
của Ðức Phật là muốn an lập pháp môn chơn chánh pháp tâm
Ðại Thừa của Bồ Tát mà nói ra. Chúng sanh phàm phu có tâm
chán khổ tìm vui, lòng chỉ thích khoái lạc không muốn dứt
trừ sinh tử, như nhàm chán khổ ở ba đường ác, muốn gìn
giữ để được làm
người không mất thân này, nhàm chán khổ ở cõi người muốn
cầu sanh về cõi trời, nhàm chán khổ ở Dục giới cầu sanh
về Sắc giới, nhàm chán Sắc giới cầu sanh về Vô sắc giới,
chỉ dùng các pháp nhơn thiên thừa như Ngũ giới, Thập thiện,
Bát định. Người
giữ được năm giới có thể được sanh làm
người không mất;
tu thập thiện bát định được sanh về cõi
trời, chư Phật cần gì an lập tịnh độ? Ðức Phật Thích
Ca nói ra pháp môn Tịnh Ðộ này vì Ngài thấy ba cõi như lao
ngục, hàng nhị thừa như oan gia, sanh tử ở gần, muốn ra khỏi
ba cõi dứt hẳn sanh tử, cần phải biết tam giới là khổ,
chúng sanh bất tịnh, vô thường, vô ngã. Nếu y theo Tứ Niệm
Xứ, khởi tu Tứ Chánh Cần, Bát Chánh Ðạo, Ba Mươi Bảy Pháp
Bồ Ðề, tinh tấn cần tu, ở trong một đời
tuy chưa được quả A la hán cũng có thể được quả Tu Ðà
Hoàn, nhờ được quả Tu Ðà Hoàn vĩnh viễn không thối chuyển
tuy vẫn còn chịu các khổ sanh tử phiền não; cũng không cần
y theo pháp môn tịnh độ
cầu sanh về tịnh độ, như các nước Tiểu Thừa Phật giáo
Miến Ðiện Tích Lan chỉ cần cầu được quả A la hán, liễu
sanh thoát tử, do đó các xứ Tích
Lan, Miến Ðiện không có pháp môn tịnh độ này.
Từ đó suy ra, chư Phật an lập tịnh độ và
đức Bổn Sư tuyên nói tịnh độ không phải vì
phàm phu, nhị thừa, thực vì chúng sanh có căn tánh Ðại Thừa,
người nghe Phật pháp không cầu có phước báu an lạc đời
sau, không có ý muốn tự ra khỏi ba cõi khổ não sanh tử, mà
vì người phát tâm Ðại Thừa độ thoát tất cả chúng sanh
mà Ngài nói pháp môn này.
Phát tâm Ðại Thừa là người hiểu biết lý
các pháp do nhân duyên sanh, biết tất cả pháp đều do nhân
duyên sanh, vì pháp do các duyên sanh nên tất cả là tất cả
pháp; chúng sanh do các duyên mà sanh nên một chúng sanh tức
là tất cả chúng sanh, lìa tất cả chúng sanh ra không có cái
ta nào khác. Nếu không làm cho tất cả chúng sanh đều thành
Phật đạo, tức là không có ông Phật riêng ta có thể
thành. Do đó mà phát đại
nguyện rộng độ hết tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo,
quyết không lìa tất cả chúng sanh
mà tự mình thoát khỏi sanh tử, vì chúng sanh tức là chính
mình và chính mình tức là chúng sanh, không có chúng sanh và
ta khác nhau (sóng & nước) nên gọi: "Không ngã tướng,
không chúng sanh tướng, không nhơn tướng, không thọ giả tướng",
không thể lìa ngoài chúng sanh mà mình được
độ thoát. Bồ Tát dùng đồng thể không khác không hai với
tất cả chúng sanh mà phát từ nguyện
phổ độ tất cả
chúng sanh. Nhưng muốn thành mãn nguyện
này nếu là người không chứng được
quả Vô thượng Chánh đẳng chánh giác thì
không làm được. Tuy người có nguyện này thực sự không
có ngày thành tựu. Dù có đại
bi tâm muốn độ hết thảy chúng sanh trong pháp giới, muốn
độ vô số chúng sanh cần phải đoạn vô biên
phiền não, tu học vô lượng pháp môn, thành tựu vô lượng
phước đức trí huệ trang nghiêm viên mãn Phật quả cần phải
qua ba a tăng tỳ kiếp, vào vô lượng thế giới, độ vô số
chúng sanh, thực không phải khả
năng của một chúng sanh có thể làm được. Trong Khởi Tín
Luận nói: “Tín tâm đã thành tựu,
vào chánh định tụ, cần trải qua mười ngàn Ðại Kiếp".
Ðại Thừa Tín Tâm thành tựu còn khó như thế huống chi muốn
chứng thành Phật Quả.
Thành Phật không phải là khả năng
một đời, người đã phát tâm Ðại
Thừa cần tu Lục Ðộ. Khi tu Lục Ðộ sẽ có nhiều nghịch
duyên, nhiều thứ liên tục pháp hoại tâm Ðại Thừa, vây
quanh toàn là những hiểm ách pháp hoại tâm Ðại Thừa mà mạng
người thì ngắn ngủi, một khi vô thường đến, hoặc sanh lên
cõi vui, hoặc đọa vào cõi khổ lại thêm bị ách nạn to lớn
làm mê mất tâm Ðại Thừa, tâm bồ đề. Do nhiều thứ ác
duyên như thế, Bồ Tát tuy đã phát tâm Ðại Thừa mà muốn
gìn giữ cho không bị lui sụt thực không phải là chuyện dễ.
Trong kinh dạy: "Chư Phật lúc nào cũng có trách nhiệm bảo
vệ cho Bồ Tát". Kinh Kim Cang nói: "Như Lai khéo hộ niệm
các Bồ Tát." Bồ Tát đã phát tâm Ðại Thừa nhưng chưa
có khả năng chẳng
lui sụt, chư Phật đã dùng pháp từ
bi nào để hộ niệm cho các Bồ Tát phát tâm Ðại Thừa
thoát khỏi hiểm nạn lui sụt tam mất? Ðể hộ niệm Bồ
Tát đã phát tâm Ðại Thừa khỏi bị lui sụt, chư Phật đã
an lập quốc độ thanh tịnh trang nghiêm. Chư Bồ Tát có
duyên với tịnh độ nào liền phát tâm sanh về tịnh độ
ấy. Tuỳ theo chỗ phát nguyện, khởi lòng tin quyết định, tâm
chuyên nhất thì khi lâm chung tùy theo nguyện mình mà vãng sanh
về tịnh độ,
nghe pháp được Bất thối, rồi trở lại khắp độ tất cả
chúng sanh. Nếu chư Phật không an lập tịnh độ để các Bồ
Tát mới phát tâm nương về, một khi tâm bị lui sụt thì những
công đức tu bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ sẽ tiêu tan vô ích.
Vì thế, Bồ Tát phải lấy tịnh độ làm chỗ an trụ mới
không bị bất thối thất tâm Ðại Thừa bồ đề và khỏi uổng
mất công trước. Ðó là bản ý của Phật A Di Ðà và chư Phật
trong mười phương thành lập tịnh độ và cũng là chơn
nghĩa để Phật Thích
Ca Mâu Ni nói pháp môn tịnh độ. Người tu tịnh độ cần phải
hiểu rõ yếu nghĩa này.
KỆ VĂN: CHÚNG SANH MUỐN AN VUI, TẤT CẢ ÐƯỢC
ÐẦY ÐỦ, NÊN CON NGUYỆN VÃNG SANH, VỀ NƯỚC PHẬT DI ÐÀ.
17.Nói công đức tất cả chỗ cầu mong đều
được thành tựu: Ðây nói thế giới
Cực Lạc tây phương muốn có là có đủ
hết, nếu chúng sanh muốn được an vui, tất cả mong muốn đều
có đủ. Hai câu cuối tác giả kết luận bằng cách phát nguyện
vãng sanh.
KỆ VĂN: VÔ LƯỢNG ÐẠI
BỬU VƯƠNG, ÐÀI HOA TỊNH VI DIỆU.
Mười bảy công đức ở trên
là quán về công Ðức Phật độ,
đó là Y Báo trang nghiêm. Ðoạn này
quán sát về công Ðức Phật, công đức Bồ Tát là Chánh
báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Y theo luận văn sau, Quán
công Ðức Phật gồm có 8 thứ:
1.Tòa trang nghiêm: Ðây nói về lấy vô lượng
Ðại Bảo Hoa Vương làm thành Ðài Hoa vi diệu thanh tịnh.
KỆ VĂN: MỘT TẦM ÁNH TƯỚNG HẢO, SẮC TƯỢNG
HƠN QUẦN SANH.
2.Thân trang nghiêm: Phật Di Ðà dịch là ánh
sáng trùm khắp vô lượng. Trong đây nói một tầm (2m50) là
tùy theo cõi này, chúng sanh quan sát ánh sáng của đức Thích
Ca mà nói đó.
KỆ VĂN: TƯỚNG NHƯ LAI VI DIỆU, TIẾNG PHẠM
VANG MƯỜI PHƯƠNG.
3.Miệng trang nghiêm: Ý nói lời nói từ miệng
của Như Lai Vô Lượng Thọ phát ra, tiếng vi diệu vang khắp
10 phương.
KỆ VĂN: ÐỒNG ÐẤT
NƯỚC GIÓ LỬA, HƯ KHÔNG KHÓ PHÂN BIỆT.
4.Tâm trang nghiêm: Ý nói tâm Phật bình đẳng
cũng như ngũ đại không có phân biệt.
KỆ VĂN: TRỜI NGƯỜI CHÚNG BẤT ÐỘNG,
SANH BỂ TRÍ THANH TỊNH.
5.Chúng trang nghiêm: Ý nói tất cả chúng bất
động, trời người
đến bể trí thanh tịnh của Phật A
Di Ðà mà sinh ra.
KỆ VĂN: NHƯ VUA NÚI TU DI, CAO TỘT KHÔNG GÌ
HƠN.
6.Thượng thủ trang nghiêm: Ý nói những bậc
thượng thủ bạn lữ của Phật A Di Ðà đều
cao tột thắng diệu như nuí Tu Di, không một ai có thể hơn
được.
KỆ VĂN: CHÚNG TRƯỢNG
PHU TRỜI NGƯỜI, VI NHIỄU KÍNH CHIÊM NGƯỠNG.
7.Chủ trang nghiêm: Ở đâytù bạn chỉ rõ Chủ.
Ý nói Phật A Di Ðà tất cả nhơn thiên đều
cung kính, vi nhiễu tán thán công đức của Pháp Chủ.
KỆ VĂN: QUÁN BỔN NGUYỆN LỰC PHẬT, AI GẶP
ÐỀU LỢI ÍCH, LÀM CHO MAU ÐẦY ÐỦ,
CÔNG ÐỨC BIỂN BÁU LỚN.
8.Không dối làm trụ trì trang nghiêm: Ý nói
phàm người nào thấy ánh sáng Phật, nghe danh hiệu Phật, đều
có thể mau thành tựu đạo
quả Vô thượng Chánh đẳng chánh giác. Không có người nào
gặp ánh sáng Phật, nghe danh hiệu Phật mà không
được thành Phật.
KỆ VĂN: NƯỚC AN LẠC THANH TỊNH, THƯỜNG
CHUYỂN XE VÔ CẤU, NHẬT HOÁ PHẬT BỒ TÁT, TRỤ TRÌ
NHƯ TU-DI. ÁNH TRANG NGHIÊM VÔ CẤU, MỘT NIỆM VÀ MỘT THỜI,
CHIẾU KHẮP CÁC HỘI PHẬT, LỢI ÍCH CÁC QUẦN SANH. RƯỚI NHẠC
TRỜI HOA Y, HƯƠNG MẦU ÐỂ CÚNG DƯỜNG, KHÔNG CÓ LÒNG PHÂN
BIỆT. DÙ THẾ GIỚI KHÔNG CÓ, CÔNG ÐỨC BÁU PHẬT PHÁP, TA ÐỀU
NGUYỆN VÃNG SANH, CHỈ PHẬT PHÁP NHƯ VẬY.
Y theo luận văn ở sau nói: Bồ Tát có bốn thứ
tu hành chính yếu để thành tựu các công đức. Bài tụng đầu
(4 câu) nói hóa thân của Bồ Tát
trùm khắp mười phương mà báo thân như núi Tu Di thường trụ
không lay động, có nghĩa là các Ngài ở trong một cõi Phật
thân không lay động mà có thể độ khắp chúng sanh ở mười
phương.
Bài tụng 2 (4 câu) nói về ứng hóa thân của
Bồ Tát ở trong tất cả thời gian chỉ dùng một tâm niệm
phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp mười phương lợi lạc hữu
tình.
Bài tụng 3 (4 câu) nói Bồ Tát dùng các thiên
nhạc, rưới hoa, hương, y phục, cúng dường tất cả thế giới,
tất cả chư Phật không còn thừa, như sự rộng rãi cúng dường
Bồ Tát Phổ Hiền. Kinh A Di Ðà cũng nói: "Ðều dùng y
kích, đựng các
hoa báu cúng dường muôn ức Phật khắp trong mười phương,
đúng giờ ăn lại trở về nước mình ăn cơm kinh hành."
Bài tụng thứ 4 (4 câu) bài này nói không phải
những thế giới có Phật, Bồ Tát mới trên cầu làm Phật,
dưới dạy khắp chúng sanh, mà đến những thế giới không
có Phật, các Ngài vẫn giác ngộ dẫn dắt chúng sanh như 32
ứng thân của Bồ Tát Quan Thế Âm. Ngẫu Ích đại sư dạy:
"Có người hỏi tu hạnh Bồ Tát có những nguyện
gì?" Ngài đáp: Có 2
điều nguyện – 1) Nguyện đem công đức này
hồi hướng vãng sanh tịnh độ;
2) Nguyện sanh tịnh độ rồi, thành tựu
vị Bất Thối liền vào địa
ngục độ tất cả chúng sanh.
Theo những ý trên, người tu tịnh độ nên
dùng tâm địa phàm phu lánh khổ tìm vui, tâm nhị thừa tự
cho là đủ để cầu
sanh tịnh độ thì không cùng pháp
môn tịnh độ tương ưng. Tuy nói phàm phu ấy tâm đã hướng
về Ðại Thừa mới đúng
bản ý Phật nói pháp môn tịnh độ.
3.Thuật ý Kệ Tổng Kết Hồi Hướng
KỆ VĂN: CON LÀM LUẬN
NÓI KỆ, NGUYỆN THẤY PHẬT DI ÐÀ, KHẮP VÌ CÁC CHÚNG SANH,
VÃNG SANH NƯỚC AN LẠC.
Hai câu đầu thuyết minh tôn chỉ của việc
làm kệ luận này, vì nguyện sanh tịnh
độ mà làm kệ, nên gọi là Nguyện Sanh Kệ. Hai câu sau nói
về Hồi Hướng Môn: Ý nói Bồ Tát vì lòng Ðại Bi mà tu Tịnh
Ðộ, không phải muốn một mình được vãng sanh tịnh độ mà
muốn tất cả chúng sanh đều
được về thế giới An Lạc kia. Vì thế có được công đức
niệm Phật, hồi hướng cho tất cả chúng sanh đều được vãng
sanh về tịnh độ.
KỆ VĂN: LIỄU NGHĨA VÔ LƯỢNG THỌ, CON LÀM
KỆ NGUYỆN XONG.
Ðoạn này Tổng Kết Kệ Luận, Kinh Liễu Nghĩa Vô Lượng
Thọ tức chỉ ba kinh lập tông Tịnh Ðộ viết bằng văn Tường
hàng, nay Thiên Thân làm kệ tổng nhiếp hết.
---o0o---